Bữa nọ rảnh rỗi, Bao Công rủ Công Tôn tiên sinh và Triển Chiêu đến thăm thành phố X. Đây là một thành phố đă hơn ngàn năm tuổi nên có nhiều cái để thăm thú, văn cảnh, t́m hiểu đời sống người dân thành phố này. Tuy nhiên, vốn mắc bệnh nghề nghiệp, nên Bao Công vẫn giành nhiều thời gian t́m hiểu về chuyện xử án nơi đây.
Biết ư Bao Công, Triển Chiêu vội chạy ra phố, đi t́m mua một đống báo về cho ngài xem. Khi cầm đến mấy số báo của một tờ báo nọ, Bao Công bị thu hút ngay bởi loạt bài phải ánh về một xử án vừa mới xong, trong đó, bị đơn là một người phụ nữ đă dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực trong nhiều năm qua. C̣n nguyên đơn lại chính là kẻ bị người phụ nữ kia đưa ra trước ánh sáng công luận về những việc làm khuất tất liên quan đến dự án nọ.
Điều đáng nói là trong khi bị đơn đưa ra đầy đủ những chứng cứ chứng minh sự đúng đắn của ḿnh cũng như sự sai trái của nguyên đơn, th́ bà lại bị ṭa xử thua cuộc. Sau khi đọc đi, đọc lại mấy bài báo đó, Bao Công thấy bất b́nh thay cho người phụ nữ dũng cảm đó. Ông cùng hai người tùy tùng quyết định t́m đến nhà vị chủ tọa phiên ṭa đó. Thấy 3 người lạ mặt, chủ nhà tỏ ra cảnh giác:
- Các ông đến t́m tôi có việc ǵ?
Công Tôn tiên sinh đáp:
- Về cái vụ án mà ông vừa xử xong.
- Ṭa xử xong rồi là thôi, các ông c̣n đến hỏi làm ǵ?
- Nếu toà xử đúng, chúng tôi chẳng đến t́m ông làm ǵ, nhưng v́ thấy ṭa xử sai, nên chúng tôi đến đây, v́ dù sao, chúng tôi với ông cũng là đồng nghiệp.
- Đồng nghiệp?
- Phải. Đây là Bao Công, vị này là Triển Chiêu, c̣n tôi là Công Tôn tiên sinh.
Chủ nhà giật ḿnh, nh́n kỹ vào cái h́nh trăng lưỡi liềm trên gương mặt đen của Bao Công, rồi vội vàng thi lễ:
- Dạ, kính chào Bao đại nhân. Các vị đến chơi mà không báo trước, tại hạ lại có mắt như mù, không trông thấy núi Thái Sơn. Mong Bao đại nhân cùng nhị vị đây lượng thứ cho.
Bao Công phẩy tay:
- Thôi, không cần đa lễ. Ta không có nhiều thời gian, chỉ muốn hỏi ông v́ sao trong vụ án vừa rồi, lại cố t́nh xử sai như thế?
Chủ nhà căi:
- Sai chỗ nào?
Công Tôn tiên sinh liền đem tất cả những t́nh tiết của vụ án ra nói lại một lượt, nào là ṭa sai chỗ nào, nguyên đơn sai chỗ nào, những cơ quan tiếp tay cho nguyên đơn sai ra sao … Bao Công hỏi:
- Ông c̣n ǵ để biện bạch không?
Chủ nhà cười khẩy:
- Tôi chẳng việc ǵ phải biện bạch, án đă tuyên rồi, cứ thế mà thi hành.
- Ngay cả khi dư luận người dân và nhiều vị có uy tín, địa vị cao trong xă hội lên tiếng ủng hộ bị đơn, mà các ông vẫn cố t́nh xử sai sao?
- Ủng hộ hay không là quyền của họ, c̣n xét xử là quyền của chúng tôi. Tôi xử thế nào th́ phải theo thế ấy, vậy thôi.
Triển Chiêu nóng nảy:
- Bao đại nhân ở đây mà ông vẫn ăn nói ngang ngược vậy sao?
Chủ nhà lại cười nhạt:
- Người như Bao đại nhân giờ… xưa rồi. Tôi chỉ biết tới 2 người cũng họ Bao mà thôi.
- Ai vậy?
- Một người là bạn rất thân với tôi, tên là Bao Thư (phong b́). C̣n người kia là đàn anh của tôi, tên là Bao Che. Có hai người họ Bao ấy, tôi cứ việc xử theo ư ḿnh, chẳng sợ ǵ hết
The Following 3 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, t́m sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rơ định vị địa lư và thời gian.
Tỷ như Sài G̣n vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đă chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám”.
Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài G̣n bị tạm chiếm, Tây - Mỹ nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đă trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất c̣i ôtô đă chế ra một điệu c̣i ôtô, bấm c̣i là kêu vang trên phố một ḍng nhạc c̣i auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn.
Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm từ tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một đ̣i hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi.
Thời các vũ trường mới du nhập Sài G̣n như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, th́ dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là "mă tà", v́ police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mă tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: “gác-dang” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arriere; tiền bồi dưỡng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.
Cũng thời Pháp thuộc, Sài G̣n có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con c̣”, c̣n nếu gọi “ông c̣” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy c̣” tức là các ông chữa morasse các ṭa báo do chữ correcteur, nhưng nói “c̣ mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền c̣” th́ cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời kinh tế mới phát triển, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn", gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi x̣e”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 - 1950 du nhập Sài G̣n, đó là “đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch", hách dịch tự cao gọi là "chảnh".
Tiền bạc gọi là "địa", có thời trong giới bụi đời thường kháo câu "khứa lăo đa địa" có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là "xù", "xù t́nh", tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là "bắt địa", ăn cắp là "chôm chỉa", tương tự như "nhám tay" hay "cầm nhầm" những thứ không phải của ḿnh.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài G̣n gọi là làng "hia măo", có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi "kép chầu", có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng v́ một lư do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, th́ kép chầu thay thế vào ngay. "Kép chầu" phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.
Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là "đào thương", kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là "kép độc". Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các ṭa soạn báo chí, đó là "café à la... ghi” tức uống café thiếu ghi sổ...
Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài G̣n xưa gọi "nhật tŕnh". Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm ḍng từ quê ra tỉnh gọi là "tin chó cán xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi là "tin vơ-đét" vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài", chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là "xào bài", truyện t́nh cảm dấm dớ gọi là "tiểu thuyết 3 xu", các tạp chí b́nh dân xoi mói đời tư gọi là "báo lá cải". Làng nhật tŕnh kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là "tin phịa", nhưng trong "tin phịa" c̣n có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm ḍ có chủ đích, lóng gọi là "tin ballons" tức thả quả bóng thăm ḍ, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là "tin Cá tháng Tư".
Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là "tịch", "hai năm mươi", "mặc chemise gỗ", "đi auto bươn", "về chầu diêm chúa", "đi buôn trái cây" hay "vào nhị tỳ”, "nhị tỳ" thay cho nghĩa địa và "số dách" thay cho số một... đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài G̣n đă chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài ḍng gọi là "ṿng vo Tam Quốc", ai nói chuyện phi hiện thực gọi là "chuyện Tề Thiên", tính nóng nảy gọi là "Trương Phi". Một số tên nhân vật điển h́nh của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là "Đoàn Chỉnh Thuần" tức ám chỉ đàn ông đa t́nh có nhiều vợ bé..
sài G̣n là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng "ăn theo" mà ra đời.
Thời Mỹ đến th́ một tiếng "OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là "sén" hay "chó lửa", dân chơi miệt vườn gọi "công tử Bạc Liêu" c̣n hiểu được, Sài G̣n xuất hiện cụm từ "dân chơi cầu ba cẳng" th́ thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như "dân xà bát", "anh chị bự", "main jouer" tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là "anh hùng xa lộ", bị bắt gọi là "tó", vào tù gọi là "xộ khám”. Bỏ học gọi là "cúp cua", bỏ sở làm đi chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi là "bảng gót". Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại t́nh trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó "đi ăn chè" trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại t́nh trốn ra ngoại ô.
Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như "chà đồ nhôm" tức "chôm đồ nhà”, "chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với "cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có "tô ba lây đi xô xích le" tức "Tây ba lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng c̣n chất chứa ân t́nh. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than "buồn như chấu cắn", hay có người than phiền v́ câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng "lu bu" để thất hứa, nay c̣n có người nhấn thêm "lu xu bu" nại lư do không rơ ràng để trốn việc. Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành "quả tó", gọi chiếc xe Honda là "con rim", gọi tờ giấy 100USD là "vé", đi ăn cơm b́nh dân gọi là "cơm bụi", xuống phố dạo chơi gọi là "đi bát phố", gọi người lẩm cẩm là "dở hơi"...
Nhưng lư thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài G̣n nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style - tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của "không - ai - mời - ai". Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đă chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói "lemon question" tức chanh hỏi - chảnh.
Lê Văn Sâm
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Một bài viết ít có báo dám đăng
Một bài viết bị cho là chữi nhăn răng!
Bài nầy độc hơn thuốc Bà Lang Trọc
Xướng ngôn viên các đài... Mần Răng?
letamanh
Chỉ có lad dám đăng vào các Tập San: Trách Nhiệm, Lại Giang, Tây Sơn, Tập San BĐQ thôi hà!
Captovan
Người Việt viết tiếng Việt là chuyện dĩ nhiên, chỉ có VC mới giết tiếng Việt, vì chúng nghĩ rằng nước Việt sẽ bị “háng hóa” nên cái anh chàng họ Bùi kia sáng chế ra kiểu viết tiếng Việt cc (cải cách) như thêm chữ “ô” vào cái họ Bùi của hắn thành Buồi thì bậy bạ thật. Vậy mà Người Việt ở hải ngoại lại đang có khuynh hướng thích “háng hóa” như thẳng cha V+ họ Buồi kia thì quả tình là không thể ngửi được.
Tôi rất “khoái” được đọc các bài viết phê b́nh về ngôn ngữ “thổ tả” của V+ do người Việt yêu tiếng Việt đưa lên diễn đàn. Điển h́nh là ngày 9/12/2013, bạn Trần Quang đưa lên bài: “Chữ Nghĩa Sau 1975.” Rồi sau đó, bạn Vĩnh Can Canada đưa lên bài viết: “Nỗi Buồn Tiếng Việt.”
Nội dung những bài viết này nêu lên những điều sai trong cách dùng tiếng Việt của bọn “đỉnh cáo trí tệ” “Xuống Hố Cả Nút” khiến người dân xuống hố cả nút theo. Hẳn nhiên các bạn Quang và Can đưa lên diễn đàn là có ư nhắc người Việt hải ngoại, đặc biệt tập thể cựu quân nhân phải tránh xa những con virus này, những con virus VC: “thân thương, tham quan, tiếp cận, khống chế, đánh giá cao v.v..” Tôi xin theo chân các bạn Can, Quang để nêu lên một vài trường hợp tôi đă thấy, để chúng ta mỗi người một tay chặn đứng mọi chữ VC “len lỏi” vào trong các tài liệu sách báo, các đặc san quân đội.
Chắc chắn trong chúng ta không ai muốn thấy “tai nạn” này xảy ra, nhưng nó đă xẩy ra. Tôi gọi là “tai nạn” v́ người viết vô t́nh, dễ tính, hoặc không biết, v́ thế tôi xin góp ư để lạng lách cây viết cẩn thận hơn, không xảy ra “tai nạn” nữa.
Nếu xẩy ở trong các emails riêng tư qua lại trên diễn đàn th́ cũng mau chóng qua đi, nhưng nếu có chữ VC trong các bài viết, trong sách báo, lại có cả trong những cuốn sách gọi là “dòng lịch sử” th́ làm sao tẩy xóa? Tôi đă thấy bóng dáng chúng trong các đặc san quân đội, tôi tha thiết xin các vị có trách nhiệm lưu ư cho.
Đây là một việc không dễ, một vài tên du kích “ấn tượng, thân thương” núp trong nhiều trăm trang giấy, trong rừng chữ th́ làm sao phát giác?
Các chủ bút BĐQ, TQLC Đa Hiệu, KBC “ra lệnh” mỗi anh trong BBT phải đọc qua ít nhất một lần khi có bài gửi đến và nhiệm vụ chính là “vạch lá t́m sâu” VC, vậy mà cũng c̣n sót đấy, thế th́ với tập tài liệu ngàn trang, hẳn là ban biên soạn sẽ vất vả lắm đấy, tôi không biết có bao nhiêu anh làm công việc này, nhưng chắc có anh phải ngồi tâm t́nh 12/24 giờ, ngồi thâu đêm với cô “thợ giặt mặt vuông” để nhặt cho hết rác VC thì mới có thể lộng ngôn gọi là tuyệt phẩm được, còn không.. thì không thể là “tuyệt” mà chỉ là “tiệt” phẩm. Giả sử sau này khi sách in ra mà c̣n gặp chữ “thân thương” th́ buồn quá!
* * *
Người Việt chọn tự do, tự do tư hữu, là ruộng của ai người đó cày, nên người Việt viết tiếng Việt. Việt+ chọn +Sản, nghĩa là cộng tất cả tài sản cá nhân lại để chơi chung hưởng chung, tất cả cày chung một miếng ruộng, sản phẩm tạo ra đem gửi nhà trẻ quốc doanh. Cái chế độ ảo tưởng +S đó nó đă “chết-mother” nó từ lâu rồi, chết ngay từ cái gốc, chết từ nơi ông tổ khơi mào ra nó, nó cũng “chết-father” nó ở cái XHCNVN từ lâu rồi, chỉ c̣n sót lại cái đuôi “định hướng XHCN”. Nhưng ngôn ngữ quái đản mà chúng tạo ra vẫn c̣n di hại măi về sau, nó như những mầm ung thư giết chết tiếng Việt. Nhưng có một số người Việt tỵ nạn cộng sản hay bỏ chạy V+ để tha phương cầu thực th́ không chịu viết tiếng Việt, thấy V+ đít đỏ tưởng nó chín nên vẫn cứ nói theo, viết theo những thứ tiếng khỉ gió đó: “Người Việt” Giết Tiếng Việt là vậy.
Nếu là chuyện cá nhân, theo voi nhai bă mía th́ kệ .. họ, nhưng là truyền thông Tự Do mà theo đuôi ngôn ngữ V+ th́ ẹ quá, mang vi trùng lao gieo rắc đó đây những mần mống bệnh hoạn giết chết tiếng Việt th́ “thu em hỏi” (thủm) quá.
Có người nói rằng vấn nạn này nó như bệnh nan y rồi, hết thuốc chữa, cứ mở radio ra mà nghe một số xứơng ngôn viên các đài phát thanh, ông xướng, bà xướng, cô xướng, cậu xướng họ đang xướng với nhau bằng những chữ quái đản như “quá tŕnh, tham quan, hoành tráng, rốt ráo, khuyến măi, khống chế, cực kỳ, thiếu đói v.v..”. Ông Vũ Ki của đài SG-Bé mà cà-kê-dê-ngỗng tin tức trên radio th́ có bao nhiêu chữ “mới” ông dùng hết. Ông Nguyễn Có Công th́ đọc tin tức:
“Nếu Syria bị đánh, họ sẽ chống trả quyết liệt, trong quá tŕnh chống trả ấy sẽ khiến Hoa Kỳ không giải quyết được rốt ráo vấn đề.”
Muốn hiểu rơ “quá tŕnh” là ǵ th́ hăy đến trung tâm văn hóa Hồng Bàng mà hỏi, đừng hỏi thầy cô giáo dậy tiếng Việt, mà hỏi ngay các em đang bập bẹ học tiếng Việt th́ các em sẽ giải thích rơ ràng như thế này:
- Quá: là qua rồi, cũ rồi. Thí thụ như quá cố, quá vãng, quá khứ v.v..
Quá trình là diễn ra trong quá khứ, xin nghe bé tâm sự:
- Sáng nay em ăn đỗ (đậu), trong quá tŕnh tiêu hóa thức ăn ở dạ dày, đậu phát sinh ra hơi nên bây giờ bé tức bụng, em muốn đánh rắm, muốn pupu....
Quá tŕnh là chuyện đă xẩy ra trong quá khứ, tức là sáng nay, c̣n bây giờ là hiện tại em đang muốn “pupu.”
Các em đă giải thích rồi đấy nhé, các ông, bà, cô, bác, cậu, mợ, chú, d́, mi, mày, bay phải hiểu cho rằng “quá tŕnh” chỉ dùng cho những diễn tiến đă xảy ra trong quá khứ mà thôi không bao giờ được phép dùng cho hiện tại và tương lai. V+ dùng “quá tŕnh” cho bất cứ thời gian nào, nó dốt nó “say so”, vậy th́ đừng dốt theo nó. Nếu không biết th́ đừng “quá tŕnh” nữa mà hăy dùng những chữ dễ hiểu, thông dụng, dễ dùng cho bất cứ thời gian nào, đó là: “trong lúc, trong khi, trong thời gian, lúc mà, tiến tŕnh v.v...”
Xin đưa ra một thí dụ bà nhà than phiền ông nhà cho dễ hiểu, dễ nhớ:
- Đêm qua trong lúc (quá trình) em đang ngủ say th́ anh đụng chạm vào.. làm cho em thức giấc, bực cả cái ḿnh. Bây giờ trong khi (quá trình) em thức th́ anh lại nằm ỳ ra đó làm em khó chịu. Lần sau, lúc mà (quá trình) em đang ngủ th́ anh đừng có làm phiền người bên cạnh đang cần sự yên lặng để nghỉ ngơi nữa à nha..
Các cô cậu xướng ngôn thử nhét cái “quá tŕnh” vào câu trên xem nó ra cái ǵ?
Những xướng ngôn viên khi đọc bản tin th́ đă xen vào những tiếng lạ tai, khó nghe, khi đọc quảng cáo th́ cứ tự nhiên như người “Hà-Lội”, như ngừơi của thành Hồ, cứ “hoành tráng, khuyến măi” loạn cào cào cả lên. Lăo bà-bà Huỳnh Qương quảng cáo rằng:
- Tết Trung Thu đă được tổ chức trong khu Phước Lộc Thọ rất là HOÀNH TRÁNG, các loại bánh trông rất ẤN TƯỢNG và có chương tŕnh KHUYẾN MĂI”!!!
Tôi hưởng tết Trung Thu từ ngày mặc quần đùi, tḥ ḷ mũi, rước đèn bằng lon sữa ḅ cho đến nay đă quá 7 bó mà chưa bao giờ nghe cái tên “Trung Thu Hoành Tráng”! Thế c̣n “khuyến măi” là ǵ nhỉ? Nghe “khuyến măi” mà tưởng chữ thu ngắn của “khuyến khích măi dâm.” Thà nói tiếng Mỹ là đít-cao, tiếng Việt là bớt giá, hạ giá có phải dễ nghe không nào?
Huỳnh Qương là một ca sĩ thanh sắc vẹn toàn, khó có ai b́ kịp, trong vai tṛ xướng ngôn viên, cô là ngừơi học cao hiểu rộng, nhưng chỉ v́ vô ư tiếp xúc với virus Vicoism hoành tráng, khuyến măi mà cô bị biến tướng thành lăo bà-bà, thật đáng tiếc.
Nhưng cái này mới khiếp đảm:
Ngày 25/7/2018, trên Truyền hình băng tần 57...hai nữ xướng ngôn viên thật xinh đẹp, mặt hoa da phấn, ăn và “lói nưu noát”, mượn lưỡi VC từ lúc nào hay các cô mới trốn... làm từ XHCN chạy sang Hoa Kỳ cầu thực, vẫn giữ nghề cũ xướng ngôn, mỗi khi chấm dứt một chương trình nào đó, thay vì nói một cách dễ hiểu lịch sự, sạch sẽ là: “Chương trình của chúng tôi đến đây là chấm dứt, là hết v.v.. thì các cô lại toét miệng cười:
“Chúng tôi xin KHÉP lại...”
Ờ thì cứ cho là phụ nữ XHCN dạng ra khép lại là chuyện thường ngày ở huyện, nhưng còn các xướng ngôn viên nữ ở hải ngoại, vửa đẹp vừa xinh, vùa có học thức thì xin ngồi khép lại hay bắt chéo chân lên nhau, đừng dạng ra để rồi phải khép lại làm gì cho khán thính giả nhớ đến vế đối vịnh cái quạt của cụ bà Hồ Xuân Hương:
“Chành ra ba góc da còn thiếu.
Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” (*).
Dầu sao th́ trên các làn sóng phát thanh, những chữ nghĩa mà các cô cậu chôm chĩa của VC th́ nó cũng bay đi, tuy nó làm chói tai, tức bụng, nhưng cái tai hại là các cô cậu nhà báo viết trên giấy trắng mực đen ngôn ngữ VC cho đồng hương tỵ nạn cộng sản đọc th́ thật là “bây nặng”.
Tôi đem vấn nạn này đi hỏi ngtười lính viết văn PNN rằng tại làm sao lại xẩy ra hiện tượng quái đản này th́ ông bảo:
- Một số người sống lâu trong XHCN đă quen với lối nói này rồi, nay ra hải ngoại vẫn chưa thay đổi được. Một số báo cứ “copy và paste” những bản tin trong nứơc làm của ḿnh mà không dám ghi xuất xứ, mà cũng không có người sửa.
Lời giải thích của ông đúng quá và cũng đau quá, ư ông muốn nói lấy của người khác làm của ḿnh là ăn trộm, lấy bài viết của người khác mà không ghi xuất xứ là đạo văn, lấy tác phẩm nghệ thuật của người khác đem vào sách của mình mà không ghi chú xuất xứ là “đạo hình”. Làm báo mà chỉ “cắt, dán”, “cọp dê, bát” th́ chán quá mấy anh chị ơi!
Tiếng Việt là của chung, sống ở hải ngoại tự do mà bôi bẩn lên tiếng Việt th́ không chấp nhận được, Tự Do và XHCN có ranh giới rơ ràng. Ở XHCN họ nói, viết rằng những cái xe đụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ th́ kệ họ, nhưng ở xứ tỵ nạn mà các anh chị viết xe dụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ th́ không ai ngửi được.
Báo trong nước vừa loan tin trên xa lộ Sài G̣n Biên Ḥa xẩy ra một tai nạn 10 xe đụng nhau “liên hoàn” th́ vài ngày sau, Người Diệt tháng 8/2013 cũng đăng tin trên xa lộ 405 vửa xẩy ra một tai nạn giao thông 20 xe đụng nhau “liên hoàn”!
Ối trời cao đất dầy ơi! Nó dốt nó không biết phân biệt thế nào là liên tiếp, thế nào là liên hoàn nên nó mới viết xe đụng nhau liên hoàn, tức là cái xe bị đụng đầu tiên (số 1) quay ṿng ngược trở lại để húc, đụng đầu vào đít xe cuối cùng. Chuyện này chỉ có thể xẩy ra ở một ṿng tṛn, c̣n trên đường thẳng th́ chỉ có ở XHCN. Những chuyện tưởng như đùa mà có thật.
Trong bản tin về trung tâm Vân Sơn, ông-bà Đức Tuấn ghi lại lời của Vân Sơn:
- Bên cạnh phần mang lại tiếng cừơi cho khán giả, tuy chương tŕnh có vẻ nặng về MẢNG hài, chúng tôi vẫn không lơ là về MẢNG sáng tạo nội dung sống động cho phần ca hát. Đó là mặt mạnh của chúng tôi, bởi v́ đội ngũ nghệ sĩ tham gia MẢNG hài của TTVS được xem là phong phú.
Chả hiểu có phải chính Vân Sơn dùng chữ “mảng hài” để nói về chương tŕnh hài hước của anh ta hay kư giả-giả của báo Người Diệt này mang cái “mảng hài” ra nhét vào miệng Vân Sơn, dù bất cứ anh nào đi nữa mà nói như vậy th́ đúng là hề thật.
Tự điển tiếng Việt do Khai Trí xuất bản trước 1975 định nghĩa “mảng” là “mảnh”, mảng vườn, mảnh vườn, mảnh đất, mảng da, mảng áo tơi, “áo tơi một mảng lặng ngồi thả câu” chứ đâu có ai gọi là mảng văn nghệ, mảng hài bao giờ! Thấy VC gọi “mảng văn hóa” là các anh nhái theo “mảng hài”! Hề quá.
Cũng vẫn là “Người Việt”, cô Lọc Ngan th́ gọi những người phụ trách trang trí sân khấu là những ông “đạo cụ”! Ơ hay nhỉ, tại sao lại có mấy ông cụ “cụ đạo” ṃ vào hậu trường sân khấu TN Paris làm ǵ trong khi các nữ ca sĩ thay đồ để bị cô Lọc Ngan mắng cho là đồ “đạo cụ”, không lẽ các cụ vừa ấy... lại vừa cạo?
Cũng trên báo Người Việt, một ông là gốc Bắc Kỳ di cư 54 như tôi, chứ không phải BK mang AK vào Nam nhận họ nhận “hàng” sau 30/475, nhưng ông lại thích quên chữ Việt của ông để vuốt đuôi ngôn ngữ V+ trong bài viết cảm tưởng của ông về một ngừơi vừa mới ra đi là cựu Trung Tá TQLC Can Trường. Tôi đọc được điếu văn của ông trên Người Việt như thế này:
- Anh (người quá cố) là một thành viên hoạt động NĂNG NỔ, chắc chắn anh sẽ gặp lại những người THÂN THƯƠNG.
Thưa ông nhiều chữ họ Đoàn Thanh L.., trong tự điển tiếng Việt xuất bản trước năm 1975 tại miền Nam có 14 chữ NĂNG..., nhưng không có chữ nào là “năng nổ” cả, có 70 chữ THÂN..., nhưng không có “thân thương”.
Bản tính người quá cố Đoàn Trọng Cảo là hăng say, hoạt bát, nhiệt t́nh, nhanh nhẹn, quyền biến, linh hoạt, có t́nh thần trách nhiệm v.v.., bao nhiêu đức tính sẵn có của nguời lính VNCH, của Can Trường Trường Can th́ ông L.. không dùng lại đi mượn cái chữ của V+ nghèo nàn mà gán vào áo quan cho người quá cố th́ phản bạn quá!
Đội tuyển túc cầu XHCN đấu đâu thua đó, thua bét-ti-ngă, thua cả Lào, Cao Miên, khi về nước, câu đầu tiên mà thủ trưởng khen là: “tôi đánh giá rất cao các anh...”, sau khi đánh giá cao xong là mới chửi. Thế mà “Người Việt” lại viết “đánh giá cao” việc cộng đồng Việt hải ngoại đi bộ gây quỹ cho nạn nhân băo “Hải Yến” thì nhảm nhí quá đi thôi.
Mấy cái chữ thổ tả “đánh giá cao” không bao giờ có trong tiếng nói hay sách báo VNCH, nó được V+ sáng chế ra để khen chiếu lệ sau đó mới kê khai khuyết điểm để chửi, việc đi bộ gây quỹ có kết quả tốt đẹp, một nghĩa cử vậy mà Người Việt “đánh giá cao” th́ NV tào lao thật.
“Chỉn Chu” là con “bú dù” gì?
Ông Lưu Vội Vã, một phụ mẫu chi dân thời VNCH viết bài than phiền về vụ giờ dây thun trong các tiệc cưới trên tờ xxx như sau:
Bớ ông Niu! Trong nước họ “chỉn chu” là quyền của họ còn ông, ngày xưa mỗi lần đi họp ông ăn mặc “chỉnh tề”, vậy ông phải nhớ viết là “chỉnh tề” chứ cớ chi nói leo theo VC “chỉn chu” là con “bú-dù” gì?
Còn ông Trần Vớ Vẩn, một chuyên viên địa ốc kiêm địa.. thì than phiền giá nhà Nam CA quá cao vì “quỹ đất” để xây nhà mới không còn!
Xin ông trả “quỹ đất, mặt bằng” về cho người dân XHCN, đừng lẻo mép liếm môi họ rồi nói theo.
Người sính chữ nghĩa V+, dùng chữ V+ th́ bào chữa là không phải của V+, mà có trong tự điển tiếng Việt từ lâu. Tôi đồng ư với lập luận lập lờ này, đành rằng có một số chữ như “tiếp cận, đăng kư, ấn tượng, khẩn trương” v.v... có trong tự điển, nhưng chúng ta dùng đúng lúc đúng chỗ, thí dụ như “t́nh trạng khẩn trương, những đường tiếp cận, có ấn tượng tốt” v.v.. chứ không dùng lộn tùng phèo làm nghèo tiếng Việt như họ hiện nay.
Tháng 5/75, đoàn xe motôlova chở tù từ trường Taberd xuống Long Giao, dọc đường anh em ta mót... quá kêu thầm tên ba-ác khiến tên cai tù nghe được bèn cho dừng xe thả tù xuống:
- Các anh đái “khẩn trương” lên!
Nghe V+ nói: “đái khẩn trương” nhiều anh em cười té đái, khỏi cần “khần trương.”
Cái gốc của nó nghèo nàn th́ kệ họ, cả một đất nước đẹp giầu chúng c̣n muốn dâng cúng cho Tàu Cộng th́ xá chi một vài chữ nghĩa! Tiếng Việt c̣n th́ nứơc Việt c̣n, nay chúng dâng biên giới, biển đảo cho “tàu lạ” th́ việc chúng giết tiếng Việt cũng không lạ, cái lạ là Ngừơi Việt viết tiếng Việt bỗng chốc trở thành Người Việt giết tiếng Việt th́ tai hại quá, muốn theo voi V+ để hít bă míaTàu Cộng hay sao?
Lại có bạn than rằng nạn chôm chĩa chữ nghĩa V+ là hết thuốc chữa rồi, nó làn tràn khắp nơi do nghị qu.. 36, có nói cũng như nứơc đổ lá môn, nước đổ đầu vịt v.v...
Tự ḿnh yếu đuối nên cái ǵ cũng đổ thửa cho cái “nghị quyết 36 kiểu”, nứơc đổ lá môn, nhưng các lăo bà xướng ngôn, nhà báo, văn sĩ đâu phải lá môn, c̣n các ông th́ đâu phải là đầu vịt, chỉ v́ tí $ quảng cáo, viết văn dễ tính mà nỡ giết chết tiếng Việt.
Cái cần làm ngay để giữ cho tiếng Việt được trong sáng, tiếng Việt c̣n th́ nước Việt c̣n là tất cả những báo chí, tập san, đặc san, “lỏng san” có gốc lính phải tuyệt đối làm gưong trước không để sót bất cứ một tên du kích “bức xúc” nào chui vào, không những diệt tận gốc mà c̣n có bổn phận phổ biến rộng răi, quảng bá nhiều lần những biện pháp ngăn ngừa và tiêu diệt chữ nghĩa V+. Những ngừơi từng cầm súng diệt cộng, nay cầm viết th́ vẫn có nhiệm vụ diệt chữ nghĩa V+, chứ đừng lười biếng, cẩu thả viết chữ VC là giết chữ Việt Nam Cộng Ḥa.
Những ai “có chức” khi đứng trước đám đông muốn nói ǵ th́ nói nhưng phải uốn lữơi 7 lần để khạc ra những cục đàm “ấn tượng, thân thương, tham quan” v.v.., muốn viết văn thư, thông cáo, thông báo th́ phải lách cho kỹ, cho sạch ngôn ngữ VC kẻo bị người đời cười chê, bị mang tiếng là ngừơi “có chứt”. Những ai chữ nghĩa bề bề th́ không thể buông thả, khi viết th́ phải lách, phải loại bỏ những ngôn ngữ VC đi.
Sau nữa là ước mong ngừơi dân tỵ nạn cộng sản đă bỏ chạy cộng sản th́ tiếp tục “bỏ chạy” ngôn ngữ VC đi, truyền thông, báo chí tỵ nạn cộng sản nêu cao tấm gương bảo vệ tiếng Việt cho được trong sáng, ứơc mong không v́ vài đổng bạc cắc mà bán rẻ chữ nghĩa tiếng Việt để mua về, ôm vào báo chí của ḿnh những cái nghèo nàn dốt nát của VC.
Người Việt hăy viết tiếng Việt, Người Việt đừng giết tiếng Việt.
Được thư này em t́m mọi cách ra thăm nuôi anh. Khi đi nhớ mang cho anh các thứ cần thiết sau đây :
- Bánh tét : 30 đ̣n,
- Bánh ếch phơi khô : 100 cái,
- Bánh tổ : 10 bánh, ...
- Thịt chà bông : 3 kư,
- Gạo sấy : 20 bịch,
- Thuốc lào 3 số 8 : 10 bánh,
- Kẹo chuối : 3 gô,
- Đường thẻ : 5 kư,
- Muối mè : 2 gô,
- Sả khô trộn muối, ớt, bột ngọt : 1 bịch lớn,
- Tôm khô : 5 kư,
- Thịt gà ram mặn : 2 con,
- Cà phê : 1 kư,
- Lạp xưởng : 5 kư,
- Sữa hộp : 20 hộp,
- Thuốc lá : 1 cây (mười gói),
- Sữa bột : 5 kư.
Anh luôn cố gắng học tập, lao động tốt để sớm được Đảng và Nhà Nước khoan hồng xét tha để về sum họp với em và các con.”
Các tù binh xôn xao. Người chắt lưỡi, kẻ hít hà, khi nghe bức thư với những liệt kê dài thọng và nặng kư vừa được đọc. Người ngồi bên phải tôi nói :
- “Cầu cả trăm kư.”
Người ngồi bên trái tôi lắc đầu, nói nhỏ :
- “Vợ tôi chắc chắn chẳng làm cách nào có đủ sức mà mua ngần ấy thứ. Nội chạy gạo nuôi mấy đứa nhỏ đă đủ sặc máu.”
Tôi nh́n người vừa nói với cái nh́n đồng cảm.
Tên cán bộ công an phụ trách công tác giáo dục của phân trại nheo nheo mắt đọc tiếp bốn bức thư tương tự nhưng “nhẹ kư” hơn bức thư vừa đọc.Y ngúc ngúc cái đầu làm cái nón cối màu vàng lệch qua một bên, y đưa tay sửa lại chiếc nón cối, nói :
- “Các anh nào có những bức thư tôi vừa đọc hăy viết lại thư khác. Xin ǵ mà xin dữ thế. Các chị phải bán cả nhà để đi thăm các anh ấy à. Đảng và Nhà Nước ta có bỏ đói các anh đâu. Đă bảo các anh nhiều lần là “Thăm viếng” chứ không phải “Thăm nuôi”. Việc nuôi các anh đă có Đảng và Nhà Nước lo.”
Các tù binh im lặng nh́n nhau. Tất cả đều há miệng đáp “rơ” khi tên cán bộ giáo dục hỏi :
- “Các anh có rơ không ?”
Sau đó, đám tù binh đứng lên, sắp hàng để ra hiện trường lao động.
***
Lật bật rồi cũng có những người vợ ở miền Nam đường xa lặn lội mang quà cáp ra miền Bắc thăm chồng.
Hiểu rơ hoàn cảnh của gia đ́nh ḿnh nên tôi rất ít hy vọng vợ tôi sẽ ra thăm tôi. Thế nên tôi rất đỗi ngạc nhiên, mừng rỡ khi được gọi tên. Quà cáp vợ tôi mang theo không được như những yêu cầu của những bức thư bị bắt phải viết lại nhưng cũng đă quá đủ với tôi, người tù cải tạo đă mười năm. V́ là một cá nhân tiên tiến trong đội nên tôi được ở lại qua đêm ở nhà tiếp tân với vợ tôi. Chúng tôi đă hàn huyên tâm sự. Vợ tôi kể về chuyện học hành của các đứa con bây giờ đă lớn. Khi được tôi hỏi làm cách nào vợ tôi có đủ tiền nuôi con từ bấy đến nay, và có thể mua quà cáp để từ miền Nam ra miền Bắc thăm tôi, th́ vợ tôi cho biết là cũng bắt chước các chị em khác buôn bán làm ăn. H́nh như có điều ǵ đó nàng không muốn nói với tôi. Lúc tôi tỏ ư muốn ân ái với nàng th́ nàng từ chối với lư do v́ sợ phải chửa đẻ. Tôi nuốt nỗi ham muốn khi thấy lư do của vợ tôi nêu ra là chính xác.
- “Bây giờ mà em bầu b́ chửa đẻ là có nước chết.”
Khi mang những quà cáp vào trại với dồn nén sinh lư không được thỏa măn, tôi rất đỗi ngạc nhiên v́ những thứ đắt giá, cần thiết mà vợ tôi đă mang ra cho tôi trong chuyến thăm nuôi. Tôi không h́nh dung được công việc làm ăn buôn bán của nàng ra sao. Hồi tôi chưa bị tù tội, vợ tôi chỉ là người đàn bà nội trợ đảm đang. Gia đ́nh chúng tôi sống nhờ vào đồng lương Sĩ quan cấp Tá của tôi chỉ vừa đủ chi tiêu rất dè sẻn.
Tôi im lặng nghe những người bạn đồng tù kể lể chuyện thăm nuôi. Anh Ân, ở chung đội nhà bếp với tôi, cười tủm tỉm, nói :
- “Bà vợ của tôi bả hay thiệt. Anh biết bây giờ bả cũng biết mánh mung này nọ. Buông cái này, bắt cái kia. Hết đi buôn gạo tới buôn thuốc tây, hết đi thịt heo tới đi bột ngọt.”
Anh nhỏ giọng nói với tôi :
- “Anh biết, hồi tôi đi tù, bả ôm đứa con mới sanh mấy tháng.. Tôi đi mà rầu thúi ruột. Nhỏ con gái giờ đă mười tuổi rồi. Tôi tá hoả lúc bả đưa cái “Bao cao su ngừa thai” cho tôi lúc tôi ngỏ ư muốn ăn nằm với bả. Anh biết, bả mà biết xử dụng ba cái vụ này với ḿnh th́ ở nhà đâu có ǵ cấm bả đưa cho người khác xử dụng. Chắc bả cũng biết tôi nghĩ ǵ nên bả nói : Anh đừng có nghi tầm bậy, tầm bạ. Ba cái này bây giờ được mấy ổng phổ biến khắp nơi. Tháng nào hội phụ nữ ở trên Phường cũng thông báo chị em phụ nữ tới lănh. Thu xếp để đi thăm nuôi anh, đọc trong thư anh viết anh là cá nhân tiên tiến trong đội, vợ chồng được phép thăm nuôi 48 tiếng nên em mới nghĩ tới mang theo mấy cái này.”
Lúc tuột quần ra, vợ tôi bả c̣n rắn mắc :
-“Anh đừng có ghen tuông kỳ cục. C̣n y nguyên đây nè. Anh khám coi nó có ṃn miếng nào hôn ?”
Anh ta lắc đầu :
- “Anh biết, tôi chịu thua bà vợ luôn. Bả bắt tôi xài hết sáu bao cao su bả mang theo trong hai đêm, mệt muốn bứt gân luôn.”
Tôi ngạc nhiên nh́n người bạn hiền lành, ít nói và chợt nhận ra khi một người được hạnh phúc, người đó muốn chia xẻ với người khác.
***
Một hôm ở nhà bếp tôi gặp Long, lao động tự giác của đội 6, chuyên phụ trách hái trà của phân trại, cũng vừa được vợ thăm nuôi. Các tù nhân tự giác thuộc các đội buổi trưa đều được vào trại để lấy phần ăn. Trong số các tù nhân tự giác, Long là người rất dễ thương. Thỉnh thoảng anh ta vẫn dúi cho tôi gói trà “móc câu” nước trà xanh, uống vào đăng đắng lúc đầu nhưng hậu vị rất ngọt. Ở trại cải tạo, sáng sớm hút điếu thuốc lào ba số 8, chiêu một ngụm nước trà móc câu là một hạnh phúc tuyệt vời. Lâu lâu anh ta lại dúi cho tôi một gói, nói theo bọn tù h́nh sự là mới “thửa” được.
Gặp tôi hôm đó, anh ta có vẻ buồn. Tôi hỏi :
- “Sao được vợ ra thăm nuôi mà không được vui ?”
Tôi thấy mặt anh ta sịu xuống, giọng nói chán nản :
- “Bể hết rồi, ông anh. Tan nát hết rồi, ông anh !”
Tôi lấy phần cơm sắn của ḿnh và thức ăn được thăm nuôi ra mời Long cùng ăn chung với tôi ở căn pḥng thay quần áo của đội nhà bếp. Tôi im lặng nghe Long kể chuyện.
- “Anh biết, cả nửa năm rồi, má tôi có viết thư báo cho tôi biết là vợ tôi nó đă giao con cho má tôi đi lấy… Cán bộ rồi. Tôi cố không tin. Nhưng mà thơ của má tôi viết sờ sờ ra đó. Được phép viết thơ cho gia đ́nh ra thăm nuôi tôi cũng cứ viết đại. Người tôi chờ đợi ra thăm là má tôi. Ai mà dè lại là con vợ tôi.”
Ngưng lại để nuốt mẩu sắn nhăo nhẹt, Long nói tiếp :
- “Anh biết nó ra thăm nuôi tôi với thằng Cán bộ chồng mới của nó y như thơ của má tôi đă viết. Anh biết thiệt hết sức ngỡ ngàng. Tôi lại được thăm nuôi bốn mươi tám tiếng. Anh biết, lúc con vợ tôi nó giới thiệu với thằng Cán bộ nón cối, tôi chết điếng trong ḷng. Không biết phải nói ǵ. Con vợ tôi nó nói nó ra đây thăm tôi lần cuối cùng, xin tôi cho phép nó đi lấy chồng khác, v́ không biết phải chờ tôi tới bao giờ. Mà nó th́ c̣n trẻ.”
Tôi nhận đồ thăm nuôi. Tôi nói với nó tôi sẽ vào trại. Tôi sẽ kư giấy ưng thuận cho nó, từ giờ nó tự do muốn lấy ai th́ lấy. Vợ tôi nó yêu cầu thằng cán bộ ra ngoài để nó nói chuyện với tôi. Nó yêu cầu được ăn nằm với tôi lần cuối cùng trước khi đi lấy chồng. Tôi vừa giận mà lại vừa thương con vợ tôi. Sao nó lại đi bày cái chuyện oái oăm. Nó ôm tôi khóc lóc thảm thiết. Tôi th́ nghĩ bụng: nó đă muốn vậy th́ cho vậy. Với lại đă lâu ḿnh cũng thèm khát. Trong hai đêm tôi trút tất cả những hờn giận, thương yêu vào thân thể con vợ tôi, trong khi bên pḥng bên kia thằng Cán bộ cứ lăn qua, trở lại v́ không ngủ được. Bốn mươi tám tiếng rồi cũng hết. Vợ tôi và thằng Cán bộ ra về.”
Long chợt bật khóc :
- “Anh biết, lúc đó tôi giận con vợ tôi ghê lắm : tại sao nó lại đặt tôi và thằng Cán bộ vào hoàn cảnh trái ngang. Tôi làm t́nh với nó để trả thù nó. Để chọc tức thằng Cán bộ. Giờ nó về rồi tôi mới nghĩ lại mà thấy tội cho nó. Không biết rồi nó với thằng Cán bộ sẽ sống với nhau như thế nào. Thiếu ǵ đàn bà, con gái mà sao thằng Cán bộ nó không lấy mà lại nhè lấy vợ tôi ? Bộ hết người rồi sao ? Sao con vợ tôi nó lại bày ra cái cảnh oái oăm ? Mà sao tôi lại đi chấp nhận cuộc chơi một cách kỳ cục ?”
Long gạt nước mắt, nói tiếp với giọng nói ráo hoảnh :
- “Tôi không biết con vợ tôi nó có được hạnh phúc không ? Thằng Cán bộ nó sẽ đối xử với vợ tôi như thế nào khi nó đă hai đêm nằm trằn trọc ở pḥng kế bên mà nó biết chắc chắn chúng tôi đang làm chuyện vợ chồng ở pḥng bên này.”
***
Câu chuyện của hai người bạn tù được vợ thăm nuôi càng làm tôi âu lo về vợ tôi và cuộc sống gia đ́nh. Đêm đêm tôi trằn trọc nh́n những con chuột đói đuổi nhau trên mái nứa. Tôi lo sợ những bất trắc, đă và đang, xảy đến cho gia đ́nh tôi. Có phải vợ tôi, cũng như bao nhiêu người đàn bà miền Nam khác, là những cành đào trôi ngược trong cuộc đời giông băo hiện tại ?
Những âu lo không có nhiều thời gian trong trại cải tạo. Cái đối diện thường trực của những người tù là cái đói. Là đợi chờ vô vọng một ngày về.
Cuối cùng rồi tôi cũng được trở lại với đời sau khi đă trải qua những tầng địa ngục.
Tôi có cái may mắn là khi trở về chẳng phải đứng trước ngôi nhà đổi chủ. Tôi cũng chẳng phải ngỡ ngàng khi bước vào nhà thấy có nón cối Bộ đội úp sẵn trên bàn, dép râu B́nh Trị Thiên nằm dưới sàn nhà, kế bên, con chó già không nh́n ra chủ cũ.
Khi tôi trở về nhà cửa vẫn như xưa. Các con tôi đă lớn. Thằng con rất đẹp trai và có vẻ thông minh. Hai đứa con gái đang ở vào lứa tuổi : Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi !
Tôi cám ơn Trời, Phật đă giúp đỡ gia đ́nh tôi. Tôi thầm hănh diện là gia đ́nh ḿnh vẫn c̣n nguyên vẹn trong khi biết bao gia đ́nh khác đă tan nát v́ hậu quả của chiến tranh.
Tiệc đoàn viên rất là ấm cúng. Vợ tôi có già đi v́ năm tháng nhưng tôi thấy nàng vẫn đẹp như xưa. Nàng, đối với tôi, quả là một chinh phụ của thời đại mới. Nàng đă thay tôi : dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Gia đ́nh chúng tôi, đối với mọi người, là một gia đ́nh hoàn toàn hạnh phúc trong cái xă hội đă nhuốm độc dược Cộng sản.
***
Như những người tù cải tạo khác, tôi được Hoa Kỳ nhận cho định cư trong Chiến Dịch Nhân Đạo.
Ngày từ giă Quê hương, tôi muốn hôn lên mặt đất thầm hẹn một ngày về khi đất nước không c̣n bị cai trị bởi một Chủ nghĩa bạo tàn.
Cửa Thiên đường đang rộng mở. Tôi đă thầm tính toán với số tiền truy lănh, với ngôi nhà được chính phủ Mỹ cấp phát, với số tiền 2.000 đô-la được Đức Giáo Hoàng cho ngay khi tới phi trường Bangkok. Với ngần ấy thứ, tôi vẽ cho gia đ́nh tôi một tương lai tươi sáng.
Tôi hân hoan bước lên phi cơ nơi phi trường Tân Sơn Nhất ngày càng bệ rạc v́ những chủ nhân ông mới. Những chú Công an, nhưng nhân viên Quan thuế rất là dễ dăi với những Lưu, Nguyễn của thời đại mới. Nh́n đâu cũng bắt gặp những nụ cười. Vợ tôi biếu chú công an gói 555, chú nhân viên Quan thuế hộp x́ gà, cô tiếp viên một thỏi son ngoại quốc. Chuyến bay xa dần quê hương mà tôi đă buồn đau, sung sướng trong gần sáu mươi năm trời, đáp xuống Thái Lan đất Phật nhưng lại là nơi xuất phát những tên hải tặc gieo đau thương kinh hoàng cho người Việt Nam vượt biển trong mười mấy năm qua. Hai ngàn đô-la của Đức Giáo Hoàng theo lời đồn đăi là một vỡ mộng ban đầu. Rồi những chuyến bay kế tiếp đưa những Lưu, Nguyễn bất đắc dĩ đến thiên đường hạ giới Hoa Kỳ. Căn nhà thuê mướn cho cả gia đ́nh là vỡ mộng thứ hai. Và số tiền truy lănh cũng chỉ là những tin đồn.
Có điều mấy đứa con tôi đă lớn. Chúng nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh của Xứ Cơ Hội.
Chúng tôi không may đến Mỹ vào lúc nền kinh tế nước này đang trên đà xuống dốc. Tiền trợ cấp buổi ban đầu đă giảm. Dù sao tôi vẫn c̣n có cái an ủi là được Tự Do và không c̣n lúc nào cũng lo sợ sẽ bị đưa trở lại nhà tù như lúc c̣n ở Việt Nam.
Tôi rất đỗi đau long khi nghe tin một người bạn tù, quen biết hồi cải tạo, v́ sự tan vỡ của gia đ́nh, đă treo cổ tự tử. Tôi không bao giờ chọn giải pháp tiêu cực và bi thảm đó. Tôi đă không chết ở những địa danh muỗi ṃng đỉa vắt, mịt mù sương lam chướng khí, chẳng lẽ tôi lại chết ở xứ đất tiền, đất bạc này ?
Tôi quyết làm lại một cuộc đời khác. Tôi không muốn sống măi với những nỗi buồn đau. Tôi muốn các con tôi có một tương lai. Và nhất là tôi muốn vợ tôi được hạnh phúc trong quăng đời c̣n lại; bởi, nàng đă phải hy sinh quá nhiều. Bởi, nàng là một người vừa được phục sinh. Nàng là một cành mai nhị độ.
Tôi muốn kể lại đây một lần chuyện đau buồn của đời tôi mà cuộc chiến tranh dai dẳng giữa hai miền Nam, Bắc đă gây ra…
Như đă biết, tôi là một tù binh đă trải qua những tầng địa ngục từ Nam chí Bắc. Khi c̣n sống sót trở về, gia đ́nh vẫn c̣n nguyên vẹn chớ không phải chia ĺa, tan nát như những gia đ́nh khác th́ tôi có ǵ mà phải đau buồn. Sự thực th́ không phải như vậy. Hạnh phúc nào chẳng ẩn giấu những nỗi khổ đau. Đôi khi hạnh phúc của người này lại là bất hạnh của kẻ khác. Và hạnh phúc không phải là sự vừa ư. Và người ta chỉ thực sự hạnh phúc khi biết tha thứ.Xin đừng thắc mắc với những “Triết lư ba xu” của tôi.
Xin hăy vui ḷng nghe tôi kể tiếp câu chuyện.
***
Đêm sum họp đầu tiên, sau bữa cơm gia đ́nh, những ly Champagne làm tôi ngầy ngật. Tôi thấy vợ tôi vô cùng lộng lẫy như đêm tân hôn mấy chục năm về trước. Các con tôi đă rút vào pḥng. Tôi ôm hôn vợ tôi và ngỏ ư muốn ân ái với nàng. Nhưng nàng lắc đầu từ chối với lư do là nàng đang tới kỳ kinh nguyệt. Nàng lui vào pḥng khép cửa lại. Tôi nằm trên bộ sa-lông với cơn thèm muốn dục t́nh tràn ứ cơ thể. Có lẽ v́ mệt mỏi, v́ rượu sau bao nhiêu năm mới được uống lại, tôi thiếp đi chẳng biết bao lâu. Khi thức giấc, tôi thấy đèn trong pḥng vợ tôi vẫn c̣n sáng. Cơn thèm muốn lại nổi lên. Tôi gơ cửa. Câu trả lời chỉ là những tia sáng hắt ra từ những khe hở. Tôi nghe h́nh như có tiếng khóc. Tôi xoay nắm cửa mới biết là cửa pḥng đă khóa.
Tôi bực dọc trở lại chỗ nằm với ḷng ấm ức. Tôi cố dỗ giấc ngủ mà chẳng tài nào ngủ được. Trong cơn mê tỉnh chập chờn, tôi bỗng nghe có tiếng ngă xuống của một chiếc ghế ở trong pḥng của vợ tôi. Tôi gơ mạnh cửa nhưng chẳng có tiếng trả lời của vợ tôi. Tôi tông mạnh cửa pḥng để kịp nh́n thấy vợ tôi nằm sóng soài trên nền gạch, trên tay c̣n nắm chặt những tờ giấy. Ngọn đèn vẫn tỏa sáng. Mấy chai lọ nằm chỏng trơ bên cạnh nàng. Tôi hoảng hốt la toáng lên. Các con tôi thức dậy. Tôi biết vợ tôi đă dùng thuốc ngủ để quyên sinh. Tôi vội vàng đưa nàng đến Bệnh viện. Tôi van xin Bác sĩ, hăy cứu dùm vợ tôi. Tôi đau xót nh́n nàng nằm im như một xác chết. Vị Bác sĩ mới là đáng ghét làm sao. Ông ta nói như một cái máy: “Ông hăy an tâm, chúng tôi sẽ cố gắng. Nhưng mà bà nhà đă dùng quá nhiều thuốc ngủ nên t́nh trạng rất trầm trọng.” Tôi như kẻ mất hồn. Tôi van vái Trời, Phật nếu có kẻ phải chết xin để tôi chết thế cho nàng - người chinh phụ của thời đại mới đă thay chồng nuôi dạy con cái nên người.
***
Vợ tôi nằm im ĺm như một xác chết trong ba ngày đêm. Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần bức thư c̣n hoen những giọt nước mắt của vợ tôi :
“Anh yêu và các con thương mến,
Khi anh đọc bức thư này cũng là lúc em ĺa bỏ cơi đời. Xin anh hăy tha thứ cho em về những việc làm nhơ nhớp chỉ v́ em muốn có tiền để nuôi sống các con và thăm nuôi anh. Ngay sau khi anh đi cải tạo một tháng theo lệnh của Ủy Ban Quân Quản, em cảm thấy bơ vơ và lo sợ vô cùng. Từ khi vợ chồng ḿnh chung sống với nhau cả gia đ́nh ḿnh chỉ sống nhờ vào đồng lương của anh. Rồi các con cái ra đời. Anh vất vả ngược xuôi lo cho mẹ con em. Nhờ chắt chiu dành dụm mà gia đ́nh ḿnh không đến nỗi túng thiếu. Khi những người thắng trận tràn vào Thành phố, không có anh em không biết xoay sở cách nào. Em đă cố gắng bắt chước các chị em khác đi buôn bán để kiếm sống qua ngày. Nhưng anh biết em đâu có nói dối được với khách hàng. Lại không biết cách bắt mối với tài xế, lơ xe để dấu hàng khi qua các trạm Thuế vụ. Do đó, sau vài chuyến đi buôn em đă cụt vốn, đành phải bán lần hồi những ǵ mà vợ chồng ḿnh đă mua sắm để mà sống qua ngày. Chiếc xe Honda anh vẫn dùng để làm phương tiện tới sở làm mỗi ngày được bán để mua sắm trong lần thăm nuôi anh ở trại Suối Máu, là vật đáng giá sau cùng. Khi nhận được thư anh gửi từ miền Bắc là lúc gia đ́nh chẳng c̣n ǵ để bán. Lúc đó cũng là lúc thằng con vừa được trở về nhà với chứng bệnh sốt rét sau hai năm đi Thanh niên Xung phong. Vừa đọc thư anh liệt kê những món cần thiết, vừa nh́n những đứa con ốm yếu xanh xao, cùng âu lo với mẹ mà ḷng em quặn thắt. Có lúc em định bán cái nhà để đi thăm nuôi anh nhưng sợ bán đi rồi th́ mấy mẹ con sẽ ở đâu. Thế nên em đă làm một chuyện vô cùng dại dột là đă “Ngủ với kẻ thù” để có tiền chữa bệnh cho con và đi thăm nuôi anh. Ngày ngày em trang điểm thật đẹp, em hẹn bán thân xác cho những kẻ thù có chức, có quyền (Và dĩ nhiên là phải có tiền). Em đă qua tay hết người này đến người khác, sau ba năm cầm đồ bán đạc. Những năm sau đó, cái em mang đi bán là cái trinh tiết, danh giá của một người đàn bà đă có chồng. Em không muốn các con không được đi học. Em muốn khi lớn lên chúng được đầy đủ kiến thức như ngày xưa chúng ta đă bàn tính với nhau. Em không muốn anh phải âu lo, thiếu thốn ở những trại giết người của những kẻ thắng trận. Em đă làm-đàn-bà-để-sống với ước muốn duy nhất là được gặp lại mặt anh để giao lại các con cho anh. Nhơ nhuốc này chẳng làm sao mà rửa sạch chỉ trừ cái chết. Em từ chối ăn nằm với anh v́ em nghĩ rằng em không c̣n xứng đáng với anh. Các con không biết được những việc làm nhơ nhuốc của mẹ nó. Em đă qua mặt được mọi người lối xóm. Ai cũng khen em là người đàn bà đảm đang v́ em đă khéo léo che đậy những việc làm nhơ nhớp của ḿnh. Em không muốn lừa dối anh. Em xin lấy cái chết để tạ tội cùng anh - người chồng mà em suốt đời yêu thương và kính trọng. Anh hăy đốt lá thư này sau khi đọc xong. Em không muốn tâm hồn các con bị vẩn đục v́ có một người mẹ không xứng đáng. Xin anh hăy chiều em một lần cuối cùng - như từ bấy lâu nay anh vẫn chiều em.
Vĩnh biệt anh.
Người vợ tội lỗi của anh.”
Tôi hoa mắt lên. Tôi đọc đi, đọc lại bức thư nhiều lần. Th́ ra những điều lo sợ của tôi lúc c̣n ở trong trại cải tạo là sự thật. Những ḍng chữ như nhẩy múa trước mặt tôi.
Tôi đă chạy như bay đến Bệnh viện khi được thằng con trai báo tin là vợ tôi đă được cứu sống. Tôi lao vào căn pḥng có vợ tôi đang nằm im ĺm, thoi thóp. Tôi kịp giữ nàng lại lúc nàng cố gắng lấy sức tàn để đập đầu vào tường tự sát một lần nữa. Tôi ôm nàng và khóc như chưa bao giờ được khóc. Tôi van xin nàng hăy v́ tôi, v́ các con mà sống.
Tôi quỳ xuống lạy nàng ba lạy và nói với nàng :
- “Đă chẳng phải em đă chết ba ngày, ba đêm rồi đó sao. Em bây giờ đă là một người khác.”
Tôi nói miên man những ư nghĩ rất thực của ḿnh :
- “Em không có lỗi ǵ với anh cả. Tất cả chỉ là cái hoàn cảnh trái ngang mà chúng ta phải gánh chịu. Bằng cái chết em đă sống lại trong anh, em lại càng cao quư hơn trong anh; bởi, em đă sống thực với em.”
Chúng tôi ôm nhau. Và khóc.
***
Mùa Xuân năm đầu tiên ở xứ lạ, tôi viết tặng “Cành mai nhị độ” của tôi hai câu lục bát :
“Sau lần vấp ngă đứng lên
Cảm ơn nhau : vẫn đi bên cuộc đời.
Môi buồn lại nở nụ cười.
Mắt hoen ố lệ lại ngời tin yêu.”
Với tin tưởng rằng mùa Đông buốt giá rồi sẽ qua đi, để từ đó, bắt đầu một mùa Xuân nắng ấm.
Nguyễn Thiếu Nhẫn
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đợi đến khi nào dân Mỹ thấy tỵ nạn Việt mà bịt mũi, bịt mồm quay qua chỗ khác, khu Bolsa tại thủ đô Tỵ Nạn vắng teo như chùa Bà Đanh lúc bấy giờ nước đến chân…. hết nhảy!
Kìa quân tầu ô !!!!
Tuần trước, thủy thủ già đi dạo mát tại khu Embarcadero. Du khách Tầu, Đại Hàn, Nhật Bản bu đông nghẹt tại bức tượng The Kiss và chen chúc lên chiếc USS Midway. Cứ nghe tiếng líu lo, ngộ, nị ồn ào là ttg lảng ra chỗ khác, nhất là có tiếng ho và ách xì là khập khiễng bước nhanh.
Đây cũng một phần là do tâm lý không thích thái độ tự nhiên hơn người Hà Lội của người tầu. Hành động bắn giết, cướp bóc, bắt nạt ngư dân, lấn chiếm biển đảo của nhà cầm quyền Bắc Kinh đã khiến không riêng gì người Việt mà cả thế giới e dè. Tránh xa đám đông là thái độ thận trọng, phòng ngừa lây bệnh đại dịch Corona là việc phải làm. Ngay cả chính dân Tầu cũng phải đeo khẩu trang và cô lập những nguồn bệnh, cho nên không nên suy diễn sự thận trọng quá đà mà thổi phồng tâm lý kỳ thị dân tầu.
Những sự kiện ghét Tầu, tẩy chay nhà hàng, khu đông người Tầu tại Pháp và Hòa Lan chỉ là những trường hợp cá biệt, chưa phải là phong trào. Không phải toàn thể dân chúng của các quốc gia Âu Châu đều kỳ thị người Tầu trong đại dịch Corona mà chỉ có một số nhỏ vốn sẵn mang tinh thần kỳ thị đã có những lời phát ngôn và hành động quá đáng.
Đợi đến khi nào dân Mỹ thấy tỵ nạn Việt mà bịt mũi, bịt mồm quay qua chỗ khác, khu Bolsa tại thủ đô Tỵ Nạn vắng teo như chùa Bà Đanh lúc bấy giờ nước đến chân…. hết nhảy! Bởi thế những ai về VN ăn Tết hãy mau trở lại Mỹ và những ai lăm le về thăm “chùm khế ngọt” hãy hủy vé máy bay ngay tút suỵt để tránh hậu hoạn. Còn quý vị nào chưa chích ngừa cúm hãy đi chích ngay!
Hải Trinh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tôi làm t́nh báo v́ có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm mối thù việt cộng giết cha tôi. Ông già tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu. V́ là vùng mất an ninh nên phải đóng thuế cho Việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến gơ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rơ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm, chỉ v́ một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người.
Dĩ nhiên tôi trả thù.
Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn trong pḥng không cho hàng xóm biết, đến khuya tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có pḥng vệ sinh trong nhà, khi cần th́ ra sau vườn.
Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn:
- Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp.
Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cơng trên lưng, ́ ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết cha tôi.
Tôi khai thác tận t́nh cho đến khi hắn thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật.
Hắn van lạy, nhưng vô ích, h́nh ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đ́nh tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên Sài G̣n ở.
Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các Tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác t́nh báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua Tỉnh khác.
Câu chuyện bắt đâu khi tôi được giao cho việc theo dơi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố ven biển miền trung.
Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên con đường vào Thị xă. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản vào chợ bán.
Họ chở bằng xe đạp, xe Lam hay xe ḅ. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát ŕnh ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng t́nh nghi cả.
Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được nhất là ở quăng đường tối.
Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố.
Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay.
Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa làm chỗ thử áo quần. Gia đ́nh nầy mới từ một Quận miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh trung học, sau theo nghề may.
Tiệm của cô khá đông khách v́ cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ, có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch.
Nhiệm vụ của tôi là t́m cách tiếp cận cô để theo dơi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si t́nh cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng.
Một buổi sáng Chúa nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô th́ xe chết máy phải dừng lại sửa.
Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu gi, tháo b́nh xăng con… toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ.
Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn rồi dẫn xe về.
Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi được cô mời vào nhà v́ tôi là khách.
Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ ǵ đó và tôi ngập ngừng nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp tôi nhớ.
Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ư, nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc tṛ chuyện tôi cho cô biết về gia đ́nh tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị Quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết.
Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít tinh, tôi phát ngôn bừa băi ra người bất măn chế độ.
Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn.
Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết ḿnh đă được để ư, nhưng chỉ đến đấy th́ hầu như bế tắc, tôi không biết được những ǵ chúng tôi cần.
Một sáng chủ nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy một đống tro tàn đang bốc khói. Th́ ra, không hiểu v́ sao lúc khuya lửa bắt cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu lo lắng.
- Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, c̣n quần áo của khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em c̣n đồng nào đâu!
Tôi hứa với cô là sẽ hết ḷng t́m cách giúp đỡ. Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh những miếng tôle c̣n xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng khang trang, ngoài ra c̣n mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần tôi lo toan cho cô chu toàn.
Từ đấy thái độ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô đến nhà trọ thăm tôi nữa.
Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má, trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn rợn, tưởng như ḿnh đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó trong bóng tối.
V́ nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm t́m một chỗ an toàn phía sau lưng.
Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến năn nỉ cho con gái học nghề may.
Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia đ́nh.
Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng ḷng nhưng hẹn ít hôm nữa mới trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ huy cô.
Tuần sau cô đồng ư nhận học tṛ. Được độ ba tháng nhờ sáng ư, cô bé học nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước.
Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện.
- Em học nghề may với chị Lan đến đâu rồi?
- Em cắt chưa vững nhưng may th́ khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng, mịn và đẹp.
- Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách.
- Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền.
Tôi tâm sự với cô học tṛ.
- Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định sẽ làm đám cưới, nhưng thầy c̣n ngại h́nh như chị Lan đang yêu ai nên thầy nhờ em giúp thầy t́m hiểu chị Lan xem có ai đến thân mật chuyện tṛ với chị ấy không?
Em sẽ chẳng làm ǵ cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi của em sát vách với pḥng thử áo quần.
Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh.
Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức.
Thế là chúng tôi nghe rơ những trao đổi, bàn bạc với nhau của bọn chúng trong pḥng thử quần áo. Một bộ phận khác ŕnh thu h́nh những khách hàng khả nghi và tiến hành điều tra.
Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài, nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên đầu sỏ vẫn chưa t́m ra!
Trong nghề nầy, một chút sơ ư là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dơi mà không hay biết.
Cô với tôi như hai tay nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô đă bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đ̣n.
Có thể cô làm bộ chuyện tṛ, hỏi han để t́m hiểu tôi hoặc rủ tôi một chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự…
Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm.
Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay.
Mạng tôi đổi mạng cô th́ không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú ǵ trong vai tṛ nầy cả.
Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng liêng đó của người con gái. Đó là nhược điểm của một tên t́nh báo non tay nghề như tôi.
Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công Tỉnh. Mẻ lưới được tung ra. Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya.
Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên bần bật…
Chúng tôi đề nghị Cảnh sát hành quân sớm hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gơ cửa, c̣ng tay, đẩy lên xe cây.
Thường th́ sau khi vở kịch đă hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới.
Nhưng không hiểu sao h́nh ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi.
Khi cô bị bắt, bị giam giữ, ḷng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà, con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương, phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ư vấp ngă thấy đă động ḷng rồi, huống ǵ cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà giam sau những song sắt như một con thú đă bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt.
Tôi đă nhiều lần bí mật nh́n cô ủ rũ ngồi ở một góc pḥng giam, héo úa như không có linh hồn, không c̣n cảm giác, suy nghĩ ǵ.
Tương lai là chết rũ trong tù, t́nh yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân coi như đă chấm hết.
Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không c̣n là kẻ thù của tôi nữa, sự cảnh giác đă được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đă được chùi sạch, để lộ ra h́nh ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi.
Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những con mồi khác đến móc nối lại với cô.
Từ pḥng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi và cô.
Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng chẳng biết ǵ về Việt cộng cả và anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh cảnh sát bỏ đi làm giấy tờ.
Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nh́n tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố t́nh cho cô hiểu tôi là người có thẩm quyền, tôi cứu cô ra v́ tôi yêu cô.
- Như em đă nghe lúc năy, anh xin bảo lănh em và chịu trách nhiệm liên đới về những hành động của em sau nầy.
Nếu em thương yêu anh thực ḷng th́ em hăy lánh xa những ǵ có thể gây nguy hiểm cho em.
Em c̣n mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đ́nh, có con cái, sống hạnh phúc như bao người b́nh thường khác.
Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện không may anh sẽ đau khổ lắm.
Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài G̣n sống lẫn trong đồng bào th́ sẽ không có ai quấy rầy em nữa.
Chúng ḿnh sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài G̣n sẽ làm đám cưới.
Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhơm. Cô đă hiểu ư tôi. Cô viết cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy may.
Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài G̣n.
Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi t́m mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dơi cô không phải đă chấm dứt.
Công tác của chúng tôi thường được t́nh báo Mỹ yểm trợ.
Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đă vui vẻ trả lại tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa cô đi xem hát, ăn quà rong.
Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đă đóng. Lần nầy tôi lại bán xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe khác.
Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài G̣n với gia đ́nh. Buổi chiều tôi thường ghé thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đ́nh cô.
Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, c̣n cô th́ xin phép đi tắm. Chợ Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng như ở một vùng quê
Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có thói quen là sau khi tắm cô không mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất.
Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn ṿ mái tóc cho khô, chải nhẹ cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nh́n tôi mỉm cười.
Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rơ làn da mịn màng, thơm tho của thân thể cô… Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa ăn vừa chuyện tṛ đến khuya mới chia tay.
Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi.
Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu “Được thư anh, em khóc mấy hôm nay v́ vui mừng. Cám ơn anh đă hiểu em và lời hứa của anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em”.
Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài G̣n, khi đến nhà cô tôi ngạc nhiên thấy nhà đă sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn pḥng vừa mới được xây thêm.
- Mẹ ngủ pḥng ngoài kia, em ngủ trong nầy.
- C̣n anh th́ nằm dưới đất?
Cô đỏ mặt nhưng sung sướng.
- Anh với em pḥng nầy chứ.
Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đ́nh tôi cứ tưởng tôi sẽ lập gia đ́nh với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ kỳ thị hay giai cấp ǵ mà theo lệ thường, thầy giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường ḿnh dạy.
Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp một cách thùy mị.
Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi th́ tíu tít hỏi han, tṛ chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về v́ cảm động.
Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng chúng tôi đă hứa với nhau phải giữ ǵn, để dành cho ngày hôn lễ.
Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có h́nh quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, h́nh đôi chim đang bay, rồi cô phân vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu th́ cô giận, nhưng thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó.
Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm 1975 miền Nam bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan ră như bọt nước.
Người ta ùn ùn chạy về phía Nam, tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến Đà Nẳng lại đành quay về Huế v́ miền Trung đă rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ thù h́nh như chưa biết ǵ về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. Việt cộng bắt đầu gọi các cô thầy đến khai lư lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường học.
Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây nhà trọ, gơ cửa, c̣ng tay tôi dẫn ra xe.
Thoạt nh́n, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi c̣n thấy một xe mang số ẩn tế Sài G̣n, tôi biết ngay bọn chúng đă t́m ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại không hủy hồ sơ?
Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội c̣n trẻ mang súng AK. Phía trước, bên cạnh tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào Ty cảnh sát (cũ), c̣n xe chở tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài G̣n khai thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động. Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức.
Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội tŕnh giấy và nói ǵ đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng Ngăi trời đă rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nh́n quanh. Bỗng tôi lạnh người khi nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi.
Hoá ra chúng tôi đă lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gă thầy tu khất thực.
Tôi cay đắng cười thầm ḿnh thua trí một người đàn bà, cô đă ngụy trang một cách tài t́nh, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà c̣n đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô.
Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô. Cô đă đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi ngây thơ.
Ấy vậy mà tôi cứ tưởng t́nh yêu chân thành của tôi đă cảm hoá được cô. Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ ǵ về tôi, một tên điệp viên hạng bét, ngây ngô, lăng mạng tiểu tư sản?
Xe đến B́nh Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở c̣ng nhưng dặn:
- Cần ǵ nói tôi, giữ khoảng cách năm bước, đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ.
Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai bên, c̣n cô ta th́ ngồi riêng.
Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối. Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoăn để chúng tin, hi vọng đến chiều tối nếu cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở cho tôi.
Nhưng tôi đă lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngă ba Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẽm chợ Cây Quéo.
Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ. Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hoà quẹo hướng Vũng Tàu.
Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đă bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức trả thù.
Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh ḿ thịt, xe vào một khách sạn hạng trung b́nh. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị c̣ng tay cho vào pḥng riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa.
Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay.
Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn đi. Cái c̣ng không thành vấn đề, một cọng thép nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm trong sợi dây đồng hồ mà tôi đă có được lúc tôi đ̣i đi tiểu ở hàng cơm ở B́nh Định.
Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh ḿ nữa, chúng lại c̣ng cả chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong pḥng tôi, thay phiên nhau lơ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi.
Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống bên nhau, cô đă dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ư tôi rất tài.
Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng ḿnh có được cô vợ toàn tâm toàn ư, bây giờ chính cái toàn tâm toàn ư kia lại hại tôi.
Cô đă thấy được không sai chạy những ǵ tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa thoáng qua là cô đề pḥng ngay.
Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Băi Sau.
Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ ŕ rào, buồn bă. Xe chạy đến cuối băi th́ dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại.
- Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ ra.
Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại.
- Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đă giết hại gia đ́nh ḿnh và bao nhiêu đồng chí khác nữa.
Đúng là oan oan tương báo. Tôi đă xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao, bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy.
Nhưng tôi không nhớ rơ ḿnh đă làm ǵ để cô thù hận tôi đến độ giờ đây đem ra xử bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia?
Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô đă phạm một sai lầm chết người. Cô dí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quăng cách giữa cô và tôi.
Tầm vóc cô th́ tôi c̣n lạ ǵ. Chỉ cần tôi quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đ̣n chân, tôi có thể đá găy cổ cô hay ít ra cũng hạ gục cô trong tích tắc.
Trong bóng tối th́ bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau.
Tôi lần t́m cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khoá c̣ng tay.
Được một quăng, khi đoán đă xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định ra đ̣n th́ cô mở băng bịt mắt tôi.
- Anh cơng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện ǵ, anh và mẹ cứ chạy thoát đừng lo cho em. Có thuyền chờ sẵn đằng kia.
Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cơng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng.
Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam.
Phạm Thành Châu
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tin tức mới nhất là Coronavirus có thể truyền từ không khí vào miệng. Những người hay chửi bậy sẽ có cơ hội truyền nhiễm nhanh nhất.
:haf ppy:
Đám dân chửi số một ở forum đi ra ngoài phố chúng nó đeo cái này th́ làm sao nhiễm được Coronavirus . Chỉ sợ về đến nhà vợ con chúng nó tưởng là đầu trâu mặt ngựa ... rồi vác cây đập vào đầu vào mơm th́ hộc máu ra chết oan .
Vợ con lúc đó than khóc ..ông ơi là ông ơi !!!!!!!! không chết v́ con Coronavirus mà lại chết hộc máu tức tưởi hàm oan ...
Tui không biết ǵ hết nha ...
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Hôm đó chủ nhật, hắn căi nhau kịch liệt với vợ và quyết định bỏ nhà ra đi mấy hôm cho vợ biết tay. Đi lang thang chán chê, nghĩ đi nghĩ lại về nhà bố mẹ đẻ th́ các cụ c̣n chửi cho mục mả, đến nhà mấy thằng bạn thân th́ cũng không ổn.
Đi ngang qua trước cửa Bệnh Viện Trung ương, Hắn bèn quyết định ôm ngực lảo đảo vừa đi vừa ho rũ rượi tiến vào pḥng khám xin được xét nghiệm Corona Virus và khai với Bác sĩ rằng mới ở Vũ Hán về mấy hôm. Các Bác sĩ, y tá vội túm lấy hắn yêu cầu xét nghiệm và cách ly khẩn cấp. Thế rồi cơm bưng, nước rót, an ủi động viên sẽ phải ở lại BV 14 ngày, tất cả đều miễn phí hết.
Sáng thứ hai mới 8h, tiếng chuông ĐT réo đánh thức hắn dậy, th́ ra là Sếp gọi...
Sếp gầm lên:
- Anh đang ở đâu ? dự án tôi giao cho anh hôm nay phải tŕnh lên mà giờ này không thấy mặt mũi anh đâu, tôi sẽ đuổi việc anh.
Hắn run rẩy trả lời:
- Thưa Sếp em bị nghi dính Corona đang cách ly ở BV, nếu Sếp cần em sẽ trốn BV về tŕnh Sếp cái dự án ngay ,
Sếp nghe vậy liền hốt hoảng hạ giọng:
- Thôi cậu mà về th́ lây cả Công ty à ? Cứ yên tâm nằm đấy, lương thưởng hưởng đủ, dự án tôi giao người khác làm, chống dịch là công việc quốc gia nghe chưa...
Hắn mừng quá, cái dự án khó như cục xương, chó không thèm gặm, hắn làm măi không xong, nay th́ thoát nợ. Không ngờ một mũi tên bắn trúng hai đích, hắn tự khen ḿnh giỏi như Khổng Minh Gia Cát !!!
Nằm viện được 3 hôm, hắn nhớ vợ quá liền gọi điện thoai làm lành, vợ hắn nhận được ĐT mừng như trúng Viet lottery, khóc nức nở, xin lỗi hắn và muốn được vào BV thăm để thỏa nỗi nhớ nhung. Hắn liền gặp Bác sĩ khai thêm rằng khi từ Vũ Hán về có ghé qua nhà ôm hôn vợ mấy cái. Thế là 30 phút sau, một chiếc xe cấp cứu đă đỗ trước cửa nhà hắn, các nhân viên y tế phủ kín toàn thân như robot tiến hành khử trùng toàn bộ nhà hắn và đưa luôn vợ hắn vào bệnh viện để cách ly. Vợ chồng gặp nhau thỏa nỗi nhớ mong, có ăn và..được hầu hạ chu đáo, lại c̣n có thứ trưởng bộ Y tế đến thăm tặng hoa ...
Sau 14 ngày tất cả xét nghiệm đều âm tính, Bác sĩ tuyên bố hắn khỏi bệnh và cho vợ chồng hắn xuất viện. Các cơ quan báo chí đến chụp ảnh, đưa tin, viết bài tùm lum. Bộ trưởng đến tặng hoa, chụp ảnh lưu niệm chung. Trông hắn cười tươi tắn như từ cơi chết trở về...
Nhà nước tuyên bố chữa khỏi ca bệnh thứ 19 thành công.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Anh tài xế máy bay UH-1 ngày xưa viết khá vui......
" Ta vốn dĩ là con chiên không ngoan đạo
Nếu lỡ lên thiên đàng cũng chỉ v́ em. "
Tôi đi đạo theo cái kiểu đó, nhưng khi bị vào hộp sau 30-4 vẫn bị kể là một thằng "Bốn có" của trại cải tạo. Đó là: có du học; có phi pháo; có Công giáo; có Bắc Kỳ di cư.
Ba có đầu th́ tôi không phàn nàn, nhưng ghép tôi vào tội Bắc Kỳ di cư th́ quả là oan ơi ông địa.
Vốn sanh đẻ ở B́nh Dương, nhưng ngụ cư ở Cái Sắn với những người di cư năm 54, nên mấy đứa cùng lớp kêu anh em tôi là "thằng Nam". Nhờ gần mực th́ đen, gần đèn th́ tối, nên mấy năm sau tôi chửi thề và nói tục bằng tiếng Bắc c̣n ngon hơn tụi nó nhiều.
Ngày thi tiểu học, cần có khai sinh để nộp đơn, má tôi dụ khị được hai ông Trùm Khờ của xứ đạo đi xuống toà Hoà Giải Rộng Quyền của tỉnh Kiên Giang mà thề rằng: Tôi đẻ ở tỉnh Bùi Chu ngoài Bắc.
Thế là tôi nghiễm nhiên trở thành thằng Bắc Kỳ di cư với tờ Thế V́ Khai Sanh ghi sinh quán là làng Địch Giáo, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Bùi Chu.
Khi lên học trên Sài G̣n, mấy thằng Nam Kỳ Quốc muốn chọc quê tôi, cứ chờ khi có mặt mấy đứa con gái, giả làm một ông già hút thuốc lào rồi nói:
- Thuốc lào Cái Sắn! Say!
Đó là câu quảng cáo mà ta hay thấy ở chợ Ông Tạ hay đầu ngơ vào xứ Bùi Phát đường Trương Minh Giảng.
Có khi tụi nó c̣n hợp ca:
- "Ai bảo Di Cư là khổ, di cư sướng lắm chứ
Ngồi tàu bay ta vào miền Nam, Ḷng ta sướng nao nao
Rao muống trong Nam lại nhiều, mà người Nam không biết ...
Ước mong sao, rao muống lên cao, tăng sức mạnh cần lao .... "
Những lúc đó tôi cầu trời khấn Phật cho mấy thằng giá sống kia thi rớt để vô Quang Trung cho đáng đời.
Sau bao nhiêu năm quân ngũ với bao lần sưu tra lư lịch, tôi vẫn yên trí rằng ḿnh sinh ở tỉnh Bùi Chu. Măi cho đến ngày xập tiệm, có một anh Bắc kỳ chính hiệu Bà Lang Trọc cho tôi biết là ở ngoài Bắc làm ǵ có tỉnh Bùi Chu, Giáo Phận Bùi Chu th́ có.
Tôi thắc mắc: Bùi Chu là Giáo phận hay họ đạo nhỏ bé là thế mà sao đi đâu cũng thấy địa danh dính dáng tới nó??
Tôi ở xứ Tân Chu, bên kia sông là Tân Bùi, bác tôi ở trên Bùi Phát SG, ở gần Nghĩa trang QĐ Biên Hoà c̣n có Bùi Thái nữa.
Người Bắc Bùi Chu đặt tên ngộ lắm: Ông Bứa có thằng em là ông Bỉnh, hai thằng con ông là thằng Vênh, thằng Váo. Kêu tên cả gia đ́nh ông ra th́ dân anh chị nghe cũng phải phát rét.
Ông anh rể tôi tên là Yêm, anh ông tên là Uông, bố tên Am, tên cả nhà: Am Uông Yêm nghe cứ như bản nhạc ếch nhái kêu ngày mưa đầu mùa dưới ruộng vậy.
Ngôn ngữ người di cư hồi đó cũng khó hiểu: Cái thước thăng bằng của thợ nề họ kêu là cái Li-vô (level), cái gào mên ăn cơm của lính họ gọi là cái Lập-là (plate): Tôi vào khoá 69A Hoa tiêu th́ họ gọi là Lái Phi Công!!!
Gần nhà tôi có ông hàng xóm tốt bụng nhưng coi bộ ông ganh với má tôi lắm, chỉ v́ bà là đàn bà goá mà dám có đứa con "Bay được lên giời".
Thỉnh thoảng để tự an ủi hay để an phận, ông thở dài nói: - Bay lên giời! Kinh bỏ mẹ!
Nếu có ai hỏi tôi bay bổng ra sao, tôi thường cười rồi lập lại câu nói ngày xưa của ông: Kinh bỏ mẹ.
Thực ra đời bay bổng, kể cả đi bay lẫn đi máy bay có những cái vui, nhưng cũng có những nỗi lo sợ ít ai chối căi được.
Tính tôi nhát cáy, mà sao ông trời cứ cho tôi gặp những sự bủn rủn tay chân. Hôm chở ông Tư lịnh Sư đoàn từ Tân Uyên sang Lai Khê họp, mới qua khoảng Bố Lá th́ trần mây thấp quá nên phi cơ chỉ bay cao khoảng 1000 bộ, đạn VC nổ như bắp rang dọc theo một tuyến thật dài cả cây số. Ngài Tư Lịnh hoảng quá vội lấy tấm bản đồ hành quân che lên mặt để .. tránh đạn!
Thử hỏi gặp cảnh như thế bố thằng nào lại không sợ. Nhất là khi đáp xuống Lai Khê kiểm lại: Thân tàu lănh hơn 10 lỗ đạn.
Đi hành quân Kampuchia, gồm 1 C&C, 2 gunships, và 4 slicks khởi hành từ Biên Hoà trực chỉ Tây Ninh. Ông C&C muốn dẫn bầy rồng rồng đi le gái nên dơng dạc ra lệnh:
- Bay theo quốc lộ cho an toàn.
Một hợp đoàn gồm bảy chiếc bay rà rà sát mặt đường, thỉnh thoảng lơ xe đ̣ nh́n lên có vẻ ngưỡng mộ lắm.
Ngang Trảng Bàng, chiếc Lead la lên: - Sương mù nhiều quá. Ê! C&C làm sao bây giờ??
- Lead cứ bay tới; thằng một quẹo trái; thằng hai quẹo phải; trail bốc lên cao.
Gunships bay sau la hoảng: - Tụi tao kè hai bên, thằng nào quẹo, tao húc!!
Tôi bay trail (chiếc cuối cùng) nghe thế hồn phi phách tán, bèn bốc tít lên tận trời xanh, mặc cho sương mù dầy đặc..
Khoảng hai phút sau, văng ra được một lỗ mây, to hơn cái dạng háng của thím Tư Năi, mừng thầm. Bỗng thấy một chiếc UH từ cụm mây bên kia bay cái vèo bên hông và lủi tuốt vào vùng mây khói âm u.
Trong cảnh này có ai dám nói là ḿnh không sợ??
Chàng Xạ thủ ngồi đằng sau, đái ra chiếc "Phi bào" sau khi kêu lên được một câu:
- Chúa ơi!
Nhờ vận số hên, (hồi đó tôi cứ tưởng là do tài bay bổng của ḿnh) bốn Tề Thiên tụi tôi cũng đằng vân lên được bên trên mây, có điều không thằng nào đoán nổi là núi Bà Đen nó nằm ở chỗ nào phía dưới.
Sợ cảnh "Đi không ai t́m xác rơi" nên chiếc UH cứ bay ṿng ṿng trên mây hoài. Khốn nỗi là xăng có hạn, làm sao bây giờ?
Chúa ơi! Nếu có thiêng th́ cho người đi kiếm xác bọn con, trước sau ǵ con cũng phải đục mây chui xuống. Tôi chuẩn bị làm một kỳ công tối kỵ của ngành phi hành: Chui mây.
Có lẽ lời cầu được Chúa thông cảm v́:
Dù sao th́ chúa cũng
Một thời làm trai tơ
Dù sao th́ chúa cũng
Là đàn ông dại khờ
(Thơ trích)
Sau một hồi vật lộn với mây, bọn tôi cũng xuống được đất an toàn.
Anh chàng Xạ thủ nói: - Vợ em nó bảo Giời vật em cũng không chết. Thiêng thật!
Những chuyện như thế, không gọi là sợ th́ gọi là ǵ?
****
Sang Mỹ, mỗi lần có dịp đi máy bay, tôi hay lén nh́n ra phi đạo xem chiếc phi cơ chở ḿnh có mở nắp ca bô lên không, v́ theo kinh nghiệm ngoài xa lộ, cứ chiếc nào có cái hood mở lên là y như rằng chết máy.
Đúng ra mấy hăng máy bay Mỹ, nếu thấy phi cơ không đủ tiêu chuẩn cất cánh th́ cũng nên lôi vào chỗ kín kín mà sửa, đừng để cho khách thấy, nếu sợ tốn th́ giờ th́ cứ bay đại đi rồi tính sau.
Chuyện bay đại ở VN th́ Kỹ Thuật KQ làm là thường.
Tôi nhớ có lần hành quân ở Chơn Thành, cái đèn Chip Detector báo đỏ, phải gọi Kỹ Thuật Biên Hoà lên sửa, ông Thượng Sĩ già ung dung trèo lên pḥng lái, nhẹ nhàng rút chiếc cầu ch́ ra cho đèn tắt rồi bảo:
- Trung uư cứ bay về đi.
Tôi cự lại, th́ ông nói máy bay này chỉ bị mát, chứ không có hư và để bảo đảm lời nói của ḿnh, ông sẽ leo lên bay về chung với tôi. Ông ta c̣n giải thích:
-Điện có mát th́ chỉ cháy thôi, chứ không nổ trên trời như khi có mạt sắt trong máy.
Về VN năm nào, nhớ lại nghề bay bổng nên cứ mỗi lần nh́n thấy phi cơ trên trời là ḷng tôi lại thấy nao nao. Tôi hỏi thằng em ruột: - Rạch Giá đi Sài G̣n, thuê xe hơn hay mua vé máy bay hơn?
- Máy bay hết 45 phút, xe chạy hết bốn tiếng, tiền thuê xe bằng tiền mua vé máy bay.
Tôi quyết định đi máy bay của Nga cho biết với người ta.
Sáng thứ tư tôi chuẩn bị cho thằng em đưa ra phi trường Rạch Sỏi để đi Sài G̣n, nó nói:
- Không biết hôm nay có máy bay không.
- Sao mày nói nó bay mỗi thứ tư và thứ bảy?
-Ừ, đó là chương tŕnh, c̣n nó bay hay không th́ chưa biết.
Chờ ở phi trường chừng nửa tiếng th́ chiếc phi cơ khá lớn đáp xuống phi đạo. Tôi làm thủ tục lên tàu, vé mang số 5 ở tuốt hàng đầu, thiên hạ chen nhau lên trước nên khi tôi lên đến nơi th́ không c̣n chỗ. Cô tiếp viên nói gia đ́nh họ đi có đoàn, tôi đành nhường chỗ và theo cô xuống phía dưới..
Cô khá xinh, chỉ cho tôi vịn vào chiếc cột nhôm gần đuôi chiếc máy bay để cô xếp chỗ.
Một lúc sau viên phi công hầm hầm đi xuống từ pḥng lái, cự nự: - Các cô làm ăn thế này th́ chết cả lũ.
Một cô mặc áo màu xanh, nhân viên pḥng vé dưới đất (hồi xưa Tiếp viên Hàng không đi bay th́ mặc áo màu xanh, c̣n bây giờ họ lại đổi màu hồng) năn nỉ:
- Anh Ba thông cảm cho em chuyến này, chuyến sau em làm tốt hơn.
- Chuyến sau! Chuyến sau! Quá tải có ngày chết cả lũ.
Viên phi công hậm hực trở lên pḥng lái, chiếc phi cơ gầm lên lao nhanh trên phi đạo rồi rời khỏi mặt đất.
Tôi nh́n qua cửa máy bay, sống lại cảm giác hồi ḿnh c̣n ở trong Không Quân, bay liên lạc đáp xuống phi trường Rạch Sỏi này. Có khác chăng là ngày xưa th́ ngồi, c̣n bây giờ th́ đứng ôm chiếc cột trong thân tàu.
Chuyện phi cơ quá tải ở VN là thường, tôi đă từng chở 18 người từ An Lộc về Lai Khê, trong khi UH chỉ có 9 chỗ ngồi mà có sao đâu.
Phi cơ không về SG ngay mà lại ra Phú Quốc. Lỗi này là tại tôi không đọc kỹ vé. Hàng Không Dân Dụng có ghi rơ tuyến đường là: HCM-Phú Quốc-Rạch Giá-Phú Quốc-HCM. Có nghĩa là máy bay từ SG ra tới Phú Quốc đổ khách, bốc khách về Rạch Giá, đưa khách từ Rạch Giá ra Phú Quốc rồi mới ṿng về SG.
Không đọc kỹ vé th́ không kêu ca vào đâu được. Có điều bay từ Rạch Giá ra Phú Quốc th́ được free, cho dù là đứng hay ngồi.
Tôi cũng chẳng phàn nàn ǵ về cái ghế trên phi cơ, v́ cô tiếp viên cũng ôm chặt cái cột khi máy bay cất cánh như tôi. Tôi hỏi:
- Cô bay tuyến này khá không?
- Chả có ǵ đâu anh ạ, bay tuyến quốc ngoại mới ăn, nhưng đỡ hơn bay tuyến ngoài Bắc.
- Sao thế??
- Tuyến ngoài Bắc khách cứng đầu lắm, nói thế nào cũng chẳng chịu nghe.
Cô ta làm tôi nhớ tới một ông "Bắc Kỳ Di Cư", y hệt tôi đi trên chuyến Hồng Kông - Sài g̣n trước đây một tuần. Trời SG tháng bảy nóng như đổ lửa mà ông mặc bộ com lê đầy đủ. Khi chuyển máy bay ở Hồng Kông, ông ngồi lộn ghế, tiếp viên năn nỉ thế nào cũng không chịu đứng lên, cuối cùng cô tiếp viên đành chào thua để ông ngồi lỳ ở đó. Lát sau ông quay qua phía tôi phân bua:
- Cứ tưởng ông như nhà quê mà bắt nạt. Mẹ, ông mua vé th́ ông muốn ngồi đâu ông ngồi chứ!
Tôi hy vọng ra đến Phú Quốc sẽ có chỗ ngồi, tôi lại lầm v́ có lẽ VN đang trên đà đổi mới nên làm ăn khấm khá, tuyến nào cũng đầy khách.
Tôi lại đành làm anh hùng đứng ôm cột với cô tiếp viên như khi c̣n nhỏ chơi Thả Đỉa Ba Ba vậy.
Khi phi cơ trở ra cuối phi đạo để cất cánh, tôi ḍm ra thấy có hai viên công an chạy hai chiếc Honda kề bên hông nên hỏi:
- Họ làm ǵ vậy?
Cô giải thích:
- Họ chạy theo để chặn ḅ. Đôi khi phi cơ cất cánh, mà ḅ chạy ra trên phi đạo th́ cũng có... vấn đề đấy.
Tôi hỏi ḅ của ai mà vào được cả trong phi trường, cô trả lời không biết, chắc là của Công an.
Khi đáp xuống Tân Sơn Nhứt tôi mới khám phá ra một sự lạ nữa, là không phải chỉ có tôi và cô tiếp viên không có ghế, mà ở tuốt trên hàng ghế đầu, đặt nằm dưới sàn có một cái băng ca, trên đó nằm đưỡn đừ một bệnh nhân đang thiêm thiếp. Có lẽ ông này được khiêng lên ở Phú Quốc lúc tôi ngồi trong pḥng đợi.
Người ta khiêng ông xuống và chiếc băng ca được đặt nằm trên mặt đất ngoài phi đạo thi gan cùng nắng gió và bụi, h́nh như chờ xe thuê bao đến chở đi nhà thương.
Vị chi chuyến này có ba người ngồi ghế SÚP, y hệt lơ xe đ̣ ngày xưa ráng nhét hành khách vào giữa hai hàng ghế!!
Tôi rời nhà lúc 7g sáng, phi cơ đáp Tân Sơn Nhứt khoảng 12g trưa, vậy là khoảng 5 tiếng đồng hồ. Lâu hơn đi xe, có điều là được đi một đoạn miễn phí và học hỏi được đôi điều thú vị.
Mấy hôm sau, gặp lại thằng em ở SG, nó hỏi: - Anh đi máy bay Nga có sướng không?
Tôi cười như mếu: - Kinh bỏ mẹ!!!
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Bất cứ ai đă một thời ca bài “Ta đi ṭng quân” đều không thể nào quên được đời lính. Trong đời lính, dù là lính già hay lính trẻ đều mặc bộ đồ trận, vui buồn theo tiếng kèn đồng đếm nhịp thời gian. Và một trong những món hành trang cần thiết thân yêu của người lính ngoài cây súng nhân t́nh, phải kể đến thành phần quân quân dụng này: Ấy là chiếc Poncho. Nhà binh gọi là “Pông Xô”.
Về h́nh thức, nó lớn bằng chiếc chiếu, mầu xanh cứt ngựa, làm bằng vải pha nylon gọi là vải ngụy trang, bốn cạnh chung quanh có lỗ, có khuy bấm bằng sắt.Chính giữa có một cái lỗ chui đầu làm thành cái mũ che, có giây buộc đàng hoàng.
Về nội dung, Poncho có công dụng chính là làm cái áo đi mưa. Khi trời bắt đầu nổi cơn mưa gió, người lính chỉ việc mở chiếc Poncho ra chui đầu vào giữa, đội nón là xong. Phần c̣n lại của Poncho nó lùng tùng x̣e quanh cổ, quanh vai, quanh người che chở từ súng đạn đến ba-lô rất ư kín đáo an toàn.
Nó dản dị đơn sơ như thế nhưng công dụng th́ lại vô cùng đa diện. Đến ngay người sáng chế ra nó cũng không thể nào ngờ rằng Poncho được dùng trong nhiều việc như thế.
Với chiếc áo đi mưa nhà binh – Poncho - mắc vào cành cây có thể làm chỗ che nắng che mưa khi canh gác một ḿnh. Với hai chiếc Poncho ghép lại có thể thành một lều cho hai quân nhân tá túc. Với 4, 6 hoặc 8, 10 Poncho, dùng cọc dă chiến nối lại cho dài, dùng giây ghép Poncho cho kín là có một lều cho cấp tiểu đội, nom rất tư cách.
Khi quân ta sang sông trong một chiều hành quân, Poncho có công dụng như phép lạ. Nếu không có chuyến đ̣ vĩ tuyến chuyển quân, nếu không có giây đu bắc ngang ḍng nước ngược, nếu không có chiếc cầu khỉ, cầu treo... th́ nhất định người chiến sĩ phải dùng đến chiếc Poncho làm phao di chuyển.
Mở rộng chiếc Poncho ra, túm chặt lỗ chui đầu lại, bao nhiêu ba lô đạn dược tập trung vào đó. Xong bỏ vài cành cây khô cho cồng kềnh, gấp Poncho lại theo kỹ thuật nhà binh làm sao cho kín mít, nước không lọt, thắt giây xong là Poncho chẳng khác ǵ một chiếc phao. Thả Poncho xuống nước, gác súng trên Poncho, người lính ôm cái phao cá nhân tà tà sang sông rất là đẹp mắt.
Ngoài công dụng che nắng che mưa, làm phao nổi, lều cá nhân, lều tập thể, Poncho c̣n dùng làm chiếu, làm nệm, có khi làm vơng.
Trong các trại gia binh, anh em ở dưới mái nhà tôn nóng như ḷ bánh ḿ th́ lại có sáng kiến dùng Poncho làm trần làm vách cho vợ con đỡ được đôi ba phần nắng nôi gió máy.
C̣n các cấp chỉ huy ở nhà gạch mái ngói không cần đến Poncho làm trần nhưng nhiều vị có sáng kiến lấy Poncho may thành chiếc bạt phủ xe nhà cho khỏi bụi bậm, đỡ trầy nước sơn.
Những nhà dân giả, nhà binh, nhà quê thiếu ống máng hứng nước mưa th́ Poncho là cái phễu vĩ đại, hết sẩy!
Poncho cũng lan tràn đến cả chợ búa. Từ xa trông cảnh chợ, xanh xanh một mầu cả trăm chiếc Poncho giăng mắc la liệt khắp nơi, nom tưởng như một tiểu đoàn đóng quân vậy. Lại gần mới thấy Poncho làm mái che cho hàng cá, hàng thịt, hàng rau, hàng quà, quán nhậu, hủ tíu ḅ viên, bún riêu bún ốc.
Poncho cũng di chuyển cùng chiều với các bạn đạp xích lô, kéo xe thồ, lái xích lô máy. Một chiéc Poncho thôi là đủ may chiếc áo mưa, vừa che đầu, che thân tới nữa người, gọn gàng và bền bỉ.
Poncho được chiếu cố tận t́nh như thế cho nên mức độ tiếp liệu dù cao, dù đúng hạn, dù mau lẹ vẫn không thỏa măn được nhu cầu của quân đội và dân sự.
Các binh đoàn tiếp nhận xong, nhập kho, phân phối là Poncho đă chuẩn bị tan hàng. Một phần về đơn vị, một phần vào các khu dân sinh, chợ Kim Biên, chợ cũ, chợ Ông Tạ...
Tại các tỉnh, các quận, t́nh trạng Poncho cũng tương tự như rứa.
Poncho chẳng những phổ biến rộng răi, đa dụng trong t́nh quân dân cá nước mà c̣n đóng một vai tṛ quan trọng tại các quân trường.
Ai đă một thời nhập trại Quang Trung, Đồng Đế, Thủ Đức mà không nhớ nhung kỷ niệm quân trường những ngày gió mưa tàm tă. Buổi sáng tinh mơ tập họp trung đội, đại đội, tiểu đoàn mà nhằm ngày trời mây u ám gió cuốn tả tơi hoa lá th́ anh em rất là một sự lục xục, lộn xộn, lạo xạo. Ai cũng nón sắt đội đầu Poncho chùm thân, đi đứng lù đù.
Khi anh em đi băi về trong buổi chiều mưa, từng trung đội lạch bạch bùn đất, hàng ngũ trật tự nhưng không mấy chỉnh tề. Nếu có người yêu nào đó đứng chờ, t́m kiếm người t́nh giữa chốn ba quân th́ có mà như đá vọng phu vẫn hoài công đứng đợi. Bởi cả trăm người lính xùm xụp Poncho trong hàng quân như thế, làm sao nhận ra được ai là người yêu của lính? Thế là hoa lạc giữa rừng gươm.
Nhưng bù vào những cái bất tiện như rứa, Poncho cũng có lúc trở thành một ngụi bạn tâm phúc, đắc dụng.
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, quân trường nào cũng đầy ắp thân nhân bạn bè vào thăm tân binh, sinh viên sĩ quan. Ngoại trừ những ai được đi phép đặc biệt như chim sổ lồng, c̣n th́ đa số nằm trong trại chờ người nhà đến thăm viếng.
Cái cảnh đồng bào ta lái xe nhà, đi xe đ̣, chạy Honda, Vespa, Lambretta, gắn máy đi thăm lính thật là ồn ào náo nhiệt.
Quà bánh th́ nào là bánh ḿ, bánh bao, bánh ngọt, lạp xường xúc xích, cam táo chôm chôm ổi mận trái cóc, sữa Guigoz, Similac...Có người đem khăn mặt, bàn chải đánh răng, xà bông, thuốc lá,dầu cù là, dầu thơm...
Tất cả cho lính!
Rồi người ta kéo nhau tấp nập vào cổng trường, ghi tên lấy thẻ, qua trạm kiểm soát rồi là coi như thong thả tới địa điểm dành cho từng đơn vị.
Về phía lính th́ cả tuần tập tành, “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, chỉ ŕnh mong đến cuối tuần để được đón gia đ́nh, bè bạn vào thăm viếng nên chuẩn bị rất ư là kỹ lưỡng. Có điều giống nhau, chả ai bảo ai, ai cũng cặp kè chiếc Poncho ra khu tiếp tân ngóng đợi thân nhân.
Thành phần thân nhân được phân định làm nhiều giới.
Giới cổ điển là các ông bô bà bô đi thăm con th́ được ngay anh tân binh hay sinh viên sĩ quan mời các cụ vào câu lạc bộ nghỉ đỡ chân. Nếu câu lạc bọ hết chỗ th́ mời hai cụ quá bộ ra cạnh quán, trải chiếc Poncho là tạm xong phần nghênh tiếp. Bố con, mẹ con rủ rỉ chuyện tṛ, ăn uống lai rai cho đến hết giờ thăm viếng.
Giới thứ nh́ là giới bán cổ điển với bầu đoàn thê tử đi thăm chồng vào lính trễ. Giới này thường trải Poncho dưới tàng cây cao bóng mát hoặc ở trong các khu tiếp tân tập thể, vợ chồng con cái đ́u íu, chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con cái học hành, chuyện làm ăn buôn bán, chuyện hàng xóm láng tỏi, ồn ào như chợ Bến Thành hay chợ Cầu Ông Lănh.
Giới thứ ba là giới độc thân, toàn đàn ông con trai đi thăm con trai mà thôi. Giới này thường tụ tập tại câu lạc bo nhậu nhẹt tán dóc. Xong cái màn đó, các cậu lại rủ nhau ra lề đường, ngồi trên Poncho ngắm các em gái hậu phương đi thăm chiến sĩ, với lời bàn Mao Tôn Cương rất ác liệt.
Giới thứ tư là giới cô đơn, gồm những anh không có người nhà đến thăm, ôm chiếc Poncho đi ḷng ṿng khắp khu tiếp tân, ngong ngóng một chuyện ǵ như thể sắp xẩy ra mà lại mơ hồ như có như không mới khổ!
Giới thứ năm là giới chiến thuật mà mỗi người là một chiến thuật gia. Giới này thường chuẩn bị rất kỹ, nghiên cứu địa h́nh địa vật và lựa chọn điểm đóng quân thật sớm. Thông thường, các vị trí này cách xa khu tiếp tân, xa các khu ồn ào nhiều kẻ qua người lại.
Họ lựa chọn chỗ vắng vẻ kín đáo, có tí mô đất, có tí cành cây để giăng chiếcPoncho hững hờ lơ lửng. Tuy chiếc Poncho nom ra vẻ lụp xụp, thiếu mỹ thuật thật đấy nhưng lại chứa đựng tất cả những ǵ gọi là nghệ thuật tinh vi và khoa học hiện đại. Giới chiến thuật này thường có đối tượng là người yêu của lính!
Khi những chiếc Poncho xanh mầu lá cây rừng rải rác vô trật tự họp lại mí nhau thành một chiến tuyến th́ dưới những mái Poncho là những cặp t́nh nhân đang tỉ tê quyến luyến, thề non hẹn biển...
Thời gian lặng lẽ một ḍng tưởng chừng buồn tênh mà hóa ra sống động, vùn vụt như ma đuổi. Cho đến khi lá hoa về chiều, lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa, các đôi lứa lại càng quyến luyến xoắn xuưt lấy nhau như sam, như chẳng muốn rời.
Nhất là vào những buổi chiều có tí gió mưa th́ lại càng làm cho ḷng người thêm mưa gió.
Mây trời hạ thấp, những giọt mưa nho nhỏ rơi đều trên Poncho trong làn gió thoảng, đủ làm cho Poncho hạ thấp xuống một chút xíu nữa, như che gió che mưa cho cặp t́nh nhân tạm quên đi thế giới bên ngoài.
Chỉ thấy những mái Poncho lay động, bập bềnh, ngả nghiêng vội vă, trong khi ngoài kia tiếng kèn thu quân đang dục giă liên hồi...
Cuộc hẹn ḥ nào rồi cũng chia xa.
Giới chiến thuật là đơn vị giải tán thành phần cơ hữu sau cùng, vơ vội ôm quàng chiếc Poncho ù té chạy về doanh trại.
Để rồi người lính quân trường lại có những ngày chờ ngày đợi ngày mong. Mong sao cho chóng đến cuói tuần, cặp kè chiếc Poncho với nỗi ḷng nao nức, rạo rực thương yêu của tuổi hoa niên thời chinh chiến.
Như thế, quả nhiên chiếc Poncho đa dụng đa năng cho cả hai phía quân dân. Nó lại c̣n là một biểu tượng của đồng lơa, cho đời vẫn c̣n mầu hồng, c̣n một chút ǵ gọi chút dễ thương.
Và rơ ràng cụ thể nhất, nó chính là kỷ vật cho em
Nghĩ thế, một hôm nhớ về quân trường cũ, kẻ này gặp một cựu nữ sinh hoa khôi, mới khẽ hỏi xem nàng nghĩ thế nào về chiếc Poncho đối với tuổi trẻ ngày xưa?
Người đẹp bỗng nhiên má đỏ hồng hồng, mắt sáng trong trong, thỏ thẻ đáp rằng:
- Poncho! Poncho! Ồ, thật là kỳ diệu...
Hoang Pham
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Hẳn ai cũng biết: Không phải chỉ có giàu mới có ḷng thương người. Và cũng không phải chỉ có người giàu mới có hạnh phúc. Một nồi khoai tây hầm với nước xốt màu nâu óng ánh, một mái nhà che mưa nắng, những cái tách và dĩa bằng sành màu xanh trông khá là ḥa hợp, và một người chồng có việc làm tốt và chắc chắn…, chỉ chừng đó thôi, rất thực tế và cũng rất tầm thường, đă tạo nên cuộc sống hạnh phúc của một gia đ́nh.
Câu chuyện cảm động thuật lại sau đây, trích từ Chicken Soup for the Soul, sẽ nói với chúng ta rất nhiều về ư nghĩa của cuộc sống.
Hai đứa trẻ nép ḿnh vào sau cánh cửa để tránh gió lạnh. Áo quần chúng đều tả tơi.
– Bà có báo cũ không?
Lúc ấy, tôi đang bận. Tôi đă muốn nói không -chợt tôi nh́n xuống chân chúng. Những chiếc sandals mỏng manh đẫm mưa tuyết. “Các cháu vào trong này và bà sẽ làm cho các cháu một tách ca cao nóng.” Không nghe tiếng chúng nói chuyện. Những đôi sandals ướt nhẹp của chúng để lại dấu lấm trên nền đá trước ḷ sưởi.
Tôi đă dọn cho chúng ca cao nóng, bánh nướng với mứt để tăng sức cho chúng chống với cái lạnh bên ngoài. Sau đó tôi đi vào bếp và lại bắt đầu tính toán việc chi tiêu trong nhà
Xem thêm: Mối t́nh đầu
Sự im lặng trong căn pḥng trước làm tôi ngạc nhiên. Tôi nh́n vào. Con bé gái cầm cái tách không trên tay, và chăm chú nh́n. Thằng con trai hỏi bằng một giọng b́nh thản. “Thưa bà, bà có giàu không ạ?”
“Bà giàu hả? Ơn trời, không đâu!” Tôi nh́n vào cái tạp dề sờn cũ của ḿnh.
Con bé gái đặt cái tách vào lại trong dĩa, một cách cẩn thận. “Bộ tách của bà rất hợp với những cái dĩa.” Giọng nói của nó có vẻ người lớn, đượm chút ǵ đó như là ưa thích.
Sau đó hai đứa lại lên đường, lấy đống báo cũ che những cơn gió buốt. Chúng không nói lời cám ơn. Mà chúng cũng không cần nói nữa. Chúng đă bày tỏ hơn thế nhiều. Những cái tách cái dĩa sành màu xanh. Nhưng chúng hợp với nhau. Tôi nếm thử khoai và khuấy nước thịt. Khoai tây và nước thịt hầm màu nâu, một mái nhà trên đầu che mưa nắng, chồng có việc làm tốt, ổn định -tất cả những cái này cũng ḥa hợp với nhau đấy chứ.
Tôi dời những cái ghế ra xa ḷ sưởi và dọn dẹp lại pḥng khách. Những dấu sandals nhỏ bé lấm bùn vẫn c̣n dính trên nền đá ḷ sưởi. Tôi để nguyên như thế. Tôi muốn chúng vẫn c̣n đó để nhắc tôi nhớ rằng ḿnh giàu có biết bao.
Như Sao
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Từ nay trở đi Bác Tài cyclo sẽ "nhơng nhẽo" cho coi.
Cô du khách hồn nhiên dễ thương ghê. Trước kia ḿnh chỉ thấy mấy anh Mỹ trẻ lái cyclo cho bác tài ngồi chơi thôi, nay lại có mấy cô Tây Âu thích chơi b́nh dân không phân biệt giai cấp như Á Đông. Thấy bác xích lô già yếu, cô tây xung phong chở bác đi dạo phố Sài G̣n luôn!
H́nh ảnh hài hước và đáng yêu này được ghi lại trên một con phố Sài G̣n vắng vẻ.
H́nh ảnh du khách nước ngoài ngồi xích lô đă không c̣n xa lạ với chúng ta. Mới đây, một fanpage lớn đă đăng tải nhưng h́nh ảnh ghi lại cô tây đang đạp xích lô chở vị khách đặc biệt đang hút hồn cư dân mạng.
H́nh ảnh được ghi lại trên một con phố ở thành phố Sài gon
Đưa anh đi chơi xa trên con xe xích lô..Chỉ cần nắm thật chặt anh và em sẽ đi đến cuối con đường.
Mọi nẻo đường em hứa sẽ luôn mỉm cười.
Sau khi những h́nh ảnh hiếm gặp được đăng tải, rất nhiều dân mạng để lại b́nh luận.
"Dễ thương quá, chắc bác xích lô vui lắm".
"Khuôn mặt bác căng thẳng quá, chắc mọi ngày ngồi sau quen rồi, giờ ngồi trước không quen".
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Vụ chiếc UH-1 bị đánh cắp tại Đà Lạt năm 1973 Hồ Duy Hùng là ai?
Vụ chiếc trực thăng UH-1H mang số 60-139 của Phi đoàn 219 bị đánh cắp tại Đà Lạt năm 1973, trong Không Quân hầu như mọi người đều biết và dân chúng Sàig̣n cũng được đọc tin tức trên báo chí thời đó.
Kẻ đánh cắp chiếc trực thăng nói trên là Hồ Duy Hùng, cựu Thiếu Uư Không Quân VNCH, sau khi thụ huấn ở Hoa Kỳ trở về, bị An Ninh KQ khám phá có thân nhân đi theo địch nên tên Hùng đă bị sa thải khỏi Quân Đội. Sau này, bộ máy tuyên truyền của Việt cộng nói rằng Hùng là người của chúng được gài vào Không Quân VNCH để làm nội tuyến. Tuy nhiên đă có nhiều yếu tố khách quan cho thấy thoạt tiên Hùng chỉ là một tay bất măn, đánh cắp máy bay để trả thù việc ḿnh bị sa thải khỏi Quân Đội, để rồi măi về sau này trở thành một người hùng bất đắc dĩ của "Cách mạng"!
Để chứng minh cho lập luận nói trên, thiết nghĩ chúng tôi chỉ cần nêu ra hai sự kiện:
*Sự tuyên dương muộn màng:
Khác với Nguyễn Thành Trung - kẻ đă lái F-5 dội bom xuống Dinh Độc Lập, cũng như rất nhiều tên nội tuyến, nằm vùng khác đă được tô son trét phấn để tuyên dương sau ngày "Cách mạng thành công", Hồ Duy Hùng cho măi đến năm 2000 mới được báo chí "quốc doanh" ở Sàig̣n đề cập tới: Bán Nguyệt San Thanh Niên với bài: "Người hùng lặng lẽ", tờ Phụ Nữ Chủ Nhật với bài: "Vụ đánh cắp chiếc trực thăng UH-1...", và bài "Từ vụ án chiếc trực thăng UH-1" kéo dài 12 ngày trên một tờ báo nọ.
Nếu không kể tới những chi tiết "chửi cha nhau" trong ba bài báo nói trên, th́ độc giả được biết đại khái (theo lời kể của Đại tá Quân báo VC Lê Nam Hà và được phóng viên "xào nấu" laị) th́ Hồ Duy Hùng (bí danh là Chính), trước kia hoạt động trong phong trào sinh viên học sinh tại Quy Nhơn, sau Mậu Thân 1968 vào Sàig̣n và được Việt cộng móc nối kết nạp vào "Quân báo đặc khu Sàig̣n-Gia Định".
Sau khi đánh cắp chiếc trực thăng bay về "mật khu", Hùng và Nguyễn Tường Long, một cán bộ Không Quân VC được gửi tới để tháo gỡ chiếc trực thăng chuyển ra miền Bắc. Tại Sơn Tây hai người này ráp trở lại và bay thử thành công. Sau đó cả hai trở lại miền Nam hoạt động, c̣n chiếc trực thăng th́ được xử dụng trong viện huấn luyện phi công Bắc Việt.
Nguyễn Tường Long, nguyên là một kỹ sư gốc Việt kiều (cha Việt, mẹ Pháp) ở Lyon - Pháp; sau t́nh nguyện về nước tham gia "Cách mạng". Điều đáng lưu ư là khi các báo nói trên đồng loạt khai thác vụ "đánh cắp trực thăng" này th́ Nguyễn Tường Long đă chết. Từ đó đưa câu hỏi: phải chăng v́ "chiến sĩ quân báo Hồ Duy Hùng" chỉ là câu chuyện bịa đặt cho nên phải đợi tới lúc một trong hai vai chính về chầu "bác" th́ mới dám "phịa"?
Hỏi tức là trả lời. Và chỉ có câu trả lời đó mới có thể giải thích tại sao sau ngày 30/4/1975, CSVN không rầm rộ tuyên dương "người hùng" Hồ Duy Hùng mà phải đợi đến 15 năm sau? Xét về công trạng, việc "đánh cắp một chiếc trực thăng ngay trước mũi địch rồi chuyển ra miền Bắc" (nguyên văn trên báo VC) của Hồ Duy Hùng nếu không hơn th́ cũng phải bằng vụ dội bom Dinh Độc Lập của Nguyễn Thành Trung!
Hiện nay "đồng chí" Hồ Duy Hùng đang giữ một chức vụ khiêm nhượng: Giám Đốc Công Ty Du Lịch Phú Thọ!
* Bị pḥng không Việt Cộng bắn:
Theo lời kể của Đại tá Quân báo VC Lê Nam Hà th́ việc Hồ Duy Hùng đánh cắp trực thăng bay về đáp ở đồn điền cao su Dầu Tiếng, thuộc mật khu Lộc Ninh là "nằm trong kế hoạch", và các đơn vị địa phương đă được Bộ chỉ huy Miền thông báo trước để chuẩn bị đón "người chiến sĩ phi công anh hùng". Thế nhưng trên thực tế th́...
"Thấy máy bay địch bay về căn cứ của ta, các chiến sĩ giải phóng bắn lên. Máy bay bị trúng nhiều vết đạn nhưng ghế ngồi của phi công có tấm chắn pḥng đạn nên ông Hồ Duy Hùng không bị thương. Ông hạ thấp độ bay pḥng đạn và đă đáp xuống rất chính xác trong một băi không rộng lắm dưới rừng cao su." (Nguyên văn trên báo Thanh Niên).
Theo báo Phụ Nữ Chủ Nhật th́ lúc đó Hùng liên lạc với điện đài đơn vị (của VC) không được là v́ "đồng chí trực điện đài đột ngột bỏ đi uống nước"!!!
Tác giả hai bài báo nói trên - Mạc Đại và Nguyễn Phương Thảo - cho biết họ viết " theo lời kể của Đại tá Nguyễn Nam Hà - nguyên phó giám đốc Quân báo Sàig̣n & Gia Định và đồng chí Hồ Duy Hùng tức Chính", nhưng giữa hai bài báo đă có nhiều chi tiết mâu thuẫn tới mức không thể chấp nhận. Chẳng hạn, trong khi Mạc Đại của báo Thanh Niên viết rằng chiếc UH-1 nói bị trúng đạn, sau khi được tháo gỡ, vận chuyển ra phi trường Ḥa Lạc ở Sơn Tây (miền Bắc) th́ "Từ Hà Nội, Trung đoàn Không Quân Vận Tải đă phải điều tới một xe công tŕnh có đủ phương tiện sửa chữa và một toán cơ khí...", th́ Nguyễn Phương Thảo của báo Phụ Nữ lại viết "... Sau khi kiểm tra chiếc máy bay, Ban Quân Báo tiếp tục phân công Chính (H.D.Hùng) nhiệm vụ mới là dùng máy bay mang bom thả vào Dinh Độc Lập đúng vào 9 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1974 là ngày mà Thiệu và nội các tụ tập đón mừng năm mới. Bom đă được đặt làm, Chính cũng đă chuẩn bị các phương tiện kỹ thuật để thực hiện nhiệm vụ. Nhưng đến giờ phút chót, cấp trên đề nghị hủy bỏ kế hoạch này và thay vào đó là một nhiệm vụ khác" (tháo gỡ để mang về Bắc).
Việc để "mất cắp" một chiếc phi cơ để cuối cùng lọt vào tay địch là một việc đáng trách - và rất đáng buồn khi người chịu trách nhiệm lại là một trong những cấp chỉ huy đáng kính phục nhất là trong ngành trực thăng - Cố Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa. Tuy nhiên Lư Tưởng Úc Châu nhắc lại chuyện cũ không với mục đích chê trách người đă khuất mà chỉ để mọi người được biết rơ về một biến cố trong quân chủng (cũng như số phận của chiếc trực thăng mang số đuôi 60-139) - hiện đang được các nhà báo của chế độ CSVN thêu dệt và khai thác - một cách trâng tráo và rẻ tiền.
Tiếp theo chúng tôi xin giới thiệu tới chiến hữu KQ và độc giả bài tường thuật của một người trong cuộc, đó là anh cơ phi Phạm Minh Mẫn của chiếc trực thăng trong phi vụ nói trên.
_________________
Vụ mất máy bay trực thăng UH-1 số 60139 - Ngày 7 tháng 11 năm 1973
MINH MẪN, Cơ Phi PĐ 219
Sáng sớm ngày 6 tháng 11 năm 1973, Thiếu Tá Huỳnh Xuân Thu gặp tôi và nói "Chú về sửa soạn đi bay Quảng Đức ngay, nhớ mang theo đồ ngủ đêm". Tôi chộp vội bộ đồ nhái, cái mền dù và trang bị vệ sinh cá nhân cùng một bộ Domino, sau đó tôi theo Anh Thu và Trung Tá Nguyễn Văn Nghiă (Phi đoàn trưởng) ra kiểm tàu số đuôi 139 để bay đi Quảng Đức thăm biệt đội đang biệt phái tại đây.
Trung tá Nguyễn Văn Nghĩa đang được gắn cập bậc mới trong ngày vinh thăng (1973). Sau năm 1975, ông bỏ ḿnh trong trại cải tạo ở miền Bắc
Khi đến nơi, Chi khu trưởng thuộc tiểu Khu Phú Bổn tiếp đón rất niềm nở, pḥng nghỉ của biệt đội và chi khu gần nhau nhưng lại xa sân bay: từ sân bay qua một con phố, xuống dốc rồi lại ṿng lên nơi nghỉ ngơi của Biệt Đội 219. Khí hậu ở đây ban ngày th́ rất nóng nực nhưng ban đêm lại lạnh vô cùng v́ chung quanh toàn là núi đá.
Anh Nghiă và Anh Thu đi thăm từng nơi ở và làm việc của Biệt Đội, hỏi thăm t́nh h́nh cuộc sống ăn ở của anh em, sau đó anh muốn ở lại đêm để khích lệ tinh thần anh em. Chiều xuống, cái giá lạnh bắt đầu và rất buồn tẻ. Phố xá không có sự nhộn nhịp, người ta tụ tập ở nhà không muốn ra ngoài đường và trời càng lúc càng tối chỉ leo lét những bóng đèn vàng ố không đủ thắp sáng một căn pḥng, v́ vậy anh em biệt đội chỉ ngồi bù khú trong giây lát rồi tất cả đi ngủ. Nơi đây không có gường, chỉ có ghế bố xếp nhà binh và có đôi khi anh em phải ngủ chung một ghế bố v́ không có đủ; cũng may v́ trời lạnh nên ngủ chung cũng không đến nỗi khó chịu.
Khoảng 10 giờ đêm, khi mọi người đă ngủ th́ Chi Khu xuống báo địch quân hăm đánh vào chi khu và sân bay. Thế là toàn bộ anh em ra ứng chiến tại sân bay. Tất cả mở máy kiểm tra t́nh trạng phi cơ rồi tắt máy nghe Trung Tá Nghiă hướng dẫn bản đồ và phương hướng bay trong trường hợp chi khu bị overrun, sau đó ai nấy về tàu. C̣n lại ba thầy tṛ chúng tôi trong tàu và một phi công nữa tôi quên tên ngồi chơi Domino, cứ chơi như vậy cho đến sáng. Ban đầu th́ tôi thắng nhưng đến gần sáng th́ Anh Nghiă gom sạch.
Sáng sớm hôm sau chúng tôi bay trở về Nha Trang, bay một đoạn Anh Nghiă nói " Thu, chú bay thử vào đám mây kia xem". Anh Thu bay vào khoảng 5 phút, Anh Nghiă bay ra lại và nói "Chú không chịu khó bay instrument, bay ǵ mà kỳ dzậy?". Rồi Anh Nghiă lại nói Anh Thu bay vào trong mây, rồi Anh Nghiă lại bay ra, mây mỏng cứ lấp phất lướt qua phi cơ. Sau đó Anh Nghiă lại nói Anh Thu bay vào cụm mây dầy kia thử xem, rồi càng lúc máy bay càng vào sâu trong mây, mây mỗi lúc một sậm lại, lúc này Anh Nghiă cầm control và anh nói huyên thuyên đủ thứ chuyện trên đời. Anh hỏi tôi:"Mẫn, chú thấy mây thế nào, mây màu ǵ kia?". Tôi lưỡng lự nh́n vào mây trước mặt và nói "Tôi thấy mây màu Hồng Trung Tá!". Anh Nghiă phá lên cười "Trời ơi! Thằng này Vertical quá rồi (ư nói Vertigo), cho chú cầm cần lái chắc chết hết anh em". Rồi anh quay sang Anh Thu cũng hỏi mây màu ǵ và anh cứ nói, chỉ dạy lung tung trong khi anh cứ tiếp tục bay trong mây, 15, 20, rồi 30 phút, anh vẫn b́nh tĩnh bay, phi cơ êm ru.
Gần một tiếng đồng hồ sau, Anh Nghiă thấy cây lờ mờ phía dưới, hỏi Anh Thu "Chú biết ḿnh bay tới đâu rồi không?", Anh Thu chưa kịp đáp th́ Anh Nghiă đă chỉ con đường ở phiá dưới nói là Đơn Dương. Anh theo con đường đó bay đến Đà Lạt với ư định thăm một nhân viên phi hành của 219 đang nghỉ dưỡng thương tại đây. Lúc 9 giờ sáng, phi cơ đáp xuống bờ hồ Xuân Hương bên cạnh nhà hàng Thủy Tạ, tôi cất hành trang của tôi vào sau tail cone, ngay chỗ oil cooler fan. Sau đó ba thầy tṛ đi vào tiểu khu Tuyên Đức nhờ gởi phi cơ nhưng không gặp ALO, đại diện không quân ở đó, định bay vào sân bay Cam Ly nhưng từ đó lại không có phương tiện ra thành phố, hơn nữa lúc đó thời tiết quá xấu, bay vào đáp ở trung tâm Đà Lạt là đă giỏi lắm rồi. Chúng tôi trở lại máy bay, sau đó Anh Nghiă rủ lên nhà hàng Mekong uống cà phê và ăn sáng. Tôi xin Anh Nghiă cho về nhà v́ nhà Bác tôi ở đối diện với cửa sau bên hông nhà hàng Mékong, thấy ngay sát bên, Anh Nghiă đồng ư cho tôi về nhà, hẹn khi nào về th́ hai anh sẽ đến gọi.
Tôi ở nhà chơi và chờ các anh gọi bay về Nha Trang, nhưng măi đến 1 giờ rưỡi trưa vẫn không thấy các anh đến gọi. Tôi chạy sang nhà hàng Mékong th́ không thấy các anh đâu, Sau đó tôi nhờ Bác tôi chở ra nhà hàng Thủy Tạ chỗ đậu phi cơ, khi ra đến nơi th́ không thấy phi cơ đâu cả, chạy qua sân vận động gần đó cũng không thấy. Tôi nghĩ chắc Anh Nghiă và Anh Thu đă bay về Nha Trang mà quên gọi tôi rồi, hay là không lẽ Trung Tá lại đến nhà Thượng Sĩ gọi đi bay?... Các câu hỏi chỉ quanh quẩn vào những điều vô lư đó, và tôi lại lo thêm nữa là khi Anh Nghiă và Anh Thu bay về th́ đồ đạc của tôi dấu vào sau chỗ oil cooler fan lỡ cái mền dù hay bộ đồ nhái nó rơi ra và bị hút vào trong cánh quạt của oil cooler th́ khổ! Rồi thắc mắc và lo âu cứ như thế dồn dập, rồi cái túi đựng helmet đă kép phẹc-mơ-tuya chưa?...Thật t́nh lúc đó tôi rất lo sợ, không sợ Anh Nghiă la rầy mà sợ lỡ phi cơ có bị ǵ th́ sao? Hai anh có sao không?
Tôi quay ngay ra bến xe đ̣ mua vé trở về Nha Trang, dọc đường tôi rất lo lắng và mệt mỏi, rồi gục trên ghế trước ngủ thiếp đi, lát sau giật ḿnh thấy có người nắm tay tôi, tỉnh lại thấy tay ḿnh để trên đùi cô gái ngồi bên cạnh, cô cầm tay tôi để nhẹ qua đùi tôi. Tôi quê quá, vội vàng xin lỗi cô, cô nói thấy tôi có vẻ bồn chồn lo lắng. Cô gái cởi mở và thật có duyên với đôi răng khểnh dễ thương. Tôi quên hết mọ bồn chồn lo lắng, bắt đầu tấn công cô gái, suốt chặng đường chúng tôi đă quen nhau, khi về đến Nha Trang chúng tôi cùng đi ăn và Hường tên cô bé, đă cho tôi địa chỉ hẹn ngày hơm sau tôi sẽ đến t́m.
Khi về đến trại Hàm Tử khu gia binh của phi đoàn 219, lúc đó khoảng 7 giờ rưỡi tối, Hồng "già" chặn tôi lại hỏi: "Mày có biết ǵ không? Mày bay của mày bị mất cắp rồi", tôi chỉ cười v́ cho đây là lời đùa, và như vậy là Anh Nghiă, Anh Thu đă về rồi, tôi thấy yên trí hơn. Sau đó tôi gặp Trần Mạnh Khiêm, nó nói: "Mày về phi đoàn đi, máy bay bị mất rồi, để tao chở mày vô!". Mọi người đều nói một cách nghiêm trang như vậy nghiă là có thật. Lúc này tôi không c̣n hoang mang nữa, chẳng hiểu v́ sao, không thấy sợ, không thấy lo nghĩ, cứ dửng dưng như không có chuyện ǵ cả. Có lẽ v́ mấy chữ "mất máy bay" hay "mấy cắp máy bay" nó không có trong tự điển lưu trữ trong đầu tôi, thành ra đầu tôi cứ trống rỗng. Cũng có thể chỉ số thông minh của tôi thấp, không biết suy nghĩ và không biết phản ứng như thế nào, hoặc v́ tôi mệt lả cả người?...
Vừa về tới cửa pḥng trong trại Bắc B́nh Vương định lấy ch́a khoá mở cửa pḥng th́ có hai Trung Sĩ Không Quân ngồi trên xe Ford Pick-up chờ sẵn ở đó, họ lại chào và hỏi tôi:"Xin lỗi có phải Thượng Sĩ Mẫn không ạ?". Tôi trả lời ngay: "Vâng, tôi đây". Một trong hai người nói:"Chúng tôi mời Th/sĩ lên Pḥng An Ninh có việc cần". Tôi trả lời:"Tôi vừa mới về, các anh có thể cho tôi tắm một cái rồi tôi lên ngay". Nhân viên an ninh trả lời:"Không có ǵ đâu, Th/Sĩ lên một chút xíu rồi về tắm cũng được mà". Mặc dù mệt mỏi tôi cũng phải lên Pḥng An Ninh, việc đầu tiên là họ phủ đầu tôi trước, đưa tôi vào căn pḥng 12 mét vuông, cửa sổ bị đóng bít lại bằng ván ép dằn từ phía bên ngoài, không có đèn điện.
Một lát sau họ quăng vào một cái chiếu đơn và 4 cây đèn cầy của em bé đốt đèn Trung Thu, rồi khoảng 15 phút sau, họ đứng bên ngoài quăng vào cái bô nhôm, nghe một cái cảng, và cứ 15 phút họ lại mở cửa rọi đèn bin vào xem tôi có tự tử hay không?
Khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ sau th́ vị Đại Úy An Ninh tôi quên mất tên, cho gọi tôi lên, lúc này khoảng 10 giờ đêm. Thấy điệu bộ của vị Đại úy An Ninh, tôi hiểu ngay rằng năy giờ họ làm như vậy là để hù họa tôi và cũng để câu giờ chờ sĩ quan đến thẩm vấn tôi.
Vị Đại Úy nói:"Tôi biết Th/Sĩ chỉ là tép riu thôi, như vậy không có ǵ phải sợ, Th/Sĩ cứ tŕnh bày mày bay rời Nha Trang lúc mấy giờ và đến Quảng Đức làm ǵ, sau đó mấy giờ cất cánh và xuống Đà Lạt lúc mấy giờ, và gặp ai, trông thấy ai, rồi đi về hướng nào, và cứ như thế cho đến khi Th/Sĩ khám phá ra mất máy bay". Rồi ông ta đưa cho tôi một xấp giấy bơ-luya và một cây bút bi, tôi cứ hí hoáy viết và kể lại toàn bộ những ǵ tôi biết được, theo dàn bài và cách thức sắp xếp của ông Đại Úy đưa ra. Xong, vị Đại Úy đọc lại rất cẩn thận, rồi đọc lại cho tôi nghe, sau đó nói là sai chưa đúng, bắt tôi khai lại và ông cất tờ kia đi. Cứ như thê nhiều lần... Cho đến 2, 3 giờ sáng, tay tôi cứng lại không c̣n viết được nữa, vị Đại Úy mới cho tôi nghỉ và đưa về pḥng giam.
Về phần Anh Nghiă và Anh Thu khi đến nhà Bác tôi gọi tôi đi về th́ Bác tôi mới nói:"Nó ra chỗ đậu máy bay không thấy máy bay đâu cả, nó sợ các ông bỏ nó nên nó lên xe đ̣ về Nha Trang rồi". Lúc đó hai anh mới hết hồn, nhờ Bác tôi lấy xe LaDaLat chở vô phi trường Cam Ly vẫn không thấy, sau Bác tôi đưa về Tiểu Khu Tuyên Đức ḍ hỏi vẫn không ra, cuối cùng hai anh quyết định tŕnh diện Tiểu Khu báo cáo sự việc và nơi đây Pḥng An Ninh của Tiểu Khu đưa hai anh về Pḥng An Ninh Không Quân Nha Trang ngày 8 tháng 11 năm 1973. Tại Nha Trang hai anh không bị giam giữ, hai anh ở nhà và nhân viên điều tra đến tận nhà làm việc.
Tôi bị giam như vậy lúc đầu tưởng về ngay nên tôi chỉ nhờ bạn đưa vào cái dù thả trái sáng để làm mùng, nhưng rồi vừa nóng vừa ngộp, tôi cứ lấy thuốc là châm thủng từ từ, lúc đầu lỗ nhỏ và ít, sau đó lỗ to và nhiều hơn, cuối cùng th́ nó cũng như không v́ chỗ nào cũng có muỗi. C̣n ăn uống th́ mỗi bữa nhờ nhân viên an ninh mua dùm ổ bánh ḿ và một bịch nước mía, c̣n bạn th́ chẳng thấy ma nào dám bén mảng đến nữa, có lẽ họ sợ liên lụy chăng hay là Pḥng An Ninh không cho thăm viếng?
Ăn bánh ḿ măi không thể nuốt nổi, mà Pḥng An Ninh không có quy chế ăn uống. Tôi phải tự túc mua ở ngoài, tưởng hết chịu nổi th́ sau một tuần lễ, họ lại mời Thiếu Tá Thu vào ở chung với tôi, lúc đó họ mới cho khiêng hai cái gường sắt rồi đóng cửa lại. Lát sau, vị Đại úy điều tra tôi vào xin lỗi:" Thiếu Tá thông cảm, tôi phải đóng cửa lại", Anh Thu tức giận:"Thiếu Tá cái ǵ, tao là thằng tù!", Đại Úy An Ninh trả lời:"Lệnh trên chứ tôi đâu dám...", Anh Thu tức giận nhảy chồm tới:"Tao là thằng tù...", vị Đại Úy nhảy vội ra ngoài và từ đó ngày đêm không đóng cửa nữa.
Rồi mỗi bữa Chị Thu mang vào hai phần cơm cho Anh Thu và cả cho tôi nữa, Chị c̣n làm một lon ghi-gô đậu phộng da cá cho Anh Thu nhưng anh không thích ăn nên giao cho tôi "xử lư" nó. Hai thầy tṛ được tự do đi lại, hay là ra ngoài sân hóng mát khi thoải mái.
Sau khi đối chiếu tất cả những lời khai của Anh Nghiă, Anh Thu và tôi, Pḥng An Ninh Không Quân chuyển hồ sơ về Bộ Tư Lệnh Không Quân cho Trung Tướng Trần Văn Minh duyệt xét, sau đó chuyển lên cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, xem xong Tổng Thống bác lời khai của chúng tôi. Thế là thấy tṛ chúng tôi phải khai lại, và cứ như thế khai đi khai lại cho đến lần thứ ba, Trung Tướng Trần Văn Minh tuyên bố ông đă duyệt xét theo hệ thống quân giai, nếu Tổng Thống c̣n bác nữa tức là không tín nhiệm ông sẽ từ chức, đồng thời Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh cũng can thiệp yêu cầu Tổng Thống xét lại, cho tới lúc đó ông Thiệu mới chịu duyệt.
(Trung tá Nguyễn Văn Nghĩa là người Công Giáo, tên thánh là Paul (Phao-lô), gia đ́nh là chỗ thân thiết với Đức Tổng Giám Mục Sài G̣n Phao-lô Nguyễn Văn B́nh. Ông ghé Đà Lạt với ư định thăm Đại úy Phạm Công Khanh của 219 đang dưỡng thương tại đây. Chú thích của Thiên Ân)
Hết tuần lễ thứ hai, họ đưa Anh Nghiă lên Pḥng An Ninh làm thủ tục, xong xuôi họ giải cả ba thầy tṛ chúng tôi ra Đại Đội 24 Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang.
Cơ sở của Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang là một dăy nhà cất theo kiểu dă chiến của Pháp, các pḥng làm việc th́ bừa bộn, thiếu tiện nghi, hồ sơ để lung tung, nhưng cách làm việc có vẻ chuyên môn hơn Pḥng An Ninh KQ Nha Trang. Khi chúng tôi đến nơi, một vị Đại Úy chấp pháp lấy cung chúng tôi từng người một, và không như trong An Ninh KQ, ở đây họ hỏi theo thứ tự lớp lang và họ ghi chép lấy chứ không để chúng tôi tự ghi chép.
Anh Nghiă vào làm việc trước, sau đó đến Anh Thu. cuối cùng mới đến tôi. Sau khi Anh Nghiă ra, Anh Thu vào làm việc. Vị Đại Úy chấp pháp lấy cung rất là lâu nên tôi có hơi bồn chồn, và có vẻ buồn buồn ưu tư. Anh Nghiă thấy vậy nói:"Này cái thằng chết nhát, có ai khai cho chú đâu mà cái vẻ mặt lo lắng, lo sợ vậy hả?... Xem anh đây này, sự nghiệp, địa vị, danh vọng, vợ con... mất hết mà anh có lo lắng điều ǵ đâu, sự việc đă xảy ra rồi th́ điều ǵ đến nó sẽ đến, có lo lắng cách nào th́ nó cũng phải đến vậy thôi..."
Rồi việc lấy cung của chúng tôi cũng kéo dài đến chiều, xong họ sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho chúng tôi. V́ ở đây chỉ có pḥng tạm giam, mà pḥng tạm giam th́ toàn là lính "trời ơi" không thôi, nào là x́-ke, ăn cắp, hiếp dâm, đào ngũ, đánh lộn .v..v.., mà pḥng th́ chỉ là cái cũi làm bằng vỉ sắt phi trường, chung quanh trống trơn, mái cũng bằng vỉ sắt, nếu mưa th́ chịu trận vậy thôi. V́ không có chỗ giam riêng chúng tôi nên buộc ḷng họ phải nhường ba cái gường sắt của họ cho ba thầy tṛ chúng tôi nằm, c̣n họ nằm dưới đất. Sau năm ngày đúc kết hồ sơ thụ lư của chúng tôi, họ đưa Anh Nghiă vô Quân lao c̣n Anh Thu và tôi được cho về.
Lúc này tôi mới nhớ tới cô bé tên Hường mà tôi mới chỉ nắm tay được trước đó 20 ngày. Tôi lục t́m địa chỉ mà em cho tôi, nó thất lạc mất rồi, tôi tiếc ngẩn người, đă hụt mất một nàng thật dễ mến và đáng yêu.
Vài ngày sau, tôi vào Quân Lao Nha Trang thăm Anh Nghiă. Trông thấy tôi, anh nói đùa:"Cái thằng chết nhát, mày vô đây làm ǵ, họ bắt nhốt mày bây giờ". Tư cách của anh thật ung dung. Tôi đưa cho anh quyển "Papillon" (Người tù khổ sai), anh ph́ cười khi thấy tựa cuốn truyện. Và anh kể cho tôi biết ngày anh vô đây, gặp một tên "Đại bàng" trong tù, khi hắn ta biết anh là phi đoàn trưởng phi đoàn 219, hắn kính phục anh ngay, v́ hắn cũng là một quân nhân, đă từng nghe những huyền thoại về 219. Ngoài đời hắn là một tay anh chị khét tiếng ở Nha Trang, và hắn đă có lần đụng độ với những tay ĺ lợm của 219 vào những năm 1968-69, khi phi đoàn chưa dời về Nha Trang (h́nh như hắn là kẻ đă chém lầm vào tay anh Châu Lương Cang tại Bar số 1). Gặp Anh Nghiă hắn nể phục ngay và ra lệnh cho đàn em phục vụ Anh Nghiă mọi nhu cầu. Hắn tuyên bố với các đàn em rằng Anh Nghiă là một "Đại ca giang hồ trí thức" của hắn. Về phần Anh Nghiă, sau này cứ mỗi tháng hay vài tuần là Đại Tá Đặng Duy Lạc hay Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng lại bảo lănh cho về phép...
Đến tháng 5 năm 1974,Anh Thu và tôi được Ṭa Án Quân Sự Nha Trang mời ra làm việc và mọi sự lại khai lại như ban đầu. Sau đó, trong phiên ṭa xử ngày 12 tháng 7, Anh Nghiă bị tuyên án "8 tháng tù ở, kể từ ngày bị bắt giam".
Phiên ṭa kết thúc, mọi người chạy lại chúc mừng anh v́ anh đă trong quân lao 9 tháng, quá thời gian ṭa tuyên án. Từ đó anh về nhà luôn.
Trong năm 1974, không ai cắt tôi đi bay nữa, chỉ trực tại phi đoàn. Lúc này Anh Huỳnh Văn Phố lên làm quyền Phi Đoàn Trưởng, sau hoán chuyển với phi đoàn trưởng 253 ngoài Đà Nẵng là Thiếu Tá Phạm Đăng Luân về làm Phi Đoàn Trưởng 219, Anh Huỳnh Xuân Thu làm Phi Đoàn Phó, Anh Trần Ngọc Thạnh làm Sĩ Quan Huấn Luyện, Anh Phạm Ngọc Sâm làm làm Trưởng Pḥng Hành Quân. Buổi đầu, Anh Sâm cắt bay không để ư đến sự trùng hợp tên tuổi của nhân viên trong phi đoàn nên có vài việc buồn cười xảy ra như khi cắt một phi hành đoàn biệt phái đi Ban Mê Thuột, anh đă ghi trên bảng phi lệnh;"PHĐ: Bơ - Đường - Xả -Cải" (Phan Công Bơ, Trưởng phi cơ - Lư Bổn Đường, Hoa tiêu phó - Hồ Văn Xả, Mevo - Lê Văn Cải, Xạ thủ), thế là mọi người được một mẻ cười v́ nguyên phi hành đoàn toàn đồ ăn, không sợ đói. Sau anh cắt một phi hành đoàn cũng bay đi Ban Mê Thuột, sáng ra các anh thấy tên của phi hành đoàn này th́ đều rụng rời tay chân: "Kiệt - Lực - Quan - Tài" (Vơ Tấn Kiệt, TPC - Nguyễn Hùng Lực, HTP - Nguyễn Văn Quan, Mevo - Nguyễn Văn Tài, Xạ thủ), không anh nào chịu bay cả. Anh Sân phải cắt bay lại với các tên khác các anh mới đi bay...
Minh Mẫn 219
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Trường Hậu Đại Học Hải-Quân Hoa-Kỳ (U.S. Naval Postgraduate School)
Lời giới thiệu: Cựu Hải-Quân Trung-Úy Trần Trúc Việt xuất thân khóa 19 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang.
Năm 1972, khi đang ṭng sự trên Hải-Vận-Hạm Ninh-Giang HQ 403 và sắp thuyên chuyển về Giang-Đoàn 21 Xung-Phong, ông Việt được chấp thuận sang Hoa-Kỳ du học. Ông Việt thụ huấn khóa II Communications tại Naval Postgraduate School.
Đọc những ḍng sau đây, quư vị sẽ có ư niệm rơ ràng hơn về một trong những trường Hải-Quân có tầm vóc quốc tế mà nhiều sĩ quan Hải-Quân V.N.C.H. đă theo học.
Naval Postgraduate School (NPS) là trường đại học cao cấp nhất được trực tiếp quản trị bởi Bộ-Hải-Quân Hoa-Kỳ. Trường NPS nằm trong thành phố Monterey, thuộc tiểu bang California, một thành phố du lịch nằm ven biển với khí hậu mát mẻ gần như quanh năm, cách San Jose độ hơn một giờ lái xe. Nói đến NPS là nói đến một trường đại học có rất nhiều sĩ quan thuộc các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ theo học, dĩ nhiên trong đó có các sĩ quan Quân-Lực V.N.C.H., đa số xuất thân từ Trường sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang và Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt.
Sơ Lược về Sự Tổ Chức của Naval Postgraduate School
Trường Hậu Đại-Học Hải-Quân Hoa-Kỳ gồm có ba khối: General Lines School, Engineering School và Management School.
Management School (Tạm dịch là Trường Quản-Trị). Trường này có lớp riêng cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ và lớp riêng, ngắn và dài hạn dành cho sĩ quan đồng minh. (International Defense Management Course).
Trường NPS không chỉ dành riêng cho sĩ quan Hải-Quân, mà thời đó, chính phủ V.N.C.H. gửi cả sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và luôn cả công chức cao cấp quốc pḥng sang tu nghiệp. Về sau, Hoa-Kỳ mở ngay tại Việt-Nam lớp quản trị cho Quân-Lực V.N.C.H.
Engineering School (Tạm dịch là Trường Kỹ Thuật và Cơ khí). Trường này dạy cho sĩ-quan Hải-Quân Hoa-Kỳ xuất thân từ Annapolis và General Lines School và cũng dạy cho sĩ-quan Hải-Quân Đồng-Minh.
Những sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam theo học trường này được chia ra hai nhóm:
Sĩ quan cơ khí học các ngành như: Mechanical, Electronic…
Sĩ quan chỉ huy học các ngành: Communications, Operations Research, Aerology…
General Lines School (Tạm dịch là trường dạy ngành chỉ huy). Đa số sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học tại NPS đều xuất thân Annapolis Naval Academy. Sĩ quan nào xuất thân từ OCS hoặc Naval Aviation School, v. v… đều phải ra đơn vị phục vụ một thời gian tối thiểu là hai năm rồi mới được xin về NPS học tiếp để lấy bằng Cao Học (Master’s Degree), hoặc tiến sĩ (Ph.D.); do đó NPS được gọi là trường hậu đại học.
Những sĩ quan đồng minh, nhất là sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam, theo học trường này đều phải là sĩ quan ngành chỉ huy.
Những Tiêu Chuẩn Được Tuyển Chọn Để Theo Học Trường NPS
Qua chương tŕnh MAP (Military Assistance Program) của chính phủ Hoa-Kỳ, sĩ quan Hải-Quân muốn theo học Trường NPS phải hội đủ những điều kiện sau đây: Có văn bằng hoặc chứng chỉ của phân khoa Đại Học Khoa-Học Saigon; điểm Anh ngữ tối thiểu 80; và hồ sơ quân bạ phải không có “củ”. Ban Du Học thuộc Pḥng Quân-Huấn, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân có nhiệm vụ xét đơn các ứng cử viên xem có đủ điều kiện hay không sau đó hồ sơ hợp lệ của sĩ quan ghi danh sẽ được chuyển về Trường NPS để duyệt xét, tuyển chọn và quyết định.
V́ phương pháp tuyển chọn do chính Trường NPS quyết định chứ không phải do Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân cho nên rất công b́nh. Sau khi nộp hồ sơ, các sĩ quan phải chờ để được gọi về thi Anh ngữ tại trường Sinh-Ngữ Quân-Đội. Nhiều sĩ quan bị loại v́ không về kịp để thi Anh ngữ. Trường hợp của tôi khá may mắn, hai lần trước về không kịp v́ tàu đang công tác; lần thứ ba – cũng là lần chót – bảy giờ sáng tàu vừa cặp bến chưa cột hết giây, tôi đă xin phép Hạm-Trưởng “phóng” xuống bờ, lấy Honda chạy một mạch đến Trường Sinh-Ngữ Quân-Đội, vừa kịp giờ vào pḥng thi.
Được Chấp Thuận và Lên Đường Du Học
Trong đợt tôi đi, danh sách có năm sĩ quan. Bốn người, kể cả tôi, cùng khóa và một người khóa đàn em. Trong bốn người cùng khóa, có một anh nổi tiếng từ quân trường và có biệt danh là “Gà Tồ”. Anh này phải ở lại đi sau v́ không đủ điểm Anh ngữ; lư do v́ mê chơi cờ tướng nên thường bỏ học Anh ngữ và phải kể cộng thêm cái “gà tồ” của anh nữa. Những sĩ quan được chính thức lên đường phải qua một số thủ tục cần thiết như: xin Thông Hành Quân-Vụ, Sự Vụ Lệnh, chiếu khán nhập cảnh, may quân phục, đổi tiền, v. v…
Chúng tôi đi bằng phi cơ từ phi trường Tân-Sơn-Nhất, dừng tại Hawaii độ hai giờ rồi bay thẳng sang Lackland Air Force Base, San Antonio, Texas, để học thêm ba tháng Anh ngữ. Sau thời gian học Anh ngữ, bốn người chúng tôi đáp máy bay sang Travis Air Force Base, California; từ đây, chúng tôi lấy bus đến Trường NPS.
Trong thời gian di chuyển từ Việt-Nam sang Mỹ, mặc dù Anh văn đă học “một bụng” nhưng mà nói th́ múa máy tay chân hơi nhiều. Nhờ đi chung bốn đứa cho nên cũng đỡ, trật đứa này c̣n đứa khác. Trường hợp anh “Gà Tồ” th́ bi đát hơn, v́ anh đi trễ nên chỉ có một ḿnh. Anh kể rằng khi ghé tạm nghỉ ở Hawaii, anh đi t́m rest room – danh từ duy nhất anh học tại trường Sinh ngữ Quân-Đội – đi mấy ṿng mà không thấy rest room đâu cả, chỉ thấy mấy nơi đề Gentlemen, anh ngẩm nghĩ, không biết ḿnh có được xem như là một Gentleman hay không, v́ quần áo xốc xếch quá. Cuối cùng anh đành nhịn, không dám mở cửa bước vào!
Chương Tŕnh và Các Môn Học
Mặc dù được Bộ-Hải-Quân quản trị, nhưng thật ra không có ǵ là quân đội cả, chương tŕnh học không khác ǵ các trường Đại Học dân sự, ngoại trừ phải lấy nhiều môn học cho mỗi quarter, gần như gấp đôi so với các đại học ngoài. V́ vậy mà ghế trong thư viện của NPS được các sĩ quan “đánh bóng” rất kỹ vào những ngày cuối tuần; đặc biệt là sĩ quan thuộc các quốc gia đồng minh. Những môn học thường được sĩ quan Việt-Nam theo học gồm:
Ban giảng huấn đa số là giáo sư dân chính. Nếu tôi không lầm th́ có tất cả ba khóa học dài hạn được Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân gửi sĩ quan theo học qua chương tŕnh MAP. Ngoài ra, tại NPS có hai khóa huấn luyện ngắn hạn đặc biệt về Quản-Trị Quốc-Pḥng (Defense Management) mỗi năm một lần dành riêng cho sĩ quan cấp Tướng; khóa ba tháng dành cho sĩ quan cấp Đại-Tá. Mỗi năm đều có nhiều sĩ quan cao cấp Việt-Nam theo học hai khóa này. Một người rất đặc biệt trông coi về hành chánh và giao tế cho hai khóa Quản-Trị Quốc-Pḥng tại NPS mà tất cả sĩ quan đều kính trọng v́ sự phóng khoáng và giúp đỡ tận t́nh của Bà. Đó là bà Betty Field. Có thể nói, không một sĩ quan nào theo học tại NPS, khóa ngắn hạn cũng như dài hạn, mà không nhận được sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của Bà. Sau tháng 4-1975, v́ sự tận t́nh tranh đấu và giúp đỡ những sĩ quan Việt-Nam c̣n đang theo học tại Trường đang gặp khó khăn, Bà đă được sự kính mến và xem như là “Mẹ Tinh Thần” của các sĩ quan tị nạn. Tôi cũng như nhiều sĩ quan khác bọi Bà bằng Mom. Các con của tôi gọi Bà bằng Grandma. Hiện giờ Bà vẫn c̣n trông coi các khóa Quản-Trị Quốc-Pḥng tại NPS.
Trợ Cấp Tài Chánh Học Hành và Ăn Ở
Với số tiền trợ cấp 600 Mỹ kim một tháng - không thuế - được coi là dư giả đối với vật gía vào năm 1972, xăng 32 xu một ga-lông và đi chợ 20 Mỹ kim th́ đầy xe. Sĩ quan có thể thuê nhà ở ngoài, mua xe hoặc mặt thường phục đi học.
Chương tŕnh học cũng giống như các đại học dân sự, không như mọi người lầm tưởng là sẽ nặng về quân sự. Có một anh bạn thuộc Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt, cụ bị đem theo đồ trận và giày trận, v́ nghĩ rằng chắc phải lăn lộn dữ dội ngoài thao trường; khi biết chương tŕnh chỉ toàn học chữ, anh cảm thấy lỡ bộ, bèn dấu biệt đôi giày trận, không bao giờ dám nhắc tới nữa. Đa số sĩ quan bị trở ngại khoảng ba tháng đầu.
Sĩ quan Việt-Nam theo học tại NPS có năm đông nhất lên khoảng 21 người. Những khóa học Electronic, Mechanical và Communications kéo dài ba năm; khóa Operations Research khoảng hai năm rưỡi; khóa Operations Management khoảng 18 tháng. Sĩ quan Bộ-Binh thường theo học khóa Operations Research. NPS là trường đại học về văn hóa cao cấp nhất của quân đội Mỹ, được công nhận bởi hệ thống đại học Miền Tây Hoa-Kỳ và có quyền cấp phát văn bằng tiến sĩ.
Một sĩ quan nổi tiếng trong Hải-Quân Việt-Nam là ông Nguyễn Tiến Ích. Ông xong cao học ở NPS và sau đó theo học ở MIT và đỗ bằng tiến sĩ. Trường hợp đặc biệt có hai sĩ quan đă hai lần theo học NPS, đó là Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Vân và Hải-Quân Trung-Tá Hà Ngọc Lương. Ông Lương về nước và tự tử chết khi xảy ra cuộc rút quân tại Nha-Trang vào đầu tháng 4 năm 1975. Anh Dzĩnh, một sĩ quan Bộ-Binh, nhỏ con nhưng bù lại anh có một khối óc thật vĩ đại, thuộc loại thiên tài. Anh Dzĩnh theo học khóa Operations Research, được tất cả giáo sư kính nể. Một giáo sư đă nói rằng: “Anh Dzĩnh có cả một thư viện trong đầu.” Anh về nước khoảng cuối năm 1974. Nhà trường sẵn sàng can thiệp để anh ở lại tiếp tục học lấy bằng tiến sĩ, nhưng anh từ chối.
Những Sinh Hoạt Trong Trường và Ngoài Trường
Hằng năm nhà Trường thường tổ chức nhiều buổi văn nghệ và triển lăm quốc tế, đặc biệt là ngày International Day. Vào ngày này, những sĩ quan và gia đ́nh thuộc các quốc gia Đồng-Minh thường làm những món ăn “quốc hồn quốc túy” để giới thiệu món ăn truyền thống của quê hương ḿnh. Riêng về phía Việt-Nam, chỉ toàn sĩ quan “độc thân tại chỗ”, cho nên chỉ biết mượn vài bộ lư hương và đồ gốm để trưng bày.
Sở dĩ sĩ quan Việt-Nam không được phép đem gia đ́nh theo là v́, trong những năm trước, có một sĩ quan – có lẽ bất măn với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đă không cho phép ông gia hạn học thêm – đă cùng vợ trốn sang Canada, không chịu trở về nước. (Theo quy chế cũ, sĩ quan được phép đem vợ theo nếu khóa học hơn một năm). Từ đó, Bộ-Tổng-Tham-Mưu cấm tuyệt đối, không cho sĩ quan du học đem vợ con theo.
Tất cả sĩ quan đều thuê pḥng trọ cách trường vài blocks để có thể đi bộ đến Trường. Đa số đều có xe, thỉnh thoảng rủ nhau đi San Francisco ghé phố Tầu ăn ḿ và mua thực phẩm Á-Đông. Những sĩ quan trẻ thỉnh thoảng cũng làm một chuyến đi xa tận Nevada thăm Mustang Ranch.
Sĩ quan thâm niện hiện diện lúc đó là Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh. Thỉnh thoảng Ông mời các sĩ quan họp để, thứ nhất, nhắc nhở các sĩ quan vài điều cần thiết; thứ hai, để thưởng thức món phở đặc biệt và tiếng cười “bất hủ” của Hải-Quân Trung-Tá Đoàn Doanh Tài.
Vùng Monterey và Pacific Grove có khoảng năm gia đ́nh Việt-Nam kỳ cựu và rất hiếu khách. Các sĩ quan trẻ thường đến chơi vào dịp cuối tuần. Đặc biệt phải kể đến gia đ́nh ông bà Thiệp và gia đ́nh Cụ Diệp. Có lẽ tất cả sĩ quan theo học tại NPS đều biết, ngoài đức tính hào phóng và hiếu khách, hai gia đ́nh này c̣n có mấy cô con gái rất đẹp và dễ thương. Mấy chàng sĩ quan trẻ đôi khi bị “C” cũng v́ mấy cô dễ thương này.
Có một trường cũng rất đặc biệt thuộc thành phố Pacific Grove là Trường Sinh Ngữ Quân-Đội (Defense Language Institute). Vào những năm Hoa-Kỳ đổ quân tối đa vào Việt-Nam, Trường đă có hơn 200 giáo chức người Việt dạy tiếng Việt cho những quân nhân chuẩn bị sang Việt-Nam.
Biến Cố Tháng 4 Năm 1975
Mấy tháng trước biến cố tháng 4-1975, những sĩ quan đang theo học tại NPS đều thấy rơ người Mỹ đang chuẩn bị bỏ miền Nam Việt-Nam. Gần như trong suốt thời gian này tất cả sĩ quan không ai c̣n tinh thần để học nữa. Trong giảng đường th́ như người mất hồn, chỉ chờ chiều về để cùng nhau đón xem tin tức từ các đài ABC, NBC và CBS.
Sau tháng 4 năm 1975, Trường NPS chấm dứt việc huấn luyện sĩ quan Việt-Nam, v́ chính phủ V.N.C.H. không c̣n nữa! Tất cả được chuyển qua quy chế tị nạn. Anh em thỉnh cầu nhà Trường gia hạn cho những sĩ quan chỉ c̣n một hoặc hai quarter nữa là măn khóa được tiếp tục học cho xong. Nhà Trường chấp thuận, nhờ đó một số sĩ quan đă kịp thời hoàn tất chương tŕnh học. Tôi thuộc vào số sĩ quan may mắn này. Tôi đă hoàn tất văn bằng cao học vào tháng 6 năm 1975.
Tiếc rằng tôi đă không được dịp đem vốn kiến thức hấp thụ tại xứ người để về phục vụ quê hương Việt-Nam và quân chủng Hải-Quân V.N.C.H.!
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Lời giới thiệu: Cựu Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh xuất thân khóa II Trường Hải-Quân Pháp tại Brest. Mời độc giả hăy cùng “Ngưới Lính Biển chuyên nghiệp” Nguyễn Ngọc Quỳnh khơi lại những kỷ niệm sống thật ở những khía cạnh tốt đẹp nhất trong đời Hải-Quân.
Lănh tàu là điều mơ ước của nhiều lính biển, kể cả kẻ viết bài này. Đó là dịp tốt để thực hiện mộng hải hồ, vượt đại dương, khám phá nhiều chân trời mới lạ và cũng là dịp du lịch nước ngoài miễn phí.
Nhưng, lệnh chỉ định lănh tàu đến với tôi không đúng lúc. V́, lúc đó, ngày 5 tháng 2 năm 1962, tôi đang ở San Diego, chờ ngày hồi hương. Sau một năm du học và gần tám năm hải vụ liên tục, tôi không mơ ǵ hơn là trở về với gia đ́nh và phục vụ ở đơn vị bờ một thời gian. Nhưng đă trót vướng vào nghiệp hải hồ, tôi không thể từ chối một chuyến lênh đênh nữa.
Chiến hạm tôi sắp lănh là Dương-Vận-Hạm Cam-Ranh HQ 500. Ngày bàn giao được dự trù vào giữa tháng 4. Trong khi chờ đợi, tôi theo học các khóa huấn luyện về hành quân thủy bộ tại Coronado; v́ hành quân thủy bộ là nhiệm vụ chính của các Dương-Vận-Hạm.
Khi tôi tới Hải-Quân Công-Xưởng San Francisco th́ thủy thủ đoàn từ Việt-Nam đă đến vào ngày hôm trước. Tôi rất mừng khi gặp họ và được sống lại trong bầu không khí của một đơn vị Hải-Quân Việt-Nam sau một năm xa cách. Tôi cũng mừng v́ có một bộ-tham-mưu và thủy thủ đoàn khá hùng hậu.
Bộ-tham-mưu gồm có các anh Nguyễn Ngọc Rắc, Đinh Vĩnh Giang, Lê Văn Th́; Đặng Trần Du, Hạm-Trưởng và Hoàng Nam, Cơ Khí Trưởng. Mặc dù từ nhiều đơn vị khác nhau tới, chỉ trong một vài ngày chúng tôi đă tạo được tinh thần đồng đội và t́nh tương thân. Đó là yếu tố cần thiết giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn, mệt nhọc trong những ngày tháng sắp tới.
Chiến hạm lúc đó sắp hoàn tất chương tŕnh tái trang bị sau một thời gian dự trữ bao kín (mothball). Chúng tôi làm quen với chiến hạm và tiếp tay vào việc tái trang bị. Hải-Quân Hoa-Kỳ biệt phái một toán huấn luyện lưu động để giúp đỡ nhân viên chiến hạm từ lúc đó cho tới khi chiến hạm rời bến, đưa chúng tôi hồi hương. Chúng tôi học hỏi được rất nhiều nhờ sự chỉ dẫn tận t́nh của toán huấn luyện lưu động này. Mặc dù nhiều nhân viên chiến hạm khá thành thạo tiếng Anh, nhưng sự liên lạc giữa hai bên trong vài tuần đầu cũng khá… mỏi tay, v́ phải bổ túc bằng “thủ hiệu quốc tế!”
Lễ trao chiến hạm được tổ chức trọng thể, với sự có mặt của đại diện hai chính quyền Việt-Mỹ. Phía Việt-Nam là một vị đặc sứ từ Ṭa Đại-Sứ Việt-Nam Cộng-Ḥa tại Washington, D.C. Phía Hoa-Kỳ là Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Khu 12. Nhiều phóng viên báo chí và truyền h́nh Hoa-Kỳ đến làm phóng sự.
Ngay sau lễ bàn giao, chiến hạm bắt đầu tuần lễ huấn luyện trắc nghiệm và làm quen (Shakedown Training). Đúng như nghĩa tiếng Mỹ, trong tuần lễ này chiến hạm bị “quần” rất kỹ, từ nhân viên đến máy móc và dụng cụ, xem có ǵ trục trặc để bổ khuyết, tu chỉnh. Toán huấn luyện lưu động rất hài ḷng về sự hăng hái và khả năng học hỏi của thủy thủ đoàn; nhưng cũng rầu về thói coi thường các biện pháp an toàn của lính biển Việt-Nam.
Trong một lần thực tập tác xạ pḥng không, một viên đạn đại bác 20 bị tịt ng̣i, nằm trong buồng súng. Biện pháp an toàn là xịt nước lạnh lên thép súng, phủ một tấm bố lên súng rồi nhân viên tránh xa ra, chờ một chốc cho đạn nguội mới lấy ra. Nhưng, khi nhân viên đang phủ tấm bố lên th́ anh Trung-Sĩ hỏa đầu vụ đi ngang; có lẽ v́ kinh nghiệm chiến đấu của anh trên sông ng̣i với đại liên, anh cho rằng biện pháp an toàn đó là “bày đặt, mất th́ giờ”, anh bèn phóng tới, mở ngay cơ bẩm, móc viên đạn nóng ra ném ngay xuống biển!
Lần khác, trong cuộc thực tập tiếp tế dầu ngoài biển giữa hai chiến hạm đang chạy song song, nhân viên phải tập cách tháo ống dẫn dầu khẩn cấp, pḥng khi có nguy cơ hỏa hoạn hoặc địch sắp tấn công. Một lần, dây cột đầu ống dầu không tháo ra được, phải cắt đứt ở phía ngoài thành tàu chừng hơn một săi tay. Huấn luyện viên Mỹ đang giúp một nhân viên cột giây an toàn, mang áo phao, nón nhựa để ra cắt, th́, một “đấng” Hạ Sĩ ḿnh trần trùng trục, không mũ, không phao, leo ra ngoài thành tàu để cắt một cách rất…anh hùng! Sĩ quan phụ trách chỉ biết “khóc thét” v́ ngăn không kịp!
Sau tuần huấn luyện, những sửa chữa cần thiết được làm ngay tại San Francisco; phần c̣n lại sẽ được thực hiện tại San Diego.
Chiến hạm rời vịnh San Francisco vào một buổi sáng đẹp trời. Cầu Golden Gate nổi bật trên nền trời xanh thẫm, điểm một vài cánh hải âu trắng. Nhớ lại mấy tuần trước, chúng tôi qua cầu để ra khơi thực tập, cầu ch́m trong sương mù hoặc mưa bụi. Tiếng c̣i báo sương mù the thé ḥa với tiếng gió ù ù và ḍng nước triều chảy xiết khiến cầu có vẻ “đáng sợ” hơn nhiều. Đây là cảm giác mà khi lái xe trên mặt cầu phẳng phiu, thẳng tắp, khó mà h́nh dung ra được.
So với tuần lễ huấn luyện Shakedown, hải tŕnh đi San Diego thật êm ả, dễ chịu. Hải hành dọc theo bờ biển California vào giữa mùa Xuân thấy cảnh trí rất đẹp. Chắc không ai trong chúng tôi nghĩ rằng có ngày ḿnh sẽ nhận nơi này làm quê hương thứ hai.
Đến San Diego chúng tôi tiếp tục sửa chữa, trang bị, huấn luyện và chuẩn bị hành tŕnh hồi hương. Chương tŕnh huấn luyện gồm một tuần huấn luyện tổng quát và một tuần huấn luyện chuyên về hành quân thủy bộ.
Phần huấn luyện chính xác được đặt nặng vào sự chính xác hải hành, chính xác tác xạ, v. v…Qua tuần này, mọi người mới nhận thấy từ trước tới nay ḿnh làm việc quá đại khái. Sở dĩ Hải-Quân Hoa-Kỳ đ̣i hỏi độ chính xác cao v́ kinh nghiệm chiến tranh cho họ thấy đó là vấn đề sinh tử. Chẳng hạn như khi chiến hạm hải hành qua một băi ḿn – có thể là một vùng biển rộng hàng chục hải lư – phải theo đúng lối đă rà ḿn. Lối này thường hẹp, nếu lạng quạng ra ngoài một chút là có thể về tŕnh diện Đại-Hải Long-Vương.
Hành quân thủy bộ có vẻ mới lạ đối với chúng tôi; v́, tuy nhiều người trong chúng tôi đă phục vụ trên các tàu đổ bộ, có lẽ chưa ai được huấn luyện đầy đủ và kỹ lưỡng về chiến thuật này. Chúng tôi tập ủi băi ngày, ủi băi đêm, ủi băi với cầu nổi, ủi băi với một máy, ủi băi không dùng tay lái, ủi băi không neo, ủi băi chính xác, v. v…
Để tiến vào băi đổ bộ, tàu phải chạy theo một hành lang rất hẹp, nếu lệch ra ngoài có thể đụng vào chiến hạm bạn ở hành lang bên cạnh, hoặc lạc vào khu chưa rà ḿn. Chiến hạm c̣n phải ủi băi đúng từng phút. Giờ giấc phải chặt chẽ như vậy v́ trước khi tàu vào băi, hải pháo và phi cơ bạn phải tác xạ cho địch không ngóc đầu dậy được mà bắn chận tàu. Tác xạ này chỉ ngừng đúng bốn phút trước khi tàu chạm băi. Nếu tàu vào sớm, sẽ “ăn” đạn của bạn; nếu vào muộn, địch sẽ ngóc đầu dậy để tấn công ta. Tất cả công tác khó khăn đó được thực hiện tại bờ biển lạ, thường là vào ban đêm, không có hải đăng.
Chúng tôi ủi băi chính xác đến độ các huấn luyện viên Mỹ phải ngạc nhiên. Có lẽ v́ nghĩ rằng tôi “ăn may” cho nên họ yêu cầu các sĩ quan khác làm thử, và ai cũng đạt kết quả tốt. Chúng tôi được sắp hạng cao hơn các chiến hạm Mỹ cùng tập dượt trong tháng đó. Đạt được thành quả tốt đẹp đó có lẽ nhờ sự cố gắng của tất cả nhân viên chiến hạm: Từ người giữ tay lái đến người điểu chỉnh tốc độ máy, từ người xử dụng radar đến người xác định vị trí trên bản đồ, v. v… Ai nấy đều muốn tỏ cho huấn luyện viên Mỹ thấy rằng lính biển Việt-Nam, nếu được huấn luyện và có phương tiện th́ cũng không kém ai.
Ngoài nỗ lực chung, cũng phải kể đến một vài cái “tủ” hay mẹo vặt, hay nói một cách văn chương là một vài “sáng kiến độc đáo” của chúng tôi. Thí dụ như nếu chỉ dùng radar, chiến hạm sẽ khó chạy đúng trục của hành lang đổ bộ. Khi tới gần băi, dù trong đêm tối, với ống ḍm, tôi cũng cố t́m ra một vài dấu vết đặc biệt của dăy cột điện trên bờ, hiện lờ mờ trong ánh sáng của thành phố San Diego ở chân trời xa, và nhờ đó điều chỉnh được chính xác hơn vào mấy phút chót. Thử lại một vài lần thấy đúng, tôi bèn bỏ nhỏ cho các sĩ quan cái “tủ” đó. Các huấn luyện viên Mỹ không hề biết có sự “huấn luyện” nội bộ bí mật này.
Để bảo toàn an ninh, chiến hạm phải che tối hoàn toàn để địch ở trên bờ không trông thấy, kể cả khi mở cửa đổ bộ ra. Một huấn luyện viên Hoa-Kỳ đứng trên bờ sẽ quan sát kỹ lưỡng về điểm này. Để kiểm soát chu đáo, một nhân viên chiến hạm có sáng kiến là cho tiểu đỉnh chạy quanh tàu trước khi tàu tiến vào băi để xem c̣n sót ánh đèn nào ló ra không. Nhờ vậy tránh được nhiều khuyết điểm mà đứng trên tàu không thấy được.
Điểm đặc biệt là những “tủ” này do nhân viên các cấp, các ngành t́m ra. Do đó chúng tôi “khám phá” một điều là: Dân Việt-Nam không biết có thông minh hơn các dân tộc khác hay không, nhưng chắc chắn là “khôn vặt” hơn.
Khi hoàn tất giai đoạn huấn luyện, chúng tôi mới thấy thấm mệt. Có nhiều ngày liên tiếp chúng tôi phải dậy thật sớm để tập từ trước khi mặt trời mọc, rồi thức đến khuya để tập đổ bộ ban đêm. Nhiều đêm chỉ ngủ độ năm tiếng, rồi ngày làm việc khoảng mười sáu tiếng, mà vẫn tỉnh táo, nếu không là dễ xảy ra tai nạn.
Sang giai đoạn sửa chữa và tiếp liệu, chúng tôi mới nghĩ tới chuyện đi bờ, giải trí, mua sắm, nghỉ ngơi.
Tuy nói là “nghỉ ngơi” nhưng chúng tôi cũng rất bận rộn trong việc sửa chữa và tiếp liệu; v́ phải hoàn tất trước ngày khởi hành hồi hương. Không những chiến hạm cần có đủ vật liệu và thực phẩm cho một hải tŕnh dài một phần ba ṿng trái đất, trong khoảng 50 ngày, mà c̣n phải dự pḥng đồ tiếp liệu, nhất là cơ phận thay thế, về lâu dài; v́ đây là Dương-Vận-Hạm đầu tiên của Hải-Quân Việt-Nam cho nên Trung-Tâm Tiếp-Liệu chưa có đủ vật liệu riêng cho loại tàu này.
Có hai điều khó: Một là số lượng nói trên vượt ra ngoài cấp số quy định. Hai là kho tiếp liệu địa phương không đủ để cung cấp kịp thời những vật liệu mà tàu xin cấp. Với sự giúp đỡ của toán huấn luyện lưu động, chúng tôi tạm thỏa măn được nhu cầu bằng cách này hay bằng cách khác. “Cách khác” ở đây có nghĩa là ra ngoài thể thức hợp lệ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Hai lối thông dụng nhất là “midnight requisition” (tạm dịch là xin cấp phát nửa đêm) và “ngoại giao”.
“Xin cấp phát nửa đêm” là t́m cách lấy vật liệu mà không theo đúng thủ tục cấp phát hoặc không được phép. Nói nôm na là “thuổng” hay “cầm nhầm”. Cần phải nói ngay là thuổng cho chiến hạm dùng chứ không phải làm của riêng. Mặc dầu vậy, lúc đầu chúng tôi cũng không dám làm v́ sợ bị túm th́ mang tiếng. Nhưng sau, chính toán huấn luyện lưu động khuyến khích và “huấn luyện” chúng tôi, v́ cách này cũng rất thịnh hành trong Hải-Quân Hoa-Kỳ. (Nếu vị nào không tin, xin xem phim Operation Pettycoat, do Tony Curtis đóng vai một sĩ quan có biệt tài về “xin cấp phát nửa đêm”) Chẳng hạn như chiến hạm có bốn LCVP mà không có bệ đặt để tu bổ, mặc dù theo cấp số có thể xin Hải-Quân Công-Xưởng thực hiện. V́ quá cận ngày, không thể làm kịp, toán huấn luyện lưu động đă xúi chúng tôi lấy ngay bệ có sẵn của Hải-Quân Công-Xưởng San Diego để trên cầu tàu.
Họ “đạo diễn” như sau: Khoảng nửa đêm, chờ cho xe của sĩ quan trực Hải-Quân Công-Xưởng vừa đi tuần qua, nhân viên điện khí lên tắt đèn cầu tàu, nhân viên vận chuyển khuân bệ xuống chiến hạm, nhân viên giám lộ đứng trên cao canh chừng.
Phương pháp “ngoại giao” được thực hiện bằng ngân khoảng tiếp tân của chiến hạm và cũng được toán huấn luyện lưu động cổ vơ. Những buổi tiếp tân hoặc bữa ăn thân mật được tổ chức để cảm ơn toán huấn luyện lưu động đă giúp đỡ chiến hạm, nhưng các giới chức có thẩm quyền về sửa chữa hoặc tiếp liệu cũng được mời. Nhờ vậy, nhiều thủ tục cấp phát hoặc thực hiện công tác được dễ dàng và mau chóng hơn nhiều. Chúng tôi gọi đây là “hối lộ hợp pháp”. Cũng nhờ phương pháp này chúng tôi chiếm cảm t́nh của các sĩ quan một chiến hạm bên cạnh và họ đă “đáp lễ” bằng một cầu thang nhẹ bằng nhôm mà nhân viên vận chuyển từng mơ ước; v́ khiêng nhẹ hơn và đỡ nguy hiểm hơn những cầu thang bằng sắt.
Một trong những chuẩn bị quan trọng cho chuyến hồi hương là hàng hải. Thái-B́nh-Dương là đại dương lớn nhất và không một ai trong chúng tôi có nhiều kinh nghiệm về các bến và vùng biển này. Với đoạn đường hơn 8,000 hải lư và với tốc độ trung b́nh non mười hải lư một giờ, cộng với thời gian ghé bến ba lần, hải tŕnh sẽ dài hơn một tháng rưỡi. Khởi hành gần cuối tháng Sáu, chúng tôi sẽ tới miền Tây Thái-B́nh-Dương vào hạ tuần tháng Bảy, đúng vào mùa băo lớn ở vùng biển này.
Huấn thị hải hành và khí tượng về đoạn đường sắp đi là một chồng sách dày cộm mà tôi biết sẽ không đủ thời giờ đích thân ngồi đọc từng chi tiết và nhiều chi tiết không thể bỏ qua được. Và đây là lúc thấy sự lợi ích của sự phân nhiệm. Theo thường lệ trên chiến hạm, nội vụ và quân kỷ là phần nhiệm của Hạm-Phó. Hải hành được giao cho sĩ quan đệ tam. Biết khả năng của mỗi sĩ quan tôi thấy cần vượt ra ngoài thông lệ đó. Anh Du, Hạm-Phó, là một trong những “cây” hải hành cao thủ của Hải-Quân; trong khi đó tính “đại từ bi” của anh có lẽ không hợp với nhiệm vụ “ông Ác” của trưởng ban nội vụ. Do đó, anh Du và anh Rắc vui vẻ hoán chuyển chức vụ trưởng ban hải hành và trưởng ban nội vu với nhau. Cả hai tỏ ra xuất sắc trong chức vụ mới này.
* *
*
Đoạn đường San Diego – Pearl Harbor dài mười một ngày với thời tiết và biển khá đẹp. Trước khi khởi hành, chúng tôi nhận được chỉ thị phải báo cáo nếu trông thấy loé sáng trên trời đêm khi tới gần Hạ-Uy-Di. Tuy chỉ thị không nói rơ, nhưng tôi biết lúc đó Hoa-Kỳ đang trắc nghiệm những vụ nổ nguyên tử trên thượng tầng khí quyển. Những vụ nổ này có thể chận đứng sự truyền luồng sóng điện trong một thời gian.
Một đêm, tôi đang ngủ trong pḥng ngủ hải hành (sea cabin) ngay dưới đài chỉ huy, th́ anh Rắc, sĩ quan đương phiên, báo cáo là thấy ánh sáng lóe trên trời về hướng Tây Nam. Khi tôi lên đến đài chỉ huy th́ chỉ c̣n thấy một đóm sáng nhỏ, nhưng cả nền trời bắt đầu chuyển sang màu cam giống như ráng chiều, mặc dù lúc là khoảng hai giờ sáng. Chúng tôi thấy có một cảm giác lạ lùng và rùng rợn! Sau này, khi anh Rắc qua đời v́ bệnh ung thư máu, tôi mới nhớ lại vụ thấy ánh sáng nguyên tử và thắc mắc không rơ có phải v́ ảnh hưởng phóng xạ nguyên tử hay không!
Theo lệnh hải hành, chiến hạm chỉ ghé Pearl Harbor ba ngày. Nhưng bơm nhớt của tàu bị nóng, cần sửa chữa ngay. Lúc đó là đầu tháng Bảy, tài khóa cũ đă hết mà ngân khoản sửa chữa dành cho tài khóa mới chưa được chấp thuận, cho nên Hải-Quân Công-Xưởng Pearl Harbor đề nghị chúng tôi ở lại thêm ba hoặc bốn ngày nữa. Vậy là chúng tôi được nghỉ tại Hạ-Uy-Di một tuần lễ.
Trong thời gian chúng tôi ở Hạ-Uy-Di, cụ Mai Thọ Truyền, hội trưởng Hội Phật-Giáo Việt-Nam, có ghé qua trên đường công du. Chúng tôi mời Cụ tới thăm chiến hạm và dùng cơm chay. Khi nghe nói lễ trao chiến hạm tại San Francisco, ngoài vị Tuyên-Úy Công-Giáo c̣n có một Tu-Sĩ Phật-Giáo tới làm lễ, Cụ không tán thành, cho rằng việc cầu an cho chiến hạm, tức là một chiến cụ, không thích hợp với giáo lư của đạo Phật. Chúng tôi phải giải thích rằng đây là lễ cầu an cho thủy thủ đoàn chứ không phải cho chiến hạm.
Sau bảy ngày xả hơi, chúng tôi rời thiên đường hạ giới để tiếp tục hải tŕnh hồi hương với chặng đường dài nhất. V́ thấy đoạn đường tương đối dài, tôi phân vân không biết có nên theo đường trực hành để tới Guam cho đỡ dài, hay theo đường tà hành cho giản tiện, nghĩa là cứ theo đúng một hướng, th́ có lệnh phải đi chếch lên phía Tây Bắc, tới gần quần đảo Midway rồi hăy đổi hướng để trực chỉ Guam. Chỉ thị này được ban hành có lẽ để chiến hạm tránh xa vùng thử bom nguyên tử ở phía Nam Midway. May thay, hải tŕnh này lại rất gần đường trực hành, cho nên tuy phải đi ṿng mà đường lại ngắn hơn. (Xin lỗi quư vị không quen thuộc với khoa hàng hải, v́ phải đọc những lư luận lẩm cẩm này của dân đi biển).
Đối với hầu hết chúng tôi, đoạn đường Hạ-Uy-Di – Guam, mười bảy ngày, có lẽ là đoạn đường dài nhất trong cuộc đời lênh đênh của ḿnh. Nếu Hải-Quân giúp chúng tôi học được đức kiên nhẫn th́ đây là bài học dài nhất. Để phá tan sự nhàm chán và buồn tẻ của cuộc sống hằng ngày, không trông thấy ǵ khác hơn là chân trời phẳng lặng bốn phía, ngoài việc trực phiên hải hành và tu bổ chiến hạm, chúng tôi phải kiếm ra những việc khác. Hữu ích nhất là việc học. Các sĩ quan và hạ sĩ quan thâm niên chia nhau huấn luyện nhân viên về chuyên môn cũng như văn hóa. Anh văn và toán là hai môn mà nhiều nhân viên muốn học.
Nhờ sàn tàu rộng, có nhiều tṛ giải trí và thực phẩm đầy đủ cho nên cuộc sống cũng dễ chịu. Môn giải trí đặc biệt có tính cách truyền thống Hải-Quân là lễ xuyên-nhật-đạo. Chiến hạm vượt qua đường đổi ngày vào khoảng một phần ba đoạn đường đi Guam. (Lịch thêm một ngày khi tàu vượt qua đường đổi ngày) Trên sàn chính có căng một sợi giây tượng trưng cho nhật đạo, hai bên có một số nhân viên hóa trang làm binh cua, lính cá của Đại-Hải Long-Vương. Nhân viên nào chưa hề qua đường đổi ngày – bằng tàu chứ không phải bằng máy bay – sẽ bị đám binh cua, lính cá xịt nước đầy ḿnh rồi rắc bột và đẩy cho chui qua giây nhật đạo giữa tiếng reo ḥ của bạn bè. Sau đó mỗi người được cấp một bằng xuyên-nhật-đạo do Đại-Hải Long-Vương ban. Lễ này có lẽ đă phỏng theo lễ xuyên-xích-đạo mà Hải-Quân các nước thường làm.
Đây là những thành tích mà thủy thủ thường tự hào. Ngoài nhật đạo và xích đạo, người ta c̣n ghi thành tích khi vượt qua ba mũi đất cực Nam (tức mũi Hảo-Vọng ở Phi-Châu, mũi Horn thuộc Nam Mỹ và mũi Tây Nam ở Úc) khi tới Nam Cực bằng tiềm thủy đỉnh lặn dưới lớp băng.
Ban hải hành, các sĩ quan trực phiên và tôi có môn giải trí là hàng hải thiên văn. V́ hải hành xa bờ và dụng cụ hải hành điện tử hơi thô sơ, chúng tôi tin vào hải hành bằng tinh tú hơn. Hằng ngày, đều đặn như một nghi lễ, chúng tôi định vị trí rạng đông, vị trí mặt trời, vị trí hoàng hôn và một đôi khi vị trí đêm bằng mặt trăng.
Làm điểm rạng đông và hoàng hôn tương đối chính xác nhất và cũng thơ mộng nhất; v́ đây là lúc chúng tôi đo và ngắm trăng sao. Các nhà thiên văn quan sát tinh tú bằng con mắt khoa học; các văn nhân, thi sĩ ngắm sao bằng con mắt lăng mạn; dân hải hồ nh́n trăng sao bằng cả hai con mắt đó. Chúng tôi dùng kính lục phân để đo cao độ tinh tú, rồi tính toán và kẻ đường vị trí, trong khi đó vẫn mơ ước lấy được “ngàn sao trên trời, kết thành chuỗi ngọc em đeo”. Khi t́m sao trời trong các nhóm Tiểu-Hùng-Tinh, Song-Nam, Nam-Tào hay các hành tinh, để đo cao độ, chúng tôi thường nghĩ đến cuốn Les Lettres de Mon Moulin với chú mục đồng thả hồn lên bầu trời lấp lánh sao đêm…
Chúng tôi nh́n vết bọt trắng sau lái tàu để phỏng tính độ giạt và cũng tưởng tượng đó là những bông hoa biển nở sau gót con tàu. Người thủy thủ không lấy mộng làm thực, hoặc lấy thực làm mộng, nhưng trong tâm trí họ, thực và mộng đă giao duyên với nhau.
Một môn giải trí khác được chúng tôi thực tập vài ba ngày một lần là nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở pḥng tai – cứu hỏa, cứu thương, cứu thủy – nhiệm sở đào thoát, v. v… Đây vừa là nhu cầu an ninh vừa là một cách làm cho đời sống hằng ngày trên chiến hạm bớt đơn điệu. Cũng để tránh đơn điệu, chúng tôi luôn luôn thay đổi đề tài thực tập và thay đổi giờ tập.
Một tṛ tiêu khiển khá phổ thông là đem quà mua được ra ngắm nghía và khoe nhau. Nhiều người cho rằng thủy thủ sống đời giang hồ nên ít chung t́nh. Thật là oan Thị Kính! Cứ nh́n mấy chàng lính biển nâng niu mấy hộp phấn son, quần áo, kể cả…đồ lót nữa, mới thầy rằng “càng đi xa anh càng nhớ em”. Các thủy thủ “bố trẻ con” th́ say sưa chơi thử đồ chơi mua về cho con, say sưa đến độ không biết bố khoái hơn hay con khoái hơn!
Nhờ những tṛ giải trí vừa kể, chúng tôi đă vượt qua đoạn đường dài nhất mà không cảm thấy buồn chán. Thời tiết tốt đều, biển khá đẹp, xứng đáng với tên Thái-B́nh-Dương, khiến cho chuyến đi này khá hứng thú.
Khi gần tới Guam, thời tiết trở nên xấu. Đây là lúc cần định vị trí thiên văn hơn hết để đáp bờ cho chính xác th́ mây mù đă đuổi trăng sao và mặt trời đi chơi chỗ khác. Mưa rào khắp nơi khiến màn ảnh radar trắng xóa, không c̣n thấy bờ đâu nữa. Hải tŕnh như vậy vào ban đêm, giữa vùng biển lạ, nhiều đảo nhỏ - quần đảo Mariana - và ḍng nước chảy mạnh, quả là vất vả. Kể ra, chúng tôi có thể chạy chậm lại để chờ sáng mới bắt đầu đáp bờ cũng được, nhưng coi bộ ai cũng nóng ḷng tới bến sau một chặng đường khá dài, nên đành chịu khó vận dụng hết kinh nghiệm hải hành chính xác để tiến tới Guam ngay trong đêm đó.
Sáng sớm, khi tàu tới ngoại cảnh th́ trời đẹp trở lại. Ở đây hải đồ nội cảng được bỏ trắng v́ lư do an ninh.
Khi chiến hạm cặp bến, một đoàn trẻ em thuộc gia đ́nh Hải-Quân Mỹ đón tiếp chúng tôi bằng những chuỗi hoa đeo cổ (lei) và các vũ điệu Hạ-Uy-Di. Họ đón tiếp nồng hậu và đưa chúng tôi đi xem thắng cảnh. Đáng kể nhất là Trung-Tâm Kiểm-Báo miền Tây Thái-B́nh-Dương. Trung tâm này được đặt tại đây v́ vùng này là nơi xuất phát của hầu hết các trận băo tiến về phía Phi-Luật-Tân, Việt-Nam, Trung-Hoa hoặc Nhật-Bản. Nhờ có phương tiện đầy đủ như máy bay, đài radar, hệ thống liên lạc với các đài khí tượng, v .v…Trung tâm phát giác các trận băo mới phát sinh, đặt tên cho chúng, theo dơi, tiên đoán hướng đi, tốc độ và thông báo cho các quốc gia và tàu bè chạy trong vùng. Chính những bản tin khí tượng này đă bảo vệ Hải-Quân chúng ta hằng năm trong mùa băo. Cuộc thăm viếng này được chúng tôi chú tâm đặc biệt, v́ đoạn đường sắp tới nằm trong vùng băo và mùa băo cũng bắt đầu. Chúng tôi đă học hỏi khá nhiều về những trận băo giết người này.
Sau ba ngay nghỉ bến, chúng tôi đến Guam với thời tiết đẹp. Nhưng chỉ nửa ngày sau đă được báo tin có một trận băo phát sinh ở phía trước chúng tôi và được khuyến cáo chạy chậm lại một chút để tránh biển xấu. Chính trận băo này đă tàn phá miền Trung Phi-Luật-Tân trước khi chúng tôi tới. Mới chạy chậm được hơn một ngày th́ lại có tin một trận băo khác mới ra đời và theo sau gót chiến hạm. Chúng tôi phải tăng vận tốc để giữ khoảng cách giữa hai trận băo. Sau khi được nghe giảng dẫn tường tận về các trận băo nhiệt đới tại Trung-Tâm Kiểm-Báo với tất cả những ǵ đáng sợ về chúng, để rồi đi vào vùng này, chúng tôi có cảm tưởng như đi đêm vào nghĩa địa sau khi nghe kể chuyện ma! Và bây giờ lại có hai con ma kèm sandwich chúng tôi nữa. Tuy nhiên đây chưa phải là điều đáng sợ. Điều mà chúng tôi e ngại nhất là khi chui qua eo San Benardino để vào nội hải Phi-Luật-Tân mà con ma sau đuổi kịp và con ma trước nằm chềnh ềnh gần đó th́ hết lối chạy.
Cũng may, khi chúng tôi tới gần Phi-Luật-Tân th́ trận băo trước đă tan, c̣n trận băo sau đă bye bye, chạy ṿng lên hướng Bắc. Nh́n vết tàn phá của trận băo trước tại Phi, với nhiều tàu bè bị đưa lên cạn hoặc nhận ch́m, mới thấy hú vía.
Chiến hạm ghé Subic Bay ba ngày trước khi về Saigon. Đây là chuyến tàu vét cho những ai c̣n nặng nợ với Navy Exchange, cũng như đối với ban tiếp liệu của chiến hạm v́ đây là căn cứ tiếp liệu cuối cùng của Hải-Quân Mỹ trước khi chúng tôi hồi hương.
Đoạn đường chót của hải tŕnh hồi hương cũng là đoạn đường ngắn nhất. Tại Subic cũng như trên đoạn đường này chúng tôi phải làm sạch sẽ trong ngoài và sơn phết lại chiến hạm để về Saigon với bộ mặt bảnh bao hơn. Tuy là đoạn đường ngắn nhất nhưng ai nấy đều có vẻ nóng ḷng, hồi hộp chờ mong ngày tới quê nhà,
Để mọi người khỏi sốt ruột, anh Du, trưởng ban hải hành hằng ngày thông báo cho mọi người qua hệ thống phóng thanh các chi tiết về vị trí, khoảng đường c̣n lại và ngày giờ phỏng định đến bến. Khi anh báo rằng sắp trông thấy bờ biển Việt-Nam vùng Phan-Thiết, mọi người đều đổ lên sàn chính để canh. Khi mới trông thấy bờ ai nấy đều reo ḥ. Có lẽ ngày xưa, khi Columbus thấy Châu-Mỹ, thủy thủ đoàn cũng chỉ mừng đến thế là cùng!
V́ lư do kỹ thuật và thời tiết, chiến hạm về đến Saigon trễ hơn giờ dự trù chừng bốn tiếng, khi cập cầu trời đă tối. Ḍng nước không thuận tiện, mà trong ḷng lại hồi hộp khi thấy thân nhân nóng ḷng chờ đợi trên bờ, chúng tôi cảm thấy khá vất vả. Tuy nhiên trong ḷng ai cũng vui, và người vui nhất có lẽ là tôi, v́ đă trở về sau hơn một năm rưỡi xa nhà.
Hải tŕnh dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của chúng tôi chấm dứt với hồi c̣i giải tán nhiệm sở vận chuyển. Tính ra chiến hạm đă vượt qua khoảng chín ngàn hải lư, trong 52 ngày, xuyên qua đại dương lớn nhất, sâu nhất và cũng … thiên đàn nhất. Nhưng đối với tôi, cái nhất…nhất là thủy thủ đoàn và bộ-tham-mưu chiến hạm. Đó là niềm hănh diện của tôi trong suốt thời gian nhận lănh chiến hạm, huấn luyện và hoạt động với Hải-Quân Hoa-Kỳ. Tinh thần trách nhiệm và cầu tiến của nhân viên chiến hạm đă khiến toán huấn luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ phải nể v́. Trước khi chia tay tại San Diego, vị sĩ quan trưởng toán huấn luyện lưu động đă nói với tôi: “Ông có thể tự hào là đă có một thủy thủ đoàn học hỏi nhanh và thực hành rất đúng. Thú thật với ông, khi tôi mới gặp họ ở San Francisco, tôi không ngờ là họ lại có thể đạt được kết quả huấn luyện tốt đẹp như vậy.”
Lời khen trên được nhắc lại để riêng tặng tất cả nhân viên đă cùng tôi nhận lănh Dương-Vận-Hạm Cam-Ranh, HQ 500, cách nay hơn một phần tư thế kỷ. Giờ đây một số đă vĩnh viễn nằm xuống, một số c̣n kẹt lại quê nhà, và số c̣n lại may mắn thoát ra được hải ngoại. Ước mong chúng ta sớm có ngày tái ngộ trên quê hương thanh b́nh và tự do để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm vui buồn trong cuộc đời sông biển
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân Hoa-Kỳ (United States Naval War College)
Lời giới thiệu: Cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân V.N.C.H. xuất thân khóa I Hải-Quân Nha-Trang. Ông là một trong số rất ít sĩ quan cao cấp Hải-Quân Việt-Nam c̣n giữ được mối liên lạc mật thiết với Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân-Hoa-Kỳ.
Bài biên soạn công phu sau đây của cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh sẽ giúp độc giả thấu triệt được nhiều điều hữu ích về ngôi trường quân sự mà hầu hết các cấp lănh đạo Hải-Quân V.N.C.H. đều đă theo học.
“Viribus Mare Victoria” (Chiến thắng của con người trên đại dương) là phương châm của một cơ quan huấn luyện cao cấp nhất trong Hải-Quân Hoa-Kỳ: Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến (CĐHC) Hải-Quân Hoa-Kỳ.
Trường CĐHC tọa lạc trên bán đảo Coaster Harbor Island của thị xă Newport, nằm trong vịnh Narragansett thuộc Rhode Island, một tiểu bang nhỏ nhất của Hoa-Kỳ. Thị xă Newport, đặc biệt vào mùa Hè, là một địa danh nổi tiếng trong ngành du lịch, nhờ khí hậu tương đối mát mẻ; những băi biển cát trắng, nước trong; và những lâu đài lộng lẫy như The Elms, The Breakers, The Marble House, Chateau-Sur-Mer, Rose Cliff, v. v… Newport cũng là nơi hội ngộ của những tay đua thuyền buồm quốc tế vào những dịp tổ chức America’s Cup.
Trường CĐHC có đầy đủ tiện nghi về huấn luyện và tiếp vận cũng như tại hầu hết các Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ. Viện Trưởng là những sĩ quan cấp Đô-Đốc thâm niên, hầu hết sau nhiệm kỳ chỉ huy Trường CĐHC, những vị này đều về hưu.
Được thành lập vào năm 1884, Trường CĐHC thoạt tiên được tổ chức để huấn luyện sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học các khóa tham mưu (staff) và chỉ huy (command) dựa trên những căn bản chiến thuật và chiến lược hải chiến để tổ chức những cuộc hành quân
Đến năm 1956, Trường CĐHC mở thêm những khóa huấn luyện cho sĩ quan Hải-Quân quốc tế đồng minh của Hoa-Kỳ. Cơ cấu Trường CĐHC được hia thành hai khối:
Trường Tham-Mưu Hải-Quân (Naval Staff College)
Trường Chỉ-Huy Hải-Quân (Naval Command College – NCC)
Riêng về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân th́ có hai phần riêng biệt dành cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ (HQHK) thuần túy (1) và sĩ quan Hải-Quân Đồng-Minh (2).
Để có nhiều ư nghĩa liên quan mật thiết với Hải-Quân V.N.C.H., bài này được viết trên căn bản không gian và thời gian của kỷ niên 1965 và đặc biệt chú trọng nhiều hơn về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân dành cho sĩ quan Hải-Quân đồng minh tại Trường CĐHC.
Trường CĐHC/HQHK huấn luyện những sĩ quan Hải-Quân cấp tá thâm niên, để chuẩn bị cho họ một căn bản chỉ huy dựa trên những lư thuyết chiến thuật và chiến lược quốc tế hiện đại.
Khóa học kéo dài 11 tháng, gồm những phần chính yếu như:
Thuyết giảng về chiến thuật tác chiến của các quân binh chủng bạn có liên hệ đến hoạt động của Hải-Quân.
Lập trận đồ và chỉ huy hạm đội tham chiến (War Games).
Đi quan sát các cơ cấu quân sự quốc pḥng thuộc hệ thống pḥng thủ Hoa-Kỳ.
Viếng những cơ sở kỹ nghệ chiến tranh trong nước và ngoài nước. (Field trips)
Viết một bài luận án theo các đề mục tùy ư về quân sự, kinh tế, ngoại giao, v. v…
Khóa sinh đến Trường CĐHC như một sứ giả của quốc gia ḿnh; v́ tất cả khóa sinh đều được hưởng quy chế đặc miễn chính thức dành cho một ngoại giao đoàn quốc tế hợp lệ. Ngoài quyền tự do di chuyển, khóa sinh c̣n được tự do phát biểu ư kiến ngay tại quân trường vào những dịp khóa sinh hội thảo những đề tài trong chương tŕnh huấn luyện và trong những dịp thuyết tŕnh tại các trường trung học địa phương hay tại pḥng Thương Mại Newport mà khóa sinh được Lions Club hoặc Rotary Club mời như một thuyết tŕnh viên danh dự.
Những ư kiến mà khóa sinh đă phát biểu trong những dịp hội thảo – kể cả trong luận án – sẽ không được tiết lộ hoặc phổ biến nếu không có sự chấp thuận của tác giả.
Trong nhiều cuộc hội thảo chính thức, khóa sinh thẳng thắn chỉ trích chính sách ngoại giao của Hoa-Kỳ, đường lối Hoa-Kỳ viện trợ cho các quốc gia nhược tiểu và chính sách thương mại và trao đổi với quốc tế. Đến khi đàm đạo trong những dịp “trà dư tửu hậu” giữa khóa sinh và sĩ quan cán bộ HQHK, những chỉ trích về phương diện giáo dục và xă hội của Hoa-Kỳ lại được tiếp tục. Ư niệm chung của khóa sinh là: “Chúng tôi đến đây với tư cách là đồng minh của Hoa-Kỳ để hấp thụ những kinh nghiệm quư báu của Hải-Quân Hoa-Kỳ trong những trận thế chiến đă qua; nhưng chúng tôi không hoàn toàn đồng đồng ư trên nhiều vấn đề mà quốc gia của chúng tôi có nhiều ưu điểm hơn.”
Mặc dù có nhiều dị biệt tư tưởng giữa khóa sinh đồng minh và sĩ quan huấn vụ, sau cùng t́nh thân hữu ngày càng nẩy nở tốt đẹp suốt khóa học. Tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ” bao trùm không khí khóa học, làm cho khóa sinh và sĩ quan huấn vụ quân trường thông cảm và hiểu biết nhau hơn, khắng khít nhau hơn, để sau cùng tạo ra một “Tinh thần Trường Chỉ-Huy Hải-Quân Newport”. (“The Spirit of The Naval Command College).
Điểm tế nhị nhất là không hề xảy ra những xung đột hoặc đả kích công khai nào giữa các khóa sinh tụ họp từ bốn phương trời, mang nhiều màu sắc khác biệt, không cùng ngôn ngữ, tuổi tác chênh lệch và đang có những rắc rối về vấn đề chính trị quốc gia.
Thật vậy, trong khóa học năm 1964-1965 có bốn quốc gia đang trong t́nh trạng tranh chấp lănh thổ với nhau. Đó là Thổ-Nhỉ-Kỳ với Hy-Lạp và Ấn-Độ với Pakistan. Tuy nhiên, trong suốt khóa học, mặc dầu sự thân t́nh giữa đại diện các quốc gia này không được biểu lộ một cách sâu đậm, nhưng trái lại cũng không hề xảy ra một cuộc đụng chạm nào.
V́ thời gian thụ huấn khá dài, khóa sinh thuộc các quốc gia Âu-Châu, Mỹ-Châu và Trung-Đông đem theo gia đ́nh khi đến nhập học. Khóa sinh các nước Á-Châu và Phi-Châu, có thể v́ t́nh trạng kinh tế và chính trị, không đem theo gia đ́nh.
Khóa sinh đến tŕnh diện nhập khóa và lập thủ tục tại Luce Hall. Luce Hall là bộ chỉ huy và cũng là cơ quan hành chánh của Trường CĐHC. Tại Trường CĐHC, khóa sinh được theo quy chế ngoại trú, được tự do sinh hoạt nơi nào ḿnh thích, miễn là phải tham dự đầy đủ những giờ thuyết giảng tại Trường hoặc tháp tùng những chuyến đi quan sát xen kẻ trong chương tŕnh huấn luyện.
Sự tiếp đón của Trường CĐHC được tổ chức rất chu đáo và có vẻ trịnh trọng ngay từ khi khóa sinh vừa đến phi trường Providence, thủ đô của Rhode Island, để đưa về tạm trú tại BOQ, chờ hoàn tất thủ tục nhập khóa. Sĩ quan thuộc Bộ-Tham-Mưu quân trường được chỉ định làm cố vấn cho mỗi khóa sinh về phương diện huấn luyện cũng như những vấn đề tổng quát khác như thuê nhà, mua xe, mua bảo hiểm, v. v…
Khóa học bắt đầu vào giữa tháng Tám.
Sinh hoạt của khóa sinh bắt đầu từ giảng đường tại Simms Hall để nghe thuyết giảng về chiến thuật và chiến lược hải chiến. Trưa, sau bữa ăn tại câu lạc bộ sĩ quan là những giờ dành cho việc khảo cứu tài liệu mượn từ thư viện Mahan Hall đem về văn pḥng riêng của mỗi khóa sinh. Những đề tài thuyết giảng chiến thuật và chiến lược rất bao quát và ngoạn mục với phim ảnh do thuyết tŕnh viên tŕnh bày.
Trong những dịp hội thảo toàn khóa, một hội trường rộng lớn được xử dụng và trang trí như dành cho một Đại Hội Đồng quốc tế nhóm họp. Mỗi khóa sinh có một bàn riêng, được trưng bày Quốc-Kỳ và bảng tên của ḿnh. Mọi sự sắp xếp đều theo mẫu tự, không có sự phân biệt cấp bậc hoặc quốc gia của khóa sinh. Tại Mahan Hall và Luce Hall, quốc kỳ các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ được dương cao, trong số đó lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay…
Sau nhiều tuần huấn luyện tại Trường, khóa sinh bắt đầu đi quan sát. Phương tiện di chuyển hầu hết là phi cơ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Những phi cơ này sẵn sàng tại căn cứ Nagaransett Naval Air Station trên đảo Connecticut, bên kia vịnh về hướng Tây.
Thời gian 1965, Newport Bridge dài hai miles nối liền bán đảo Newport với đảo Connecticut chưa được xây cất, khóa sinh dùng tiểu đỉnh của Naval Base để sang đảo. Đôi khi Trường lại dùng xe chuyên chở công cộng đưa khóa sinh sang phi trường, nhưng phải dùng chiếc phà Jamestown Ferry để qua đảo Connecticut.
Ngày nay Newport Bridge tối tân đă thâu ngắn thời gian di chuyển từ Newport qua đảo Connecticut, nhưng đă vô t́nh xóa đi h́nh ảnh thơ mộng của chiếc phà Jamestown Ferry với đoàn hải âu lượn quanh t́m mồi do hành khách rải xuống biển.
Những chuyến đi quan sát thường kéo dài trọn tuần lễ. Nào Bermuda thuộc Anh-Cát-Lợi nằm giữa Đại-Tây-Dương, đến Roosevelt Roads Naval Air Station ở Puerto Rico nằm trong biển Caribbean, rồi trở về Key West Naval Station và Miami thuộc Florida. Có lần sang Ottawa, thủ đô Gia-Nă-Đại rồi trở về miền Trung Bắc Hoa-Kỳ để viếng các xưởng kỹ nghệ sản xuất xe thiết giáp và quân xa đủ loại tại Detroit, Michigan. Tiếp đến là viếng Bộ-Chỉ-Huy Không-Quân Chiến-Lược (Strategic Air Command) đặt sâu trong ḷng núi đá ở Nebraska. Trong chuyến đi miền Tây, đến vùng Bắc California viếng căn cứ chiến thuật Không-Quân với hệ thống tiếp vận tân tiến rồi sang thăm quốc hội California và Thống-Đốc Ronald Reagan tại Sacramento. Đi về miền Nam California th́ viếng những cơ xưởng chế tạo phi cơ tác chiến ở Los Angeles và Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-B́nh-Dương tại San Diego. Chuyến đi kế tiếp lại sang miền Đông quan sát những cuộc biểu diễn hành quân tại các Căn-Cứ Thủy-Quân Lục-Chiến (Camp Le Jeune) và Lưc-Lượng Đặc-Biệt (Fort Bragg) ở North Caroline; viếng Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội Đại-Tây-Dương đặt ở Norfolk, xưởng kỹ nghệ đóng tàu tại Newport News, nơi chế tạo hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đỉnh nguyên tử; viếng Williamsburg, thủ đô đầu tiên của tiểu bang Virginia. Đi dần về miền Đông Bắc, viếng thủ đô Hoa-Thịnh-Đốn với Quốc-Hội và Ṭa Bạch-Ốc, rồi Ngũ-Giác-Đài. Chuyến kế tiếp được viếng Nữu-Ước hoa lệ với ṭa nhà Liên-Hiệp-Quốc, thị trường chứng khoáng Wall Street, tượng Nữ Thần Tự-Do trước khi trở về New London, tiểu ban Connecticut để quan sát Căn-Cứ và Trung-Tâm Huấn-Luyện Tiềm-Thủy-Đỉnh. Khóa sinh được dịp ra khơi bằng Tiềm-Thủy-Đỉnh và quan sát cuộc thực tập tác chiếc có xử dụng ngư lôi.
Tại mỗi nơi thăm viếng khóa sinh được tiếp đón nồng hậu và chu đáo. Các vị Thống Đốc, Thị Trưởng, Tư-Lệnh quân chủng hay Chỉ-Huy-Trưởng cơ quan thường có mặt để tiếp đón phái đoàn khóa sinh. Trong những buổi dạ tiệc, quà kỷ niệm, chứng chỉ Công Dân Danh Dự và ch́a khóa vàng của thành phố được trao tặng cho mỗi khóa sinh.
Từ năm thành lập cho đến nay (1990), Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đă huấn luyện được 35 khóa học liên tiếp, với 1.045 khóa sinh thuộc 70 quốc gia trên thế giới. Trong tổng số khóa sinh có 545 người đă được thăng cấp Đô-Đốc Hải-Quân hoặc Tướng Lănh Lục-Quân và Không-Quân. Hai mươi sáu người giữ chức Tổng Bộ Trưởng trong chính phủ hoặc làm Đại-Sứ. Đặc biệt có một cựu khóa sinh đă trở thành Tổng Thống!
Lư thuyết và kinh nghiệm thâu nhận được sau những chuyến đi quan sát và t́nh thân hữu nẩy nở trong khối khóa sinh quốc tế là những điểm son khóa sinh mang về khi hồi hương. Những kỷ niệm vui buồn cũng giúp thêm nhiều màu sắc rực rỡ cho bức tranh kỷ niệm của Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ. Bất cứ một sĩ quan nào đă tu nghiệp tại Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đều không thể quên được phương châm đặc biệt của Trường: Populos Mare Jungit. (Con người triền miên với biển cả).
1. Gồm một số sĩ quan Thủy-Quân Lục-Chiến (U.S. Marine Corps), sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và công chức cáo cấp quốc pḥng
2. Gồm một số sĩ quan Lục-Quân và Không-Quân của vài quốc gia đồng minh.
Danh sách sĩ-quan Hải-Quân V.N.C.H.
từng tu nghiệp tại Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ
Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Chơn 1959-1960
Hải-Quân Trung-Tá Chung Tấn Cang 1960-1961
Hải-Quân Trung-Tá Đặng Cao Thăng 1961-1962
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đức Vân 1962-1963
Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Phấn 1963-1964
Hải-Quân Trung-Tá Lâm Ngươn Tánh 1964-1965
Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng 1965-1966
Hải-Quân Trung-Tá Khương Hữu Bá 1966-1967
Hải-Quân Trung-Tá Vũ Đ́nh Đào 1967-1968
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Hữu Chí 1968-1969
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Xuân Sơn 1969-1970
Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Xuân Phong 1970-1971
Hải-Quân Đại-Tá Ngô Khắc Luân 1971-1972
Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên 1972-1973
Hải-Quân Đại-Tá Phan Văn Cổn 1973-1974
Hải-Quân Đại-Tá Dư Trí Hùng 1974-1975
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.