Tôi muốn chia sẻ những trải nghiệm thực tế của ḿnh để mọi người có thêm những góc nh́n khác về nghề nail, về cuộc sống ở Mỹ. Cách đây ba năm khi chồng tôi được chấp nhận qua Mỹ, tôi vui thì ít mà trong tâm nhiều phần xáo trộn, lo toan.
Cả tháng trời không ngon giấc v́ đắn đo: đi hay không? Không đi thì vô tình dập tắt hoài bão của chồng. Mà đi th́…
Thôi, tôi quyết tâm ủng hộ kế hoạch của bạn đời và thêm lần nữa, dấn thân mình vào guồng quay mới, dù thật sự lúc đó bản thân tôi chưa biết phải bắt đầu cuộc sống nơi đất khách như thế nào khi mà vốn ngoại ngữ của mình chỉ ở mức giao tiếp cơ bản.
Ba mươi tuổi bước chân vào đất nước lạ nó khác với mười tuổi. Nếu bắt đầu mọi thứ bằng việc đi học e rằng còn là một quá trình dài hơi, xa vời vợi.
Hơn nữa, chúng tôi còn một đứa con gần hai tuổi, việc trước tiên phải giải quyết là vấn đề tài chính, chi tiêu cho cả nhà. Vì vậy, tôi cần có việc làm. Mà làm gì? Ở đâu có thể nhận một người không bằng cấp như ḿnh?
Đa phần người Việt ở lứa tuổi dở dang như tôi chọn nghề nail (chăm sóc móng) vì giờ giấc linh hoạt, thu nhập theo khả năng lại có thời gian chăm sóc con cái.
Bản thân tôi khi c̣n ở nhà nghe đến việc qua Mỹ làm nghề nail th́ cái bụng không ưng lắm. Cái đầu tôi khi đó c̣n giữ khư khư định kiến: “Đang yên lành làm nghề viết chữ nghĩa tự do, mắc chi qua chốn người ta lao tâm khổ cực đi dũa móng cho người?”. Nhưng trong hoàn cảnh này, so sánh với thực tại các ngành nghề khác ở Mỹ mà một người như tôi có thể làm được th́ chỉ có thể là nghề nail Tháng đầu tiên học việc ở tiệm nail của anh em trong nhà. Người khách đầu tiên tôi phục vụ là một cụ già tám mươi tuổi, tay chân đã bắt đầu không thể tự chủ nhưng trí óc còn khá minh mẫn.
Người Mỹ vốn ngại những thợ móng mới biết làm, nên tôi cố gắng giữ tay mình thật bình tĩnh, cầm kìm cắt da nhịp nhàng như thợ lâu năm, miệng cố gắng tươi cười giao tiếp trong sự tự nhiên thân thiện. Tôi xong việc thì mới biết cụ bà vốn là một giáo viên dạy nghề nail trước đây, vì vậy những gì tôi thao tác nảy giờ như là “múa rìu qua mắt thợ”.
Nhưng bà vẫn trìu mến: “mày làm tốt lắm, cứ làm nhiều vào thì sẽ có kinh nghiệm thôi, đừng lo lắng quá”… Người Mỹ hiếm lắm mới có thể tự chăm sóc móng cho mình, đa phần họ đến tiệm nhờ nhân viên chăm sóc. Xă hội Mỹ là xă hội của phân công dây chuyền, ai có riêng phần lĩnh vực của họ. Có lẽ v́ vậy, đến tiệm làm đẹp cho móng là chuyện hiển nhiên phụ nữ Mỹ cần làm sau mỗi tuần. Từ bà lao công, tài xế xe tải, cho đến nhân viên văn phòng.
Đám cưới, sinh nhật, hội hè, tốt nghiệp, du lịch…, cứ có sự kiện đặc biệt, việc đầu tiên họ nghĩ là đến tiệm làm đẹp cho móng. Đôi khi, họ đến tiệm nail vì muốn thư giăn, chuyện trò. Có những cụ bà sống một mình, thi thoảng con cháu mới về thăm thì tiệm làm nail chính là nơi họ lái xe đến trút vơi nỗi cô độc. Đến từ nhiều mảng, miếng trong xă hội nên khách làm móng cũng nhiều thành phần, đơn thuần có mà phức tạp cũng không ít.
Nếu là sinh viên, y tá thì chân tay sạch sẽ nhưng những người phục vụ quán ăn, lau chùi th́ móng tay, móng chân cũng ít nhiều biểu hiện tính chất công việc của họ.
Có bà khách tuổi chừng năm mươi, làm nghề chế biến hải sản trong siêu thị, có bữa vội vàng mặc nguyên bộ đồ lao động vào tiệm làm móng với cả cơ thể bốc mùi tanh của cá.
Tiệm nail chừng mấy chục mét vuông ngóc ngách nào cũng toàn mùi cơ thể của bà. Không dám chê pha lên tiếng, thợ làm móng chỉ biết mang mấy lớp khẩu trang, đắp cho xong bột ở mười ngón tay. Bà khách ra về với lời xin lỗi rối rít:
“Tiệm mày gần đóng cửa mà nhà tao xa quá không về kịp thay đồ”. Lần sau bà đến đổi bột cho móng, không mặc lại bộ đồ lao động bốc mùi cá kia nữa v́ ngại ảnh hưởng người khác.
Không ít lần khách của tôi là những cụ ông ở viện dưỡng lão, bị bệnh tiểu đường lâu năm chân sưng phù căng bóng, hằn nổi rơ những vân máu, móng chân cong dài, long lở, da bong tróc, chỉ cần sơ ý mũi kìm thì máu sẽ tuôn không cầm.
Tôi nín thở, cẩn thận đưa nhẹ mũi kìm như quét sợi lông lên da khách, mát xa một cách nhẹ nhất có thể.
Có khi cả tiếng đồng hồ mới xong cái chân. Xong việc, thấy đôi chân mình sạch bong, nhẹ nhàng, ông cụ trào nước mắt cảm ơn, vì có con cháu nào giúp ông chuyện này ngoài nhân viên làm móng.
Xứ Mỹ này lạ lắm, bị UᏁᎶ THư , cuộc sống coi bệnh viện là nhà nhưng cứ đến hẹn, nữ bệnh nhân đó lại lưng đeo b́nh oxy, mũi mang ống thở, ngồi xe lăn đến tiệm làm móng. Ngày mai đến bệnh viện sinh em bé, nay tranh thủ mang cái bụng bầu sắp vỡ đi làm đẹp chân tay.
Ngày mai tiễn biệt một người quen về chốn vĩnh hằng, hôm nay ra tiệm dũa lại tay chân cho tươm tất. Người Mỹ có thể ăn vận xuề x̣a, nhưng những cuộc đón đưa, tiễn biệt hay tiệc tùng ǵ th́ móng tay, móng chân phải chỉn chu, sạch đẹp.
Nghề làm nail là một dịch vụ, tất nhiên phải có kẻ yêu, người ghét. Có người lượng thứ bỏ qua nếu ḿnh phục vụ không tốt nhưng cũng lắm kẻ ngang nhiên quỵt tiền trước mặt mà thợ móng chỉ biết ngậm ngùi chịu đựng.
Tôi chọn nghề nail vì nghề này không chỉ mang lại cho tôi thu nhập mà c̣n thêm thời gian chăm sóc con cái. Tôi có thể làm cuối tuần hoặc vào những ngày rảnh rỗi. Tôi có nhiều cơ hội trò chuyện với người bản xứ, hiểu tâm tư cũng như văn hóa, lối sống của họ.
Nếu như thời gian đầu tôi lén nhăn mặt, nín thở khi gặp một bàn chân nặng mùi, hôi bẩn th́ giờ tôi xem đó là việc ḿnh phải làm hết ḿnh, giúp cho đôi chân nọ được sạch sẽ như chính tôi đang chăm sóc cho người thân của ḿnh.
Thay v́ trăn trở “tại sao ḿnh theo cái nghề này mà không phải một việc an nhàn trong văn pḥng nào khác”, tôi lại cảm giác áy náy nếu lỡ may mười ngón chân nọ ḿnh chọn màu không khéo. “Chớ nên g̣ bó suy nghĩ của ḿnh ở một chỗ hạn hẹp nào đó, nghề nail cũng là một nghề làm đẹp cho người”. Lời khuyên của bà cụ tám mươi tuổi, vị khách đầu tiên tôi vào nghề.
Đôi lúc ngồi nh́n lại, tôi tự so sánh ḿnh bây giờ và trước kia. Trước khi qua Mỹ, tôi làm nghề viết, đi đó khắp nơi, tự do như cánh chim. Con cái sinh ra có bà ngoại chăm giúp, đi làm về c̣n ghé ngược ghé xuôi cà phê cùng đám bạn, chẳng chút nhọc nhằn.
Tôi lúc này, sáng bảy giờ đă bật ḿnh trở dậy, nấu nướng, gói thức ăn, đùm túm đưa con đi học, đi làm, cuối ngày trở về vẫn tất bật tắm rửa, cho con ăn rồi cho chúng đi ngủ kịp giờ. Mười lăm phút dành cho bản thân đă là xa xỉ.
Quần quật như một con robot nhưng tại sao tôi lại chấp nhận? Tôi trưởng thành, linh hoạt hơn, biết cách xoay trở cuộc sống, không ù ĺ, không ỉ lại, có kế hoạch rơ ràng, nhờ vậy mà cảm thấy cuộc sống có ư nghĩa hơn. Ví như khi tôi hoàn thành một bộ móng, khách hài ḷng, là tôi đă thấy vui. Đó là cảm giác thật, không phô trương bay bổng mây gió như thời c̣n mộng mơ trang viết.
Mỹ không phải thiên đường, xứ sở này chỉ tạo cơ hội cho những người chăm chỉ, và các giá trị được ngang bằng nhau. Ở đâu cũng vậy, nếu không làm việc, không đi lên từ sức lực của ḿnh, không có sự cố gắng của bản thân th́ chốn nào bạn cũng thấy từng ấy những bế tắc.
Cường độ làm việc và thời gian là hai vấn đề bạn cần xử lư một cách nhạy bén khi ở Mỹ. Tôi cũng không ít lần mắc kẹt trong mớ ḅng bong giữa việc làm, việc nhà, con cái, chuyện xe cộ lưu thông… mà cả ngàn phụ nữ Mỹ có con nhỏ đều như thế. Lúc này mà cứ so sánh, tiếc nuối th́ chẳng được ǵ. Cứ giải quyết từng việc nhỏ, ưu tiên việc ǵ trước tiên, việc ǵ không đáng th́ bỏ qua… Rồi tôi cũng thoát được cảnh vừa đón con vừa ăn tối trên xe
Tất nhiên tôi cũng có một kế hoạch dài hạn cho ḿnh chứ không chỉ quanh quẩn cuộc đời bên tiệm nail, nghề nail. Kế hoạch lớn theo sự phát triển của mấy đứa con. Trước mắt, nh́n nhận chúng lớn khôn mỗi ngày một cách an toàn, với tôi đó là sự đánh đổi có ư nghĩa. Tôi không khuyến khích, ủng hộ ai chọn con đường tiến thân bằng cách qua Mỹ. Nếu đâu đó bạn t́m thấy mục đích sống có giá trị th́ hăy yên vị ở đó phát huy. C̣n nếu khi đă dấn thân, hăy t́m cách bước tới. Miền đất nào cũng không nỡ chối bỏ những người chăm chỉ, và thiên đường th́ chỉ có trên tay ta.
Nếu chọn nghề nail, hăy thương yêu nó!
VietBF@sưu tập