HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .
Cho dù không có vấn đề ǵ khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm ǵ để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .
I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN
Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh. Điều quan trọng là biết làm ǵ, làm thế nào để trị liệu, và khi nào th́ cần t́m kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.
1) B̉ CẠP CẮN (SCORPION BITES)
Ḅ cạp là loại côn trùng nhiều chân có h́nh dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ng̣i / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được t́m thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).
Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết ḅ cạp cắn:
1. Rửa vùng bị ḅ cạp cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước
2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị ḅ cạp cắn trong ṿng 10 phút , nếu cần thiết th́ lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .
3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng ǵ
2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)
Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này th́ dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .
Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)
Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hăy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve
2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước.
3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)
Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tṛn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt ḅ" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .
CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh
MỘT VACCIN CHỐNG LẠI BỆNH CAO HUYẾT ÁP ĐANG ĐƯỢC NGHIÊN CỨU
Một thử nghiệm lâm sàng của một vaccin nhằm chống lại bệnh cao huyết áp cho những kết quả hứa hẹn. Các nhà nghiên cứu châu Âu đang trên hướng t́m ra một thuốc chủng, dựa trên một phần tử giống virus, chống lại angiotensine II. Đây là công tŕnh nghiên cứu đầu tiên chứng tỏ rằng sự tiêm chủng chống lại một tác nhân có tác dụng vận mạch nội tại, cho phép làm giảm huyết áp trên người.
Việc nghiên cứu các vaccin chống lại các bệnh lư không nhiễm khuẩn từ nay thuận buồm xuôi gió. Đặc biệt, đó là trường hợp của cao huyết áp. Một thử nghiệm lâm sàng đầu tiên trên người, của một vaccin nhằm chống lại một trong các protéine chịu trách nhiệm rối loạn sinh lư này, angiotensine II, vừa được công bố trong The Lancet bởi nhóm nghiên cứu của Martin Bachmann (Cytos Biotechnology,Thụy Sĩ).
Thật vậy, mặc dầu có các thuốc thuộc thế hệ mới rất hiệu quả chống lại enzyme de conversion de l’angiotensine hoặc có khả năng phong bế các thụ thể của phân tử chủ yếu này trong việc kiểm soát huyết áp, nhưng tất cả mọi điều không phải là đơn giản như thế trong thực tế. Bởi v́ để chống lại căn bệnh giết người thầm lặng, không gây một triệu chứng nào này, bệnh nhân phải uống các viên thuốc mỗi ngày mà không cảm thấy được mối lợi tức thời.
Và chính đó là điều chủ yếu, các nhà nghiên cứu Thụy Sĩ đă lư luận như vậy. « Chỉ 1/3 các bệnh nhân cao huyết áp ở Hoa Ky là có một huyết áp được kiểm soát tốt mà thôi ». Hiểu ngầm : bởi v́ sự tuân thủ điều trị nơi các bệnh nhân là thấp. Hơn nữa các bệnh nhân phàn nàn về các tác dụng phụ do thuốc, trong khi đó họ không cảm thấy một triệu chứng nào do bản thân cao huyết áp gây nên cả. Việc nghiên cứu một vaccin chống cao huyết áp chắc chắn không phải mới có từ hôm qua. Chính Irvine Page, nhà sinh lư học Hoa Kỳ của Cleveland Clinic, vào năm 1958, đă là người đầu tiên nêu lên khả năng tác động lên các phân tử nhỏ có nhiệm vụ kiểm tra huyết áp, bằng một vaccin. Giáo sư Joel Ménard (cựu tổng giám đốc y tế) nhắc lại : « Sự tiêm chuẩn đă bắt đầu với việc tiêm một dạng biến đổi nhẹ của rénine (can dự trong việc kiếm soát huyết áp) nhằm làm phát sinh những kháng thể với mục đích làm giảm huyết áp ».
MỤC TIÊU : ANGIOTENSINE II
Mặt khác, những tài liệu xuất bản đầu tiên đă có từ những năm 1950. Gần chúng ta hơn, một thử nghiệm tiền lâm sàng của vaccin, được thực hiện năm 2007 trên chuột (Journal of Hypertension) đă chứng tỏ rằng vaccin này đúng là gây miễn dịch ( nghĩa là động vật phát triển các kháng thể ), chắc chắn và hiệu quả. Mục tiêu tiêm chủng được lựa chọn là angiotensine II : thật vậy, hormone này gây nên co mạch mạnh, và do đó làm cao huyết áp, cũng như kích thích các tuyến thượng thận và làm gia tăng tiết aldostérone, chất này cũng làm gia tăng áp lực của các động mạch.
Trong công tŕnh nghiên cứu được công bố tuần vừa qua bởi The Lancet, 72 bệnh nhân có cao huyết áp mức độ thấp (nhưng thật sự) và vừa phải đă được phân chia một cách ngẫu nhiên thành 3 nhóm. Các bệnh nhân này đă nhận 3 mũi tiêm 100 hay 300 microgramme của vaccin, hay một liều lượng tương đương của một placebo. Huyết áp đă được đo trong 24 giờ trước khi tiêm rồi 14 tuần sau đó. Các nhà nghiên cứu đă chứng nhận một sự giảm đáng kể huyết áp ban ngày, gần 9 mmHg ( huyết áp thu tâm b́nh thường của một người trưởng thành là 130 mmHg) trong nhóm đă nhận vaccin với liều lượng mạnh nhất.
Không có một tác dụng phụ nghiêm trọng nào xảy ra trong suốt 16 tuần nghiên cứu và thuốc chủng được dung nạp tốt. Hai bệnh nhân đă dừng điều trị trong nhóm 100 microgramme, 3 trong nhóm 300 microgramme, và không có bệnh nhân nào trong nhóm placebo. 5 bệnh nhân đă có những tác dụng phụ nghiêm trọng. Hầu hết các tác dụng phụ là vừa phải, như một phản ứng thoảng qua nơi được tiêm chủng. 3 bệnh nhân có những triệu chứng thuộc loại cảm cúm. Các tác giả kết luận rằng một liều lượng 300 microgramme vaccin, được lập lại 3 lần, cho phép làm giảm huyết áp nơi những bệnh nhân bị cao huyết áp nhẹ và trung b́nh, đặc biệt là vào sáng sớm.
Có nên tiếp tục tiến tới trong lănh vực nghiên cứu này ? « Tôi có cảm tưởng rằng những hiểu biết của chúng ta là quá thấp », Giáo sư Ménard, năm 2007, đă đánh giá như vậy, để đo lường đúng tương quan giữa lợi và hại của một vaccin chồng cao huyết áp, « trong khi đă có một điều trị cao huyết áp mỗi ngày bằng đường miệng, và điều trị này là chắc chắn và được dung nạp tốt. Lư lẽ cho rằng bệnh nhân tuân thủ điều trị kém là nghèo nàn và nông cạn ». Giáo sư Ménard biết rơ điều mà ông ta muốn nói : năm 1985, ông đă trắc nghiệm loại tiêm chủng này nơi động vật ouistiti, và động vật này đă phát triển một bệnh tự miễn dịch (maladie auto-immune) của thận, khiến ông phải dừng lại việc theo đuổi mọi cuộc thí nghiệm sau đó. Sự kích thích liên tiếp hệ miễn dịch cũng có thể gây nên những bệnh lư tự miễn dịch, như chúng ta đă thấy trong một thử nghiệm vaccin chống bệnh Alzheimer. Việc tiêm chủng có lẽ cho phép cải thiện sự tuân thủ của các bệnh nhân nhưng phải chăng họ sẽ vui thích khi phải bị chủng ngừa nhiều lần trong năm với nguy cơ bị một hợp chứng cảm cúm mỗi lần được tiêm chủng ? Một vaccin chống cao huyết áp phải chăng cũng cần khẩn cấp như một vaccin chống lại bệnh sida hay ung thư ? « Ngay cả khi chúng ta có thể rút ra những bài học về cách điều khiển hệ miễn dịch, mặc dầu vậy, các quy tắc an toàn vẫn là ưu tiên. », Joel Ménard đă kết luận như vậy.
(LE FIGARO 14/3/2008 - LE JOURNAL DU MEDECIN 18/3/2008)
Mặc dầu những nghiên cứu trước đây gợi ư rằng điều trị cao huyết áp nơi các người già 80 tuổi hoặc hơn là không có lợi lộc ǵ, nhưng theo một công tŕnh quy mô lớn mới đây th́ dường như việc điều trị chống cao huyết áp mang lại một lợi ích chắc chắn: ít tai biến mạch máu năo hơn, ít suy tim hơn và một tuổi thọ cao hơn.
Cao huyết áp được biết là nguồn gốc của các bệnh tim mạch. Huyết áp tâm thu gia tăng một cách liên tục theo đường thẳng, ở đàn ông cũng như phụ nữ. Các trị số của huyết áp có liên hệ với việc xảy ra một tai biến mạch máu năo, các bệnh tim do thiếu máu cục bộ (cardiopathies ischémiques) và tử vong do nguyên nhân tim mạch. Một công tŕnh quy mô lớn chứng tỏ rằng các bệnh nhân với huyết áp trên 180 mmHg có nguy cơ bị một tai biến mạch máu năo chết người 15 lần nhiều hơn, và có nguy cơ bị một bệnh tim do thiếu máu cục bộ 7 lần nhiều hơn, so sánh với những người có trị số huyết áp b́nh thường. Điều chứng nhận này dường như được áp dụng cho tất cả các loại tuổi, mặc dầu ở các bệnh nhân cao tuổi hơn, nguy cơ rơ rệt thấp hơn: những người từ 50 đến 59 tuổi với cao huyết áp (trị số trên 180 mmHg) có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo 16 lần cao hơn, trong khi đó cũng mối nguy cơ này nơi những người trên 80 tuổi với cùng các trị số huyết áp, chỉ 3 lần cao hơn.
KHÔNG BAO GIỜ QUÁ MUỘN
Năm 1937, thầy thuốc bệnh tim lỗi lạc Paul Dudley White đă viết rằng “cao huyết áp trong trường hợp các động mạch vành và các mạch máu năo bị hẹp với mức độ quan trọng, có thể là một cơ chế bù trừ quan trọng và do đó không nên điều trị cao huyết áp trong trường hợp này”... Từ đó biết bao nhiều nước đă chảy qua cầu và các ư kiến đă không ngừng tiến triển. Nhưng vẫn c̣n tồn tại một mối hoài nghi nào đó về sự cần thiết phải nhờ đến các thuốc chống cao áp nơi các người già. Công tŕnh nghiên cứu mới đây HYVET (Hypertension in the Very Elderly Trial) vừa đánh tan mối nghi ngờ này. Công tŕnh nghiên cứu có quy mô lớn này, được thực hiện nơi hơn 3.800 lăo ông 80 tuổi, đă đi đến kết luận rằng việc điều trị tích cực bệnh cao huyết áp cũng hữu ích nơi loại tuổi này. Nguy cơ xảy ra tai biến mạch máu năo thấp hơn 30% và nguy cơ bị suy tim giảm 64%. Kết quả bất ngờ và chưa từng có: tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân cũng được thu giảm 21%.
Các quan sát này mang lại lời đính chính đối với những phỏng đoán của các công tŕnh nghiên cứu trước đây, theo đó các chức năng xấu của thận và tim, sự thương tổn của áp thụ quan (barorécepteur), giảm huyết áp thế đứng (hypotension orthostatique), các rối loạn nhận thức, tất cả các loại tác dụng phụ do việc uống nhiều thuốc và những tương tác thuốc, sẽ làm mất hiệu quả của các lợi ích lâm sàng của việc điều trị cao huyết áp.
Công tŕnh nghiên cứu này chứng tỏ rơ ràng rằng sẽ không bao giờ quá muộn lúc tiến hành một điều trị cao huyết áp. Mặc dầu các lợi ích chắc chắn là ít rơ rệt hơn so với những người trẻ hơn, tuy nhiên vẫn có ư nghĩa.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 15/4/2008)
CAO HUYẾT ÁP : YẾU TỐ NGUY CƠ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI MỌI LOẠI TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
Cao huyết áp có làm gia tăng một cách đồng nhất nguy cơ tai biến mạch máu năo hay trái lại chỉ ưu tiên đối với vài loại ? Một công tŕnh nghiên cứu của Nhật Bản đă cho câu trả lời.
Lần này đó là một công tŕnh nghiên cứu quan sát, đă theo dơi, suốt trong 32 năm, diễn biến của 1.624 người già 40 tuổi hoặc hơn, không có tiền sử cá nhân và gia đ́nh về tai biến mạch máu năo. Các kết quả cho thấy rằng, đối với tai biến mạch máu năo, tỷ lệ mắc bệnh gia tăng một cách đáng kể (nguy cơ xuất hiện được nhân lên 3,7 lần) ngay ở giai đoạn 1 của xếp loại cao huyết áp của các hiệp hội tim và cao huyết áp châu Âu (140-159/95-99 mmHg), so với một huyết áp b́nh thường (< 120/80 mmHg). Huyết áp càng gia tăng, th́ nguy cơ mắc bệnh càng được nhân lên. Dữ kiện khác quan trọng của công tŕnh nghiên cứu này : sự gia tăng dần dần của huyết áp kèm theo một sự gia tăng cũng dần dần của tỷ lệ mắc phải các tai biến mạch máu năo, loại tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (accident ischémique transitoire : AIT), tai biến mạch máu năo (AVC) và xuất huyết năo. Trái lại, sự gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu năo có nguồn gốc huyết khối nghẽn mạch (thromboembolique) và các xuất huyết dưới màng nhện (hémorragie sous-arachnoidienne) chỉ trở nên đáng kể bắt đầu từ giai đoạn 3 của xếp loại cao huyết áp (nghĩa là > 180/110 mmHg).
(LE GENERALISTE 10/7/2008)
TIÊM CHỦNG CHỐNG BỆNH CAO HUYẾT ÁP : GIẤC MƠ HAY HIỆN THỰC ?
Tiêm chủng chống lại cao huyết áp, ư tưởng thật là quyến rũ và ngày nay đang vững bước tiến lên. Trong số những lợi ích tiềm tàng, người ta nhắm đến sự cải thiện việc tuân thủ điều trị và do đó vào một sự kiểm tra tốt hơn. Nhưng trên thực tế không phải là đơn giản như vậy. Điểm t́nh h́nh với giáo sư J. Nussberger (Lausanne) (Thụy Sĩ).
Vào năm 2.000, người ta ước tính có 972 triệu người trưởng thành bị cao huyết áp trên thế giới, trong đó 333 triệu người trong các nước công nghiệp hóa. Đối với năm 2.005, người ta dự kiến một gia tăng 60% hay 1,56 tỷ người. Điều này nói lên tầm quan trọng của một vaccin pḥng ngừa hay điều trị và thật ra sự quan tâm không phải mới có từ hôm qua.
Những nghiên cứu đầu tiên, bắt đầu từ năm 1951, nhưng phải đợi những năm 70, rồi 80 để thấy những tiêm chủng đầu tiên trên động vật với các kháng thể chống angiotensine II, phân tử có tác dụng co mạch làm kềm hăm sự tiết rénine. Những kết quả đầu tiên được đánh giá trên cơ sở đo các nồng độ angiotensine II và của rénine, chứng tỏ tính hiệu quả của sự tiêm chủng nhưng với cái giá của những thương tổn thận nghiêm trọng.
Ngày nay, kỹ thuật gây miễn dịch đă tiến triển và một thử nghiệm giai đoạn II, nhiều trung tâm, được khởi đầu theo sáng kiến của một nhóm nghiên cứu Đức-Thụy Sĩ. Vaccin anti-HTA CYT006-AngQb được cấu tạo bởi “ các phần tử giống virus ”, có một đường kính 30 nanomètre, được bao phủ bởi angiotensine II, cho phép kích thích tạo kháng thể.
Công tŕnh bao gồm 72 bệnh nhân từ 18 đến 65 tuổi có cao huyết áp từ nhẹ đến trung b́nh. Các kết quả cho thấy một sự giảm 9 mmHg đối với huyết áp tâm thu và 4 đối với huyết áp tâm trương, với các con số vào buổi sáng sớm lần lượt 25 và 13 mmHg.
Sự kiện đáng chú ư là sự giảm huyết áp xảy ra vào buổi sớm, vào một thời điểm ta biết rằng rất quan trọng để các tai biến tim mạch xảy ra và không luôn luôn được kiểm soát bởi các thuốc chống cao áp v́ những lư do dược lư. Tiếc thay, thời gian bán hủy của các kháng thể là ngắn, được ước tính là 4 tháng, điều này có nghĩa là một hiệu quả điều trị thường trực chỉ có được với nhiều mũi tiêm hàng năm. Điều tra về khả năng chịu thuốc cũng phát hiện những tác dụng phụ không những ở da mà c̣n toàn thân với một hội chứng cúm có thể hồi phục.
Những dữ kiện này là đầy hứa hẹn nhưng để tiến bước, phải thực hiện một công tŕnh nghiên cứu lớn trên một số lượng quan trọng các bệnh nhân.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 23/1/2009)
NHỮNG NGƯỜI ĂN CHAY ÍT BỊ CAO HUYẾT ÁP VÀ ĐÁI ĐƯỜNG
Nutrion : Những lợi ích được quan sát không những chỉ được gán cho chế độ ăn uống không có thịt, mà nhất là c̣n do một lối sống lành mạnh hơn.
Ở Pháp, theo Trung tâm thông tin về thịt, có 1% đến 2% người ăn chay. Trái với các thành kiến, ăn chay không phải là xấu đối với sức khỏe. Đó là điều được đánh giá bởi Bernard Guy-Grand, phó chủ tịch của viện dinh dưỡng Pháp, và Fernand Lamisse, giáo sư dinh dưỡng. Theo họ sự loại bỏ các thức ăn phát xuất từ thịt của các động vật trên đất dưới biển không có hậu quá về mặt thiếu dinh dưỡng (carence), nếu chúng ta “ liên kết các ngũ cốc với bộ đậu (légumineuses) trong một bữa ăn hay trong một ngày ” .Vào lúc đó, các protéine thực vật có một chất lượng có thể so sánh với các protéine động vật. Thật vậy, trong khung cảnh một chế độ ăn chay (régime végétarien) được theo dơi tốt, chính các ngũ cốc và bộ đậu mang lại phần lớn các protéines.
Về vitamine B12, hiện diện độc nhất trong các thức ăn nguồn gốc động vật, sự tiêu thụ sữa và trứng tránh cho người ăn chay bị thiếu vitamine này. Ngược lại, những người ăn chay không tiêu thụ các sản phẩm sữa và trứng bị nguy cơ thiếu vitamine B12 và thiếu máu. Không kể đến những cung cấp calcium không đầy đủ gây nên bởi loại dinh dưỡng này. Do đó những người ăn chay phải ăn các rau xanh và các trái cây giàu calcium như cải xoong (cresson), rau bi na (épinard), quả hạnh (amande), quả phỉ (noisettes) hay quả đào lạc (pistache).
Mặt khác, về phương diện sức khỏe, những công tŕnh nghiên cứu dịch tễ đă cho thấy rằng những người ăn chay ít bị cao huyết áp và bị bệnh động mạch vành hơn. Theo Fernand Lamisse, đó không những “số lượng và tính chất của các mỡ được ăn vào, nghĩa là ít các axit béo bảo ḥa hơn, mà c̣n là những thói quen đời sống (không hút thuốc, không uống rượu và một hoạt động vật lư có mức độ quan trọng hơn) giải thích những tác dụng có lợi này lên sức khỏe”. Ông cũng nhận xét rằng trong đại tràng, các sợi được ăn vào sinh ra các axit béo chuỗi ngắn, làm kềm hăm sự tổng hợp cholestérol bởi gan.
Về mặt béo ph́ và bệnh đái đường loại 2, những người ăn chay cũng có lợi. Số lượng quan trọng các sợi trong chế độ ăn của người ăn chay có một tác dụng làm no nê hơn, do đó những người ăn chay ăn với số lượng ít hơn. Nếu sự giảm tỷ lệ của vài ung thư đúng là được quan sát nơi những người ăn chay, th́ sự giảm này chủ yếu được giải thích bởi sự tiêu thụ trái cây và rau xanh. Đó là chưa kể đến rằng sự hiện diện trong các cây thực vật nhiều chất chống oxy-hóa có đặc tính chống gây ung thư, ngay cả điều đó đă không bao giờ được chứng minh.
LƯ LẼ MÔI TRƯỜNG.
Nói tóm lại, chính lối sống ảnh hưởng lên sức khỏe hơn là sự việc ăn chay. “ Lợi ích được quan sát không thể được quy cho việc không ăn thịt ” , Fernand Lamise đă đánh giá như vậy. Điều này có nghĩa là những “ động vật ăn tạp ” (omnivores), ăn từ 400 đến 800 gam trái cây và rau xanh mỗi ngày, cũng có thể thu được những lợi ích của một lối sống lành mạnh hơn
Ở Pháp, ăn chay thường thuộc về một lựa chọn ư thức hệ hay triết lư, mặc dầu lư lẽ môi trường thường được đưa ra. Theo một nghiên cứu của Tổ chức lương nông của Liên Hiệp Quốc, sự sản xuất thịt trên thế giới là nguồn gốc của 20% của các khí có effet de serre được phát ra. Sản xuất một ki lô thị ḅ gây nên sự phát ra tương đương 36,4 kg thán khí (C02).
(LE FIGARO 14/1/2009)
PHARMACOLOGIE. Một viên thuốc chứa một chất kháng cholestérol, 3 loại thuốc chống cao huyết áp và aspirine, có thể làm giảm 50% nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột qụy.
Một viên thuốc duy nhất để ngăn ngừa các bệnh tim mạch đối với những người trên 50 tuổi ? Quan niệm này đă được nêu lên từ nhiều năm nay, bây giờ bắt đầu trở thành hiện thực. Thật vậy, các thầy thuốc Ấn Độ vừa công bố trên site Internet của tạp chí y khoa The Lancet các kết quả của một thử nghiệm, được thực hiện với một polypill chứa 5 chất có hoạt tính chống lại các bệnh tim mạch.
Những trắc nghiệm này xác nhận rằng chỉ một viên thuốc cũng có hiệu quả như 5 loại thuốc được kê toa một cách độc lập. Các tác giả, cũng đă tŕnh bày những công tŕnh này hôm thứ hai, nhân hội nghị thường niên American College of Cardiology ở Orlando (Florida), đánh giá rằng một viên thuốc như thế, được cho để pḥng ngừa, có thể làm giảm gần một nửa các trường hợp tai biến tim và các cơn đột qụy. Những thử nghiệm khác, với quy mô lớn hơn, vẫn phải được tiến hành để xác nhận những kết quả này. Những bệnh tim mạch, hiện đang bùng nổ trong các nước đang phát triển, vẫn là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong trong các nước phương Tây, mặc dầu có sự giảm bớt do việc điều trị tốt hơn (cao huyết áp, tăng cholestérol-huyết, chứng nghiện thuốc lá). Sự ngăn ngừa này, được căn cứ trên sự sử dụng nhiều thứ thuốc, đă đặt ra vấn đề tuân thủ điều trị, không hoàn toàn được tôn trọng một cách đúng đắn. Và điều này có thể được cải thiện bằng cách uống một viên thuốc duy nhất. Thử nghiệm điều trị này (được tài trợ bởi Pḥng bào chế Ấn Độ Cadilla Pharmaceuticals) đă được tiến hành ở Ấn Độ, trong 50 trung tâm y tế, trên 2.053 người tham dự, tuổi từ 45 đến 80, đă không bao giờ bị bệnh tim mạch, nhưng chỉ có một yếu tố nguy cơ (cao huyết áp, cholestérol cao…).
THIẾU CÁC CÂU TRẢ LỜI TINH TẾ
Mục đích là để đánh giá sự dung nạp của điều trị phối hợp này và xác định xem viên thuốc phối hợp này có tác dụng lên nguy cơ tim mạch giống như mọi loại thuốc được uống riêng rẻ hay không. Thử nghiệm đă so sánh polypill với 8 protocole điều trị khác (statine dùng đơn độc, aspirine dùng đơn độc, bêta-bloquant dùng đơn đọc) trên huyết áp, trên nồng độ cholestérol hay trên nhịp tim. Viên thuốc chứa những liều lượng thấp của 3 loại thuốc chống cao huyết áp (12,5 mg thiazide, 50 mg atenolol và 5mg ramipril) cũng như 20 mg simvastatin (một thuốc kháng cholesterol), và 100 mg aspirine (với tác dụng kháng đông).
Các kết quả đă cho thấy nồng độ cholestérol giảm với mức độ quan trọng nơi những người được điều trị bởi polypill cũng như nơi những người chỉ dùng statine đơn độc. Cũng như thế đối với huyết áp khi dùng các thuốc chống cao áp đơn độc. Tính chất lưu thông của máu được cải thiện bởi polypill giống như với aspirine dùng riêng rẻ. Các tác dụng phụ của polypill cũng giống với các tác dụng gây nên bởi mỗi thành phần được dùng riêng rẻ. “Chúng tôi ước đoán rằng polypill có lẽ có khả năng làm giảm 60% các bệnh tim và 50% các đột qụy, B.S Salim Yusuf, thuộc Population Health Research Institute của Université McMaster (Canada) đă đánh giá như vậy. Ư tưởng những người có thể chỉ uống một viên thuốc để làm giảm nhiều nguy cơ tim có thể cách mạng hóa sự ngăn ngừa các bệnh tim mạch”.
Hiện nay, thử nghiệm lâm sàng đă chỉ đánh giá sự cải thiện các hằng số sinh học với điều trị phối hợp này. Bây giờ cần phải tiến hành những điều tra quy mô lớn để đánh giá tác dụng lên tỷ lệ mắc bệnh và trên tỷ lệ tử vong.
Trong những nước giàu có, những viên thuốc như thế có thể đơn giản hóa sự pḥng ngừa. “Khái niệm này không phải là không hấp dẫn, G.S Nicolas Danchin thuộc bệnh viện Georges -Pompidou khẳng định như thế. Vấn đề là c̣n phải chứng tỏ rằng thuốc không có các tác dụng phụ lúc dùng lâu dài và rằng điều đó cho phép cải thiện sự tuân thủ điều trị.” Việc pḥng ngừa là một chương tŕnh dài hạn. “Vấn đề của viên thuốc phối hợp này, đó là nó không đáp ứng một cách tinh tế những vấn đề chính xác của mỗi người, B.S Yves Benacin (thầy thuốc chuyên khoa tim, Paris) đă giải thích như vậy. Nhưng có lẽ đó là một giải pháp cho những người có nguy cơ không tuân thủ điều trị một cách đều đặn, và dĩ nhiên đó là một giải pháp cho các nước đang phát triển.” Tuy nhiên đừng quên rằng một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục đều đặn 5 lần mỗi tuần, làm giảm một cách không chối cải được cholestérol, huyết áp, đường huyết và tăng sức cho trái tim.
(LE FIGARO 1/4/2009)
CAO HUYẾT ÁP : ALISKIREN DÙNG CHO NHỮNG TRƯỜNG HỢP CAO HUYẾT ÁP ĐỀ KHÁNG VỚI THUỐC
G.S Xavier Girend, thầy thuốc chuyên khoa tim của Hôpital de la Pitié-Salpêtrière, giải thích tác dụng của một thuốc chống cao áp mới sẽ được thương măi hóa ở Pháp trong vài tháng tới.
Hỏi : Ông có thể nhắc lại cho chúng tôi những đặc điểm của căn bệnh thường xảy ra này : bệnh cao huyết áp ?
G.S Xavier Girend : Đó là một sự hoat động kém của các động mạch, do đó có thuật ngữ “ cao huyết áp ” (hypertension artérielle). Những huyết quản này, đă mất đi tính mềm dẻo, nên có nhiều khó khăn hơn để mở ra. Hậu quả là, tim phải hoạt động nhiều hơn để gia tăng áp lực trong các động mạch. Cơ thể thich nghi dần, nhưng với cái giá là sự mỏi mệt quá mức của cơ tim và của các huyết quản, sẽ “ hao ṃn ” đi nhanh hơn. Và khi các thành động mạch hao ṃn, chúng sẽ dày lên. Sau vài năm không điều trị, một lúc nào đó, các động mạch bị bít lại. Đó là lúc rất nguy kịch bởi v́ là nguồn gốc của một cơn cấp tính : nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo hay suy thận..
Hỏi : Có những yếu tố làm dễ không ?
G.S Xavier Girend : Chúng ta biết có 3 yếu tố chính.
1. Có một thành viên trong gia đ́nh bị cao huyết áp trước 50 tuổi.
2. Sự lăo hóa của các động mạch : 70% các người bị cáo huyết áp hơn 60 tuổi, được làm gia tăng với thuốc lá, thặng dư cholestérol xấu và đái đường.
3. Chứng béo ph́ bụng (obésité abdominale)
Hỏi : Làm sao một stress có thể làm huyết áp lên cao trong chốc lát, làm sao có được một chẩn đoán rất chính xác ?
G.S Xavier Girend : Ngày nay chúng ta có những kỹ thuật rất có hiệu năng. Như là chúng ta có thể phó thác cho bệnh nhân một chiếc máy nhỏ gồm một băng tay (brassard), được nối với một chiếc hộp (boitier) được đặt trên một cái bàn. Huyết áp phải được đo và ghi 3 ngày liên tiếp và vào những lúc chính xác : đo ba lần buổi sáng và ba lần buổi chiều. Chính vào lúc có được toàn bộ các con số này, chúng ta mới có thể thật sự xác lập một chẩn đoán cao huyết áp thường trực (hypertension permanente). Phải biết rằng sau 60 tuổi, ta thường có những đỉnh cao cao huyết áp do stress, mặc dầu không có bệnh động mạch.
Hỏi : Ngày nay, điều trị cổ điển của cao huyết áp là ǵ ?
G.S Xavier Girend :Cách nay 50 năm, những thuốc đầu tiên đă được chế tạo nhằm mang lại cho các động mạch một sự mềm dẻo nào đó. Từ đó, trung b́nh cứ mỗi 10 năm, người ta thấy xuất hiện những họ thuốc mới bởi v́ những thuốc chống cao áp này không tác dụng nơi tất cả các bệnh nhân. Vậy cần phải có một thang khá rộng các điều trị. Hiện nay, 60% những bệnh nhân cao huyết áp nhận một liệu pháp gồm hai thứ thuốc (bithérapie).
Hỏi : Với những thuốc được sử dụng hiện nay, tỷ lệ bệnh nhân mà ông điều trị có hiệu quả là ǵ ?
G.S Xavier Girend : 50% nhưng, cách nay 10 năm, chỉ 35% mới hưởng được một sự cải thiện thật sự.
Hỏi : Do đó, ở Pháp cần một loại thuốc mới. Tác dụng của loại thuốc này là ǵ ?
G.S Xavier Girend :Đó là một loại dược lư được gọi là “ chất ức chế trực tiếp rénine ” (inhibiteur direct de la rénine), nhằm vào một quá tŕnh sinh học đặc hiệu, nguồn gốc của huyết áp (cơ chế quá phức tạp để được tŕnh bày ở đây).
Chất thuốc mới này, aliskiren, ức chế tác dụng của rénine, một chất tham gia vào một chuỗi các biến cố sinh học làm giảm sự mềm dẻo của các động mạch. Thuốc được uống một lần duy nhất mỗi ngày, nhưng tác dụng của nó kéo dài hơn một ngày. Trong vài trường hợp, thuốc này có thể được thêm vào cho một điều trị không đủ hiệu quả.
Hỏi : Thời gian nh́n lại với loại thuốc mới này là ǵ ?
G.S Xavier Girend : Aliskiren đă được nghiên cứu rất tốt trên 10.000 người ở Hoa Kỳ và châu Âu. Những kết quả rất tốt thu được về độ dung nạp và tính hiệu quả đă cho phép thương măi hóa thuốc này ở Hoa Kỳ cách nay 18 tháng. Hôm nay hơn 200.000 người Mỹ đă sử dụng thuốc này ! Và đối với một số lớn những người dùng Aliskiren, chất ức chế rénine này đă tác dụng hiệu quả hơn những thuốc đă được thương măi hóa.
Hỏi : Khi nào th́ Aliskiren sẽ được lưu hành ở Pháp ?
G.S Xavier Girend : Chẳng bao lâu nữa, vào tháng 9 năm 2009.
(PARIS MATCH 26/3-1/4/2009)
CAO HUYẾT ÁP, SUY THẬN, NHỮNG KẺ GIẾT NGƯỜI THẦM LẶNG.
Néphrologie. Các bệnh thận không được công chúng biết đến và được chẩn đoán chậm. Chúng gây bệnh cho một số người ngày càng tăng, ở Pháp và trên thế giới.
Một vài bệnh phát triển âm thầm và gây nên những thương tổn nhỏ xíu, không tiếng động, không triệu chứng trong nhiều năm trời. Đó là trường hợp cao huyết áp, có khả năng tiến triển trong nhiều chục năm, không được chẩn đoán hay điều trị. Và roi hầu như trong một sớm một chiều, một suy thận giai đoạn cuối xuất hiện : bệnh nhân suy kiệt, bị nhưng rối loạn khác nhau, nhất là thần kinh.
Một bilan sinh học cho phép chẩn đoán suy thận măn giai đoạn cuối. Vào giai đoạn này chẳng có lựa chọn nào khác hơn là thẩm tách (dialyse) và ghép thận. Khoảng 30% những người bị suy thận giai đoạn cuối đă khám phá ra bệnh trong bối cảnh cấp cứu.
Hôm qua, nhân dịp giới thiệu ngày quốc tế của thận 12/3 sắp đến, giáo sư Eric Rondeau (bệnh viện Tenon, Paris) đă nêu rơ vai tṛ quan trọng của cao huyết áp trong sự phát sinh của suy thận. Đặc biệt ông đă xác nhận rằng việc thăm khám đều đặn nhằm phát hiện suy thận nơi những người có nguy cơ (cao huyết áp, đái đường, tiền sử gia đ́nh bị bệnh thận...) liên kết với một điều trị sớm, cho phép tránh được bệnh này của thận hoặc làm chậm sự tiến triển của nó. Ở Pháp, 35.000 người cần thẩm tách thận(dialyse rénale) và 25.000 người khác sống với một quả thận được ghép.
Với bệnh đái đường thường được liên kết, cao huyết áp là một trong những nguyên nhân chính của suy thận. Ở Pháp, có 7 triệu người bị cao huyết áp, chỉ một nửa là theo đuổi điều trị và chỉ 35% trong số những người này có một con số huyết áp được cân bằng một cách đúng đắn. Huyết áp được biết là một yếu tố nguy cơ tim mạch. Những tác dụng của nó lên thận phần lớn không được dân chúng biết đến. Dường như có một sự nhạy cảm cá nhân của thận đối với cao huyết áp. Không phải tất các mọi người cao huyết áp đều bị suy thận.
THĂM D̉ PHÁT HIỆN.
Nơi vài người có một sự nhạy cảm di truyền đặc biệt, cao huyết áp dẫn đến sự tạo thành bệnh xơ cứng mạch máu thận tiến triển từ từ (néphroangiosclérose progressive) : các huyết quản đặc biệt bị liên hệ bởi quá tŕnh xơ cứng (sclérose). Bệnh xơ cứng mạch máu thận thường xảy ra hơn nơi những người già, nhưng đôi khi được quan sát, mặc dầu hiếm, trước tuổi 30. “ Điều trị nội khoa cao huyết áp, nếu được theo dơi tốt và nếu có hiệu quả lên việc kiểm soát huyết áp, sẽ cho phép ngăn ngừa sự xuất hiện các biến chứng năo và tim mạch, nhưng cũng ngăn ngừa những biến chứng măn tính và nhất là suy thận măn ”, GS Eric Rondeau đă đảm bảo như vậy.
Tất cả những yếu tố cho phép kiểm soát huyết áp, cũng làm giảm nguy cơ suy thận. Đó là những loại thuốc. Nhưng không phải chỉ có thuốc men không thôi. Làm giảm trọng lượng 5 kg sẽ làm giảm mức huyết áp, cũng như sự tập thể dục đều đặn và sự giảm tiêu thụ rượu và muối.
Có nên thực hiện thăm ḍ một cách hệ thống nhằm phát hiện suy thận bằng những xét nghiệm sinh học được thực hiện đều đặn hay không ? Có lẽ là không, các chuyên gia đă xác nhận như thế, nhưng phải đặc biệt lưu ư đến những người có nguy cơ cao. Vào tháng 10 năm qua, Fondation du rein, với sự tham gia cùa những pḥng xét nghiệm công và tư, đă phát động một tuần chiến dịch thăm ḍ phát hiện bệnh suy thận. Hơn 9.000 người đă tham dự. Chẳng bao lâu nữa, những kết quả sẽ được công bố.
(LE FIGARO 3/3/2009)
NHỮNG NGƯỜI NGỦ ÍT DỄ BỊ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG (17/4/2009)
Những người ngủ dưới 6 giờ mỗi đêm trong tuần hầu như có 5 lần nguy cơ phát triển sự bất dung nạp đối với glucose (intolérancecau glucose) cao hơn so với những người ngủ lâu hơn.
Thời gian ngủ có cho phép tiên đoán nguy cơ phát triển một bất dung nạp đối với glucose hay không ? Lisa Rafalson và nhóm nghiên cứu của đại học Buffalo ở Nữu Ước đă theo dơi trong 6 năm 1.455 người tham dự của công tŕnh nghiên cứu Western New York Study. 91 người trong số những người tham dự đă có nồng độ đường huyết thay đổi từ 100mg/dl vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu năm 1996-2001, lên 100-125 mg/dl vào lúc được thăm khám theo dơi năm 2003-2004. Những nhà nghiên cứu đă xếp loại những bệnh nhân này và 273 người chứng tùy theo thời gian ngủ trong tuần lễ làm việc : những người ngủ ít (dưới 6 giờ), những người ngủ nhiều (trên 8 giờ) và trung b́nh (6-8 giờ). Sau khi điều chỉnh đối với những biến số khác nhau, họ đă nhận thấy một sự gia tăng đáng kể của nguy cơ phát triển sự bất dung nạp glucose (intolerance au glucose) nơi những người ngủ ít (petits dormeurs : dưới 6 giờ) so với những người ngủ trung b́nh (dormeurs moyens : 6-8 giờ). Trái lại, so với những người ngủ trung b́nh, những người ngủ nhiều (gros dormeurs : trên 8 giờ) không cho thấy một sự liên kết nào với sự rối loạn đường huyết lúc đói.
PHỤ NỮ NGỦ ÍT DỄ BỊ CAO HUYẾT ÁP HƠN
Trong một công tŕnh nghiên cứu khác, cũng được tŕnh bày trong Hội nghị của Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu đă khám phá một mối liên hệ giữa thời gian ngủ và nguy cơ bị cao huyết áp nơi các phụ nữ. Trong lúc so sánh số giờ ngủ của 3.027 người tuổi trung niên (43,5% đàn ông và 56,5% phụ nữ), họ đă nhận thấy rằng lúc ngủ ít (dưới 6 giờ), các phụ nữ có nguy cơ bị cao huyết áp gia tăng đáng kể so với những phụ nữ ngủ từ 6 đến 8 giờ mỗi đêm. Không có một liên hệ nào thuộc loại này đối với đàn ông. Mặt khác, tác dụng của giấc ngủ rơ nét nơi những phụ nữ trong thời kỳ tiền măn kinh (préménopause) hơn nơi những phụ nữ đă măn kinh. Những công tŕnh nghiên cứu khác sẽ xác nhận những dữ kiện này.
RỐI LOẠN GIẤC NGỦ LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ BỊ BÉO PH̀.
Cũng vẫn ở trong vấn đề thiếu ngủ, một công tŕnh nghiên cứu thứ ba, được tŕnh bày ở hội nghị của Hiệp Hội Tim Hoa kỳ và được thực hiện nơi 967 học tṛ (9-14 tuổi), cho thấy rằng chất lượng của giấc ngủ được liên kết với nguy cơ béo ph́ nơi các trẻ em.
Các nhà nghiên cứu đă đo tầm vóc và trọng lượng của những người tham dự và đă thu nhận những dữ kiện về chất lượng của những giấc ngủ của những trẻ này (“ thường ”, “ đôi khi ”, “ không bao giờ ” có những rối loạn giấc ngủ). Theo các kết quả, 22% tăng thể trọng (surpoids) và 10,3% béo ph́ (obèse). 36% đă “ thường ” có những rối loạn giấc ngủ và, so sánh với những trẻ “ không bao giờ ” hay “ đôi khi ” có những rối loạn giấc ngủ, những trẻ “ thường ” có rối loạn giấc ngủ có thêm 62% nguy cơ trở nên bị béo ph́.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 20/3/2009)
Nơi các phụ nữ trẻ, sự thiếu hụt vitamine được liên kết với một sự gia tăng nguy bị cao huyết áp về sau này. Đó là điều được giải thích bởi các nhà nghiên cứu trong hội nghị lần thứ 63 về nghiên cứu cao huyết áp, được tổ chức bởi Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ (AHA).
Các nhà nghiên cứu đă xem xét các phụ nữ được tuyển mộ trong công tŕnh nghiên cứu Michigan Bone Health and Metabolism Study và đă phân tích các dữ kiện của 559 phụ nữ người Caucase sống ở Tecumseh, (Michigan). Công tŕnh, hiện luôn được tiến hành, đă khởi đầu vào năm 1992 khi những người này tuổi từ 24 đến 44 (trung b́nh 38 tuổi). Huyết áp của họ đă được đo mỗi năm và nồng độ vitamine D, được xác định một lần vào năm 1993, đă được so sánh với huyết áp được đo vào năm 2007.
Những kết quả cho thấy rằng, so với những người tham dự có những nồng độ viatmine D b́nh thường, các phụ nữ bị thiếu hụt (dưới 80 nmol/l) vào năm 1993, có 3 lần nguy cơ cao hơn bị một cao huyết áp tâm thu (hypertension systolique) 15 năm sau đó.
Vào lúc đầu của công tŕnh nghiên cứu, 2% các phụ nữ tham gia đă có cao huyết áp hay được điều trị bởi các thuốc chống cao áp và thêm 4% đă được chẩn đoán cao huyết áp. Nhưng 15 năm sau, những con số này lần lượt là 19% và 6%.
“ Những kết quả của chúng tôi cho thấy rằng một sự thiếu hụt sớm vitamine D có thể làm gia tăng nguy cơ cao huyết áp sau này nơi các phụ nữ trung niên ”, Flojaune Griffin, một trong những nhà nghiên cứu đă xác nhận như vậy.
Theo các chuyên gia thuộc các chuyên môn khác nhau, sự thiếu hụt vitamine D rất phổ biến nơi phụ nữ. Mặt khác, không có sự nhất trí về việc cung cấp tối ưu vitamine D. Theo vài nhà nghiên cứu, cung cấp vitamine được khuyến nghị hiện nay từ 400 đến 600 đơn vị mỗi ngày là không thích đáng và họ chủ trương một nồng độ thay đổi từ 1.000 đến 5.000 đơn vị. Ta cần nhắc lại rằng ngoài vai tṛ được xác lập của vitamine D trên chuyển hóa xương, sự thiếu hụt của vitamine này cũng đóng một vai tṛ trong vài ung thư và độc hại đối với tính miễn dịch và các bệnh viêm.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 2/10/2009)
Các nhà nghiên cứu người Đức đă cho thấy rằng những lượng nhỏ chocolat được tiêu thụ mỗi ngày làm hạ huyết áp và làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Nhóm nghiên cứu người Đức đă theo dơi trong khoảng 10 năm những thói quen ăn uống của 19.357 người, tuổi từ 25 đến 65 tuổi. Các tác giả đă có thể chứng thực rằn, những người ăn nhiều chocolat nhất (trung b́nh 7,5 g mỗi ngày) có một huyết áp thấp hơn và một nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu năo giảm 39%, so với những người chỉ tiêu thụ rất ít (1,7g mỗi ngày). Về mặt nguy cơ tuyệt đối, điều đó có nghĩa là sự việc ăn một miếng vuông nhỏ chocolat khoảng 6g cho phép tránh, nơi 10.000 người, 85 nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu năo trong một khoảng thời gian 10 năm, BS Brian Buijssen, nhà dịch tễ dinh dưỡng, người điều khiển công tŕnh nghiên cứu này, đă giải thích như vậy.
Nhưng không nên v́ thế mà suy diễn ra rằng ta có thể đồng thời tự cho phép ḿnh gia tăng sự tiêu thụ toàn thể calorie và tiêu thụ ít hơn những thức ăn lành mạnh, nhà nghiên cứu cảnh cáo như vậy. “ Những lượng nhỏ chocolat giúp pḥng ngừa sự xuất hiện các bệnh tim mạch, nhưng chỉ khi những lượng này thay thế một nguồn thức ăn giàu calorie khác, để trọng lượng có thể vẫn luôn luôn ổn định. ”
Mặc dầu sự tiếp tục của các nghiên cứu là tỏ ra cần thiết, nhưng nhóm nghiên cứu người Đức đă có thể xác nhận rằng tác dụng có lợi của chocolat được liên kết với sự hiện diện của flavonol trong cacao. Những chất này hiện diện chủ yếu trong chocolat đen. “ Các flavonol cải thiện biodisponibilité của monoxyde d’azote trong các huyết quản. Những chất này làm giăn các mạch máu hơn và điều này góp phần mang lại một huyết áp thấp hơn. Monoxyde d’azote cũng cải thiện chức năng của các tiểu cầu, làm cho máu ít dính hơn ”, Brian Buijsse nói tiếp như vậy.
TRÀ CŨNG THẾ.
Một công tŕnh nghiên cứu mới đây của Ḥa Lan cũng quan tâm đến những tác dụng có lợi của các flavonol. Peter Hollman của đại học Wageningen đă phân tích mối liên hệ giữa sự sử dụng các loại flavonoides khác nhau và sự xuất hiện của các tai biến mạch máu năo. Trong một phân tích méta, ông đă xét đến hơn 100.000 người phát xuất từ 6 công tŕnh nghiên cứu đă được công bố. Các flavonoides đặc hiệu như các flavonol, dường như có một tác dụng lên nguy cơ tai biến mạch máu năo. “ Nếu người ta tiêu thụ một lượng flavonol tương ứng với lượng được t́m thấy trong 3 tách trà, người ta có thể làm giảm 20% nguy cơ
bị một tai biến mạch máu năo ”, nhà nghiên cứu Ḥa Lan đă b́nh luận như vậy.
Chúng ta hăy nhớ rằng các flavonols cũng hiện diện trong rau xanh và các trái cây.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/4/2010)
CAO HUYẾT ÁP : C̉N QUÁ NHIỀU BỆNH NHÂN KHÔNG BIẾT M̀NH BỊ BỆNH ?
NHỮNG ĐIỂM MỐC
HUYẾT ÁP. Cùng với việc bắt mạch (tần số tim) và sự sử dụng ông nghe (để thính chẩn cơ thể và đặc biệt là ngực), huyết áp kế để đo huyết áp là động tác y khoa cơ bản đơn giản thứ ba đối với một lần thăm khám đầu tiên.
CÁC TRẺ EM. Các trẻ em chúng cũng có thể bị cao huyết áp. Đối với một trẻ em được đặt nằm dài, ở trạng thái nghỉ ngơi, với một băng tay (brassard) của huyết áp kế được thích ứng theo tầm vóc của nó, nói chung huyết áp phải là, trước 1 tuổi 8/5, từ 1 đến 2 tuổi 9/6, từ 2 đến 4 tuổi 10/6,5, từ 4 đến 5 tuổi 9/6, từ 5/10 tuổi 10/6 và từ 10 đến 14 tuổi 1/6.
TỰ ĐO. Với máy điện tử thích ứng, có thể tự đo lấy ḿnh huyết áp theo quy tắc 3 (règle de trois) : ba lần buổi sáng, ba lần buổi chiều trong 3 ngày (với những lần đo cách nhau từ 1 đến 2 phút). Như thế những người lo lắng có thể có những bất ngờ đối với những lần đo được thực hiện trong pḥng mạch của người thầy thuốc.
MUỐI. Trong một thời gian lâu, huyết áp đồng nghĩa với chế độ ăn uống không có muối. Hôm nay không c̣n như thế nữa, khác hẳn là đằng khác. Nếu quả đúng là nói chung chúng ta ăn quá nhiều muối (6g mỗi ngày là đủ), nhưng không được nhịn muối hoàn toàn. Cũng cần tránh những thức ăn quá mặn (thí dụ đồ thịt lợn), ưu tiên những món ăn được chế biến tại nhà, ưa thích hơn nước nhạt hơn là nước khoáng có hơi.
THỂ THAO. Một hoạt động thể thao thích ứng với tầm mức của ḿnh là rất được khuyến nghị. Nhưng không nên tập quá nhiều.
ĐIỀU TRỊ. Các loại thuốc chống cao huyết áp có hiệu quả, với điều kiện chung được sử dụng một cách đều đặn và đúng liều lượng. Thế mà nhiều bệnh nhân, v́ nhiều lư do khác nhau quá thường quên theo sát điều trị.
HUYẾT ÁP LÀ G̀ ?
1/ ĐO HUYẾT ÁP
Được thực hiện nhiều nơi trên cơ thể và nhiều lần với một huyết áp kế.
2/ ĐỌC
Huyết áp tâm thu: 12
• Tim co bóp
•Tống máu
•Huyết áp cao nhất
Huyết áp tâm trương : 8
• Tim giăn
•Làm đầy máu
•Huyết áp thấp nhất
3/ GIẢI THÍCH
HUYẾT ÁP TÂM THU
• Tối ưu : 11, 5
•B́nh thường : < 12
•Tiền cao áp : 12- 13, 9
CAO HUYẾT ÁP
• Nhẹ : 14 – 15, 9
•Trung b́nh : 16 – 17, 9
•Nặng : > 18
HUYẾT ÁP TÂM TRƯƠNG
• Tối ưu : 7, 5
•B́nh thường : < 8
•Tiền cao áp : 8 – 8, 9
CAO HUYẾT ÁP
• Nhẹ : 9 – 9, 9
•Trung b́nh : 10 – 10, 9
•Nặng : > 11
4/ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA CAO HUYẾT ÁP
• Các động mạch dễ vỡ.
• Nguy cơ xơ mỡ động mạch
• Tai biến mạch máu năo
• Suy tim
• Suy thận
• các thương tổn mắt
Được làm dễ bởi dịch bệnh béo ph́, bệnh cao huyết áp vẫn thường c̣n là “ kẻ giết người thầm lặng ” của các tai biến tim mạch.
HYPERTENSION ARTERIELLE. Theo một công tŕnh nghiên cứu, được công bố vào tháng hai, cao huyết áp gây nên 7 triệu trường hợp tử vong mỗi năm trên thế giới, và số những người cao huyết áp từ nay đến năm 2025 sẽ đạt đến 1,5 tỷ người ! Ở Pháp, 31% những người từ 18 đến 74 tuổi là cao huyết áp, điều tra ENNS 2007 đă chỉ rơ như vậy. “ Trong số 15 triệu người bị cao huyết áp được biết, 12 triệu được điều trị bằng thuốc, nhưng huyết áp chỉ được kiểm soát nơi một nửa số các bệnh nhân. Và cứ hai người bị cao huyết áp th́ có một không hay biết là ḿnh bị bệnh ”, GS Xavier Girerd, thầy thuốc chuyên khoa tim (CHU Pitié-sa Salpetrière, Paris) đă chỉ rơ như vậy.
Đau đầu, ù tai, “ ruồi bay ” trước mắt …cao huyết áp chỉ được biểu hiện khi nó đă nghiêm trọng, khi huyết áp vượt quá nhiều trị số b́nh thường, hoặc 140/90. Hai con số này biểu hiện áp suất gây nên bởi máu lên các thành động mạch : con số cao nhất khi tim co bóp và phóng máu (huyết áp thu tâm), con số thấp nhất khi tim giăn ra và được làm đầy (huyết áp trương tâm). Huyết áp không được biết đến hay bị lơ là trầm trọng dần. Nó gây nên một sự lăo hóa gia tốc và không hồi phục của các mạch máu, cũng làm tổn hại vài cơ quan : năo bộ, tim, thận và mắt và gây nên các biến chứng : tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim, suy tim hay thận, viêm động mạch.
Có cao huyết áp ngay khi huyết áp vượt quá trong nhiều lần 140/90 hay chỉ một trong các con số này. “ Kể từ 40-50 tuổi, huyết áp trương tâm vẫn ổn định và chỉ cần nhớ rằng con số cao nhất không được vượt quá 140 ”, GS Stéphane Laurent, thầy thuốc chuyên khoa tim đă chỉ rơ như vậy. Từ năm 2005, HAS khuyến nghị rằng trước mọi điều trị, sự tự đo ở nhà hay ghi ngoại trú xác nhận cao huyết áp được đo ở pḥng mạch nhằm loại bỏ một tác dụng áo choàng trắng (“ effet blouse blanche ”) gây rối loạn.
DI TRUYỀN
Trong 5 đến 10% các trường hợp, nhất là nơi những người trẻ, cao huyết áp có thể là hậu quả của một bệnh khác như hẹp động mạch thận (rétrécissement de l’artère rénale), phéochromocytome, bệnh Cushing hay hyperaldostéronisme, cần được điều trị để trở lại t́nh trạng b́nh thường. Nhưng 90% các trường hợp cao huyết áp, mà tỷ lệ gia tăng theo tuổi tác, chỉ phát xuất từ những yếu tố môi trường và di truyền. “ Những công tŕnh khảo sát gia đ́nh đă cho thấy rằng huyết áp tùy thuộc khoảng 30% yếu tố di truyền. Nhưng những khảo sát mới đây về toàn bộ génome của hàng chục ngàn người đă không cho phép nhận diện những gène làm dễ sự xuất hiện cao huyết áp ”, GS Xavier Jeunemaitre, chuyên gia về di truyền tim mạch đă giải thích như vậy.
Cao huyết áp chủ yếu được liên kết mạnh với những yếu tố nguy cơ tim mạch khác. Thường ở đàn ông hơn là đàn bà, cao huyết áp thường xuất hiện khoảng lứa tuổi 50, là lứa tuổi mà ta bắt đầu lên cân. “ Bệnh béo ph́ có lẽ là một trong những yếu tố làm gia trọng của cao huyết áp, làm cho nó tiến triển nhanh nhất ”, GS Laurent đă nhấn mạnh như vậy.
Và chuyên gia này xác nhận rằng cao huyết áp là một bộ phận của hội chứng chuyển hóa (syndrome métabolique). Hội chứng này bao gồm một sự gia tăng ṿng bụng (tour de taille abdominale), những bất thường của đường huyết và của bilan lipidique. Những tiêu chuẩn này tăng cường lẫn nhau. Càng nhiều các tiêu chuẩn th́ nguy cơ bị cao huyết áp càng cao. “ Gần 50% những bệnh nhân cao huyết áp bị tăng thể trọng, và 40% được điều trị chống lại cholestérol ”, GS Girerd đă xác nhận như vậy. Sự nhàn rỗi không hoạt động và sự dùng quá nhiều muối cũng làm dễ cao huyết áp.
Vậy thầy thuốc sẽ tính một nguy cơ tim-mạch toàn bộ (risque cardiovasculaire global), xác định điều trị sau khi đă đánh giá thương tổn của các cơ quan đích (organe cible). Trong tất cả các trường hợp, cần thay đổi những thói quen trong đời sống để làm mất cân, tiếp tục một hoạt động vật lư, giảm sự tiêu thụ muối. Khi nguy cơ tim-mạch thấp, những biện pháp vệ sinh-dinh dưỡng này có thể đủ để b́nh thường hóa huyết áp, nhất là nơi những người trẻ tuổi nhất. Nếu nguy cơ này ở mức trung b́nh hay cao, thậm chí rất cao như sau nhồi máu cơ tim, việc nhờ đến các thuốc trở nên cần thiết. “ Được sử dụng đơn độc hay phối hợp, chúng tác động lên một trong ba cơ chế chính của cao huyết áp : sự co mạch quá mức được chống lại bởi các antagonniste calcium, các IEC (inhibiteur de l’enzyme de conversion) và các antagoniste của thụ thể angiotensine 2 (ARA2), sự gia tăng thể tích máu được chống lại bởi các thuốc lợi tiểu, và sự quá mức của trương lực của hệ thần kinh giao cảm được chống lại bởi các bêtabloquant ”, GS Laurent đă giải thích như vậy.
Cũng giống hệt như cholestérol có tác dụng làm dễ nhồi máu cơ tim, th́ cao huyết áp cũng làm dễ các thương tổn năo, dữ dội như các tai biến mạch máu năo, hay âm ỉ như sự ảnh hưởng dần dần của các chức năng cao cấp và của trí nhớ, gây nên bởi các thương tổn huyết quản vi thể, mà về lâu về dài sẽ dẫn đến sa sút trí tuệ tuổi già (démence sénile). Điều trị nó ngay khi được chẩn đoán cũng cho phép ǵn giữ tốt hơn tuổi già.
(LE FIGARO 4/4/2011)
CAO HUYẾT ÁP : TIÊN ĐOÁN CÁC BIẾN CHỨNG ĐỂ PH̉NG NGỪA CHÚNG TỐT HƠN.
Cao huyết áp có những tác dụng có hại do nhiều cơ chế. Nó làm hỏng tất cả các huyết quản dầu kích thước của chúng như thế nào. “ Thành của các huyết quản nhỏ nhất có thể bị vỡ dưới tác dụng của cao huyết áp, dầu đó là những mao mạch của vơng mạc trong bệnh vơng mạc do cao áp (rétinopathie hypertensive), hay những tiểu động mạch năo trong các xuất huyết vi thể (micro-hémorrgie). Các động mạch lớn hơn không vỡ nhưng chịu một quá tŕnh điều biến (remodelage) : áp suất tăng quá cao gây nên một sự mất đàn hồi do các sợi élastine bị phá hủy, các sợi đàn hồi này được thay thế bằng collagène. Sự xơ hóa (fibrose) gây nên cứng mạch máu, một sự lăo hóa sớm động mạch, bệnh xơ mỡ động mạch (artériosclérose), GS Atul Pathak, thầy thuốc chuyên khoa tim (CHU de Toulouse) đă giải thích như vậy. Sự cao huyết áp này, bằng một tác dụng cơ học trực tiếp, làm dễ sự tiến triển của xơ cứng động mạch và làm gia tăng nguy cơ vỡ các mảng xơ mỡ (plaques d’athérome), do đó gây huyết khối và tai biến thiếu máu cục bộ (accidents ischémiques).”
SỨC CẢN
Cao huyết áp cũng tác động lên những cơ quan bia (organe cible) khác, tim, thận và năo bộ. Ở động mạch chủ, nơi lối ra từ tim, sự tăng cao áp suất này tạo nên một sức cản mà tim phải chống lại vào mỗi lần co bóp. Về lâu về dài, tim ph́ đại, giăn ra và xơ hóa, điều này dẫn đến suy tim. Thận cũng bị ảnh hưởng bởi v́ những thương tổn các tiểu động mạch thận làm giảm sự thông máu cơ quan, do đó nguy cơ suy thận. Cao huyết áp cũng là yếu tố nguy cơ đầu tiên của tai biến mạch máu năo xuất huyết hay thiếu máu cục bộ (AVC hémorragique ou ischémique) tùy theo bản chất cùa thương tổn và kích thước của các mạch máu ”, vị thầy thuốc chuyên khoa tim đă giải thích như vậy. Cao huyết áp cũng kèm theo một sự hoạt hóa vài hệ thống làm khuếch đại những thương tổn này. Sự tăng hoạt hóa của hệ giao cảm (hệ của stress) phóng thích các hormone, adrénaline và noradrénaline, làm dễ sự tăng áp suất (hyperpression) và làm gia tăng sự điều biến động mạch (remodelage artériel), sự ph́ đại và sự xơ hóa tim. Hệ rénine-angiotensine-aldostérone, có nhiệm vụ điều ḥa sự cân bằng nước-muối ở thận, cũng được hoạt hóa. Angiotensine, chất trung gian chính của hệ rénine-angiotensine-aldostérone, có tác dụng làm dễ sự co mạch và sự xơ hóa, và làm gia tăng sự sản xuất aldostérone, đến lượt lại làm dễ sự ứ nước và muối, GS Atul Pathak đă nói thêm như vậy.
Ngoài việc tính toán những điểm số nguy cơ tim mạch (score de risque cardiovasculaire), thầy thuốc có thể có, nhờ sự phát hiện các cơ quan đích (organe cible) bị thương tổn, những tiêu chuẩn chính xác để ước tính những nguy cơ bị các biến chứng tim mạch và thực hiện điều trị thích ứng. Điện tâm đồ hay siêu âm tim cho phép t́m kiếm một ph́ đại tâm thất báo trước suy tim. Thương tổn của các động mạch được đánh giá nhờ đo bề dày của động mạch cảnh (artère carotidienne). Tốc độ của sóng mạch (onde de pouls) cũng cho phép đo độ cứng của động mạch (rigidité artérielle). Thương tổn thận được xác định bằng những xét nghiệm sinh học, nhất créatinémine và albumin-niệu. “ Ngược lại, GS Laurent Stéphane đă xác nhận như thế, chúng ta chưa có những tiêu chuẩn trung gian để đánh giá những thương tổn năo bộ, mặc dầu những bất thường nhỏ của chất trắng được phát hiện nhờ IRM dường như chỉ rơ thương tổn này.”
(LE FIGARO 4/4/2011)
3/ CAO HUYẾT ÁP : TỪ ĐIỀU TRỊ THUỘC ĐẾN CAN THIỆP NGOẠI KHOA.
Những tiến bộ sắp đến trong điều trị cao huyết áp là ǵ ? Ngày nay phải nhờ đến 5 lớp điều trị (classe thérapeutique). Xưa nhất, các thuốc lợi tiểu gia tăng sự bài tiết nước và muối, làm giảm thể tích máu và làm hạ huyết áp. Các betabloquant chống lại các tác dụng co mạch của hệ giao cảm, và các inhibiteur calcique, bằng tác dụng phong bế sự đi vào của calcium trong các tế bào cơ trơn, làm dễ sự giăn huyết quản. Vài betabloquant đặc hiệu làm chậm tần số và lưu lượng tim, như thế làm giảm huyết áp. Những lớp thuốc khác là những chất phong bế của hệ réine-angiotensine-aldostérone (RAA), có vai tṛ chủ yếu trong sự điều ḥa huyết áp, cùng với các inhibiteur de l’enzyme de conversion (IEC), các chất đối kháng của thụ thể angiotensine 2 (ARA2), và mới đây hơn các chất phong bế trực tiếp của rénine.
NGUY CƠ BIẾN CHỨNG.
Lớp khác của nhóm này, các antialdostérone, được dành cho những trường hợp cao huyết áp đề kháng. “ Ta chờ đợi những thuốc mới chống lại các đích khác của hệ RAA, trong đó có một chất ức chế sự tổng hợp aldostérone và một chất ức chế hỗn hợp (inhibiteur mixte) phong bế IEC, đồng thời ngăn cản sự thoái hóa của các peptide có tác dụng lợi tiểu và giăn mạch. Và ta cũng chờ đợi một chất ức chế endothéline, một chất co mạch mạnh ”, GS Pathak đă giải thích như vậy. Khoảng 90% những người cao huyết áp có nguy cơ trung b́nh hoặc cao bị biến chứng nghiêm trọng. Cao huyết áp là bệnh nhiều yếu tố mà sự điều trị được xác lập “ sur mesure ” đối với mỗi bệnh nhân bằng cách t́m kiếm tính hiệu quả tốt nhất và độ dung nap tốt nhất. “ Chỉ 45% các bệnh nhân được kiểm soát bởi một loại thuốc. 25% cần sự kết hợp của 2 loại thuốc và 30% cần 3 loại thuốc để hy vọng b́nh thường hóa huyết áp của ḿnh ”, GS Xaviet Girerd đă ghi nhận như vậy. Đối với những chuyên gia như GS Laurent, “ Việc thực hiện càng sớm càng tốt một liệu pháp hai thứ thuốc (bithérapie) cho phép đạt được sự hiệu quả hơn, nhất là nơi những người ở lứa tuổi 50, mà cứ hai bệnh nhân th́ chưa được một là có huyết áp được kiếm soát ”.
Mặc dầu chẩn đoán dễ dàng, mặc dầu có khoảng 500 biệt dược nhắm vào cao huyết áp, nhưng c̣n cần phải thực hiện nhiều tiền bộ. Cần phải phát hiện tốt hơn những bệnh nhân có nguy cơ. Nhờ di truyền, có lẽ các puce ADN chính xác hơn sẽ cho phép khám phá những biến dị làm dễ sự xuất hiện cao huyết áp thông thường, như puce đă cho phép mới đây nhận diện những gène có liên quan trong phéochromocytome và hyperaldostéronisme, chịu trách nhiệm cao huyết áp thứ phát. Hay với sự sử dụng gia tăng các chỉ dấu mô (marqueur tissulaire) như bề dày của động mạch cảnh hay độ cứng của động mạch, có lẽ có tính chất tiên đoán hơn vài chỉ dấu sinh học (marqueur biologique) bởi v́ chứng tỏ những tổn hại tích lũy với thời gian. “ Trong cao huyết áp đề kháng, một kỹ thuật mới, dénervation rénale, cho phép làm giảm hoạt tính của hệ giao cảm bằng cách làm thương tổn, nhờ tần số phóng xạ (radiofréquence), các phân bố thần kinh của động mạch thận ”, GS Pathak đă đảm bảo như vậy. Kỹ thuật này, mặc dầu cho những kết quả đáng lưu ư nhưng chỉ liên quan đến một số rất ít người bệnh mà thôi.
(LE FIGARO 4/4/2011)
LÀM THẾ NÀO B̀NH THƯỜNG HÓA TỐT HƠN HUYẾT ÁP CỦA M̀NH ?
CARDIOLOGIE. Ngày nay, 80% những người Pháp được chẩn đoán cao huyết áp đang được điều trị. Tỷ lệ này che dấu một thực tế đáng lo ngại : Từ 30 đến 40% những người cao huyết áp không biết rằng ḿnh bị huyết áp cao và một nửa trong số những người đang được điều trị không có một huyết áp được b́nh thường hóa, GS Faiez Zannad, thầy thuốc chuyên khoa tim (CHU de Nancy) đă chứng thực như vậy. Huyết áp được định nghĩa là quá cao khi trên 140/90 mmHg. Hai con số này biểu hiện áp lực do máu tác động lên các thành động mạch : trị số cao nhất khi tim co bóp và phóng máu (huyết áp thu tâm), trị số thấp nhất khi tim giăn và làm đầy (huyết áp trương tâm).
Cao huyết áp càng đáng sợ khi nó không gây triệu chứng, hay rất muộn. Chóng mặt, đau đầu, ù tai, khó thở khi gắng sức, thậm chí hồi hộp khi gắng sức chỉ xuất hiện khi huyết áp đă rất cao. Thế mà, tỷ lệ tử vong tim mạch tăng gấp đôi đối với mỗi gia tăng 20/10 mmHg của HA thu tâm/HA trương tâm, Jean - Jacques Mourad, thầy thuốc chuyên khoa tim (Bobigny), đă nhắc lại như vậy. Huyết áp làm biến đổi các động mạch, làm gia tốc sự lăo hóa, tấn công vào tim, thận và năo bộ.
NGUY CƠ ĐỘT QUY
Cao huyết áp đặc biết có hại đối với năo bộ. Nó là yếu tố nguy cơ chính của đột qụy và gây nên những thương tổn vi thể huyết quản (microlésions vasculaires), nhiên hậu chịu trách nhiệm démence sénile. “ Một nửa những trường hợp sa sút trí tuệ ở những người trên 80 tuổi là do cao huyết áp ”, BS Bernard Vaisse, chủ tịch của ủy ban chống cao huyết áp Pháp đă nhấn mạnh như vậy. Thế mà, chỉ có kiểm soát cao huyết áp mới có thể bảo vệ những màng năo. Và việc điều trị này phải được thực hiện càng sớm càng tốt. “ Ở tuổi 55, một cao huyết áp không được điều trị làm giảm hy vọng sống (espérance de vie) 7 năm và kéo dài hai năm cuộc sống với một phế tật do nhồi máu cơ tim, suy thận, suy tim, sa sút trí tuệ…”, Jean Jacques Mourad đă nhắc lại như vậy.
Đối với các chuyên gia, dưới mức 140/90 không phải bàn căi (135/85 mmHg trong trường hợp tự đo). Để đạt được điều đó, những quy tắc vệ sinh-tiết thực kết hợp với những điều trị bằng thuốc. “ Giảm tiêu thụ muối, rượu, mất cân, tập thể dục… Đó cũng quan trọng như dùng thuốc ”, Faiez Zannad đă nhấn mạnh như vậy. Mặc dầu biến đổi lối sống không phải luôn luôn dễ dàng, cũng như dùng thuốc mỗi ngày trong nhiều năm trong khi ta không cảm thấy bị bệnh.Chính v́ vậy những người cao huyết áp không luôn luôn tuân thủ điều trị. “ Phải mang lại một ư nghĩa đối với việc kê đơn một loại thuốc pḥng ngừa, Jean-Jacques Mourad đă công nhận như thế. Phải làm thế nào để thông lệ hóa việc uống thuốc, ở một giờ cố định, để bệnh nhân không bị quên ”, Bernard Vaisse tán đồng. “ Chúng ta phải lắng nghe các bệnh nhân về những tác dụng phụ. Chất lượng sống của họ phải được tôn trọng để họ chấp nhận các điều trị , GS Claire Mounier-Vehier, phó chủ tịch Liên đoàn Tim học của Pháp đă nhấn mạnh như vậy. Thầy thuốc có sự lựa chọn giữa 5 họ thuốc : những thuốc lợi tiểu, những thuốc chẹn beta giao cảm (betabloquant), những thuốc chẹn kênh canxi (inhibiteur calcique), các thuốc ức chế men chuyển (IEC : inhibiteur de lenzyme de conversion) và những sartan. Viện kê đơn được cá thể hóa tùy theo profil của mỗi bệnh nhân, những yếu tố nguy cơ liên kết. Trong trường hợp không kiểm soát được huyết áp, có thể phối hợp nhiều loại thuốc.
Những người Pháp không phải là những người duy nhất chịu trách nhiệm sự kiểm soát huyết áp tồi. Các chuyên gia trỏ vào sự tŕ trệ của các thầy thuốc Pháp. Số những bệnh nhân cần điều trị trong thăm khám càng cao, thầy thuốc càng ít t́m cách thích ứng điều trị cao huyết áp. BS Guillaume Bobrie, chuyên gia cao huyết áp của bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou đă chứng thực như vậy. Thế mà rất thường, huyết áp không xảy ra riêng rẻ, nó kèm theo những yếu tố nguy cơ khác như bệnh đái đường và cholestérol.” Theo những dữ kiện đầu tiên của điều tra Flash 2012, 40% những người cao huyết áp có một cholestérol quá cao và từ 15 đến 20% bị bệnh đái đường, BS Benard Vaisse đă tiết lộ như vậy.
(LE FIGARO 17/9/2012)
THÔNG TIN Y HỌC VỀ CÁC BỆNH LÂY LAN QUA ĐƯỜNG SINH DỤC
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Các Bệnh Lây Lan Qua Đường Sinh Dục
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
HPV VACCINE MAY HELP TO PREVENT ANAL CANCER.
Thuốc chủng mới chống human papillomavirus,đă xuất hiện trên thị truờng mùa hè năm qua, có thể có tiềm năng ngăn ngừa hàng ngàn trường hợp ung thư cổ tử cung.Nhưng các BS hy vọng thuộc chủng cung sẽ có thể ngăn ngừa một bệnh ít được biết đến hơn nhưng có tiềm năng gây tử vong,xảy ra ở những người đồng tính luyến ái,đó là ung thư hậu môn.HPV cùng loại có thể gây nên cả hai loại ung thư(ung thư cổ tử cung và ung thu hau mon)
Mặc dầu ung thư hậu môn có thể xảy đến cho bất cứ ai;nhung thường xảy ra nhất trên những người có bệnh sử giao hợp bằng hậu môn.Tỷ lệ xảy ra hàng năm khoảng 35 trường hợp trên 100.000 người,có lẽ gấp hai lần tỷ lệ xảy ra trên những người bị nhiễm HIV,bệnh làm suy giảm hệ miễn dịch.
Năm vừa qua,Food and Drug Administration đă chấp thuận sử dụng thuốc chủng HPV được, dành cho các nữ giới tuổi từ 9 đến 26 tuổi sau khi các nghiên cứu đă chỉ rơ rằng thuốc chủng có hiệu quả lớn chống lại những nhiễm trùng gây nên bởi 4 trong số 12 loai HPV,bao gồm những loại là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung và hậu môn.
"Về mặt sinh học,cổ tử cung tương tự với hậu môn,v́ thế có nhiều hy vọng rằng vaccin có hiệu quả với ung thư cổ tử cung cũng sẽ có hiệu quả đối với ung thư hậu môn".BS Joel Palefsky,một GS Y Khoa của Đaị Học California,San Francisco,đă phát biểu như thế.Nhưng ông lưu ư rằng,hiệu quả của vaccin đối với ung thư hậu môn vẫn cần phải được chứng minh.
Tỷ lệ ung thư hậu môn trên nhung người đồng tính luyến ái cũng tương tự với tỷ lệ của ung thư cổ tử cung,trước khi xuất hiện Pap smear,xét nghiệm cho phép phát hiện các bất thường tế bào tiền ung thư.Trong những năm gần đây,vài BS điều trị các bệnh nhân đồng tính luyến ái khuyên bệnh nhân của ḿnh làm xét nghiệm Pap smears hậu môn,như là một bộ phận điều trị pḥng ngừa thường lệ.
HPV là nhiễm trùng lây truyền bằng đường sinh dục thông thường nhất ở Hoa Kỳ,với 6,2 triệu người bị nhiễm trùng mỗi năm,theo thống kê của Centers for Disease Control and Prevention,mặc dầu ở nhiều người virus biến mất mà không có triệu chứng nào và cũng không biết là ḿnh đă bị nhiễm bệnh.Và nhiều người đồng t́nh luyến ái không nhận thức rằng họ có một nguy cơ cao mắc bệnh ung thư hậu môn.
Các nhà điều phối ở Úc và Liên hiệp Châu Âu đă chấp thuận dung vaccin gọi là Gardasil và được bào chế bởi hăng Merck,cho các em trai tuổi từ 9 đến 15.Họ nêu lên các dữ kiện chứng tỏ rằng vaccin sinh ra một phản ứng miễn dịch ở các em trai này,mặc dầu tính hiệu quả đă không được chứng tỏ.
Cũng nhu đối với các thuốc cần toa bác sĩ,cac BS ở Hoa Kỳ có thể cho toa vaccin "không nhăn hiệu" (off label) cho bất cứ ai."Sự chấp thuận cần cho thương măi hoá và phân phối thuốc,nhưng các thầy thuốc có thể sử dụng theo cách họ cảm thấy thích hợp".BS Jeffrey Klausner,Giám Đốc Pḥng Ngừa Bệnh Nhiễm trùng bằng đường sinh dục,thuộc khoa y Tế công cộng,đă nói như vậy.
BS Eliav Barr,một giám đốc nghiên cứu lâm sàng của công ty dược phẩm Merck,nói rằng một số người đă nhận vaccin,nhưng công ty bị cản phân phối thuốc trừ phi Food and Drug Administartion chấp thuận cho sử dụng vaccin.Merck dang bảo trợ một thử nghiệm lâm sàng vaccin Gardasil trên 4000 đàn ông,trong đó có 500 người bị đồng tính luyến ái.Các kết quả đầu tiên được dự kiến vào cuối năm đến.
Việc tuyển mộ các người đồng tính luyến ái để thử nghiệm là một thách thức,các nhà nghiên cứu đă phát biểu như thế.Vaccin được sử dụng để ngăn ngừa một nhiễm trùng tiên khởi do virus,nhưng nhiều người trở nên bị nhiễm trùng chẳng bao lâu sau khi bắt đầu hoạt động sinh dục.Merck đă tuyển mộ các người bên nam giới ở lứa tuổi từ 16 đến 26 và những người này đă không có nhiều hơn năm người bạn đường phối ngẫu.
(INTERNAL HERALD TRIBUNE 1/2/2007)
Bệnh SIDA và bệnh SỐT RÉT sống không hoà thuận với nhau. Một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ vừa chứng minh rằng có một tác dụng lẫn nhau giữa hai bệnh này nơi các người bệnh bị nhiễm đồng thời cả hai bệnh này. Các bệnh nhân bị nhiễm virus SIDA ,do sự suy giảm miễn dịch nên có nhiều nguy cơ hơn bị mắc bệnh sốt rét.Trái lại,các cơn sốt rét gây sự tăng sinh gấp mười lần lượng HIV trong máu ! Thế mà khả năng truyền bệnh SIDA tỷ lệ với nồng độ virus trong máu.
(LA RECHERCHE 2/2007)
CẮT BAO QUY ĐẦU LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ NHIỄM TRÙNG ĐỐI VỚI PHỤ NỮ.
Người ta biết rằng cắt bao quy đầu(circoncision ) có thể làm giảm 60% nguy cơ bị nhiễm siêu vi SIDA đối với nam giới. Ngược lại,theo các kết quả sơ khởi của một công tŕnh nghiên cứu phối hợp của Hoa Ky và Ouganda,th́ việc cắt bao quy đầu sẽ làm gia tăng ở các phụ nữ nguy cơ bị nhiễm HIV. Nếu các ông có huyết thanh dương tính(séropositif) đối với SIDA,không chịu kiêng cử mà lại giao hợp trong lúc sẹo giải phẫu đanh thành h́nh,th́ các bà phối ngẫu sẽ có nguy cơ nhiều hơn bị gây nhiễm.Tuy nhiên,theo các chuyên gia,đây không phải là kết quả cuối cùng và các kết quả này rất có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như sự sử dụng biện pháp ngừa thai.
(METRO 29/3/2007)
Các nhà khoa học đă nhân diện một cấu chất trong trà xanh có khả năng đua tranh với siêu vi khuẩn HIV bằng cách ngăn cản tác dụng của siêu vi khuẩn này lên hệ miễn dịch.Chất cấu thành của trà xanh nêu trên là épigallocatéchine gallate (EGCG).EGCG đến tọa vị trước các thụ thể (récepteurs) CD4 của các T4 và như vậy ngăn cản virus HIV liên kết với hệ miễn dịch.Theo M.Willamson,sự việc uống trà xanh có thể làm giảm nguy cơ bị nhiễm trùng bởi HIV và giới hạn sự khuếch tán của siêu vi khuẩn.Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cho biết rằng nước trà xanh không phải là một điều trị chống bệnh Sida và dầu sao đó cũng không phải là một phương cách chắc chắn đề pḥng ngừa nhiễm trùng HIV.
Đúng hơn nếu trà xanh kết hợp với các thuốc điều trị thường dùng có thể góp phần tạo cho các bệnh nhân có huyết thanh dương tính một cuộc sống có chất lượng hơn. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng nghiên cứu của họ đang c̣n ở trong một giai đoạn rất sớm sủa: c̣n cần phải thực hiện các nghiên cứu trên động vật trước khi có thể rút ra những kết luận về một hiệu quả bảo vệ khả dĩ của trà xanh.Các nhà nghiên cứu cũng nhắc lại rằng các nghiên cứu chỉ quan tâm đến khả năng in vitro của một thành phần hóa học của trà xanh trong việc phong tỏa sự nối kết giữa HIV với những CD4 của người. Nhưng đă nhiều lần được chứng tỏ rằng các chất có khá năng in vitro ngăn cản một nhiễm trùng do HIV lại không có thể như vậy trong t́nh huống thực tế.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/4/2007)
Bệnh lậu (gonococcie hay blennorragie), là một nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục, có tần số gây bệnh gia tăng từ vài năm nay, với số giống gốc (souches) lậu cậu đề kháng với kháng sinh gia tăng. Theo một công tŕnh nghiên cứu trên 51.000 người đàn ông, nguy cơ bi ung thư bàng quang sẽ 2 lần cao hơn trong trường hợp có tiền sử bệnh lậu.
Phản ứng viêm tại chỗ và sự tồn lưu của cặn nước tiểu sau khi tiểu tiện giải thích sự liên kết giữa nhiễm trùng thường gây đau đớn này và nguy cơ xuất hiện u bàng quang.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.