HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .
Cho dù không có vấn đề ǵ khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm ǵ để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .
I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN
Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh. Điều quan trọng là biết làm ǵ, làm thế nào để trị liệu, và khi nào th́ cần t́m kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.
1) B̉ CẠP CẮN (SCORPION BITES)
Ḅ cạp là loại côn trùng nhiều chân có h́nh dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ng̣i / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được t́m thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).
Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết ḅ cạp cắn:
1. Rửa vùng bị ḅ cạp cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước
2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị ḅ cạp cắn trong ṿng 10 phút , nếu cần thiết th́ lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .
3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng ǵ
2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)
Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này th́ dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .
Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)
Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hăy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve
2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước.
3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)
Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tṛn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt ḅ" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .
CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh
BỆNH ĐỘNG KINH (EPILEPSIE)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Bệnh Động Kinh (Epilepsie)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 62 - BS NGUY NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/2/2008 )
4/ NHỮNG THƯƠNG TỔN KHÔNG THẤY ĐƯỢC DO SỨC NỔ CỦA BOM ĐẠN LÊN NĂO BỘ
Suốt trong trận chiến vùng Balkan năm 1990, Ibolja Cernak, BS chuyên khoa thần kinh thuộc bệnh viện quân sự Belgrade, đă phải đối diện với một bí ẩn: Bà thấy các quân nhân bị các rối loạn về trí nhớ, bị chóng mặt, bị những vấn đề về diễn đạt, nhưng lại không mang dấu vết của một vết thương nào. Một trong các người lính này, tuổi 19, đă đến một cửa hàng gia vị rồi bật khóc nức nở, v́ không biết làm thế nào để t́m đường trở về lại nhà. Khi bà mẹ của anh ta dẫn anh ta đến bệnh viện vài ngày sau đó, Ibolja Cernak đă khám phá một điểm chung cho tất cả các trường hợp thuộc loại này: Cậu thanh niên này, cũng như những người khác đều đă sống sót sau một trận nổ có cường độ mạnh trong lúc giao tranh. Và điều lạ lùng là hầu hết không ai bị thương ở đầu cả.
Tuy vậy, khi bà thực hiện chụp h́nh ảnh bằng tomographie hoặc bằng IRM, bà đă thấy được những dấu hiệu của các thương tổn.Trong vài trường hợp, các năo thất (ventricules) của năo bộ trở nên lớn ra hoặc có dấu vết của một xuất huyết nhẹ. Trong các tài liệu y học được tham khảo, Cernak đă không t́m thấy được một bài viết nào về chủ đề này cả. Người ta chỉ nói rơ rằng các làn sóng va chạm (ondes de choc) của một vụ nổ có thể gây tổn hại lên các cơ quan rỗng chứa đầy không khí như phổi và ruột, chứ không phải là năo bộ.
Nếu bà là thầy thuốc của Đệ Nhất Thế Chiến, Cernak đă tâm sự như vậy, th́ có lẽ bà sẽ nhận biết loại chấn thương này nơi hàng ngàn binh lính bị cái điều mà hồi đó đă gọi là shellshock hay choc d’obus (sốc do đạn súng cối). Các bác sĩ và các sĩ quan lúc đó đă xem hiện tượng này như là một hiện tượng tâm lư tạm thời, theo họ, chỉ có tác động lên các binh sĩ có trạng thái tâm thần vốn yếu ớt hơn. Nhưng thực tế được khám phá bởi nữ bác sĩ chuyên khoa thần kinh này lại khác hẳn : những hiện tượng tâm lư này dường như là do những biến đổi vật lư dài lâu trong năo bộ.
Để chứng tỏ điều đó, năm 1999 bà đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu nơi 1.300 binh lính bị thương ở phần thấp của cơ thể, nhưng không phải ở đầu. Một nửa trong số các binh sĩ này đă bị thương vào lúc xảy ra một trận nổ (une explosion), c̣n những người khác th́ bị thương do đạn bắn (un projectile). Trong số những người thuộc nhóm đầu, nhiều người bị mất ngủ, chóng mặt và mất trí nhớ. Cũng trong nhóm này, 36% trong số các nạn nhân đă cho thấy một điện năo đồ (électroencéphalogra mme) không b́nh thuờng trong 3 ngày theo sau chấn thương, so với 12% trong nhóm thứ hai. Một năm sau, điện năo đồ không b́nh thường vẫn c̣n nơi 30% trong số các nạn nhân thuộc nhóm thứ nhất, so với chỉ 4% thuộc nhóm thứ hai.
Cùng với những nhóm nghiên cứu khác ở Belgrade, ở Trung Quốc và Thụy Điển, Cernak đă thực hiện những nghiên cứu trên động vật: các công tŕnh nghiên cứu này xác nhận rằng các làn sóng nổ (onde de déflagration) có thể gây thương tổn lên các tế bào thần kinh. Các công tŕnh này vẫn không được chú ư đến cho măi đến năm 2006, là lúc hàng trăm binh lính Hoa Kỳ và Anh Quốc đă trở về từ Irak với những triệu chứng tương tự như những triệu chứng của các bệnh nhân của bà Cernak. Các bẫy ḿn được đặt trên các đường lộ đă trở nên thường xuyên hơn và các bác sĩ quân y đă nghĩ rằng những triệu chứng này là do một chấn thương nhẹ của năo bộ. Cernak, từ nay làm việc ở Johns Hopkins University ở tiểu bang Maryland, đă thấy rằng những quan sát của bà từ nay đă được công nhận .
Theo bà, các làn sóng va chạm (ondes de choc) sau trận nổ được lan truyền xuyên qua các mạch máu của lồng ngực lên năo bộ và đă để lại ở đấy những dấu vết thương tổn thần kinh; các thương tổn này cần đến thời gian dài lâu mới xuất hiện.Trong trường hợp này, việc đội mũ sắt sẽ chẳng có ích lợi ǵ nhiều. Các công tŕnh nghiên cứu trên chuột được cho tiếp xúc với các sóng va chạm, đă gợi cho bà kịch bản này: mặc dầu được bảo vệ bởi các lá thép, các làn sóng va chạm vẫn gây những biến đổi của mô năo bên trong. “Bà Cernak đă là một người tiền phong trong lănh vực này, John Povlishock thuộc Virginia Commonwealth University ở Richmond đă đánh giá như vậy. Chủ đề này có một ư nghĩa rất to lớn về kinh tế, quân sự và xă hội, nhưng măi đến hôm nay vẫn rất ít được nghiên cứu đến”.
CHIẾC HỘP PANDORE
Từ đó, vấn đề t́m biết các làn sóng nổ ảnh hưởng như thế nào lên năo bộ dần dần trở thành ưu tiên trong quân y. Mùa hè năm qua, Quốc Hội Hoa Kỳ đă cấp 150 triệu dollars cho Bộ Quốc Pḥng, dành cho năm đầu nghiên cứu về chủ đề này. Một chương tŕnh để t́m hiểu chấn thương gây nên bởi các làn sóng va chạm, nhiệt và bức xạ điện từ phát sinh do các trận nổ, đă được khởi động bởi Defense Advanced Research Projects Agency. Một cơ quan nghiên cứu khác, chuyên môn trong các chấn thương nhẹ của năo bộ, DVBIC, đă nhận một tài trợ 14 triệu dollars mỗi năm. Theo cơ quan này, 10 đến 20% các binh sĩ phục vụ ở Irak và ở Afganistan đă bị các chấn thương thuộc loại này, dưới dạng này hoặc dạng khác. Bảng thống kê vừa qua cho thấy rằng gần 25.000 trong số các binh sĩ này đă là nạn nhân của những chấn thương thuộc loại này. Đă có chỉ thị cho tất cả các bệnh viện dành cho các cựu chiến binh là phải t́m kiếm một cách có hệ thống các chấn thương nhẹ của năo bộ nơi những người đến bệnh viện khám.
Sự việc do tiếp xúc một trận nổ mà có thể gây nên những tổn hại dài lâu nơi năo bộ đă mở chiếc hộp Pandore, đặc biệt là đối với các cựu chiến binh lớn tuổi hơn. Bởi v́ điều này hàm ư rằng một vài người có thể bị các thương tổn thần kinh đă không được chẩn đoán hoặc đă bị lẫn lộn với một hợp chứng căng thẳng sau chấn thương (syndrome de stress posttraumatique). Thật vậy, từ khi chính phủ bắt đầu đưa ra các thông tin về loại chấn thương này, các cựu chiến binh t́m kiếm một điều trị cho những vấn đề tâm thần mà vài người đă có từ nhiều thập niên qua. “Có thể các chấn thương gây nên do các trận nổ sẽ tiếp nối “chất độc màu da cam” hoặc “hợp chứng chiến tranh vùng vịnh”, David Trudeau, một bác sĩ chuyên khoa tâm thần phụ trách các cựu chiến binh, đă chỉ rơ như vậy.
Cernak đă nhận được nhiều thư và điện thoại của các cựu chiến binh cám ơn bà về công tŕnh mà bà đă thực hiện. “Các binh lính là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương nhất trên thế giới, và giúp đỡ họ là một nghĩa vụ đạo đức”, bà Cerna đă phát biểu như thế.
(LE FIGARO 28/1/2008)
BỆNH ĐỘNG KINH (EPILEPSIE)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Bệnh Động Kinh (Epilepsie)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 62 - BS NGUY NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/2/2008 )
4/ NHỮNG THƯƠNG TỔN KHÔNG THẤY ĐƯỢC DO SỨC NỔ CỦA BOM ĐẠN LÊN NĂO BỘ
Suốt trong trận chiến vùng Balkan năm 1990, Ibolja Cernak, BS chuyên khoa thần kinh thuộc bệnh viện quân sự Belgrade, đă phải đối diện với một bí ẩn: Bà thấy các quân nhân bị các rối loạn về trí nhớ, bị chóng mặt, bị những vấn đề về diễn đạt, nhưng lại không mang dấu vết của một vết thương nào. Một trong các người lính này, tuổi 19, đă đến một cửa hàng gia vị rồi bật khóc nức nở, v́ không biết làm thế nào để t́m đường trở về lại nhà. Khi bà mẹ của anh ta dẫn anh ta đến bệnh viện vài ngày sau đó, Ibolja Cernak đă khám phá một điểm chung cho tất cả các trường hợp thuộc loại này: Cậu thanh niên này, cũng như những người khác đều đă sống sót sau một trận nổ có cường độ mạnh trong lúc giao tranh. Và điều lạ lùng là hầu hết không ai bị thương ở đầu cả.
Tuy vậy, khi bà thực hiện chụp h́nh ảnh bằng tomographie hoặc bằng IRM, bà đă thấy được những dấu hiệu của các thương tổn.Trong vài trường hợp, các năo thất (ventricules) của năo bộ trở nên lớn ra hoặc có dấu vết của một xuất huyết nhẹ. Trong các tài liệu y học được tham khảo, Cernak đă không t́m thấy được một bài viết nào về chủ đề này cả. Người ta chỉ nói rơ rằng các làn sóng va chạm (ondes de choc) của một vụ nổ có thể gây tổn hại lên các cơ quan rỗng chứa đầy không khí như phổi và ruột, chứ không phải là năo bộ.
Nếu bà là thầy thuốc của Đệ Nhất Thế Chiến, Cernak đă tâm sự như vậy, th́ có lẽ bà sẽ nhận biết loại chấn thương này nơi hàng ngàn binh lính bị cái điều mà hồi đó đă gọi là shellshock hay choc d’obus (sốc do đạn súng cối). Các bác sĩ và các sĩ quan lúc đó đă xem hiện tượng này như là một hiện tượng tâm lư tạm thời, theo họ, chỉ có tác động lên các binh sĩ có trạng thái tâm thần vốn yếu ớt hơn. Nhưng thực tế được khám phá bởi nữ bác sĩ chuyên khoa thần kinh này lại khác hẳn : những hiện tượng tâm lư này dường như là do những biến đổi vật lư dài lâu trong năo bộ.
Để chứng tỏ điều đó, năm 1999 bà đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu nơi 1.300 binh lính bị thương ở phần thấp của cơ thể, nhưng không phải ở đầu. Một nửa trong số các binh sĩ này đă bị thương vào lúc xảy ra một trận nổ (une explosion), c̣n những người khác th́ bị thương do đạn bắn (un projectile). Trong số những người thuộc nhóm đầu, nhiều người bị mất ngủ, chóng mặt và mất trí nhớ. Cũng trong nhóm này, 36% trong số các nạn nhân đă cho thấy một điện năo đồ (électroencéphalogra mme) không b́nh thuờng trong 3 ngày theo sau chấn thương, so với 12% trong nhóm thứ hai. Một năm sau, điện năo đồ không b́nh thường vẫn c̣n nơi 30% trong số các nạn nhân thuộc nhóm thứ nhất, so với chỉ 4% thuộc nhóm thứ hai.
Cùng với những nhóm nghiên cứu khác ở Belgrade, ở Trung Quốc và Thụy Điển, Cernak đă thực hiện những nghiên cứu trên động vật: các công tŕnh nghiên cứu này xác nhận rằng các làn sóng nổ (onde de déflagration) có thể gây thương tổn lên các tế bào thần kinh. Các công tŕnh này vẫn không được chú ư đến cho măi đến năm 2006, là lúc hàng trăm binh lính Hoa Kỳ và Anh Quốc đă trở về từ Irak với những triệu chứng tương tự như những triệu chứng của các bệnh nhân của bà Cernak. Các bẫy ḿn được đặt trên các đường lộ đă trở nên thường xuyên hơn và các bác sĩ quân y đă nghĩ rằng những triệu chứng này là do một chấn thương nhẹ của năo bộ. Cernak, từ nay làm việc ở Johns Hopkins University ở tiểu bang Maryland, đă thấy rằng những quan sát của bà từ nay đă được công nhận .
Theo bà, các làn sóng va chạm (ondes de choc) sau trận nổ được lan truyền xuyên qua các mạch máu của lồng ngực lên năo bộ và đă để lại ở đấy những dấu vết thương tổn thần kinh; các thương tổn này cần đến thời gian dài lâu mới xuất hiện.Trong trường hợp này, việc đội mũ sắt sẽ chẳng có ích lợi ǵ nhiều. Các công tŕnh nghiên cứu trên chuột được cho tiếp xúc với các sóng va chạm, đă gợi cho bà kịch bản này: mặc dầu được bảo vệ bởi các lá thép, các làn sóng va chạm vẫn gây những biến đổi của mô năo bên trong. “Bà Cernak đă là một người tiền phong trong lănh vực này, John Povlishock thuộc Virginia Commonwealth University ở Richmond đă đánh giá như vậy. Chủ đề này có một ư nghĩa rất to lớn về kinh tế, quân sự và xă hội, nhưng măi đến hôm nay vẫn rất ít được nghiên cứu đến”.
CHIẾC HỘP PANDORE
Từ đó, vấn đề t́m biết các làn sóng nổ ảnh hưởng như thế nào lên năo bộ dần dần trở thành ưu tiên trong quân y. Mùa hè năm qua, Quốc Hội Hoa Kỳ đă cấp 150 triệu dollars cho Bộ Quốc Pḥng, dành cho năm đầu nghiên cứu về chủ đề này. Một chương tŕnh để t́m hiểu chấn thương gây nên bởi các làn sóng va chạm, nhiệt và bức xạ điện từ phát sinh do các trận nổ, đă được khởi động bởi Defense Advanced Research Projects Agency. Một cơ quan nghiên cứu khác, chuyên môn trong các chấn thương nhẹ của năo bộ, DVBIC, đă nhận một tài trợ 14 triệu dollars mỗi năm. Theo cơ quan này, 10 đến 20% các binh sĩ phục vụ ở Irak và ở Afganistan đă bị các chấn thương thuộc loại này, dưới dạng này hoặc dạng khác. Bảng thống kê vừa qua cho thấy rằng gần 25.000 trong số các binh sĩ này đă là nạn nhân của những chấn thương thuộc loại này. Đă có chỉ thị cho tất cả các bệnh viện dành cho các cựu chiến binh là phải t́m kiếm một cách có hệ thống các chấn thương nhẹ của năo bộ nơi những người đến bệnh viện khám.
Sự việc do tiếp xúc một trận nổ mà có thể gây nên những tổn hại dài lâu nơi năo bộ đă mở chiếc hộp Pandore, đặc biệt là đối với các cựu chiến binh lớn tuổi hơn. Bởi v́ điều này hàm ư rằng một vài người có thể bị các thương tổn thần kinh đă không được chẩn đoán hoặc đă bị lẫn lộn với một hợp chứng căng thẳng sau chấn thương (syndrome de stress posttraumatique). Thật vậy, từ khi chính phủ bắt đầu đưa ra các thông tin về loại chấn thương này, các cựu chiến binh t́m kiếm một điều trị cho những vấn đề tâm thần mà vài người đă có từ nhiều thập niên qua. “Có thể các chấn thương gây nên do các trận nổ sẽ tiếp nối “chất độc màu da cam” hoặc “hợp chứng chiến tranh vùng vịnh”, David Trudeau, một bác sĩ chuyên khoa tâm thần phụ trách các cựu chiến binh, đă chỉ rơ như vậy.
Cernak đă nhận được nhiều thư và điện thoại của các cựu chiến binh cám ơn bà về công tŕnh mà bà đă thực hiện. “Các binh lính là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương nhất trên thế giới, và giúp đỡ họ là một nghĩa vụ đạo đức”, bà Cerna đă phát biểu như thế.
(LE FIGARO 28/1/2008)
VIỆC UỐNG THUỐC ĐỀU ĐẶN NƠI NHỮNG NGƯỜI BỊ BỆNH ĐỘNG KINH
Việc tuân thủ kém trong việc uống thuốc chống động kinh phải chăng liên kết với một sự gia tăng tỷ lệ tử vong và làm gia tăng nguy cơ những biến cố lâm sàng nghiêm trọng (thăm khám pḥng cấp cứu, nhập viện, tai nạn lưu thông, găy xương và bị thương tích ở đầu) ? Một nhóm nghiên cứu người Anh, E. Faught và các cộng sự viên, đă thực hiện một công tŕnh nghiên cứu ở Florida, Iowa và New Jersey, từ tháng giêng năm 1997 đến tháng 6 năm 2006. Các bệnh nhân 18 tuổi hoặc hơn đă được tuyển chọn, được chẩn đoán bởi một thầy thuốc thần kinh và sử dụng 2 thuốc chống động kinh hoặc hơn. Các bệnh nhân dùng 80% (hoặc hơn) liều lượng được cho, được xem là tuân thủ điều trị (compliant).
Các kết quả cho thấy rằng ¼ các bệnh nhân đă được xếp loại là không tuân thủ điều trị (non compliant). Việc kém tuân thủ trong điều trị được liên kết với một sự gia tăng nguy cơ tử vong, được nhân lê gấp ba lần, so sánh với những người tuân thủ tốt điều trị. Những thời kỳ không tuân thủ cũng đặc trưng bởi một tỷ lệ gia tăng một cách đáng kể những lần đến pḥng cấp cứu, nhập viện, tai nạn lưu thông và găy xương, so với những thời kỳ tuân thủ điều trị. Đối với các tác giả, những dữ kiện này gợi ư rằng, nơi những bệnh nhân bị động kinh, việc tuân thủ kém trong việc uống thuốc chống động kinh có thể có những hậu quả nghiêm trọng và làm gia tăng nguy cơ bị những biến cố lâm sàng nghiêm trọng.
LE JOURNAL DU MEDECIN (27/6/2008)
VIỆC UỐNG THUỐC ĐỀU ĐẶN NƠI NHỮNG NGƯỜI BỊ BỆNH ĐỘNG KINH
Việc tuân thủ kém trong việc uống thuốc chống động kinh phải chăng liên kết với một sự gia tăng tỷ lệ tử vong và làm gia tăng nguy cơ những biến cố lâm sàng nghiêm trọng (thăm khám pḥng cấp cứu, nhập viện, tai nạn lưu thông, găy xương và bị thương tích ở đầu) ? Một nhóm nghiên cứu người Anh, E. Faught và các cộng sự viên, đă thực hiện một công tŕnh nghiên cứu ở Florida, Iowa và New Jersey, từ tháng giêng năm 1997 đến tháng 6 năm 2006. Các bệnh nhân 18 tuổi hoặc hơn đă được tuyển chọn, được chẩn đoán bởi một thầy thuốc thần kinh và sử dụng 2 thuốc chống động kinh hoặc hơn. Các bệnh nhân dùng 80% (hoặc hơn) liều lượng được cho, được xem là tuân thủ điều trị (compliant).
Các kết quả cho thấy rằng ¼ các bệnh nhân đă được xếp loại là không tuân thủ điều trị (non compliant). Việc kém tuân thủ trong điều trị được liên kết với một sự gia tăng nguy cơ tử vong, được nhân lê gấp ba lần, so sánh với những người tuân thủ tốt điều trị. Những thời kỳ không tuân thủ cũng đặc trưng bởi một tỷ lệ gia tăng một cách đáng kể những lần đến pḥng cấp cứu, nhập viện, tai nạn lưu thông và găy xương, so với những thời kỳ tuân thủ điều trị. Đối với các tác giả, những dữ kiện này gợi ư rằng, nơi những bệnh nhân bị động kinh, việc tuân thủ kém trong việc uống thuốc chống động kinh có thể có những hậu quả nghiêm trọng và làm gia tăng nguy cơ bị những biến cố lâm sàng nghiêm trọng.
LE JOURNAL DU MEDECIN (27/6/2008)
2/3 chất mỡ và 1/3 chất đạm và đường : chế độ ăn uống tăng mỡ (régime hypergras) này điều trị các bệnh nhân động kinh không đáp ứng với thuốc. Được nghĩ ra cách nay gần 100 năm bởi Russel Wilder, một nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, nhưng đây là lần đầu tiên chế độ ăn uống tăng mỡ này được nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh như vậy. Nhóm nghiên cứu được lănh đạo bởi Elizabeth Neal ở Luân Đôn, chứng tỏ tính hiệu quả của chế độ ăn uống tăng mỡ: sau 3 tháng tuân theo chế độ ăn uống này, 38% các trẻ thấy hơn một nửa các cơn động kinh biến mất, và ở vài trẻ tỷ lệ này lên đến 90%. Chế độ ăn uống sinh cétone (régime cétogène) tạo một tác dụng tương tự với sự nhịn đói : việc thiếu glucose buộc cơ thể phải thoái biến các lipide và như thế sản sinh một lượng quan trọng chất cétone (trong đó có acétone). Theo các nhà khoa học, chính các chất cétone này làm giảm các hiện tượng động kinh. Chúng tác động như thế nào ? Đó vẫn c̣n là một bí ẩn.
SCIENCE ET VIE (7/2008)
Giáo sư Michel Baulac, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của bệnh viện La Pitié-Salpêtrière, Paris, giải thích từ nay điều trị như thế nào 40% những bệnh nhân động kinh đề kháng với các liệu pháp cổ điển.
Hỏi : người ta thường che dấu là bị một bệnh động kinh, căn bệnh c̣n bị kiêng kỵ về mặt xă hội. Thật ra, định nghĩa của động kinh là thế nào ?
G.S Michel Baulac : Đó là một bệnh lư thường xảy ra, ở châu Âu cứ 1000 người th́ có một người bị bệnh, trong đó cứ hai bệnh nhân th́ một là trẻ em. Người ta chỉ thật sự chẩn đoán động kinh khi các cơn tái diễn. Các cơn này tương ứng với một đợt phóng điện (une décharge électrique) bất b́nh thường của các nơ ron nằm trên trên một bề mặt rộng ít hay nhiều của vỏ năo. Các triệu chứng thay đổi tùy theo vị trí và mặt rộng của vùng bị ảnh hưởng. Nhiều nguyên nhân có thể là nguồn gốc của những cơn động kinh này : khối u, sẹo sau chấn thương, dị dạng đủ loại, nhưng cũng có tố bẩm di truyền.
Hỏi : Những dạng khác nhau của cơn động kinh là ǵ ?
G.S Michel Baulac : Vâng. Có hai dạng chính. 1. Cơn động kinh toàn thể (crise convulsive généralisée) trong đó sự phóng điện nơ ron tỏa lan. Cơn được phát khởi bằng một sự mất tri giác tức thời kéo dài vài phút, bệnh nhân té đột ngột, cứng toàn bộ thân thể, tăng tiết nước bọt và những rung giật ở các chi : cơn rất gây ấn tượng đối với những người chung quanh! Những cơn động kinh toàn thể khác, ít gây thương tổn hơn, chỉ đưa đến vắng ư thức (absence) vài giây hay những rung giật ngắn ngủi của các chi. 2. Những cơn động kinh cục bộ (crises partielles), có những triệu chứng tương ứng với vùng bị ảnh hưởng : những rối loạn thị giác, các ảo giác (hallucinations), những cử động không tự ư và vắng ư thức kéo dài vài phút đối với vài bệnh nhân, với mất toàn bộ sự làm chủ hành vi, do đó t́nh trạng mất năng lực quan trọng khi các cơn xảy ra thường xuyên.
Hỏi : Những người động kinh sống trong lo sợ sẽ xảy ra một cơn động kinh mới… Những dấu hiệu báo trước là những dấu hiệu nào ?
G.S M.B : Có khi vài người phát khởi một cơn nhỏ (minicrise) vài chốc lát trước khi cơn trở nên nghiêm trọng hơn. Nếu có đủ thời gian (khoảng 10 phút), một thuốc có tác dụng nhanh đôi khi có thể tránh được cơn xảy ra. Nhưng hầu hết các bệnh nhân không có một dấu hiệu báo trước nào, do đó cần có một điều trị thường trực.
Hỏi: Cho đến nay, những điều trị cổ điển là những điều trị nào, và những chỉ định của chúng?
G.S M.B : Một tiến bộ mới đây là khả năng điều trị các bệnh nhân “à la carte“. Có nhiều thuốc chống động kinh với cách tác dụng khác nhau nhưng mục đích đều giống nhau: ngăn cản sự biểu hiện các triệu chứng. Không có một loại thuốc nào có thể chữa lành được bệnh. Đối với các cơn động kinh toàn thể, valproate (Dépakine), lamotrigine (LAmictal) là được sử dụng nhiều nhất nhưng không phải là không có những tác dụng phụ, do đó cần theo dơi đều đặn. Đối với những cơn động kinh cục bộ, thuốc thường được cho là carbamazépine (Tégrétol) vẫn có thế cho những tác dụng phụ; lévétiracétam (Keppra) là một lựa chọn khác.
Hỏi : Với những phương thức điều trị thuốc bằng đường miệng, những kết quả thu được là những kết quả nào ?
G.S M.B : Chúng cho phép kiểm soát các cơn nơi 60% các bệnh nhân.
Hỏi : Như vậy đối với 40% những bệnh nhân c̣n lại, cần những điều trị hiệu quả hơn. Điều trị mới được hiệu chính gần đây đối với những bệnh nhân đề kháng này là gi ?
G.S M.B : Trước hết, vài bệnh nhân được gọi là đề kháng dược liệu (pharmacorésistant) có thể là những ứng viên của một can thiệp ngoại khoa, nhằm lấy đi vùng năo bộ gây nên các cơn động kinh. Về mặt thuốc men, chúng ta có những thuốc mới chống động kinh, được cho bằng đường miệng. Trong số những thuốc mới nhất, zonisamide và lacosamide đă được trắc nghiệm trong nhiều công tŕnh nghiên cứu quốc tế, trong đó chúng đă chứng tỏ một hiệu quả thật sự trong việc làm giảm tần số xảy ra các cơn. Những thuốc này có ưu điểm là có hoạt tính nơi những bệnh nhân đề kháng nhất.
Hỏi : Người ta có nhận thấy những tác dụng phụ không ?
G.S M.B : Người ta đă ghi nhận những cảm giác chóng mặt, chứng ngủ gà, t́nh trạng dễ mệt mỏi và vài rối loạn tính khí.
Hỏi : Khi nào các bệnh nhân động kinh mới có thể hưởng liệu phát rất mới này ?
G.S M.B : Zonisamide đă được chấp thuận bởi các giới hữu trách Châu Âu và đă được thương măi hóa ở Pháp từ nhiều tháng nay. Lacosamide vừa mới được sự chấp thuận của châu Âu và chẳng bao lâu sẽ có để sử dụng ở Pháp. Những điều trị các bệnh nhân đề kháng bằng những thuốc mới này là một bước tiến quan trọng.
Hỏi : Có chống chỉ định đối với những thuốc mới này không ?
G.S M.B : Mọi dự định thai nghén phải được chuẩn bị trước một cách cẩn thận và vài loại thuốc cần phải tránh. FDA, cơ quan y tế tối cao của Hoa Kỳ, vừa gợi ư rằng tất cả các thuốc chống động kinh mới có thể làm dễ các ư nghĩ tự tử (idées suicidaires). Do đó cần áp dụng mọi biện pháp thận trọng nơi những bệnh nhân trầm cảm có nguy cơ bị động kinh hơn.
Hỏi : Những thuốc mới này đă được thương măi hóa trong các nước khác chưa ?
G.S M.B : zonisamide khởi đầu đă được phát triển ở Nhật Bản trong những năm 90, sau đó được đưa vào Hoa Kỳ năm 2000.Vậy chúng ta hưởng được một kinh nghiệm rộng răi.Thời gian nh́n lại ngắn hơn đối với lacosamide.
Sau cùng, phải nhấn mạnh những tiến bộ mới đây đối với vài dạng động kinh tàn phá của trẻ em, với sự hiệu chính những thuốc rất trọng điểm, gọi là orphelins. Những tiến bộ này thể hiện đúng tất cả những cố gắng hiện nay của nghiên cứu chống lại bệnh động kinh trong tất cả các dạng thức.
(PARIS MATCH 25/9-1/10/2008)
Giáo sư Michel Baulac, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của bệnh viện La Pitié-Salpêtrière, Paris, giải thích từ nay điều trị như thế nào 40% những bệnh nhân động kinh đề kháng với các liệu pháp cổ điển.
Hỏi : người ta thường che dấu là bị một bệnh động kinh, căn bệnh c̣n bị kiêng kỵ về mặt xă hội. Thật ra, định nghĩa của động kinh là thế nào ?
G.S Michel Baulac : Đó là một bệnh lư thường xảy ra, ở châu Âu cứ 1000 người th́ có một người bị bệnh, trong đó cứ hai bệnh nhân th́ một là trẻ em. Người ta chỉ thật sự chẩn đoán động kinh khi các cơn tái diễn. Các cơn này tương ứng với một đợt phóng điện (une décharge électrique) bất b́nh thường của các nơ ron nằm trên trên một bề mặt rộng ít hay nhiều của vỏ năo. Các triệu chứng thay đổi tùy theo vị trí và mặt rộng của vùng bị ảnh hưởng. Nhiều nguyên nhân có thể là nguồn gốc của những cơn động kinh này : khối u, sẹo sau chấn thương, dị dạng đủ loại, nhưng cũng có tố bẩm di truyền.
Hỏi : Những dạng khác nhau của cơn động kinh là ǵ ?
G.S Michel Baulac : Vâng. Có hai dạng chính. 1. Cơn động kinh toàn thể (crise convulsive généralisée) trong đó sự phóng điện nơ ron tỏa lan. Cơn được phát khởi bằng một sự mất tri giác tức thời kéo dài vài phút, bệnh nhân té đột ngột, cứng toàn bộ thân thể, tăng tiết nước bọt và những rung giật ở các chi : cơn rất gây ấn tượng đối với những người chung quanh! Những cơn động kinh toàn thể khác, ít gây thương tổn hơn, chỉ đưa đến vắng ư thức (absence) vài giây hay những rung giật ngắn ngủi của các chi. 2. Những cơn động kinh cục bộ (crises partielles), có những triệu chứng tương ứng với vùng bị ảnh hưởng : những rối loạn thị giác, các ảo giác (hallucinations), những cử động không tự ư và vắng ư thức kéo dài vài phút đối với vài bệnh nhân, với mất toàn bộ sự làm chủ hành vi, do đó t́nh trạng mất năng lực quan trọng khi các cơn xảy ra thường xuyên.
Hỏi : Những người động kinh sống trong lo sợ sẽ xảy ra một cơn động kinh mới… Những dấu hiệu báo trước là những dấu hiệu nào ?
G.S M.B : Có khi vài người phát khởi một cơn nhỏ (minicrise) vài chốc lát trước khi cơn trở nên nghiêm trọng hơn. Nếu có đủ thời gian (khoảng 10 phút), một thuốc có tác dụng nhanh đôi khi có thể tránh được cơn xảy ra. Nhưng hầu hết các bệnh nhân không có một dấu hiệu báo trước nào, do đó cần có một điều trị thường trực.
Hỏi: Cho đến nay, những điều trị cổ điển là những điều trị nào, và những chỉ định của chúng?
G.S M.B : Một tiến bộ mới đây là khả năng điều trị các bệnh nhân “à la carte“. Có nhiều thuốc chống động kinh với cách tác dụng khác nhau nhưng mục đích đều giống nhau: ngăn cản sự biểu hiện các triệu chứng. Không có một loại thuốc nào có thể chữa lành được bệnh. Đối với các cơn động kinh toàn thể, valproate (Dépakine), lamotrigine (LAmictal) là được sử dụng nhiều nhất nhưng không phải là không có những tác dụng phụ, do đó cần theo dơi đều đặn. Đối với những cơn động kinh cục bộ, thuốc thường được cho là carbamazépine (Tégrétol) vẫn có thế cho những tác dụng phụ; lévétiracétam (Keppra) là một lựa chọn khác.
Hỏi : Với những phương thức điều trị thuốc bằng đường miệng, những kết quả thu được là những kết quả nào ?
G.S M.B : Chúng cho phép kiểm soát các cơn nơi 60% các bệnh nhân.
Hỏi : Như vậy đối với 40% những bệnh nhân c̣n lại, cần những điều trị hiệu quả hơn. Điều trị mới được hiệu chính gần đây đối với những bệnh nhân đề kháng này là gi ?
G.S M.B : Trước hết, vài bệnh nhân được gọi là đề kháng dược liệu (pharmacorésistant) có thể là những ứng viên của một can thiệp ngoại khoa, nhằm lấy đi vùng năo bộ gây nên các cơn động kinh. Về mặt thuốc men, chúng ta có những thuốc mới chống động kinh, được cho bằng đường miệng. Trong số những thuốc mới nhất, zonisamide và lacosamide đă được trắc nghiệm trong nhiều công tŕnh nghiên cứu quốc tế, trong đó chúng đă chứng tỏ một hiệu quả thật sự trong việc làm giảm tần số xảy ra các cơn. Những thuốc này có ưu điểm là có hoạt tính nơi những bệnh nhân đề kháng nhất.
Hỏi : Người ta có nhận thấy những tác dụng phụ không ?
G.S M.B : Người ta đă ghi nhận những cảm giác chóng mặt, chứng ngủ gà, t́nh trạng dễ mệt mỏi và vài rối loạn tính khí.
Hỏi : Khi nào các bệnh nhân động kinh mới có thể hưởng liệu phát rất mới này ?
G.S M.B : Zonisamide đă được chấp thuận bởi các giới hữu trách Châu Âu và đă được thương măi hóa ở Pháp từ nhiều tháng nay. Lacosamide vừa mới được sự chấp thuận của châu Âu và chẳng bao lâu sẽ có để sử dụng ở Pháp. Những điều trị các bệnh nhân đề kháng bằng những thuốc mới này là một bước tiến quan trọng.
Hỏi : Có chống chỉ định đối với những thuốc mới này không ?
G.S M.B : Mọi dự định thai nghén phải được chuẩn bị trước một cách cẩn thận và vài loại thuốc cần phải tránh. FDA, cơ quan y tế tối cao của Hoa Kỳ, vừa gợi ư rằng tất cả các thuốc chống động kinh mới có thể làm dễ các ư nghĩ tự tử (idées suicidaires). Do đó cần áp dụng mọi biện pháp thận trọng nơi những bệnh nhân trầm cảm có nguy cơ bị động kinh hơn.
Hỏi : Những thuốc mới này đă được thương măi hóa trong các nước khác chưa ?
G.S M.B : zonisamide khởi đầu đă được phát triển ở Nhật Bản trong những năm 90, sau đó được đưa vào Hoa Kỳ năm 2000.Vậy chúng ta hưởng được một kinh nghiệm rộng răi.Thời gian nh́n lại ngắn hơn đối với lacosamide.
Sau cùng, phải nhấn mạnh những tiến bộ mới đây đối với vài dạng động kinh tàn phá của trẻ em, với sự hiệu chính những thuốc rất trọng điểm, gọi là orphelins. Những tiến bộ này thể hiện đúng tất cả những cố gắng hiện nay của nghiên cứu chống lại bệnh động kinh trong tất cả các dạng thức.
(PARIS MATCH 25/9-1/10/2008)
TIỀN SẢN GIẬT VÀ NGUY CƠ BỊ BỆNH ĐỘNG KINH NƠI TRẺ EM
Các nhà nghiên cứu Đan mạch đă xác lập mối liên hệ giữa tiền sản giật (peééclampsie) nơi người mẹ và một nguy cơ bị động kinh lớn hơn nơi trẻ được sinh ra sau 37 tuần thai nghén.
Những nghiên cứu trước đă phát hiện mối liên hệ giữa sự xảy ra một cơn sản giật nơi người mẹ và một nguy cơ cao bị bệnh động kinh nơi đứa trẻ. Nhưng một tiền sản giật (pré-éclampsie) nơi một người mẹ có thai có liên kết với cùng loại nguy cơ này hay không ?
Đó là điều mà Chun Sen Wu và các đồng nghiệp thuộc đại học Aarhus (Đan Mạch) đă muốn biết. Nhóm nghiên cứu đă khảo sát các dữ kiện từ Danish National Register, liên quan đến 1,5 triệu trẻ em được sinh từ 1978 đến 2003. Trong nhóm này, họ đă có thể nhận diện 45.288 trẻ em (2,9%) đă chịu bệnh tiền sản giật của người mẹ trong thời kỳ tiền sinh và 654 em (0,04%) mà mẹ đă bị một đợt sản kinh trong thời kỳ thai nghén. Mặt khác họ đă nhận diện trong nhóm được khảo sát này 20.620 người đă có những cơn động kinh suốt trong một thời kỳ theo dơi kéo dài 27 năm.
Sự phân tich các dữ kiện cho thấy rằng sự tiếp xúc với một đợt tiền sản giật được liên kết với một nguy cơ bị động kinh gia tăng nơi các trẻ em mà tuổi thai nghén lúc sinh là ít nhất 37 tuần. Khi tiền sản giật ở mức độ trung b́nh, nguy cơ là 1,16 lần cao hơn nơi những trẻ sinh đủ tháng và 1,68 cao hơn nơi những trẻ sinh quá tháng ; trong trường hợp tiền sản giật nặng, nguy cơ lần lượt là 1,41 và 2,57 lần cao hơn. Không có sự liên kết nào được t́m thấy giữa tiền sản giật và động kinh nơi trẻ em sinh không đủ tháng. C̣n về sản giật, bệnh lư này được liên kết với một nguy cơ bị động kính cao hơn.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 21/11/2008)
ĐỘNG KINH : NGOẠI KHOA RẤT HIỆU QUẢ NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC THỰC HIỆN NHIỀU
Neurologie : Trong các trường hợp mà thuốc men không hiệu quả, việc nhờ đến con dao mổ cho phép những tỷ lệ chữa lành quan trọng và những di chứng hiếm khi xảy ra.
Quá ít, quá muộn. Mặc dầu có thể cải thiện một cách đáng kể đời sống và ngay cả hy vọng sống thêm (espérance de vie) của một vài người bị bệnh động kinh, ngoại khoa vẫn ít được sử dụng và được thực hiện quá chậm, các thầy thuốc Hoa Kỳ trong ấn bản vừa qua của Jama, tờ báo của Hiệp hội y sĩ Hoa Kỳ, đă phàn nàn như vậy. Một điều chứng thực hoàn toàn được chia sẻ bởi các chuyên viên người Pháp. “Phải thôi cho rằng điều trị ngoại khoa bệnh động kinh là một điều trị của cơ may cuối cùng. Trái lại có thể đó là điều trị có khả năng tốt nhất không được bỏ qua”, G.S Bertrand Devaux, thầy thuốc ngoại thần kinh của bệnh viện Sainte-Anne (Paris) đă tóm tắt như vậy trong báo cáo mới đây về những điều trị ngoại khoa của bệnh động kinh ở Pháp.
Là bệnh măn tính gây phế tật, có thể bắt đầu từ tuổi ấu thơ, động kinh có liên quan từ 0,5 đến 1% dân số thế giới, hoặc gần 500.000 người ở Pháp. Những nguyên nhân gây nên những phóng điện bất thường ở các tế bào thần kinh này rất là nhiều. Cũng như các triệu chứng của các cơn động kinh cũng vậy, tùy thuộc vào vị trí của các thương tổn.
Trong hầu hết các trường hợp, bệnh được kiểm soát bởi một điều trị nội khoa, nhưng các loại thuốc vẫn không có hiệu quả nơi 20 đến 30% các bệnh nhân. Chính những người được gọi là “đề kháng với dược” (pharmaco-résistant) này, đôi khi rất tàn phế trong cuộc sống hàng ngày, là đối tượng mà phẫu thuật có khả năng nhằm đến. Tuy nhiên không phải tất cả mọi trường hợp đều có thể mổ được. Phẫu thuật chỉ có thể được đề nghị khi thương tổn năo, nguồn gốc của các cơn động kinh, được khu trú trong một vùng mà sự cắt bỏ ít có nguy cơ đưa đến các di chứng trên b́nh diện chức năng.
BILAN TIỀN PHẪU NẶNG NỀ
Công tŕnh nghiên cứu được công bố trong Jama bởi B.S Hyunmi Choi (thầy thuốc thần kinh của Đại Học Columbia, Nữu Ước), được thực hiện trên bệnh động kinh của thùy thái dương (épilepsie du lobe temporal), thể thông thường nhất của bệnh nơi người trưởng thành, và là một trong những thể thường đề kháng nhất đối với các thuốc chống động kinh. Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ cho thấy rằng nơi những bệnh nhân ở lứa tuổi trung b́nh (35 tuổi), giải phẫu cho phép làm gia tăng 5 năm hy vọng sống thêm (espérance de vie) so với điều trị nội khoa. Thật vậy, BS Choi nhắc lại, bệnh động kinh đề kháng với thuốc làm gia tăng tỷ lệ tử vong do những tai nạn chết người xảy ra sau các cơn, do các cơn nặng (cơn động kinh liên tục), do tự tử hay chết đột ngột.
C̣n các kết quả về chất lượng sống, theo cùng công tŕnh nghiên cứu, chúng biện minh cho ưu thế của điều trị ngoại khoa nơi 96% các bệnh nhân. Những lợi ích của phẫu thuật (cải thiện rơ rệt các cơn, hoặc kể cả chữa lành) vượt xa hơn nhiều những nguy cơ của can thiệp ngoại khoa. Tuy vậy, như chủ bút của tờ Jama xác nhận, “ không những phần lớn các ứng viên của phẫu thuật đă không bao giờ được giới thiệu đến một phẫu thuật viên, mà những bệnh nhân được mổ thường quá chậm để có thể ngăn ngừa những phế tật sinh lư và xă hội của bệnh động kinh. ”
Trung b́nh, ở Hoa Kỳ, can thiệp ngoại khoa được thực hiện sau hơn 20 năm tiến triển của bệnh. Một t́nh trạng có thể được so sánh với Pháp. Khoảng 400 bệnh nhân bị động kinh (trong đó 100 là trẻ em) được mổ mỗi năm trong một trong 17 trung tâm của Pháp, hoặc khoảng một nửa của các nhu cầu. “Quá nhiều bệnh nhân vẫn được theo dơi rất lâu bởi những thầy thuốc không biết rơ ngoại khoa hoặc không có một cái nh́n dương tính về phẫu thuật”, G.S Devaux đă nhấn mạnh như thế.
Tính toàn bộ, từ lúc bắt đầu đến cuối những năm 1950, ở bệnh viện Sainte-Anne, phẫu thuật của bệnh động kinh đă được thực hiện nơi 5.000 bệnh nhân ở Pháp. Những kết quả, được phân tích nơi 2000 bệnh nhân được mổ trong số này, là một trong những kết quả tốt nhất, ở tŕnh độ quốc tế. Trái với một thành kiến, những di chứng thần kinh là khá hiếm (2,5% các trường hợp), và tỷ lệ tử vong là ngoại lệ (0,15%). Tỷ lệ chữa lành là khoảng 80% trong trường hợp các động kinh vùng thái dương (épilepsie temporale). Những kết quả c̣n tốt hơn nhiều trong nhi khoa, đối với vài khối u bẩm sinh và những dị tật phát triển của năo bộ. Theo GS Devaux, nhiên hậu, phẫu thuật này hẳn phải được thực hiện càng ngày càng nhiều nơi các trẻ em, và một phần trong số các trẻ em này có thể được mổ “để pḥng ngừa”, ngay khi thương tổn gây động kinh được khám phá. Mới đây, nhóm phẫu thuật Sainte-Anne đă can thiệp để điều trị một dị tật năo nơi một bé gái chỉ bị một cơn động kinh. Tuy vậy, bilan tiền phẫu là nặng nề đối với các bệnh nhân. Bilan có thể đặc biệt cần những xét nghiệm xâm nhập như SEEG (stéréoélectroencéph alographie), trong đó những điện cực được cắm trực tiếp trong năo bộ để định vị thương tổn gây động kinh. Những phương pháp này càng ngày càng được thay thế bởi những kỹ thuật chụp h́nh hiện đại, thí dụ TEP (tomographie à émission de positons), kết hợp với IRM (imagerie par résonance magnétique). Sự kết hợp của hai xét nghiệm này cho phép chẩn đoán và do đó mổ các thương tổn, đặc biệt là những dị tật (malformations) trước đây không được phát hiện.
Về các kỹ thuật mổ, chúng hiện đang trên đà tiến triển. Cắt bỏ vùng bị bệnh vẫn là cổ điển nhất. Càng ngày càng có những phương pháp thay thế ít xâm nhập hơn : kích thích dây thần kinh phế vị, ngoại quang tuyến (radiochirurgie), đốt điện (electrocoagulation) hay déconnexion.
(LE JOURNAL DU FIGARO 8/12/2008)
Những công tŕnh nghiên cứu trước đây đă cho thấy rằng những tác dụng có hại của các chấn động năo (commotion cérébrale) lên các chức năng nhận thức và vận động có thể kéo dài nhiêu năm sau tai nạn. Một nhóm nghiên cứu Canada đă thực hiện một công tŕnh nghiên cứu nơi 19 cựu vận động viên điền kinh (tuổi trung b́nh 60) từng bị một chấn động năo vào khoảng năm 25 tuổi. Các nhà nghiên cứu đă so sánh các lực sĩ này với một nhóm vận động viên điền kinh đă về hưu nhưng không có tiền sử chấn động năo.
Các kết quả cho thấy rằng những người đă bị chấn động năo một hay hai lần trong lứa tuổi 20 có khả năng chú ư và trí nhớ bị suy đồi và vài người trong số họ có những cử động bị chậm lại, so với nhóm kiểm tra. “Công tŕnh nghiên cứu này chứng tỏ rằng những hậu quả của các chấn động năo do thể thao vào lúc bắt đầu tuổi trưởng thành vẫn c̣n kéo dài 30 năm sau và rằng những chấn động năo này có thể gây nên những biến đổi của các chức năng nhận thức và vận động khi các vận động viên già đi. Do đó các vận động viên phải được thông tin tốt hơn về những hậu quả tích lũy và kéo dài của các chấn động năo lên các quá tŕnh tâm thần và vật lư, Louis D Beaumont, một trong những tác giả đă giải thích như vậy.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/2/2009)
ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA CỦA BỆNH ĐỘNG KINH : THÊM MỘT CƠ MAY
B.S Francine Chassoux (thầy thuốc thần kinh) và G.S Bertrand Devaux (thầy thuốc ngoại thần kinh), bệnh viện Sainte-Anne, đă giải thích những lợi ích của phương pháp ngoại khoa, được công bố trong tạp chí “ Neurochirurgie ”.
Hỏi : Ông có thể nhắc lại cho chúng tôi những đặc điểm của bệnh động kinh ?
B.S Francine Chassoux : Bệnh lư này được thể hiện bởi các cơn lặp lại, có thể được biểu hiện bởi những triệu chứng gây bất hoạt khác nhau. Khi bệnh kéo dài, các bệnh nhân bị gây phế tật nghiêm trọng trong đời sống gia đ́nh, xă hội và nghề nghiệp của họ. Mỗi cơn động kinh tương ứng với một loại phóng điện quá mức, được phát ra trong năo bộ bởi một nhóm neurone. Sự phóng điện này có thể vẫn khu trú (gây nên những rối loạn thần kinh xảy ra ngắn hạn và thay đổi), và khi đó người ta nói là động kinh bán phần (épilepsie partielle) (60% các trường hợp), hay lan ra toàn thể năo bộ và khi đó gọi là động kinh toàn thể (épilepsie généralisée) (40% các trường hợp), được thể hiện một cách nghiêm trọng, thí dụ với các co giật, tăng tiết nước bọt và hôn mê kéo dài vài phút.
Hỏi : Thường thường làm sao điều trị hai dạng động kinh này ?
B.S Francine Chassoux : Đối với những bệnh nhân bị các cơn động kinh toàn thể, người ta kê đơn một điều trị chống động kinh bằng đường miệng.Với điều trị này, hiện nay người ta thu được 80% những kết quả tốt với sự biến mất của các cơn. Những bệnh nhân phát triển những cơn bán phần (crises partielles), có thể được điều trị với cùng những thứ thuốc hay những thuốc của một loại khác. Trong trường hợp này, những kết quả tốt thường không vượt quá 60%. Nơi những người động kinh đề kháng với điều trị, người ta thường khám phá thấy một thương tổn năo bộ như là một bất thường bẩm sinh, một khối u hiền tính hay một vết sẹo
Hỏi : Thế th́ trong trường hợp nào người ta có thể giải phẫu.
B.S Francine Chassoux : Người ta chỉ có thể mổ những bệnh nhân động kinh có những cơn bán phần (crises partielles). Và trước khi giải phẫu, cần thực hiện một bilan toàn bộ, gồm có điện năo đồ kết hợp với vidéo, IRM, TEP (tomographie par émission de positons) để định vị vùng phát sinh động kinh khởi đầu các cơn. Để có thể lấy đi bằng phẫu thuật vùng gây động kinh này, phải có 3 tiêu chuẩn không thể thiếu được. 1. Sự hiện diện chỉ một ổ gây động kinh. 2. Một vùng vỏ năo được khu trú và tuơng đối nhỏ. 3. một định vị có thể tiếp cận, được phân biệt với một vùng năo bộ rất có chức năng.
Hỏi : Những kỹ thuật khác nhau nào được sử dụng đối với những bệnh nhân đề kháng với thuốc ?
B.S Francine Chassoux : Có 4 kỹ thuật chính. 1. Ngoại khoa cổ điển cắt bỏ bằng mở sọ (chirurgie de résection “à crâne ouvert”) (cortectomie), là thông thường nhất. 2. Ngoại khoa phá hủy nhắm đích (chirurgie de destruction ciblée) bằng ngoại quang tuyến (radiochirurgie) hay nhiệt đông (thermocoagulation), đối với những thương tổn nhỏ nằm ở trung tâm năo bộ và đối với những bệnh nhân không muốn chịu ngoại khoa cổ điển. 3. Ngoại khoa tách nối (chirurgie de déconnection), nhằm cô lập vùng bị thương tổn với phần c̣n lại của năo bộ. Phương pháp này được áp dụng cho các ổ gây động kinh quá rộng nên không thể lấy ra được. 4. Ngoại khoa điều biến (chirurgie de modulation), được thực hiện trong trường hợp chống chỉ định của những phương pháp trước. Phương pháp này nhằm chống lại sự phát sinh các phóng điện (décharges électriques) chịu trách nhiệm các cơn (bằng cách cắm một điện cực nơi cổ, nối với một bộ phận dẫn nhịp).
Hỏi: Những kết quả thu được với tất cả những kỹ thuật khác nhau này là những kết quả nào?
B.S Francine Chassoux : Những kết quả được đặt tương quan với các định vị và các nguyên nhân. Với kỹ thuật cắt bỏ cổ điển, người ta đă thành công hủy bỏ các cơn trong 60 đến 90% các trường hợp. Với sự phá hủy nhắm đích (destruction ciblée) bằng ngoại quang tuyến (radiochirurgie), những kết quả có vẻ tương đương. Kỹ thuật nhiệt đông (thermocoagulation) đang được đánh giá. Những kết quả của ngoại khoa tách nối (chirurgie de déconnection) th́ thay đổi : nơi vài bệnh nhân người ta hủy bỏ được các cơn trong 70% các trường hợp. Kỹ thuật điều biến (technique de modulation) làm giảm 50-90% các triệu chứng nhưng không chữa lành bệnh.Theo ư tôi, c̣n quá ít các bệnh nhân được gởi đến các kíp chuyên môn ngoại khoa này, và nhất là quá chậm. Ở Pháp, trên 12.000 ứng viên lư thuyết, người ta chỉ mổ 400 trường hợp mỗi năm, trong đó khoảng 100 trẻ em !
(PARIS MATCH 19-25/2/2009)
ĐỘNG KINH : MỘT SỰ NGHIỆP HIỂN HÁCH KHẢ DĨ NHƯ AGATHA CHRISTIE HAY MOLIERE.
Con tôi bị động kinh không biết rồi sẽ ra sao ? Câu hỏi này, rất là chính đáng, sớm hay muộn cũng được đặt ra. Agatha Christie đă bị bệnh động kinh cũng như Molière, nhưng điều này đă không ngăn cản họ bắt các màng năo của hàng triệu độc giả phải làm việc. Như thế, người ta có thể bị bệnh động kinh và vẫn có một đời sống b́nh thường. Bởi v́ trong số 40 dạng động kinh hiện có, phần lớn không đặt ra vấn đề quan trọng : 2/3 các động kinh này là những động kinh riêng rẽ và có tiên lượng tốt, mặc dầu vài dạng kèm theo một cách tạm thời những giai đoạn trầm trọng hóa. Vậy đúng là lúc cần có cái nh́n thay đổi đối với những kẻ khác. Vâng, động kinh là một bệnh thần kinh, thường có thể kiểm soát được. Không, khi ta có phương tiện điều trị, bệnh này không phải là không thích hợp, trong đại đa số các trường hợp, với một sự hội nhập tốt. Mặt khác, các cơn động kinh biến mất (gần ½) trước tuổi trưởng thành.
Không phải tất cả các học sinh bị bệnh động kinh đều theo đuổi cấp một trung học một cách b́nh thường mặc dầu trí thông minh toàn bộ không bị ảnh hưởng đối với đại đa số những học sinh này. Nguyên nhân : vài rối loạn của sự chú ư hay của ngôn ngữ, chưa kể đến đôi khi ảnh hưởng có hại của điều trị chống động kinh. Lại càng đáng tiếc khi phần lớn những vấn đề này đang lư ra có thể được cải thiện bằng sự theo dơi của một thầy thuốc thần kinh-tâm lư (neuropsychologue) và bởi sự hiện diện của một sự hỗ trợ đời sống học đường, ít nhất là trong những giai đoạn trầm trọng tạm thời. Đó là một trong những con ngựa chiến của Viện của các bệnh động kinh của trẻ em và của thiếu niên, mà trung tâm sẽ có thiên chức theo sát gia đ́nh...Đó là điều chủ yếu bởi v́ chỉ sự việc tiếp xúc với giáo viên giảng dạy của một em bé động kinh để giải thích với ông ta làm sao giúp đỡ em bé cũng có thể đủ cứu vớt t́nh trạng học vấn của em này ”, GS Arzimanoglou đă nhấn mạnh như vậy.
Thể thao cũng cần cho sự phát triển của đứa trẻ. Chỉ có những hoạt động trong đó một sự bất tỉnh có thể làm nguy hiểm người bệnh (leo núi, lặn, nhảy dù...) là bị cấm chỉ. Ngoài những ngoại lệ này, hoạt động vật lư làm dễ sự hội nhập và có thể gợi lên nhiều thiên hướng : mặc dầu bị bệnh động kinh, Marion Clignet đă giành được 6 danh hiệu thế giới và hai huy chương bạc thế vận hội đua xe đạp : một thắng lợi vang dội.
Từ khi có nghị định 21/12/2005, những bệnh nhân động kinh nhận giấy chứng nhận khả năng tạm thời lái xe trong một năm sau khi có ư kiến của một thầy thuốc thần kinh. Không có một lư do nào khiến các người bị động kinh bị tước mất việc thực hiện vài loại nghề nghiệp không có nguy cơ, như trong lănh vực dịch vụ. Những chuyến du lịch vui chơi giải trí hay công tác cũng không phải là một vấn đề với điều kiện mang theo đủ thuốc men. Ngay cả thai nghén đă trở thành khả dĩ. V́ không phải tất các các thuốc chống động kinh đều có thể tương hợp, nên một sự thích ứng (trước khi có thai) có thể cần thiết. Một sự theo dơi sát và sự sinh đẻ trong môi trường bệnh viện là những bước c̣n lại.
(LE FIGARO 1/3/2010)
NEUROLOGIE. 500.000 : đó là con số những người Pháp bị bệnh động kinh (épilepsie), nghĩa là các nạn nhân của các cơn bất ngờ do một sự loạn năng của hoạt động điện của năo bộ. Vào lúc bắt đầu phóng điện (décharges électriques), vài bệnh nhân bất tỉnh và co giật, trong khi những người khác chỉ có các “ cơn vắng ” (absences) hay những rối loạn rất khu trú (các cơn bán phần, crises partielles). Thông thường nhất, động kinh xảy ra nhưng năo bộ không bị thương tổn hay, ít nhất không có một thương tổn nào được nhận diện. Nhưng trong 1/3 các trường hợp, động kinh được liên kết với một dị tật (malformation) hay một thương tổn trong năo bộ.
2/3 các bệnh nhân động kinh đáp ứng tốt với các thuốc chống động kinh và như thế hẳn phải có một cuộc sống b́nh thường, ngoại trừ là đối tượng của những phân biệt đối xử. “ C̣n lại 1/3 các bệnh nhân động kinh mà khoảng 20 loại thuốc chống động kinh không ngăn cản được các cơn. Không cần phải thử tất cả các thuốc để tin chắc điều đó : 48% các bệnh nhân động kinh được kiểm soát ngay bởi vị thuốc đầu tiên, nếu được chọn lựa tốt. Nhưng trong trường hợp thất bại, chỉ 13% được kiểm soát với một thuốc chống động kinh khác. Và sau hai lần thất bại, các cơ may t́m được một điều trị thích hợp, rơi xuống c̣n 1%, GS Alexis Arzimanoglou, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh nhi đồng, trưởng đơn vị điều trị của Viện các bệnh động kinh của trẻ em và thiếu niên và chủ tịch của Liên đoàn chống bệnh động kinh của Pháp, đă xác nhận như vậy. Như thế, vào lúc đó đă đặt ra câu hỏi là không biết ta có thể mổ được hay không ”.
Ngày nay, ngoại khoa của bệnh động kinh là đối tượng của nhiều nghiên cứu. Thế mà không được mất một giây phút nào.Thật vậy, nơi những bệnh nhân đề kháng với các điều trị, tính chất không thể tiên đoán được của các cơn thường là nguồn gốc của phế tật, không kể đến một nguy cơ gia tăng bị các biến chứng trong khi các cơn co giật diễn ra. Do đó, các bệnh nhân động kinh đề kháng với các điều trị, hưởng được những tiến bộ mới nhất của ngoại khoa, nhưng họ c̣n phải là những bệnh nhân có thể mổ được. V́ ngoại khoa nhằm lấy đi phần năo bộ bé xíu chịu các phóng điện, nên vùng bị thương tổn phải được nhận diện tốt và có thể tiếp cận mà không đụng phải những vùng quan trọng như các vùng của ngôn ngữ hay của những chức năng sinh tồn khác
CẤP CỨU ĐỐI VỚI CÁC TRẺ EM.
Trái với một định kiến, không phải phẫu thuật đặt ra vấn đề (các thầy thuốc ngoại thần kinh làm chủ được các kỹ thuật !) mà bilan trước khi mổ mới là vấn đề. Mặt khác, không phải là một sự t́nh cờ khi bilan thường cần đến 6 tháng và các danh sách chờ đợi có thể lên đến 18 tháng, nhất là nơi trẻ em. V́ phải đảm bảo rằng các cơn động kinh phát xuất từ một ổ duy nhất và phải xác định một cách rất chính xác vùng cần phải lấy đi, nên các xét nghiệm thông thường (điện năo đồ với ghi các cơn, IRM…) là cần thiết, nhưng không phải luôn luôn đủ. Ngoài ra phải thường thực hiện một xét nghiệm được gọi là “ stéréo ECG ”. Thủ thuật này nhằm cắm các điện cực vào trong năo bộ, ở mức hay chung quanh vùng bị nghi ngờ, rồi ghi hoạt động điện trong nhiều ngày hay nhiều tuần, trong khoa động kinh (service d’épileptologie) . Sau đó, sự phân tích của các biểu đồ ghi này cho phép biết được, với độ chính xác từng millimètre, những vùng nào cần phải lấy đi, mà không được quên một vùng bị nghi ngờ nào cả, nếu không sẽ thất bại.
Thế mà, đó mới là điểm chính yếu bởi v́ có nhiều bệnh nhân phải chờ xét nghiệm này và có ít chỗ có khả năng thực hiện nó : khoảng một chục nơi dành cho những người lớn, nhưng chỉ có hai nơi dành cho các trẻ em. Tuy vậy chính các trẻ em mới cần mổ cấp cứu hơn nếu ta muốn hy vọng cứu được sự phát triển tâm thần-vận động và sự học vấn của chúng.
Can thiệp phẫu thuật được thực hiện một cách cổ điển bằng cách cắt bỏ ngoại khoa ổ gây động kinh. Những thử nghiệm đang được tiến hành để phá hủy những thương tổn rất nhỏ với một liệu pháp phóng xạ rất khu trú, theo một thủ thuật được gọi là “ con dao gamma ” (gamma-knife).
Trong bối cảnh này, trên 3000 bệnh nhân động kinh là ứng viên của giải phẫu, chỉ có 400 là được mổ, trong đó chỉ có 100 trẻ em. Và mặc dầu tổn phí trung b́nh của bilan và phẫu thuật là cao ( gần 20.000 euro cho mỗi bệnh nhân), nhưng phí tổn này được giảm đi ngay năm thứ 8 và ngay cả sớm hơn nếu ta xét đến những phí tổn gián tiếp gây nên bởi một bệnh động kinh được kiểm soát kém (une épilepsie mal équilibrée) (thất nghiệp, tự tử, nghỉ học nghỉ việc của người bệnh hay nghỉ việc của bố mẹ.). Với một tỷ lệ chữa lành 40% nơi những người được mổ và hơn 50% sau cùng trở nên nhạy cảm với các loại thuốc chống động kinh, th́ đó là một điều hứa hẹn cho một sự trở lại cuộc sống b́nh thường, với điều kiện là không được quá muộn.
(LE FIGARO 1/3/2010)
Điều trị bệnh động kinh trẻ em với các thuộc lợi tiểu. Đó là hướng điều trị làm ngạc nhiên, được theo đuổi bởi các nhà nghiên cứu của Viện thần kinh sinh học của Địa trung hải (Marseille). Một cách cổ điển, bệnh động kinh được điều trị bởi phénobarbital, làm tăng cường tác dụng ức chế neurone của gaba, một trong những chất trung gian thần kinh (neuromédiateur) chính của năo bộ. Thế mà điều trị này trở nên ít hiệu quả hơn với thời gian, mà ta không biết tại sao. Các nhà nghiên cứu đă làm sáng tỏ bí ẩn này.
Công tŕnh nghiên cứu của họ trên động vật, được công bố trong Brain, chứng minh rằng các cơn động kinh càng lập lại th́ nồng độ của chlore càng gia tăng trong năo bộ, điều này giải thích tại sao thuốc động kinh đánh mất hiệu quả. Vậy họ đă chọn lọc một cách hợp lư một thuốc lợi tiểu, bumétanide, được biết có tác dụng làm giảm nồng độ của chlore ở thận và đă thử nghiệm thuốc lợi tiểu này một cách thành công ở năo bộ. Thật ra, thuốc lợi tiểu không thay thế phénobarbital nhưng, nếu được cho phối hợp với phénobarbital, nó sẽ cho phép làm giảm mức độ nghiêm trọng của các cơn. Một nghiên cứu châu Âu, Nemo, hiện đang được tiến hành để kiểm chứng tính hiệu quả của phương pháp điều trị này trên các nhũ nhi. Các kết quả được dự kiến vào năm 2012. Bệnh động kinh ảnh hưởng lên hơn 500.000 người ở Pháp và cứ mỗi 100.000 trẻ em có 120 trẻ em dưới 1 tuổi bị động kinh.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2011)
Xuất phát từ đâu bệnh động kinh, rối loạn của sự vận hành chức năng năo bộ làm tê liệt trầm trọng, do các cơn xảy ra bất ngờ, cuộc sống của gần 1/100 những người Pháp ? Một hướng mới vừa được mở ra bởi BS Christophe Bernard và nhóm nghiên cứu Inserm của ông ở Marseille, cùng với những đồng nghiệp Hoa kỳ của đại học Californie ở Irvine. Để cố trừ khử tận gốc cơn băo điện (orage électrique) giáng vào cả một vùng năo bộ, các nhà nghiên cứu đă nhắm vào một protéine được gọi là NRSF, can dự vào trong sự phát triển của năo bộ. “ Chúng tôi đă t́m cách phong bế facteur de transcription này, Christophe Bernard đă xác nhận như vậy, bởi v́ nó được hoạt hóa trong năo bộ khi bị chấn thương ban đầu và sau đó có khả năng kiểm soát sự biểu hiện của nhiều trăm gène khác.” Các nhà nghiên cứu đă tiêm vào trong năo bộ của các con chuột bị động kinh một chất ức chế của NRSF và làm sụt giảm 70% số các cơn động kinh, bằng cớ cho thấy rằng một yếu tố chủ chốt làm phát khởi cơn động kinh đă được t́m thấy. C̣n hơn thế nữa, các sóng theta, vốn chứng tỏ sự hoạt động b́nh thường của các mạng thần kinh, sau đó đă tái xuất hiện trong hồi hải mă (hippocampe), nơi xuất phát của bệnh động kinh được khảo sát.
Kết quả này, được công bố trong Annals of Neurology, gợi ư rằng bệnh động kinh có thể xuất hiện với sự hoạt hóa không thích hợp vào giai đoạn đầu trong sự phát triển của những tế bào thần kinh, qua NRSF, sau một chấn thương vật lư hay nhiễm tùng. Kết quả này cũng mang lại hy vọng điều trị cho 30% các bệnh nhân đề kháng với tất cả các điều trị dược học, một tỷ lệ bất hạnh thay đă không thay đổi từ 60 năm qua.
(SCIENCES ET AVENIR 9/2011)
MỘT GENE “ NGẮT ”(INTERRUPTEUR) HOẠT HÓA BỆNH ĐỘNG KINH THÙY THÁI DƯƠNG (EPILEPSIE TEMPORALE)
Trong bệnh động kinh phát xuất từ thùy thái dương (épilepsie temporale), xảy ra sau một viêm màng năo hay một chấn thương sọ, một gène trở nên hoạt động trong khi nó vẫn yên lặng vào lúc b́nh thường. “ Gène interrupteur ” này, được nhận diện bởi Christophe Bernard (Inserm, đại học Aix-Marseille) và được mệnh danh là NRSF (Neuron-Restrictive Silence factor), biến đổi sự biểu hiện của 1800 gène. Phong bế tác dụng của nó ở chuột làm kềm hăm bệnh động kinh và làm giảm số các cơn động kinh. Như thế ta hy vọng có được một điều trị phóng ngừa ở người.
(SCIENCE ET VIE 9/2011)
Philippe Ryvlin là giáo sư của bệnh viện thần kinh học Lyon và là giám đốc của nhóm nghiên cứu Inserm và CNRS Tiger, chuyên môn trong điều trị bệnh động kinh.
Hỏi : Một kỹ thuật chụp h́nh ảnh năo bộ (imagerie cérébrale) vừa được hiệu chính. Nó cho phép thực hiện điều ǵ ?
Philippe Ryvlin : Nó cho phép phát hiện điều xảy ra trong năo bộ (hiện nay là của chuột) với một độ chính xac chưa từng có và với một échelle de temps 200 mili giây. Điều này cho phép kỹ thuật mới này trở thành một kỹ thuật nhanh hơn nhiều so với chụp h́nh ảnh bằng cộng hưởng từ chức năng (IRMf : imagerie par résonance magnétique fonctionnelle), hiện nay là référence để nghiên cứu sự vận hành chức năng của năo bộ. Với sự gia tăng lưu lượng máu như là chứng cớ của hoạt động năo, kỹ thuật mới này cho phép thăm ḍ sự vận hành chức năng của năo.
Hỏi : Nguyên tắc của nó là ǵ?
Philippe Ryvlin : Ta sử dụng một sonde phát ra trong năo bộ những làn sóng siêu âm đặc biệt. Những làn sóng này “ nảy lên ” trên các tế bào máu và được thu hồi bởi ống thăm ḍ. Phân tích cho phép tạo một h́nh ảnh các huyết quản và đo lưu lượng máu với một thang tỷ lệ gần như bé xíu (100 micromètre). Đó là một sự cải thiện rất đáng kể của siêu âm doppler, đă được sử dụng từ nhiều năm qua để thăm ḍ các huyết quản lớn nơi người.
Hỏi : Những hạn chế của kỹ thuật này là ǵ ?
Philippe Ryvlin : Các trắc nghiệm trên chuột là đáng phấn khởi nhưng năo bộ người lớn hơn và nằm sâu hơn. Sẽ phải chế tạo những công cụ mạnh hơn. Nhất là, ta vấp phải cùng vấn đề như đối với siêu âm doppler cổ điển : các siêu âm gặp khó khăn khi phải đi xuyên qua xương, quá dày đặc.
Hỏi : Thế th́ ta sẽ có thể sử dụng kỹ thuật này trong y khoa không ?
Philippe Ryvlin : Sự kiện năo bộ bi khép kín trong một hộp sọ là một trở ngại. Nhưng hai áp dụng y khoa có thể được dự kiến ngay khi dụng cụ được thích ứng với con người. Trước hết là sự sử dụng trong ngoại thần kinh. Thí dụ các cơn động kinh là do những phóng điện bất thường sinh ra một cách ngẫu nhiên và lan tràn trong năo bộ. Đôi khi việc lấy đi vùng phát xuất của các phóng điện này là cách duy nhất để làm ngừng các cơn. Ta càng giới hạn vùng này th́ ta càng ít tạo bại liệt lúc làm thương tổn một vùng chức năng nằm kế cận. Lúc phẫu thuật, thầy thuốc ngoại khoa mở một cửa sổ nhỏ vào trong hộp sọ. Nhờ cửa sổ này, ông ta sẽ có thể đặt sonde tiếp xúc trực tiếp với năo bộ và xác định những vùng của năo bộ gây các cơn động kinh. Ta cũng dự kiến sử dụng kỹ thuật này ở các nhũ nhi bằng cách đặt sonde lên thóp (fontanelle) để xem năo bộ làm việc. Nhưng phải khảo sát sự vận hành chức năng b́nh thường của năo bộ trước khi phân tích các loạn năng (dysfonctionnements) . Việc thăm ḍ ở nhũ nhi hiện nay có thể được thực hiện bằng IRMf, nhưng trong những điều kiện khó khăn, bởi v́ sự thăm khám gây căng thẳng, và cần phải nằm bất động.
(LA RECHERCHE 9/2011)
GS Christophe Bernard, Giám đốc nghiên cứu của Inserm (Marseille), giải thích tiến bộ quan trọng này (được tài trợ bởi Neurodon và Fondation française pour la recherche sur l’ épilepsie) mở đường cho những điều trị pḥng ngừa.
Hỏi : Ông hăy nhắc lại cho chúng tôi những dạng động kinh khác nhau.
GS Christophe Bernard: Sau bệnh migraine, căn bệnh năo này thường xảy ra nhất. Ở Pháp, có từ 500.000 đến 750.000 người bị bệnh, trong đó đa số là trẻ em. Có hai dạng lớn : động kinh toàn thể (épilepsie généralisée) (được gọi là động kinh lớn, “ grand mal ”), xâm chiếm toàn thể năo bộ, là dạng thường gặp nhất (70% các trường hợp) ; động kinh một phần (épilepsie partielle) được giới hạn vào vài vùng tế bào thần kinh. Nhưng ta cũng có thể lên cơn mà không bị động kinh : cứ mười bảy người th́ có một lên cơn động kinh một lần trong suốt đời ḿnh.
Hỏi : Những triệu chứng nào làm bệnh nhân tàn tật ?
GS Christophe Bernard: Các triệu chứng phụ thuộc vào vị trí của ổ động kinh (foyer épileptique). Nếu vùng năo bị thương tổn kiểm soát vận động của các chi, cơn động kinh gây nên những cử động co giật bất thường. Nếu vùng bị thương tổn liên quan đến cơ chế thị giác, bệnh nhân có những ảo giác thị giác (hallucinations visuelles). Cơn động kinh toàn thể (crise généralisée) gây nên sự mất tri giác.
Hỏi : Ta có biết những nguyên nhân của sự rối loạn năo bộ này không ?
GS Christophe Bernard: Có thể có nhiều nguyên nhân : một chấn thương sọ, những di chứng của một tai biến mạch máu năo, của một bệnh viêm màng năo, viêm năo, của một tai biến lúc sinh. Cũng có thể có một thành phần di truyền.
Hỏi : Cơ chế nào làm phát khởi một cơn động kinh ?
GS Christophe Bernard: Một tập hợp rất nhiều tế bào thần kinh sẽ cùng nhau phát ra một tần số quá cao các tín hiệu điện. Đó là lư do ta gọi là “ cơn giông tố điện trong năo bộ ” (orage électrique dans le cerveau), mà vài yếu tố như stress, sự lo âu, làm dễ sự xuất hiện.
Hỏi : Hiện nay ta có những thuốc điều trị nào ?
GS Christophe Bernard: Ta kê đơn vài loại thuốc nhằm ngăn cản sự xuất hiện của các cơn. Đó là những loại thuốc làm giảm t́nh trạng tăng hưng phấn (hyperexcitabilité) của các tế bào thần kinh nhưng không chữa lành căn bệnh. Số lượng những loại thuốc chống động kinh không ngừng gia tăng từ những năm 1950.
Hỏi : những kết quả thu được là ǵ ?
GS Christophe Bernard: Trong 70% các trường hợp, bệnh động kinh được kiểm soát. Các cơn trở nên rất hiếm hay biến mất. Nhưng mặc dầu các loại thuốc chống động kinh mới, nhưng tỷ lệ đề kháng vẫn không thay đổi : ở 30% các bệnh nhân, các thầy thuốc vấp phải một sự thất bại. Họ không thể ngăn ngừa được các cơn.
Hỏi : Đối với những bệnh nhân đề kháng với thuốc này, ta phải làm ǵ ?
GS Christophe Bernard: Một phẫu thuật ngoại thần kinh nhằm lấy đi vùng năo trách nhiệm động kinh. Tỷ lệ thành công quan trọng : từ 70% đến 80% các bệnh nhân được chữa lành. Nhưng có một chống chỉ định không thể tránh được : khi ổ gây động kinh chứa một vùng chức năng chủ yếu, thí dụ kiểm soát ngôn ngữ.
Hỏi : Kíp nghiên cứu của ông đă đạt được một bước tiến quan trọng trong pḥng ngừa các cơn giông năo bộ này. Chiến lược mới là ǵ ?
GS Christophe Bernard: Các nhóm nghiên cứu đều đă biết rằng sự tấn công ban đầu trong năo bộ (ngay trước khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên) làm biến đổi sự vận hành chức năng (“sự biểu hiện ”) của hàng ngàn gène trong các tế bào. Sự rối loạn gène (désorganisation génétique) này sẽ dẫn đến, đôi khi sau nhiều năm trời, sự tạo thành những ổ gây nên các cơn động kinh. Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, người ta đă tự nếu nghi vấn : tại sao lại có sự loạn năng (dysfonctionnement) như thế ? Những cơ chế nào là nguồn gốc của những loạn năng này ? Các công tŕnh nghiên cứu của chúng tôi đă đưa đến sự khám phá một “ gène ch́a khóa ” (gène clé), một loại ngắt điện (interrupteur) (NRSF), có nhiệm vụ thắp sáng vài gène và làm tắt những gène khác, tạo nên những loại court-circuit quan trọng.
Hỏi : Công cuộc khám phá này có dẫn đến việc hiệu chính một điều trị pḥng ngừa mới không ?
GS Christophe Bernard: Vâng. Ta đă t́m cách vô hiệu hóa tác dụng có hại của gène NRSF bằng những phân tử nhỏ (ODN), giống như những leurres chimiques bắt giữ gène này. Những thử nghiệm đầu tiên của chúng tôi đă được thực hiện ở động vật : một công tŕnh nghiên cứu được tiến hành trên 12 con chuột, trong đó 6 con đă được điều trị. Ở những con chuột sau cùng này, chiến thuật phóng ngừa mới đă giảm 2/3 số các con. Những kết luận đầu tiên này, rất thỏa măn, mang nhiều hy vọng
Hỏi : Ông có dự định nghiên cứu trên người hay không ?
GS Christophe Bernard: Hiện nay, protocole đ̣i hỏi tiêm thuốc trực tiếp vào trong năo bộ, điều này, ở người, hàm chứa nhiều nguy cơ. Vậy sẽ phải hiệu chính một liệu pháp bằng đường miệng. Từ nay chúng tôi có một phương hướng nghiên cứu sẽ cho phép loại bỏ được bệnh động kinh.
(PARIS MATCH 8/9-14/9/2011)
Gilles Huberfeld
Neurologue
Centre de recherche en neurosciences
de la Pitié-Salpêtrière
Động kinh là thương tổn thần kinh măn tính của năo bộ, thường gặp nhất sau migraine. Động kinh gây bệnh cho gần 500.000 người ở Pháp và ta đếm được khoảng 50 triệu người bị bệnh động kinh trên toàn thế giới. Là những cơn giông điện thật sự, gây nên bởi một sự mất tổ chức
tái tổ chức (déorganisation-réorganisation) của các mạng neurone của năo bộ, các cơn động kinh được đặc trưng bởi những biểu hiện vô cùng thay đổi, nhưng không phải luôn luôn gây ấn tượng, gồm những cử động không tự ư, những rối loạn tiếp xúc, những tri giác“ nội tại ” phức tạp và đôi khi kỳ lạ. Nhưng năo bộ tăng hưng phấn bị kích động như thế nào để gây nên một cơn động kinh ? và trong bầu trời nào cơn giông này bùng nổ ?
Giữa các cơn, năo sinh ra những đợt phóng điện ngắn thể hiện tính tăng hưng phấn (hyperexcitabilité) của nó và được sử dụng để chẩn đoán động kinh bằng điện năo đồ (EEG). Cơn động kinh nói riêng là một hiện tượng hiếm hơn, phức tạp và nhất là gây nên những triệu chứng (thay đổi tùy theo vùng năo bộ bị ảnh hưởng). Sự xuất hiện của cơn động kinh là đột ngột, bất ngờ, do đó cần phát hiện một giai đoạn dẫn đến cơn. Nhận diện và hiểu sự chuyển tiếp cho phép dự kiến sự xuất hiện của cơn và nhất là xét đến những điều trị đặc hiệu.
NHỮNG PHÓNG ĐIỆN TRƯỚC CƠN ĐỘNG KINH
Việc dự kiến các cơn động kinh là tế nhị và không thể thực hiện chỉ với phân tích bằng mắt điện năo đồ. Nhưng từ 15 năm nay, một quá tŕnh xử lư toán học phức tạp điện năo đồ có thể cho phép nhận diện một giai đoạn chuyển tiếp dẫn đến cơn động kinh. Đó là những tính toán nặng nề, khó tiến hành en temps réel, và hiện nầy chưa có cho các bệnh nhân. Nhiều chục kỹ thuật đă được mô tả. Một dự án châu Âu hiện đang được tiến hành để chọn lọc những kỹ thuật dự đoán tốt nhất và để áp dụng chúng trong một máy có thể dùng được bởi bệnh nhân.
Tuy nhiên, những kỹ thuật này không cho biết sinh học của sự phát khởi các cơn : điều ǵ thật sự xảy ra trong năo bộ và những neurone gây ra một cơn động kinh như vậy ? Trong pḥng thí nghiệm của chúng tôi, chúng tôi theo hướng nghiên cứu này. Chúng tôi nghiên cứu bệnh động kinh từ những mẫu nghiệm hậu phẫu phát xuất từ những bệnh nhân được mô để điều trị bệnh động kinh của họ trong trường hợp đề kháng với thuốc. Những mô này, được duy tŕ sống, tiếp tục sinh ra những hoạt động động kinh tương tự với những phóng điện ngắn được mô tả trên đây. Chúng tôi đă cho thấy rằng những phóng điện này được phát khởi một cách bất thường bởi những tế bào ức chế (cellules inhibitrices) của năo bộ, các interneuronne có những tác dụng kích thích bất ngờ.
Mới đây, chúng tôi đă tạo lại trong pḥng thí nghiệm cơn động kinh và những thời điểm đi trước nó và đă nhận diện một giai đoạn chuyển tiếp, kéo dài trong nhiều chục phút. Thời kỳ này được đánh dấu bởi sự xuất hiện của một loại biến cố động kinh mới : những phóng điện trước cơn vật (décharges pré-ictales) (đi trước cơn). Giai đoạn chuyển tiếp này tương ứng với một sự tăng cường dần dần hoat dong của các mạng những tê bào thần kinh hưng phấn (neurones excitateurs). Một khi trưởng thành, những phóng điện này phát khởi cơn bằng cách tuyển mộ đồng thời những neurone hưng phấn những đồng thời cũng làm hỏng thêm những interneurone b́nh thường có tác dụng ức chế, như thế làm gia tăng tác dụng hưng phấn của chúng.
Vậy nhưng thời điểm đi trước cơn động kinh có thể nhận diện được trong những vùng đặc biệt của năo bộ, nhưng những phóng điện trước cơn vật (décharge pré-ictale), là dấu hiệu xác nhận giai đoạn chuyển tiếp này, dường như không thể ghi được trên bề mặt của sọ. Tuy nhiên những phóng điện trước cơn vật này, nếu nhắm vào những cơ chế đặc hiệu của nó, mang lại nhưng cơ hội điều trị.
Cuối cùng, những công tŕnh nghiên cứu này xác nhận một quy luật của tự nhiên : những cơn giông (ở đây là những con động kinh) được báo trước bởi một sự che mờ của bầu trời, sự gia tăng của tính hưng phấn của năo bộ, và được báo trước bởi những làn chớp, những phóng điện trước cơn vật.
(LE FIGARO 20/8/2011)
ĐỘNG KINH ĐỀ KHÁNG : MỘT NGOẠI KHOA CÁ THỂ HÓA ĐỂ ĐƯỢC NHIỀU TRƯỜNG HỢP CHỮA LÀNH HƠN.
GS Parick Chauvel, trưởng khoa sinh lư thần kinh lâm sàng của bệnh viện Timone (Marseille) giải thích kỹ thuật mới stéréo-électro-encéphalographie, cho phép điều trị nhiều bệnh nhân hơn.
Hỏi : Ông hay mô tả cho chúng tôi những bất thường chịu trách nhiệm căn bệnh này của năo bộ.
GS Patrick Chauvel: Đó không phải là một bệnh lư đơn độc mà là nhiều bệnh lư, với điểm chung là gây nên những cơn động kinh, do một kích thích bất thường và do một một sự đồng bộ hóa quá mức (hypersynchronisatio n) của một quần thể các tế bào thần kinh.
Hỏi : Những dạng khác nhau của những bệnh lư năo bộ này là ǵ ?
GS Patrick Chauvel: Ta có thể chia thành hai loại lớn. 1. Những cơn động kinh được gọi là không hoàn toàn (crises partielles), khi những ṿng điện (courts-circuits électriques) thật sự này chỉ ảnh hưởng một vùng rất giới hạn của vỏ năo. 2. Những cơn toàn thể (crises généralisées), khi chúng xuất hiện trong nhiều vùng, cả hai bên cùng một lúc. Các triệu chứng thay đổi thùy theo sự định vị của vùng sinh động kinh (zone épileptogène). Trong những cơn bán phần, một sự phóng điện của vùng vận động có thể gây nên, thí dụ, những rung chuyển của một hay nhiều chi. Trong vùng thị giác hay thính giác, sự phóng điện này gây nên những ảo giác (hallucination). Cũng có những trường hợp trong đó sự phóng điện bất thường gây nên một t́nh trạng vắng ư thức (absence) tạm thời. Những cơn toàn thể gây nên mất tri giác, trong vài trường hợp, đe dọa tính mạng bệnh nhân.
Hỏi : Ta có biết rơ những nguyên nhân của các động kinh này không ?
GS Patrick Chauvel: Ở khoảng 30% các bệnh nhân ta không nhận diện được nguyên nhân. Trong những trường hợp khác, các nguyên nhân ngày nay được xác định rơ : một yếu tố di truyền, một chấn thương sọ năo, những di chứng ngoại khoa, một u năo … Về chẩn đoán, 3 trắc nghiệm cơ bản vẫn là thăm khám lâm sàng, điện năo đồ và IRM. Nhưng những thủ thuật này đă tiến bộ nhiều và vài thủ thuật đă tạo những bước tiến rất quan trọng để hoạch định và thực hiện một phẫu thuật
Hỏi : Những điều trị cổ điển là ǵ ?
GS Patrick Chauvel: Chúng ta có khoảng 20 loại thuốc chống động kinh. Một vài loại thuốc được kê đơn trong những trường hợp các cơn không hoàn toàn, những thuốc chống động kinh khác trong những cơn toàn thể, những loại khác nữa có một tác dụng lên cả hai thể bệnh. Nói chung ta bắt đầu một đơn liệu pháp (monothérapie), nhưng thường phải kết hợp một thuốc chống động kinh khác để có được một hiệu quả đầy đủ. Các protocole trong đó nh́n toàn bộ ta thành công hủy bỏ các cơn ở 60 đến 80% các bệnh nhân (tất cả các dạng tính đổ đồng). Những loại thuốc chống động kinh này không chữa lành bệnh mà chỉ pḥng ngừa các cơn.
Hỏi : Điều trị nào đă được hiệu chính để điều trị những bệnh nhân đề kháng thuốc ?
GS Patrick Chauvel: Một phẫu thuật ngoại khoa (chỉ đối với những cơn không hoàn toàn) . Những vùng sinh động kinh không được nằm trong một vùng mà sự loại bỏ dẫn đến những di chứng gây phế tật.
Hỏi : Bước tiến ngoại khoa nào ngày nay cho phép điều trị nhiều bệnh nhân hơn ?
GS Patrick Chauvel: Ta can thiệp một cách chính xác hơn nhờ những kỹ thuật mới sử dụng stéréo-électro-encéphalographie mà mục đích là đưa những điện cực vào trong năo bộ để định vị trí một cách trực tiếp vùng sinh động kinh (zone épileptogène). Điều đó cho phép phẫu thuật viên thực hiện một can thiệp “ tùy theo từng trường hợp ” (une intervention sur mesure). Nhờ những phương thức mới xử lư tín hiệu điện năo, từ nay với IRM ta có thể thấy thương tổn, đôi khi rất bé nhỏ. Ưu điểm khác : nhờ thực hiện những kích thích điện (stimulation électrique), ta làm gia tăng rất nhiều mức độ chính xác trong sự định vị những vùng chức năng (zones fonctionnelles) khả dĩ bị biến đổi bởi động kinh. Từ ít lâu nay, khi một vùng sinh động kinh rất là nhỏ, ta loại bỏ nó bằng ngoại quang tuyến (radiochirurgie), với Gama Knife, mà không phải mở hộp sọ.
Hỏi : Những kết quả và những nguy cơ của ngoại khoa nặng nề này là ǵ ?
GS Patrick Chauvel: Đối với những bệnh nhân mà vùng sinh động kinh nằm trong vùng của thùy thái dương (60% các trường hợp), tỷ lệ chữa lành khoảng 80%. Khi vùng này nằm ở nơi khác, 60% đến 70% các bệnh nhân được chữa lành hay có một sự cải thiện rất rơ rệt. Những bệnh nhân khác bất hạnh thay vẫn đề kháng thuốc. Những nguy cơ hậu phẫu (những biến chứng chức năng hay thần kinh tâm thần) khoảng 5%.
Hỏi : Đối với những bệnh nhân không thể dùng thuốc hay phẫu thuật, biện pháp cuối cùng là ǵ ?
GS Patrick Chauvel: Mới đây ta đă hiệu chính những kỹ thuật kích thích điện vùng sâu (technique palliative de stimulation profonde) : một điện cực trong sọ kích thích một nhân của đồi thị (thalamus) hay vùng sinh động kinh. Những công tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành trong Institut de neuroscience của chúng tôi với những modèle informatique de cerveaux virtuels épileptogènes.
(PARIS MATCH 27/9-3/10/2012)
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.