HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .
Cho dù không có vấn đề ǵ khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm ǵ để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .
I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN
Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh. Điều quan trọng là biết làm ǵ, làm thế nào để trị liệu, và khi nào th́ cần t́m kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.
1) B̉ CẠP CẮN (SCORPION BITES)
Ḅ cạp là loại côn trùng nhiều chân có h́nh dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ng̣i / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được t́m thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).
Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết ḅ cạp cắn:
1. Rửa vùng bị ḅ cạp cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước
2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị ḅ cạp cắn trong ṿng 10 phút , nếu cần thiết th́ lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .
3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng ǵ
2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)
Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này th́ dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .
Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)
Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hăy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve
2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước.
3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)
Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tṛn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt ḅ" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .
CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh
Drug delays type 1 diabetes in people at high risk
NIH-funded study finds immunotherapy slows progression to clinical disease by 2 years or more
NIH/National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Brothers volunteer for Type 1 Diabetes TrialNet. view more
Credit: Benaroya Research Institute
A treatment affecting the immune system effectively slowed the progression to clinical type 1 diabetes in high risk individuals, according to findings from National Institutes of Health-funded research. The study is the first to show that clinical type 1 diabetes can be delayed by two or more years among people who are at high risk. These results were published online in The New England Journal of Medicine and presented at the American Diabetes Association Scientific Sessions in San Francisco.
The study, involving treatment with an anti-CD3 monoclonal antibody (teplizumab), was conducted by Type 1 Diabetes TrialNet, an international collaboration aimed at discovering ways to delay or prevent type 1 diabetes. Researchers enrolled 76 participants ages 8-49 who were relatives of people with type 1 diabetes, had at least two types of diabetes-related autoantibodies (proteins made by the immune system), and abnormal glucose (sugar) tolerance.
Participants were randomly assigned to either the treatment group, which received a 14-day course of teplizumab, or the control group, which received a placebo. All participants received glucose tolerance tests regularly until the study was completed, or until they developed clinical type 1 diabetes - whichever came first.
During the trial, 72% of people in the control group developed clinical diabetes, compared to only 43% of the teplizumab group. The median time for people in the control group to develop clinical diabetes was just over 24 months, while those who developed clinical diabetes in the treatment group had a median time of 48 months before progressing to diagnosis.
"The difference in outcomes was striking. This discovery is the first evidence we've seen that clinical type 1 diabetes can be delayed with early preventive treatment," said Lisa Spain, Ph.D., Project Scientist from the NIH's National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases (NIDDK), sponsor of TrialNet. "The results have important implications for people, particularly youth, who have relatives with the disease, as these individuals may be at high risk and benefit from early screening and treatment."
Type 1 diabetes develops when the immune system's T cells mistakenly destroy the body's own insulin-producing beta cells. Insulin is needed to convert glucose into energy. Teplizumab targets T cells to lessen the destruction of beta cells.
"Previous clinical research funded by the NIH found that teplizumab effectively slows the loss of beta cells in people with recent onset clinical type 1 diabetes, but the drug had never been tested in people who did not have clinical disease," said Kevan C. Herold, M.D., of Yale University, the study's lead author. "We wanted to see whether early intervention would have a benefit for people who are at high risk but do not yet have symptoms of type 1 diabetes."
The effects of the drug were greatest in the first year after it was given, when 41% of participants developed clinical diabetes, mainly in the placebo group. Many factors, including age, could have contributed to the ability of teplizumab to delay clinical disease, since at-risk children and adolescents are known to progress to type 1 diabetes faster than adults. Faster progression of type 1 diabetes is associated with a highly active immune system, which may explain the impact of immune system-modulating drugs like teplizumab.
Other data collected from the trial may help researchers to understand why certain people responded to treatment. Participants who responded to teplizumab tended to have certain autoantibodies and other immune system characteristics. The research team also cautioned that the study had limitations, including the small number of participants, their lack of ethnic diversity, and that all participants were relatives of people with type 1 diabetes, potentially limiting the ability to translate the study broadly.
"While the results are encouraging, more research needs to be done to address the trial's limitations, as well as to fully understand the mechanisms of action, long-term efficacy and safety of the treatment," said Dr. Spain.
"This trial illustrates how decades of research on the biology of type 1 diabetes can lead to promising treatments that have a real impact on people's lives. We're very excited to see the next steps in this research," said Dr. Griffin P. Rodgers, NIDDK Director. "The dedicated researchers, volunteers and families participating in this program make discoveries like this possible."
New research suggests that taxes and health warnings could bring significant health and economic benefits by cutting consumption of sugar-sweetened beverages
American Society for Nutrition
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: For study participants assigned to be exposed to health warnings, all SSBs in the trial store displayed this health warning on the front of the container. The image is the... view more
Credit: Anna Grummon, University of North Carolina-Chapel Hill
Baltimore (June 9, 2019) - Drinks with added sugar, also known as sugar-sweetened beverages (SSBs), are one of the largest sources of added sugar in the American diet and a major contributor to obesity. SSBs include non-diet sodas, flavored juice drinks, sports drinks, sweetened tea, coffee drinks, energy drinks and electrolyte replacement drinks. Research presented at Nutrition 2019 will examine how various policies could help reduce the consumption of these sugary beverages and improve health.
Nutrition 2019 is being held June 8-11, 2019 at the Baltimore Convention Center. Contact the media team for more information or to obtain a free press pass to attend the meeting.
Should we tax drinks with added sugar?
SSB taxes would decrease obesity-related cancer
A new study estimates that a national 1 cent per ounce of SSB tax could prevent around 17,000 new obesity-associated cancers cases and 10,000 cancer deaths. This modeling study estimates that this tax would save $2.4 billion in lifetime medical costs for 13 types of cancer. The largest health benefits were for endometrial, kidney and liver cancer. Christina Griecci, Tufts University, will present this research on Sunday, June 9, from 12:45 - 1:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (Poster 75) (abstract).
Which type of tax produces the most benefits?
Using a simulation model, researchers found either a tiered or sugar-content taxed structure that placed a higher tax on beverages containing more sugar produced more health gains and cost savings than a tax based on SSB volume. Over 10 years, a tiered tax on SSBs could prevent 460,000 cardiovascular events and 60,000 cases of diabetes and save 28 billion dollars in health care costs. A sugar content tax on SSBs could prevent 370,000 cardiovascular events and 50,000 cases of diabetes and save 21 billion dollars in health care costs while a volume tax on SSBs would prevent 240,000 cardiovascular events and 30,000 cases of diabetes and save 14 billion dollars in health care costs. Yujin Lee, Tufts University, will present this research on Tuesday, June 11, from 8:15 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
Do health warnings work?
Health warnings can discourage purchases
According to a study involving 400 adults, health warnings on SSBs can discourage the purchase of these drinks. Adults who typically drink sugary beverages were given $10 to spend at a life-size convenience store replica selling SSBs and other products. Study participants randomly assigned to a group in which SSBs in the store displayed health warnings purchased fewer calories from SSBs and were less likely to purchase an SSB than those consumers shown products without the labels. Anna Grummon, University of North Carolina-Chapel Hill, will present this research on Tuesday, June 11, from 8:30 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
Health warnings might also reduce obesity
A new simulation study reveals that using health warnings on SSBs across the U.S. could reduce average SSB intake by about 25 calories per day and total calorie intake by about 30 calories per day. These dietary changes could reduce average body mass index by about 0.6 kg/m2 over 5 years--equivalent to losing about 4 pounds for the average adult. The policy was also projected to reduce obesity prevalence by more than 5 million adults over this period. Weight loss would be most pronounced among Black or Hispanic adults as well as those with lower income and educational attainment. Anna Grummon, University of North Carolina-Chapel Hill, will present this research on Tuesday, June 11, from 8:45 - 9:00 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
SSBs are often for home consumption
A preliminary analysis found that nearly 80 percent of U.S. households purchase or acquire SSBs in a given week. On average, U.S. households acquire nearly 2000 calories from SSBs per week, with more than 60 percent of SSB calories acquired to bring home for later consumption. The researchers used data from the USDA Food Acquisition and Purchasing Survey, which collected 7 days of data on all foods purchased or obtained for free in a nationally representative sample of 4,826 households during 2012. These findings point to the need for interventions that target SSB consumption at home to reduce overall SSB acquisition. Stephen Onufrak, Centers for Disease Control and Prevention, will present this research on Monday, June 10, from 8:30 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
Policies encouraging healthy eating could greatly cut cancer-related costs
Using sophisticated models, researchers examine how various warning labels and taxes targeting diet would reduce cancer cases and cancer-associated costs
American Society for Nutrition
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Reduction in cancer disparity is defined as the ratio of new cancer cases prevented per 1,000,000 among higher-income individuals to those of SNAP participants. A number greater than one corresponds... view more
Credit: Heesun Eom, Tufts University
Baltimore (June 9, 2019) - The foods we eat can play an important role in preventing cancer. New modeling research presented at Nutrition 2019 shows that policies using taxes or warning labels to encourage healthier eating could reduce the number of people who develop cancer, which would bring significant savings in medical costs.
Nutrition 2019 is being held June 8-11, 2019 at the Baltimore Convention Center. Contact the media team for more information or to obtain a free press pass to attend the meeting.
Reducing obesity-related cancers
How will new added-sugar nutrition labeling affect cancer cases?
A new modeling study estimates that, based on changes in consumer behavior, the soon-to-be-implemented added-sugar labeling on all U.S. packaged foods could prevent 35,500 new obesity-related cancer cases and 16,700 cancer deaths over a lifetime in the U.S. The policy would also save an estimated $1.4 billion in direct medical costs. After taking into consideration additional savings from patient time and productivity loss as well as policy implementation costs from both the government and industry, the policy would save an estimated $0.5 billion in total costs from the society level. Industry reformulations would likely add to the prevented cancer cases and health care cost savings. Mengxi Du, Tufts University, will present this research on Tuesday, June 11, from 8:30 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
Would taxing sugar-sweetened beverages save health-care costs?
A new study estimates that a national tax of 1 cent per ounce of sugar-sweetened beverage could prevent around 17,000 new obesity-associated cancers cases and 10,000 cancer deaths. This modeling study estimates that this tax would save $2.4 billion in lifetime medical costs for 13 types of cancer. The largest health benefits were for endometrial, kidney and liver cancer. Christina Griecci, Tufts University, will present this research on Sunday, June 9, from 12:45 - 1:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (Poster 75) (abstract).
The costs of unhealthy eating
What is the cost of cancers associated with poor diet?
A new analysis reveals that over 5 years, cancers attributable to unhealthy eating among U.S. adults resulted in direct medical costs of $6.9 billion (2015 dollars). Nearly 70 percent of this cost is due to colorectal cancer attributable to poor diet. The calculations are based on the estimated number of cancers cases attributed to not eating enough fruits, vegetables, whole grains and dairy, and eating more processed meats, red meats and sugar-sweetened beverages. Given the substantial economic burden of diet-attributable cancers, nutritional policies may help reduce cancer cases and their associated costs. Jaya Khushalani, Centers for Disease Control and Prevention (CDC), will present this research on Monday, June 10, from 8:30 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center Room 317 (abstract).
Can we decrease cancer disparities?
Results from a new study suggest that policies targeting food price could help reduce cancer disparities among low-income participants in the Supplemental Nutrition Assistance Program (SNAP). Of the policies modeled, a 10 percent national tax on sugar-sweetened beverages and processed meat together with a 30 percent SNAP-targeted food subsidy would produce the largest reduction in cancer disparities, with about 16 more cases averted per million SNAP users compared to higher-income individuals. The overall greatest decrease in cancer cases would result from a national 30 percent subsidy for fruits, vegetables and whole grains combined with a 10 percent tax on sugar-sweetened beverages and processed meats, which would have eliminated an estimated 7,208 new cancer cases among US adults in 2015. Heesun Eom, Tufts University, will present this research on Sunday, June 9, from 1:45 - 2:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (Poster 230) (abstract).
Which policies would reduce processed meat consumption?
A new simulation study found that using an excise tax or warning label on processed meats could bring substantial health and economic benefits. The researchers found that over a lifetime a 10 percent excise tax could prevent 77,000 colorectal and 12,500 stomach cancer cases and generate a savings of $1.1 billion in health-care costs while warning labels may prevent 85,400 colorectal and 15,000 stomach cancer cases with a savings of $1.3 billion from health-care costs. Groups who benefited most from the policies were younger, had a higher cancer risk or ate the most processed meat prior to policy implementation. David D. Kim, Tufts Medical Center, will present this research on Monday, June 10, from 8:00 - 8:15 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
Sun-exposed oyster mushrooms help patients fight tuberculosis
Bread containing the low-cost mushrooms increased vitamin D levels and boosted immune response of TB patients
American Society for Nutrition
Share
Print E-Mail
Baltimore (June 9, 2019) - Tuberculosis (TB) remains one of the deadliest infectious diseases in low income countries, with around 1.6 million people dying of the disease each year. In a new study, researchers show that sun-exposed oyster mushrooms offer a readily available source of vitamin D that can help TB patients respond better to anti-TB drugs by improving immune response.
"TB is becoming more difficult to fight due to the emergence of drug-resistant strains, creating an urgent need for new treatments that can support first-line drugs," said TibebeSelassie Seyoum Keflie, a doctoral fellow at University of Hohenheim, Germany. "This source of vitamin D is ideal for low income countries because mushrooms can easily be distributed and administered in a safe, low-cost, easy-to-replicate manner."
Keflie, who performed the research with Hans Konrad Biesalski, will present the research at Nutrition 2019, the American Society for Nutrition annual meeting, held June 8-11, 2019 in Baltimore.
Studies have shown that vitamin D induces the body to form an antimicrobial compound that attacks the bacterial cause of TB. Although sun exposure can boost a person's vitamin D levels, it must be obtained through diet when sun exposure is scarce.
The researchers used oyster mushrooms because they offer a cheap, safe and readily available source of vitamin D that is easily absorbed by the body. Although fresh oyster mushrooms contain almost no vitamin D, the fungus produces it the after exposure to sunlight much like the human body.
"This is the first time that vitamin D derived from oyster mushrooms exposed to sun has been shown to be a potential adjunctive therapy for TB," said Keflie. "With educational outreach, it might be possible to teach people with TB to irradiate their own mushroom for a brief period before cooking."
For the study, the researchers gave a group of TB patients sandwich bread containing 146 micrograms of vitamin D from sun-exposed oyster mushrooms every morning during the first four months in which they received an anti-TB drug.
At the end of the four months, 95 percent of patients receiving the fortified bread were classified with the lowest TB severity score on a scale of 1 to 5. The treatment group had significantly higher vitamin D levels compared to patients not receiving the bread, with more than a third of them no longer showing a vitamin D deficiency. The researchers also observed that patients who consumed the fortified bread had significant improvements in immunological responses over the four months.
The researchers plan to carry out additional investigations on the interactions of vitamin D and immunological responses in larger and more diverse groups of TB patients. They are also developing different mushroom drying methods to determine how to achieve the highest levels of vitamin D.
TibebeSelassie Seyoum Keflie will present this research on Sunday, June 9, from 3:45 - 4 p.m. in the Baltimore Convention Center, Room 319/320 (abstract). Contact the media team for more information or to obtain a free press pass to attend the meeting.
Risk Of Breast Cancer Is Not The Worst Thing In This Story
Billing, Extra Stupid, Lazy/Unhelpful, Medical Office, Non-Dialogue, USA | | Healthy | May 26, 2019
I’m a young woman who doesn’t have to go in for yearly mammograms, but when doing a check one month, I notice a possible lump. Women are encouraged to visit their doctor immediately when this happens, as breast cancer can be very aggressive. I go in to my regular doctor office, but the PA I normally see is on maternity leave, so a different one is scheduled for my visit.
The new physician is nice, but it all goes downhill once she refers me for additional testing. Her assistant schedules the referral without a checking date or time with me and doesn’t give me all the appointment info. My mammogram appointment starts out rocky as a result, but thankfully they don’t find any cancer so I’m pronounced healthy and sent on my way.
Fast forward a couple weeks, and I get an outrageous bill for the facility I was referred to. I reach out to the hospital billing and then my doctor’s office. The hospital billing team is very nice but the doctor’s office doesn’t care that they botched my referral by pushing me over to one of their connected facilities. I talk to them about once a week for a month and a half, and their office manager can’t remember to return my calls. Finally, after leaving a message for the office manager’s boss, hospital billing gets involved.
The office manager has requested that they just comp my bill because of all the issues –more than what I mentioned above — I’ve had when dealing with them. She says it should be cleared up, so I end that call relieved. Hospital billing steps in, and suddenly I’m being told that my bill is not being comped. I’m normally non-confrontational, but the woman I’m speaking to is so rude and doesn’t seem to care that her organization’s facilities have repeatedly messed up just about every interaction I’ve had related to this initial visit, or that I’ve been promised the bill will be written off already. We argue for several minutes until she agrees to take another day to look into this more and decide. It’s really just a stall on her part, as reneging on writing off the remaining bill will be going back on what her colleague promised.
She calls me the next day and begrudgingly agrees that they’ll comp my bill. I also end up speaking to the office manager again, who reminds me that they’ll expect me to pay my bills in the future.
For the record, I always pay my bills and had given them an initial payment which I thought was kind of a co-pay. I learned better as a result of this and will not make that mistake again.
We all think everything is resolved until a couple months later, when I get some cryptic call from some woman that I can barely understand. She’s asking for me to identify myself so she can discuss my account with me. I tell her that I don’t know who she is and I’m not comfortable with sharing personal info. She says that’s fine but I should call them back when I’m ready. Somewhere during the conversation, she says something that makes me realize this is a collections call.
Of course, she won’t tell me anything unless I share my info with her, but the only billing snafu of late was the hospital one. So, I call them and end up finding out that when they bill, the facility sends one bill but the radiologist sends a separate bill. And somehow, I should know that these bills are sent separately.
By now, I’m freaked because a) I thought this was resolved a few months ago, and b) I’m planning to buy a house and don’t want a collections account to show up on my credit report.
I make a few calls that result in me leaving a message with the rude hospital billing lady I spoke to a few months before. She leaves me a message later letting me know that she’s spoken to the second billing team and it should be taken care of. Our insurance person at work also tells me to call back the collections agency and let them know I’m working things out with the hospital. I do and they freeze the collections account for me.
I’ve not heard anything from either billing group, so it all seems to be resolved now. And I’ve switched to a different doctor’s office, one not connected to the hospital. Everyone is really nice and so far I’ve had no issues.
Moral of the story: ask lots of questions when your doctor refers you anywhere. And don’t go unless your insurance has signed off on that being the best in-network facility and estimated how much it will cost.
Ḿnh đă viết khá nhiều về ngành dược và học dược ở Mỹ trong mục Ngành dược ở blog này. Tuy nhiên, con đường học dược của ḿnh là theo chương tŕnh 0-6, nên ḿnh không phải thi PCAT. Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn hỏi về PCAT, ḿnh có nhờ Quỳnh Hương, một người bạn thân đă từng guest post trên blog Clinical Pharmacy với Quỳnh Hương. Quỳnh Hương học dược theo 4+4, có bằng cử nhân rồi mới apply vào trường dược, và có kinh nghiệm về PCAT.
Trong bài trước T́m hiểu về PCAT- Thi đầu vào trường dược ở Mỹ, Quỳnh Hương giới thiệu về thi PCAT nói chung. Trong bài này, Quỳnh Hương sẽ chia sẻ vài kinh nghiệm luyện thi với mọi người.
Cấu trúc bài thi PCAT
Trong đợt tuyển sinh năm 2017-2018, bài thi PCAT bao gồm 192 câu trắc nghiệm và một bài luận, kéo dài tổng cộng 205 phút (hơn 3 tiếng đồng hồ). Đây là một bài thi trên máy tính (computer-based), các câu hỏi trắc nghiệm được chia làm bốn phần, mỗi phần gồm 48 câupcat.png
◾Sinh học (Biological Processes – 40 phút)
◾Hoá học (Chemical Processes – 40 phút)
◾Đọc hiểu (Critical Reading – 50 phút)
◾Toán học (Quantitative Reasoning – 45 phút)
◾Bài luận kéo dài 30 phút
Mỗi phần thi đều có quy định thời gian cụ thể, nhưng bạn không cần phải đợi hết thời gian đó. Nếu bạn hoàn thành xong một phần thi sớm th́ có thể tiếp tục phần thi tiếp theo (thời gian cho các phần thi tiếp theo sẽ không thay đổi).
Cả bốn phần trên đều được chấm trên thang điểm từ 200 đến 600. Số điểm này sẽ được quy ra thành percentile cho mỗi phần thi và trung b́nh cho cả bốn phần. Nếu điểm của bạn thuộc 90th percentile có nghĩa là điểm của bạn cao hơn 90% điểm của các thí sinh khác. Các trường thường chỉ xem percentile chứ không đọc số điểm cụ thể của bạn.
Cách tính điểm thi PCAT
Bài thi PCAT không có “đậu” hay “rớt”. Việc bạn có được chọn vào một trường dược nào đó không không hoàn toàn phụ thuộc vào điểm PCAT, nhưng bạn có thể so sánh với thông tin của mỗi trường để tính toán nộp hồ sơ ở đâu và có nên thi lại hay không. Ví dụ, điểm PCAT trung b́nh của các sinh viên được nhận vào trường University of Minnesota năm 2017 là 78th percentile, và của University of Houston là 81st percentile.
V́ đây là bài thi trên máy tính và phần trắc nghiệm được chấm bằng máy nên bạn sẽ biết kết quả phần trắc nghiệm ngay khi rời pḥng thi. Nhân viên pḥng thi sẽ in ra bảng điểm chi tiết từng phần cho bạn. Điểm này chưa phải là điểm chính thức nhưng thường sẽ khá chính xác. Bạn sẽ nhân được điểm chính thức (cùng với điểm bài luận) trong ṿng 5 tuần kể từ ngày thi.
Nếu bạn cảm thấy có sai sót trong việc chấm điểm bài thi của bạn (ví dụ như bạn rất giỏi toán và cảm thấy ḿnh làm bài thi rất tốt nhưng điểm lại thấp) th́ bạn có thể yêu cầu chấm lại. Phí chấm lại cho phần trắc nghiệm là $40, và cho bài luận là $50. V́ phần trắc nghiệm thi và chấm bằng máy nên rất ít khả năng có sai sót, đừng phí tiền đăng kư chấm lại trừ khi bạn rất chắc chắn là đă có sai sót.
Chuẩn bị cho các phần trong bài thi PCAT
Kiến thức khoa học
Các trường dược thường yêu cầu rất nhiều lớp prerequisites, và các chủ đề trong ba phần thi Toán, Hoá, Sinh thường sẽ có dạy trong các lớp prerequisites đó. Cũng v́ lư do này, các bạn nên sắp xếp học các lớp prerequisites quan trọng như General Chemistry, Organic Chemistry, Biochemistry, General Biology, Anatomy and Physiology, và Microbiology sớm để có được một nền tảng kiến thức trước khi thi.
Các bạn nhớ chú ư trong các lớp này và giữ lại sách vở tài liệu để dễ ôn thi. Trang web PCAT cũng có cung cấp blueprint của bài thi cùng với chi tiết về từng chủ đề sẽ được hỏi trong bài thi ở link này. Bạn nên dùng danh sách các chủ đề này để định hướng cho việc ôn thi.
Đọc hiểu
Phần đọc hiểu thường sẽ cho bạn đọc những bài đọc ngắn và có những câu hỏi theo sau mỗi bài đọc để kiểm tra bạn hiểu được bao nhiêu. Nếu bạn đă từng thi các bài thi chuẩn hoá khác như SAT để vào đại học th́ có lẽ bạn cũng đă quen với dạng đề thi này. Bạn nên đọc nhiều để quen với việc đọc tiếng Anh (nhất là các sách giáo khoa textbooks các môn khoa học), luyện tập các kỹ năng đọc, và làm quen với các dạng câu hỏi thường gặp.
Bài luận (essay)
Bài luận thường đưa ra một vấn đề về y tế, khoa học, hoặc xă hội, và yêu cầu bạn đưa ra giải pháp cho vấn đề đó. Tương tự như phần đọc, bạn nên luyện tập viết để quen với việc viết luận bằng tiếng Anh. Cách làm văn của người Mỹ khác với cách làm văn ở Việt Nam nên bạn cần chú ư. Những điều quan trọng nhất khi thi viết là bài viết phải có cấu trúc chặt chẽ, mỗi ư phải có lập luận vững chắc và ví dụ cụ thể, câu cú phải đúng ngữ pháp, từ vựng sử dụng phải chính xác và đúng ngữ cảnh. Việc bạn làm văn có bay bổng hay không và bạn có dùng những từ ngữ “đao to búa lớn” hay không tương đối không quan trọng.
Tip: Nên nhớ là v́ đây là bài thi trên máy tính nên tốc độ đánh máy của bạn sẽ ảnh hưởng tới việc bạn viết được bao nhiêu.
Tập thi thử và học thêm
Bạn có thể làm bài thi thử trên trang web của PCAT. Phí thi thử cho phần trắc nghiệm là $50 cho một lần thi thử, $70 cho hai lần, và $90 cho ba lần. Bạn nên thi thử ít nhất một lần để làm quen với cách thông tin được tŕnh bày trên màn h́nh (ví dụ như câu hỏi nằm ở đâu, câu trả lời ở đâu, bấm nút nào để chọn, v.v…), dạng câu hỏi, và cách thức trả lời. Bạn cũng có thể thi thử cho phần bài luận nếu muốn.
Có rất nhiều tài liệu luyện thi PCAT trên thị trường, nhưng thông dụng nhất có lẽ là Kaplan và Dr. Collins. Có lẽ một số bạn đă quen thuộc với Kaplan v́ Kaplan cũng có nhiều tài liệu luyện thi các bài thi chuẩn hoá khác như SAT, ACT, GRE, GMAT, v.v… Kaplan cung cấp nhiều dạng ôn thi khác nhau. Cách rẻ nhất là bạn mua sách ôn thi PCAT của Kaplan và tự học theo sách.
Sách Kaplan PCAT cho năm 2018-2019 có giá b́a là $54.99, nhưng bạn có thể mua trên Amazon với giá rẻ hơn. Bạn cũng có thể mua sách năm trước nếu muốn tiết kiệm, theo ḿnh thấy th́ nội dung mỗi năm không thay đổi bao nhiêu.
Kaplan pcat
Điểm mạnh: các kiến thức cần thiết, đặc biệt là môn Sinh, được tổng hợp và tŕnh bày một cách khá chi tiết (nhiều lúc chi tiết hơn mức cần thiết).
Nếu bạn thi PCAT trước khi học qua các lớp ḿnh đề cập ở trên th́ sách Kaplan sẽ rất hữu ích trong việc chuẩn bị cho bạn nền tảng kiến thức đó. Sách cũng tŕnh bày các chiến lược thi, hướng dẫn các kỹ năng cho phần đọc và viết, có nhiều câu hỏi để bạn luyện tập, và có hai bài thi thử. Lúc ḿnh thi năm 2011, ḿnh cảm thấy các câu hỏi trong sách Kaplan không giống lắm so với các câu hỏi trong bài thi PCAT, nhưng vẫn rất hữu ích cho việc ôn tập. Kaplan cũng có các lớp học trực tuyến, lớp học trực tiếp, hoặc thuê gia sư, nhưng chi phí các lớp này tất nhiên cao hơn nhiều. Bạn có thể vào trang web của Kaplan để t́m hiểu thêm các dịch vị này. Theo ḿnh th́ học từ sách thôi là đủ nếu bạn có động lực tự học.
Dr. Collins (hiện đă đổi tên thành The PCAT Prep Class) giá mắc hơn Kaplan nhiều nhưng rất được ưa chuộng. Bộ tài liệu Dr. Collins được bán với giá $375. Trang web: https://pcatprepclass.com/
Dr collins pcat.jpg
Điểm mạnh: rất súc tích và rất sát với bài thi PCAT thật. Lần đầu ḿnh cầm bộ tài liệu Dr. Collins trên tay, ḿnh cảm thấy rất nghi ngờ v́ tài liệu toàn là giấy rời chứ không đóng thành sách, tài liệu của mỗi môn được tŕnh bày khác nhau, nhiều phần nh́n giống đánh từ máy đánh chữ ra, nhưng sau khi học và thi xong th́ ḿnh thấy đây là một tài liệu rất hữu ích. Bộ tài liệu cũng có nhiều câu hỏi luyện tập. Dr. Collins (The PCAT Prep Class) cũng có các lớp học trực tiếp ở một số thành phố như Miami, Las Vegas, Houston, v.v… với giá $695 cho lớp học 4 ngày.
Không có ǵ đến dễ dàng trên con đường học vấn. Ngoài tài liệu sách vở, quan trong nhất là công sức, thời gian, và sự kiên tŕ các bạn phải tự bỏ ra để hướng đến điểm cao như ư. Chúc các bạn may mắn!
T́m hiểu trường dược ở Mỹ- PharmD Step by step guide
Sau khi đọc thông tin khái quát ở T́m hiểu trường dược ở Mỹ- Bắt đầu từ đâu? và hỏi bản thân những câu tất yếu như ḿnh nêu trong blog Quyết định học dược- Hăy hỏi bản thân những điều này bạn đă sẵn sàng để bắt đầu? Nào, hăy cùng đi từng bước một nhé.
Vị trí địa lư có quan trọng với bạn không? Bạn thích ở tieu bang nào?
Nếu có người thân ở Mỹ và muốn ở tieu bang đó, hay biết ḿnh thích ở thành phố lớn, bờ Đông hay bờ Tây nhộn nhịp để dễ t́m việc thực tập, hay muốn ở chỗ rẻ hơn xa thành phố lớn và ở các bang giá cả dễ chịu hơn, đó đều là những yếu tố quan trọng nên cân nhắc.
Nếu không biết về bản đồ nước Mỹ và các bang nằm ở đâu, trang web của AACP có công cụ School Locator (www.aacp.org/resources/school-locator) mới khá là hữu dụng. Các con số trên bảng đồ là số lượng trường dược ở từng khu. Như trong h́nh, chỉ ở khu Đông Bắc Mỹ đă có đến 17 trường từ bang Massachusetts, New York (upstate và gần Manhattan), đến Pennsylvania, v.v. Ở bờ Tây và khu California có cả chục trường. Florida cũng 5 trường. Khu Ohio/Indiana cũng khá là nhiều.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.23.25 AM.png
Nếu muốn nh́n theo danh sách, trong file này- PharmD list– bạn sẽ t́m được một list các chương tŕnh PharmD theo tiểu bang từ A đến Z. Ở h́nh minh hoạ dưới, cột Location list tiểu bang, và bạn có thể t́m hiểu từng trường có chương tŕnh mấy năm, trường nào có chương tŕnh 0-6, trường nào yêu cầu bằng cử nhân, v.v.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.00.16 AM.png
Ngoài hai công cụ trên, AACP c̣n có School Directory (http://www.pharmcas.org/school-direc...al-information) để tham khảo. Ḿnh thấy trên list này có cái thú vị là có thể nh́n rơ trường nào được chứng nhận (Full accreditation), hay đang apply cho chứng nhận (Candidate- chắc là do mới mở, nếu vậy th́ chưa chắc có kinh nghiệm và tốt như các trường lâu đời), và có trường đang bị “probationary status” do bị sai phạm, hoặc trễ nải trong việc hoàn thành yêu cầu của chứng nhận và đang bị hưởng “án treo”.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.28.21 AM.png
Yêu cầu đầu vào (Admission Policies)
Trường có yêu cầu PCAT? Trường có nhận người nước ngoài (không phải trường nào cũng nhận)? Trường yêu cầu phải có các lớp khoa học nào? Trong file Admission policies bạn sẽ t́m được những thông tin đó, và cả tiền nộp đơn, deadline, v.v. Nhưng hăy lưu ư: file này là tổng hợp thông tin từ các trường, có thể sẽ không bao gồm update mới nhất, có thể không chính xác 100%. Bạn luôn cần truy cập vào trang web chính thức của trường để có thông tin mới và chính xác nhất.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.05.23 AM
Các lớp phải có khi nộp đơn vào trường (Pre-requisites)
Đây là yêu cầu chủ yếu dành cho những ai đă học 2 năm đại học hoặc 4 năm tốt nghiệp cử nhân và muốn nộp đơn vào học dược. Trường dược sẽ list pre-requisites gồm những lớp khoa học tự nhiên nào, bao nhiêu lớp, bao nhiêu tín chỉ, v.v. trong file này Pharmacy Schools Prerequisites 2017.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.12.42 AM.png
Screen Shot 2018-01-13 at 11.13.01 AM
Khác với các chương tŕnh này, chương tŕnh 0-6 thường nhận học sinh từ cấp 3 nên sẽ không có yêu cầu như vậy. Ḿnh nhắc lại lần nữa, những thông tin tổng kết ở đây có thể sẽ khác với thông tin chính thức từ trường. Hăy truy cập website và email admissions hỏi cặn kẽ nếu bạn có lo lắng vấn đề ǵ về pre-requisites. Họ thường rất gần gũi, muốn giúp đỡ và trả lời câu hỏi của bạn.
Tiền học phí của các trường
Tuy không phải là thông tin chính xác nhất, nhưng nh́n trong file này Tuition bạn có thể thấy được các trường mắc rẻ so với nhau như thế nào. Trường công state school/public school thường rẻ hơn trường tư private school cho người Mỹ (in-state vs out-of-state, ví dụ nh́n thử Florida A&M giá tiền học cho người ngoài bang cao gấp 3). Nhưng đối với sinh viên quốc tế th́ trường nào cũng đắt, tất cả đều lấy giá out-of-state. Có những trường học phí đến 70,000 một năm (ḿnh thấy hơi quá đáng), có thể là v́ nó là trường tư, và có trường gọi là “for-profit” th́ đắt hơn, khác với đa số các trường lâu đời thường là “non-profit”.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.34.35 AM.png
Đừng quá quan tâm đến ranking xếp hạng của trường
Pharmacy School Ranking Mọi người xem tham khảo, đây là bảng xếp hạng hơn 100 trường dược ở Mỹ có accreditation (được chứng nhận) từ Accreditation Council for Pharmacy Education (ACPE). Theo ḿnh, mọi người không nên quá chú trọng vào ranking, v́ cách thức ranking (methodology) để đưa ra thông số như thế này có thể không phù hợp với nhu cầu riêng của mỗi người.
Các trường top 3-5 th́ tất nhiên ấn tượng tốt, nhưng c̣n lại từ 10 đến cỡ 60-70 chẳng ai chú ư là cao hay thấp cả. Chỉ nên lưu ư các trường ranking chót bảng, hoặc quá mới (chưa có ai biết) hay trường không có accreditation. Công ty ḿnh hay các chương tŕnh fellowship hay residency tuyển người th́ từ đủ các trường khác nhau. V́ sinh viên vào được đến fellowship đă là crème de la crème (nôm na là “đỉnh của đỉnh”) rồi, th́ trường không quan trọng. Họ nh́n vào kinh nghiệm, thành tích, khả năng phỏng vấn và presentation, v.v. Giữa hai người cạnh tranh về mọi mặt, th́ thỉnh thoảng người ta mới phải hỏi đến điểm số GPA. C̣n khi apply cho residency th́ GPA và tên tuổi của trường đúng là quan trọng hơn, nhưng không phải là tất cả.
Tóm lại, chọn trường là việc rất riêng, phải phù hợp với bản thân sinh viên và gia đ́nh. Những yếu tố tối quan trọng là giá tiền học, khả năng chi trả, yêu cầu đầu vào, chất lượng, trường ở đâu (v́ nếu quá hẻo lánh, ít gần công ty hay bệnh viện có thể sẽ ảnh hưởng đến việc bạn đi thực tập, t́m việc làm theo hướng ḿnh muốn). Chúc các bạn t́m được ngôi trường ḿnh mong muốn.
Muốn t́m hiểu thêm thông tin, mọi người có thể truy cập trang web của American Associations of Colleges of Pharmacy
Nếu các bạn có câu hỏi th́ comment dưới hoặc Facebook Page của trang. Nếu có đăng lại bài, xin vui ḷng dẫn nguồn tên ḿnh và địa chỉ của trang. Cảm ơn mọi người đă theo dơi!
Quyết định học dược ở Mỹ- Hăy hỏi bản thân những điều này
Ở một bài trước T́m hiểu trường dược ở Mỹ- Bắt đầu từ đâu?, hi vọng các bạn và phụ huynh có một số thông tin khởi điểm để bắt đầu hành tŕnh t́m hiểu. Sau khi t́m hiểu sơ lược về trường dược ở Mỹ, bước tiếp theo là ǵ? Theo ḿnh, đó là nghĩ kĩ lại xem đây có phải là con đường ḿnh muốn theo đuổi hay không.
Thực tế
◾Ngành dược học lâu năm: từ 6-8 năm (tính cả cử nhân), nếu đă có cử nhân th́ có thể rút ngắn qua một số chương tŕnh nhanh ~ 3 năm
◾Ngành dược khá đắt đỏ, ít học bổng, học bổng giá trị nhỏ
◾Với t́nh trạng trường dược thi nhau mở và mọi người đổ đi học, trong tương lai có thể môi trường việc làm băo hoà
◾Ở Mỹ, nghề dược sĩ là con đường nhanh nhất giúp một người trẻ chạm đến mức lương “six figures” (trên 100,000 USD/năm)
◾Nghề dược sĩ là nghề được nhiều tôn trọng, công việc khá ổn định (tuy khi t́m việc có thể vất vả v́ cạnh tranh tăng cao)
◾Đối với sinh viên quốc tế ở Mỹ, khả năng t́m việc làm không bao giờ là chắc chắn, đặc biệc là trong môi trường chính trị hiện nay. C̣n tương lai th́ cực ḱ khó đoán
◾Lương bổng ở các nước khác nhau (không phải ở đâu dược sĩ cũng được 100,000 USD/năm)
V́ thực tế có nhiều pros and cons như vậy, ḿnh nghĩ ai cũng nên suy nghĩ về những câu hỏi dưới đây trước khi lựa chọn theo đuổi ngành học này ở Mỹ.
Ai chọn con đường dược sĩ? Bản thân hay ba mẹ?
Asian parentsḾnh đọc khá nhiều message của các bạn ở VN kể là em học v́ gia đ́nh khuyên, ba mẹ yêu cầu, học rồi thấy không phù hợp, chán, nản. Học dược ở Mỹ ḿnh nghĩ vất vả và tốn kém hơn nhiều. V́ vậy đừng để hoàn cảnh này xảy ra. Nhiều phụ huynh thấy công việc này “nhàn, lương cao” nên kêu con cái đi học. Người th́ nghĩ “con gái học dược cho sướng, học bác sĩ vất vả”. Đủ thứ lí do. Nhưng cuộc hành tŕnh này bạn sẽ là người phải bước qua, ba mẹ mất tiền túi thôi chứ không phải hằng ngày ra vào đối diện với trường lớp, thầy cô, bạn bè, hoàn cảnh xứ lạ quê người như bạn. Sau này ra đi làm ngành nghề này trong mấy chục năm cũng là bạn đi làm chứ không phải ba mẹ.
Giải pháp: Hăy thực tế, nghiêm túc bàn bạc với cả nhà về ư thích, dự định tương lai của bản thân. Tính toán kĩ về khả năng tài chính, khả năng trả nợ lại cho cha me. Ḿnh nói thật là ḿnh học rất vất vả, v́ chương tŕnh nặng và gánh nặng tài chính nhiều. Nếu không có sự ủng hộ của gia đ́nh, hoặc đam mê của bản thân th́ ḿnh không thể đi được xa như ngày hôm nay.
Dược sĩ sẽ có con đường sự nghiệp thế nào?
Đừng suy nghĩ đơn giản, chỉ nh́n gần mà không nh́n xa. Rất nhiều người nghĩ “ḿnh thích học ABC” hoặc “ḿnh thích làm XYZ” mà không lư luận được tại sao ḿnh thích ngành nghề hay ngành học đó. Thích mới chỉ là bước đầu thôi. Kiên tŕ, đam mê, cố gắng lê lết qua những đoạn không trải đầy hoa hồng là những điều tất yếu dẫn đến thành công ngoài “sự thích”.
Bạn có biết dược sĩ học ra làm ǵ? Có những mô h́nh làm việc nào? (Bệnh viện, nhà thuốc, công ty, nhà máy, agency, v.v.) Bạn nghĩ ḿnh thích học xong làm ǵ? Bạn có thích làm ở bệnh viện cả ngày không? Hay ngồi 1 chỗ trong công ty bên máy tính?
pexels-photo-127873.jpeg
Giải pháp: Hăy t́m hiểu những nguồn trên mạng về thông tin khái quát các mảng mà dược sĩ sẽ làm. Sau khi có tí định hướng, hăy nói chuyện trực tiếp với các anh chị trong ngành xem thật ra một ngày công việc của họ như thế nào, tại sao họ lại chọn hướng đi đó, có những ǵ họ thích hay không thích, v.v. Cái nh́n thực tế từ người đi trước sẽ giúp bạn định hướng rơ ràng hơn và biết cần chuẩn bị những ǵ khi dấn thân vào con đường này.
Học dược thật ra bao gồm những ǵ? Có như bạn tưởng tượng không?
Bạn thích hoá sinh không? Bạn có biết là học dược yêu cầu rất nhiều những môn phải học thuộc ḷng, đặc biệt trong những năm đầu tiên có những lớp khoa học khô như Hoá Hữu Cơ, Vật Lư, Pharmacology, phải vượt qua hết th́ mới đến được các lớp dược hấp dẫn hơn như Pharmeutics, Pharmacotherapy? Bạn nghĩ có đủ kiên tŕ để theo đuổi?
Giải pháp: Hăy t́m hiểu ví dụ của chương tŕnh học dược. Vào thử một số trang web của các trường dược và t́m xem curriculum gồm những lớp học nào, vào năm thứ mấy. Sau đó google t́m hiểu về các môn học này xem nó nghĩa là ǵ, có giống như bạn nghĩ hay không. Có một khái niệm cơ bản sẽ giúp bạn đỡ bỡ ngỡ. Đối với ḿnh là người thích học khoa học tự nhiên, ḿnh không lo lắng lắm. Nhưng đối với những bạn không chắc ḿnh có thích các môn này không th́ nên t́m hiểu.
Đối với bản thân, học xong bạn sẽ làm ǵ? Mất bao lâu mới trả nợ tiền học?
Đây là câu hỏi không đầy mơ mộng, nhưng rất cần thiết. Không ai nên lao đầu vào học mà không biết tương lai tới đâu. Học dược là một quá tŕnh đầu tư lớn, rất ít học bổng, học bổng giá trị rất ít. Làm sao gia đ́nh hay bản thân bạn có thể trả hết 100-200 ngh́n đô? Đối với sinh viên quốc tế, việc đi làm cũng chứa nhiều bấp bênh, không chắc chắn sẽ t́m được visa, có t́m được th́ không chắc sẽ được xổ số, kế hoạch B của bạn là ǵ? Đừng để nợ dí sát nút, hăy liệu cơm gắp mắm và bày ra kế hoạch cẩn thận cho tương lai. Tất nhiên đừng để nỗi sợ khiến chúng ta không dám làm ǵ hết. Ư ḿnh chỉ là phải suy nghĩ thấu đáo, tránh t́nh trạng bước tới đâu lo tới đó.
numbers-money-calculating-calculation.jpg
Giải pháp: Thay v́ chỉ suy nghĩ trong đầu, hăy vẽ ra thử các scenario có thể xảy ra. Nếu bạn đi làm ở Mỹ, nếu làm ở nước khác như Canada hay Singapore, c̣n về VN làm lương bổng cuộc sống thế nào, nếu học 2 năm mà không thích th́ làm ǵ, đổi ngành được không, đổi sang ngành ǵ, v.v. Nếu bạn trả lời đơn giản được hết các scenario đó ḿnh sẽ làm ǵ, tài chính như thế nào, làm sao đối phó với cuộc sống th́ bạn đă suy nghĩ thấu đáo về việc này rồi.
Thông số năm 2014 về Pharmacy Education ở Mỹ
Student Pharmacist QA-flyer
Student Pharmacist QA-flyer Page 2.png
Nếu các bạn có câu hỏi th́ comment dưới hoặc Facebook Page của trang. Nếu có đăng lại bài, xin vui ḷng dẫn nguồn tên ḿnh và địa chỉ của trang. Cảm ơn mọi người đă theo dơi!
Du học ở Mỹ- Ngoài học dược PharmD c̣n các ngành sức khoẻ nào?
Trong bài trước, ḿnh có bàn về các lựa chọn du học ở Mỹ dành cho dược sĩ đă tốt nghiệp hoặc đang học ở Việt Nam qua Du học ở Mỹ- Lời khuyên cho ai học nửa chừng ở Việt Nam, chuẩn bị đi định cư, muốn chuyển ngành, v.v. và Hành nghề ở Mỹ – Con đường nào cho dược sĩ đào tạo ở Việt Nam? C̣n những bạn đang học đại học nửa chừng những ngành khác, nhưng yêu thích công việc liên quan đến sức khoẻ th́ sao? Một t́nh huống hay gặp khác là những bạn chuẩn bị theo gia đ́nh đi định cư ở Mỹ nên học dở dang hay muốn chuẩn bị cho vài năm tới. Đây là những lời khuyên của ḿnh.
Bạn đă cân nhắc các ngành liên quan đến sức khoẻ khác chưa?
Đối với những người đi định cư, đa phần đó là một cơ hội tốt. Không những đổi đời, cơ hội kiếm tiền mở rộng, mà c̣n có thể suy nghĩ lại về ngành nghề ḿnh đă chọn. Có thể bạn nghĩ thích học dược, nhưng đó là v́ bạn không biết có nhiều ngành khác để học và hành nghề. Ḿnh gợi ư một số ở đây để các bạn t́m hiểu.
Nursing- Y tá
Khác với ở VN, y tá ở đây là một ngành được tôn trọng rất cao, được bệnh nhân và bác sĩ hết mực tin tưởng. Học y tá tốn khoảng 4-5 năm trong chương tŕnh đại học. Tuy một số thành phố lớn băo hoà việc làm, nhưng những nơi hẻo lánh hơn vẫn cần y tá. Và nh́n chung y tá vẫn là một nghề có thể t́m việc tốt.
nurse .jpg
Y tá ở Mỹ là cánh tay phải của bác sĩ trong việc chăm sóc bệnh nhân, theo dơi bệnh t́nh và ghi chú hằng ngày. Y tá là một phần quan trọng không thể thiếu trong ngành sức khoẻ. Ngoài việc làm y tá chung, bạn c̣n có thể đi theo những chương tŕnh tu nghiệp chuyên sâu hơn, như làm y tá ung thư, y tá phụ khoa, y tá quân đội, v.v. Thông tin về các lựa chọn chuyên sâu specialization của y tá có thể được t́m thấy ở đây- www.nurse.org/resources/
Một số y tá c̣n có công việc gọi là “travel nurse”, di chuyển từ bang này sang bang khác, thành phố này sang thành phố khác và làm việc trong khoảng thời gian nhất định cỡ 3 tháng- 6 tháng. Công việc này thích hợp với những ai thích di chuyển, thăm thú nơi mới, trong khi vẫn được làm công việc ḿnh yêu thích. Bạn có thể tham khảo thêm thông tin trên trang web này- http://www.travelnursing.org
Nurse Practitioner (NP)
ANS-Practitioner-Hero-mobile.jpgNurse practitioner là y tá với nhiều trách nhiệm và quyền hạn hơn trong việc chăm sóc bệnh nhân cùng với bác sĩ. Họ có thể chẩn đoán bệnh, kê toa, và theo dơi bệnh nhân nếu được sự cho phép và làm việc chung với bác sĩ. V́ là công việc chuyên sâu hơn y tá b́nh thường, được trả lương cao hơn, nên đ̣i hỏi phải học thêm và được chứng nhận đi làm.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân làm y tá, bạn có thể học lên thạc sĩ khoảng 2 năm để trở thành NP sau khi được chứng nhận đi làm. V́ thời gian học tổng cộng ít hơn so với bác sĩ, nhưng vẫn được làm những công việc tương tự như bác sĩ (nhất là chẩn đoán, kê toa) nên đây là con đường đi cũng khá hấp dẫn với nhiều người. Bạn có thể tham khảo thêm thông tin trên trang web này- www.nurse.org/resources/nurse-practitioner/
Physician Assistant (PA)
Đây là một công việc khá mới so với y tá, dược sĩ. Với số lượng bác sĩ không đủ chăm sóc cho người già ngày một nhiều ở Mỹ, Physician Assistant đang có cơ hội t́m việc làm cũng khá ok, công việc không vất vả như bác sĩ, cũng được tiếp xúc chăm sóc bệnh nhân và kê toa nếu có sự hướng dẫn của bác sĩ. Học làm Physician Assistant là chương tŕnh thạc sĩ, mất khoảng 2 năm, và phải có một số kinh nghiệm cũng như tín chỉ nhất định trước khi nộp đơn. Bạn có thể t́m hiểu thêm thông tin ở trang web này- www.aapa.org/what-is-a-pa/
grad-physician-assistant-01-min.jpg
Sinh viên học ngành sức khoẻ được thực hành trên mô h́nh giống người thật (dummy)
Physical Therapist (PT)
Ở Mỹ, nhân viên y tế làm vật lí trị liệu- Physical therapist hay PT- cũng là một ngành phổ biến, nhưng ít người biết và đổ xô đi học nhiều như ngành dược. Physical therapist có vị trí quan trọng trong healthcare team, v́ họ giúp rất nhiều bệnh nhân– từ những bệnh nhân hậu phẫu cần phải làm quen với công việc hằng ngày và giúp cơ thể lành lại nhanh, đến vận động viên hay những ai chơi thể thao bị chấn thương, đến cả những bệnh hiện đại ngày nay như ngồi máy tính quá nhiều bị chấn thương tay hay cột sống.
PT.jpg
Bạn cùng pḥng ở đại học của ḿnh theo ngành này, học cũng cần Doctor of Physical Therapy (DPT), là bằng chuyên nghiệp để hành nghề, không phải tiến sĩ. Học PT cũng cần nhiều năm như dược sĩ- y tá, và phải có giấy phép hành nghề. Lương PT khác tốt, và nếu bạn yêu thích việc chăm sóc sức khoẻ cho người khác, đây cũng là con đường có thể cân nhắc. Bạn có thể t́m hiểu thêm thông tin ở trang web này- http://www.apta.org/PTCareers/Overview/
Master of Public Health (MPH)
Trong các ngành sức khoẻ, Master of Public Health là một bằng khá phổ biến giống MBA trong các ngành kinh doanh, để quản lư bệnh viện chẳng hạn. MPH cũng có nhiều mảng chuyên, theo ḿnh hăy chú trọng các mảng như Health Economics & Outcomes, Epidemiology, thiên về analytics và học cách design và chạy study. Học MPH mà chuyên về Communications cũng không có lợi cho lắm.
MPH.jpg
Một số ví dụ về chuyên ngành của bằng Master of Public Health
Bác sĩ hay y tá học MPH để quản lư bệnh viện hay clinic, MPH cũng có thể vào làm trong công ty dược và các công ty liên quan, v́ Health Economics & Outcomes Research là một mảng hot trong y tế ở Mỹ. MPH làm công việc nghiên cứu data xem các thuốc so sánh với nhau như thế nào về giá trị kinh tế, sự hữu hiệu, sự an toàn, để thuyết phục bảo hiểm chịu trả tiền cho thuốc
Tóm lại
Theo ḿnh, không có con đường ngành nghề nào “dễ ăn” học ít mà làm sướng lương cao. Nếu đi định cư ở Mỹ, đây là cơ hội để học tập và chứng minh bản thân. Công việc làm ở Mỹ dựa vào khả năng nhiều hơn quen biết so với ở Việt Nam. Tuy quen biết th́ ở đâu cũng tốt, nhưng nếu không có thực lực bằng cấp th́ không thể thành công ở Mỹ. Môi trường này rất thích hợp cho người chịu khó và chăm chỉ học tập lao động. Hăy t́m hiểu và suy nghĩ thật kĩ về những ǵ ḿnh thích và muốn gắn bó cả đời nhé.
Hi vọng thông tin trên giải đáp phần nào và gợi ư thêm nguồn để t́m hiểu. Mọi người nên tự t́m hiểu cho bản thân, nếu có câu hỏi cho ḿnh sau khi nghiên cứu thông tin th́ nên cụ thể để ḿnh trả lời được chính xác qua comment dưới hoặc Facebook Page của trang. Nếu có đăng lại bài, xin vui ḷng dẫn nguồn tên ḿnh và địa chỉ của trang. Cảm ơn mọi người đă theo dơi!
Du học ở Mỹ- Lời khuyên cho ai học nửa chừng ở Việt Nam, chuẩn bị đi định cư, muốn chuyển ngành, v.v.
Trong một bài trước, ḿnh có bàn về Hành nghề ở Mỹ – Con đường nào cho dược sĩ đào tạo ở Việt Nam? đối với những ai đă học xong dược sĩ ở Việt Nam rồi. C̣n những bạn đang học đại học nửa chừng th́ sao? Học dược hay các ngành khác muốn chuyển qua dược? Một t́nh huống hay gặp khác là những bạn chuẩn bị theo gia đ́nh đi định cư ở Mỹ nên học dở dang hay muốn chuẩn bị cho vài năm tới. Đây là những lời khuyên của ḿnh.
Tiếng Anh, tiếng Anh, tiếng Anh
Đừng lo lắng qua đây học Toán Lư Hoá ra sao, khi chưa qua th́ ngồi ở nhà lo lắng cũng không ích lợi ǵ nhiều. Những môn này qua đây có trường lớp, hoàn cảnh bắt buộc ḿnh phải học được hết. C̣n nếu bạn ngại là ở VN học ở các môn tự nhiên, thật ra hệ thống giáo dục ở Việt Nam nó khác, và khắt khe hơn nhiều, học thuộc ḷng ít vận dụng nên người b́nh thường cũng tưởng ḿnh học kém.
pexels-photo-247819.jpeg
Cái bạn cần lo trước ở nhà là khả năng tiếng Anh! V́ dù bạn có giỏi các môn khác ở Việt Nam thế nào mà qua đây vào lớp không hiểu ǵ hết th́ sẽ thi không được, học không lại, làm việc nhóm không ra đâu. Hồi cấp 2 ḿnh học chuyên Anh, trước khi đi du học sợ là qua đây ai cũng nói tiếng Anh rồi ḿnh chuyên ǵ..? Nhưng nhờ vốn tiếng Anh cứng cáp, ḿnh mới học theo kịp các bạn Mỹ trong tất cả các môn và đạt điểm trung b́nh đầu khoá. Nhờ có tiếng Anh bạn cũng sẽ dễ hoà đồng hơn, giúp hộ nhập cuộc sống văn hoá ở Mỹ nhanh hơn, tiện lợi cho cuộc sống và sức khoẻ của bản thân.
Có nên học tiếp và học xong đại học ở Việt Nam?
pexels-photo-356086.jpeg
Theo ḿnh nếu bạn đă học gần xong, và có thời gian học hết đại học trước khi đi định cư th́ là một kế hoạch tốt. Khi đă có bằng Bachelor’s Degree, dù là ở một nước khác, th́ nó cũng gọi là có tấm bằng trong mắt các trường ở Mỹ hay nhà tuyển dụng. Qua đây có thể người ta nh́n tấm bằng và học bạ rồi yêu cầu bạn học lại/học thêm một vài lớp, vẫn đỡ hơn là chỉ có tấm bằng tốt nghiệp cấp 3. C̣n nếu chỉ mới vừa đi học, th́ qua đây học lại để lấy bằng ở Mỹ sẽ tiện hơn.
T́m hiểu ngành ḿnh ưu thích và các yêu cầu đi học
Nếu có ư định đổi ngành hay học lên thạc sĩ, bạn nên dành thời gian học tiếng Anh thật tốt và t́m hiểu về con đường phía trước. Học thạc sĩ ở Mỹ thường đ̣i hỏi phải vượt qua ḱ thi GRE, hay học MBA th́ cần GMAT, học luật th́ cần LSAT, học dược cần PCAT, y cần MCAT. Nếu có ư định đi học, bạn có thể t́m hiểu về các cuộc thi này để chuẩn bị. Các loại thi này thường không chú trọng vào kiến thức cứng, mà về kĩ năng lí luận, logic, làm toán cơ bản, và rất nhiều tiếng Anh. Ḿnh nhắc lại lần nữa- Học tốt tiếng Anh không bao giờ là thừa!
Một điều cần lưu ư nữa là môi trường Mỹ, người Mỹ vô cùng tự thân vận động. Ở đây không có các lớp học thêm nhan nhản như ở VN, thầy cô bảo ǵ làm đó, dạy ǵ biết đấy thôi. Ở đây học thêm đắt đỏ, và theo ḿnh trừ khi cần thiết lắm th́ mới phải đi học thêm. V́ mọi người hoàn toàn có thể tự học để thi các ḱ thi này đến một kết quả tốt nhất định, học thêm có thể giúp bạn đạt được tầm cao mới hơn, nhưng không phải là bắt buộc để thành công.
Các lớp học thêm không chính thức ở Mỹ
Có nhiều người không biết là một số trường đại học và cao đẳng cộng đồng ở đây có các chương tŕnh ban đêm hay vào mùa hè. Bạn không bắt buộc phải là sinh viên chính thức học lấy bằng, có thể học lấy chứng nhận hay lấy từng lớp. Đối với những ai đă tốt nghiệp đại học ở VN qua đây chưa biết muốn làm ǵ, học lại ở đâu, th́ có thể t́m hiểu và học qua các lớp này.
Screen Shot 2018-01-15 at 7.18.11 PM.png
Ở Boston ḿnh biết như trường ḿnh có Northeastern University College of Professional Studies, hay Harvard University có Harvard Extension School. Nhiều dạng người học theo chương tŕnh này:
◾Thi rớt các lớp trong trường đại học chính nhưng mùa hè trường không có offer lớp đó, thay v́ chờ sang năm sau chậm trễ việc học th́ đi học bù lấy được tín chỉ. Lúc học dược bạn ḿnh có người rớt và đi học chữa cháy kiểu này
◾Những người đă tốt nghiệp đai học muốn chuyển ngành hay chuẩn bị vào trường y (premedical), trường dược, học cao học nhưng chưa đủ pre-requisites nên đi học thêm cho đủ trước khi nộp đơn. Bạn ḿnh có anh kĩ sư muốn thi vào trường y nên đi học thêm để hoàn thành pre-requisite ở Harvard.
◾C̣n nhiều lí do khác có thể ḿnh không biết, như là thích th́ đi học cho biết 1, 2 lớp
Điều cần lưu ư là tuỳ bang, tuỳ trường, đôi khi trường đại học bạn muốn vào không nhận tín chỉ từ trường cao đẳng cộng đồng. Trước khi học bạn nên t́m hiểu kĩ, tránh việc học công cốc rồi phải học lại.
Tạm kết- Hăy chuẩn bị cho cuộc sống mới
Môi trường ở Mỹ rất thích hợp cho người chịu khó và chăm chỉ học tập lao động. Nếu được đi du học hay định cư, đây là một khởi đầu mới. Tuy sẽ có nhiều khó khăn thử thách, nhưng nó sẽ hoàn toàn thuộc vào khả năng và ư chí của bạn. Ở đây người ta không quan tâm gia thế, quen biết, con ông cháu cha nhiều như ở quê nhà, tương lai nằm trong tầm tay bạn. Hăy tận dụng cơ hội và đạt được những ǵ bạn mơ ước.
Nếu các bạn có câu hỏi th́ comment dưới hoặc Facebook Page của trang. Nếu có đăng lại bài, xin vui ḷng dẫn nguồn tên ḿnh và địa chỉ của trang. Cảm ơn mọi người đă theo dơi!
So sánh hai kiểu trường dược ở Mỹ: PharmD 0-6 và 4 năm sau cử nhân
Sau khi giới thiệu T́m hiểu trường dược ở Mỹ- PharmD Step by step guide, ḿnh sẽ làm thử ví dụ của việc t́m hiểu chương tŕnh 0-6 và chương tŕnh 4 năm sau cử nhân cho mọi người dễ h́nh dung.
Ḿnh sẽ lấy ví dụ là trường Northeastern University ḿnh từng học. Sau khi Google ra trang web của trường và chọn chương tŕnh PharmD, bạn sẽ thấy trường list 2 lựa chọn:
◾Bạn là học sinh cấp 3 (high school student) nộp thẳng vào chương tŕnh 0-6: cần những ǵ trong đơn qua Common App, Coursework chương tŕnh học có các lớp nào, làm sao để đến thăm trường, v.v.
◾Bạn đă tốt nghiệp cử nhân và có đủ các pre-requisites: bạn có thể apply qua PharmCAS để vào chương tŕnh dược
Screen Shot 2018-01-13 at 11.43.40 AM.png
Muốn apply vào trường cần những ǵ?
Đi tiếp vào Fall ’18 Admission tab, bạn sẽ thấy trường list các requirement cho học sinh Mỹ, sinh viên transfer từ trường đại học khác vào, và sinh viên quốc tế cần thêm những ǵ. Đối với học sinh cấp 3 vào chương tŕnh 0-6, quá tŕnh nộp đơn qua Common App rất giống với các trường đại học khác. Ḿnh nộp đơn học đại học cũng 10 năm trước rồi, nên có thể vài thứ thay đổi. Mọi người nên t́m hiểu kĩ, qua college counselor ở trường cấp 3 bên Mỹ hoặc những trung tâm du học đáng tin cậy.
Nếu trường có information session online, hay nếu bạn ở gần trường và có thể đến thăm những dịp Open House th́ nên đi để trực tiếp thấy campus, nghe từ các bạn sinh viên và thầy cô trong trường. Như ḿnh đă nói, Admissions của trường thường rất cởi mở và sẵn ḷng giúp trả lời câu hỏi về những thông tin bạn không t́m được trên mạng.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.46.37 AM.png
Tiền học phí và các loại phí khác- Tuitions & fees
Northeastern là private school nên học phí vô cùng đắt đỏ, đây là c̣n chưa tính tiền ăn ở (tham khảo giá tiền ăn ở tại LINK này). Từ lúc ḿnh học đến bây giờ nh́n học phí tăng ḿnh c̣n thấy chóng mặt. Ngoài học phí, bạn cũng phải lưu ư các loại tiền phí khác, tất cả công lại cũng kha khá đó.
◾Undergraduate full time: $24,280 per term (1 năm khoảng 2 term th́ gần $50,000)
◾PharmD 6th year (bắt đầu từ mùa hè): $14,875 per term (1 năm đi làm APPE tính khoảng 3 terms)
◾Direct Entry graduate: $24,280 per term
Screen Shot 2018-01-13 at 12.46.17 PM.png
Chương tŕnh học dược gồm những lớp ǵ? Pharmacy curriculum
Ở Northeastern, chương tŕnh 0-6 gọi là Early Assurance, nghĩa là sau 2 năm th́ không phải apply lại để chính thức vào chương tŕnh dược. Hai năm đầu gọi là pre-pharmacy (hay Freshman và Sophomore), bao gồm những lớp cơ bản về khoa học tự nhiên, lớp College Writing học viết tiếng Anh, toán Calculus, và vài lớp giúp các bạn làm quen với môi trường đại học như College: An Introduction.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.49.42 AM.png
Ở Northeastern, chương tŕnh sau cử nhân gọi là Direct Entry, bao gồm 4 năm Professional (P1-P4). Các lớp này là chuyên sâu vào ngành dược như Pharmaceutics, Pharmacology/Medicinal Chemistry chứ không c̣n là đại cương.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.54.16 AM.png
Năm cuối cùng Professional Year 4 (P4) th́ từ mùa hè mọi người để phải đi thực tập Advanced Practice Experience (APPE) trọn 1 năm. Mỗi trường sẽ có kết cấu APPE khác nhau, như Northeastern là một block dài 6 tuần, trong 1 năm bạn sẽ làm khoảng 6 block và nghỉ 1 block. Ḿnh thấy các trường khác có thể dài từ 4-5 tuần. Đa số các chương tŕnh đều có các nơi thực tập bắt buộc như là
◾Retail: nhà thuốc, đứng trong nhà thuốc học theo dược sĩ nhận đơn, ra thuốc, đưa lời khuyên cho bệnh nhân
◾Hospital/clinical: lâm sàng trong bệnh viện. Bạn sẽ đi theo nhóm bác sĩ dược sĩ “rounding” mỗi sáng sớm thăm các bệnh nhân họ theo dơi, t́m hiểu thông tin thuốc của bệnh nhân và đưa ra lời khuyên cho bác sĩ có nên đổi thuốc không, v.v.
◾Ambulatory care: Ḿnh không biết bây giờ thế nào, nhưng lúc ḿnh học có bắt phải làm ambulatory care, nghĩa là giữa giữa nhà thuốc và bệnh viện. Đây thường là những clinic nhỏ, bệnh nhân thường mắc bệnh măn tính không nghiệm trọng (như tiểu đường, cao huyết áp, mỡ cao, uống thuốc chóng đông máu) đến theo dơi thường xuyên. Bạn sẽ học được cách theo dơi các bệnh này, đọc sơ đồ thử máu, đưa ra lời khuyên chỉnh sửa thuốc
◾Electives: Tự chọn. Thường là có 1 tự chọn chuyên sâu trong bệnh viện: bệnh tim, bệnh ung thư, nhi khoa, phẫu thuật, v.v. Ḿnh chọn thực tập về bệnh truyền nhiễm v́ thích mảng này. Ngoài ra, elective có thể là thực tập ở các công ty dược.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.57.00 AM.png
Các yếu tố hấp dẫn khác của trường: IPPE và Co-op
Trước khi đi thực tập APPE ở năm cuối, sinh viên dược phải hoàn thành IPPE trong quá tŕnh học để quan sát và t́m hiểu về công việc thật sự của dược sĩ. Tùy trường mà chương tŕnh IPPE được thiết kế khác nhau. Đa số sinh viên phải đi thực tập trong nhà thuốc hay bệnh viện, do trường giới thiệu hoặc tự t́m. V́ sinh viên vẫn c̣n học những lớp căn bản nên vẫn chưa thể làm việc ǵ nhiều trong thời gian ngắn khoảng vài tuần. Nhiều phần là đi theo học hỏi (shadow) từ những dược sĩ ở nhà thuốc hay bệnh viện và làm những việc họ giao. IPPE cũng ít khi được trả lương, trừ khi làm pharmacy intern ngoài giờ học. Mỗi trường và mỗi bang đưa ra quy định khác nhau về việc sinh viên cần phải hoàn thành bao nhiêu giờ của IPPE để được học tiếp và tốt nghiệp.
Northeastern University có sẵn mô h́nh cooperative education (co-op) cho tất cả các ngành, và ngành dược áp dụng chương tŕnh này cho IPPE. Trong những ngành khác, sinh viên đi học 1 năm đầu rồi bắt đầu đi làm thực tập co-op 6 tháng. Trong chương tŕnh PharmD, co-op sinh viên đi làm 3 lần, mỗi lần 4 tháng thay v́ được nghỉ hè (đúng vậy, sau năm đầu tiên th́ tụi ḿnh không hề được nghỉ hè cho đến năm cuối cùng!). Quy định của trường là sinh viên phải hoàn thành 1 ḱ thực tập là pharmacy intern ở nhà thuốc (retail pharmacy), 1 ở bệnh viện (institutional pharmacy), và 1 ḱ tự do (elective). Tùy theo luật của Board of Pharmacy ở mỗi bang mà quy định về pharmacy intern khác nhau.
Các bạn có thể t́m hiểu thêm về APPE qua bài viết trước của ḿnh Dược sinh thực tập (Phần 1): IPPE và APPE là ǵ?
Tóm lại, điểm khác biệt lớn nhất giữa chương tŕnh 0-6 và sau cử nhân là bạn tiết kiệm được 2 năm nếu đi thẳng, và lấy cùng 1 tấm bằng PharmD. Đây là option lư tưởng cho những ai biết chắc ḿnh muốn học dược từ khi c̣n là học sinh cấp 3, muốn đi thẳng một lèo học cho xong. C̣n nếu chưa chắc th́ nên t́m hiểu thêm, v́ trong 2 năm đầu th́ có thể transfer nếu bạn không thích dược và các tín chỉ khoa học tự nhiên có thể áp dụng cho những ngành liên quan. Nhưng từ năm 3-6 th́ transfer ra các ngành khác các tín chỉ của bạn chẳng dùng được đâu v́ nó chuyên môn dược.
Nếu có câu hỏi ǵ, mọi người cứ comment phía dưới hoặc Like và post trên Facebook Page của trang để ḿnh trả lời hoặc sẽ viết một blog khác đầy đủ hơn nếu vấn đề được nhiều người quan tâm.
Những điều cần biết để trở thành Dược Sĩ ở Mỹ?!
/Home
/Chuẩn bị Hồ sơ
/Những điều cần biết để trở thành Dược Sĩ ở Mỹ?!
Tháng Sáu 13, 2018 |
Chuẩn bị Hồ sơ, Du học, Tin tức
1. Dược Sĩ Mỹ học bao lâu? Một SV mất 8 năm sau phổ thông trung học để trở thành DS đa khoa hoặc 9-10 năm để trở thành DS chuyên khoa. Để vào trường Dược Khoa, các SV thường phải tốt nghiệp ĐH 4 năm, thi PCAT (Pharmcy College Admission Test) điểm cao, làm thiện nguyện, phỏng vấn và được nhận vào trường Dược Khoa.
Có tổng cộng 153 trường Nha Khoa tại Mỹ đào tạo Văn bằng Tiến Sĩ Dược Khoa (Doctor of Pharmacy). Chương tŕnh PharmD thường kéo dài 4 năm. Trong 2 năm đầu dược khoa khoa, các SV học về lư thuyết, 2 năm cuối là thực tập bao gồm 1 năm internship. SV ra trường với bằng PharmD có quyền thi chứng chỉ hành nghề và được công nhận danh xưng là dược sĩ.
Năm 1965, trường ĐH Nam California là trường đầu tiên tại Mỹ đưa ra văn bằng Doctor of Pharmacy song song với chương tŕnh Doctor of Medicine nhằm nhấn mạnh vai tṛ và đào tạo DS chuyên ngành, để thay cho bằng Bachelor of Pharmacy hoặc BS in Pharmacy. Đến năm 2000, tất cả các trường Dược tại Mỹ đều đào tạo văn bằng Doctor of Pharmacy.
Có một số trường Dược tại California không cần điểm MCAT và xét tuyển theo điểm GPA và bài luận văn. Đặc biệt,có một số trường kết hợp 2 năm ĐH + 4 năm PharmD thành chương tŕnh 6 năm dành cho học sinh phổ thông. Học cách này sẽ rút ngắn lại 2 năm so với chương tŕnh 4+4 thông thường.
Sau khi ra trường với bằng PharmD và thi đậu Hội Đồng Dược Khoa (Board of Pharmacy), các Dược Sĩ có thể làm DS nhà thuốc (như nhà thuốc CVS, Walgreen, hoặc Walmart). Trong khi đó, để làm DS lâm sàng (clinical pharmacist) trong bệnh viên đ̣i hỏi các DS phải làm thêm ít nhất một năm nội trú dược khoa.
2. Chuyên khoa sâu cùa ngành Dược khoa và các lựa chọn nghề nghiệp khác: Khoảng 60% sinh viên tốt nghiệp trường Dược tiếp tục làm nội trú dược khoa, đa số là nội trú tổng quát tại bệnh viện để trở thành DS lâm sàng. Chương tŕnh nội trú thường kéo dài một năm. Sau chương tŕnh nội trú, các DS có thể tập trung vào một số chuyên khoa sâu hơn như tim mạch, ung thư, truyền nhiễm, nhi khoa, vv.. Sau khi xong nội trú (1 năm) và nghiên cứu chuyên sâu (1-2 năm) th́ DS có quyền thi chuyên khoa sâu (Board of Specialty) và được chứng nhận chuyên khoa. Nhiều DS sau khi tốt nghiệp hoặc nội trú chọn làm cho các công ty Dược phẩm về nghiên cứu và chế tạo thuốc (R&D) với thu nhập cao và ổn định. Một số các DS cũng làm tư vấn (Consultant). Nhiều văn bằng và chương tŕnh học song song với ngành Dược ra đời như MBA/PharmD, PhD/PharmD tương tự như bên y khoa.
3. Dược Sĩ ngày càng lấn sân Bác Sĩ: V́ cách phát triển chương tŕnh dược khoa và đào tạo gần như song song với y khoa (chương tŕnh Doctorate + nội trú), ngành dược khoa đă đi một bước dài trong việc dưa DS tiến gần đến vị trí của BS (và có thể thay thế BS gia đ́nh sau này). Hiện nay, nhiều pḥng khám chuyên về thuốc (kiểm tra thuốc chống máu đông, theo dơi thuốc, hoặc chính ngừa bệnh) tại Mỹ do DS chuyên trách. Các tổ chức Dược Khoa tại Mỹ rất mạnh trong việc vận đồng hành lang Washington để chấp thuận các luật có lợi cho DS.
Hiện tại, Nghề DS tại Mỹ được xem là một trong những nghề tốt nhất tại Mỹ do lương cao, lối sống tốt, và công việc ổn định. Ngành này cũng được nhiều bạn nữ chọn hơn so với ngành Y do học và làm ít cực hơn.
C̣n ǵ tuyệt hơn khi được ôn tập SAT và ACT trên những phần mềm tṛ chơi thú vị ngay trên chính chiếc smartphone của bạn? Hăy cùng t́m hiểu 5 ứng dụng miễn phí nhưng không hề kém “xịn ṣ” để luyện tập kiến thức cho bài test SAT/ACT sắp tới nào!
Slogan của Khan Academy là “cung cấp phương pháp học tập miễn phí cho bất kỳ ai, ở bất kỳ đâu”. Chính v́ vậy, thí sinh dễ dàng t́m kiếm những bài giảng trực tuyến và đề thi SAT/ACT thử miễn phí trên trang web này.
ACT Flashcards của Magoosh do chính các chuyên gia về ACT thiết kế sẽ giúp bạn ghi nhớ những kiến thức tiếng Anh, toán, khoa học để ghi điểm trong ḱ thi này. Ứng dụng này được lập tŕnh bằng thuật toán thông minh giúp người học xác định những phần c̣n yếu và tập trung cải thiện điều đó.
3. Daily Practice for the New SAT from the College Board
Phần mềm giúp bạn củng cố kiến thức SAT/ACT ở bất cứ đâu. Phần mềm do chính những người ra đề thi SAT thiết kế nên người học có thể luyện tập những bộ đề giống với đề thi thật. Đặc biệt, ngân hàng đề sẽ gửi cho người học những câu hỏi phù hợp với khả năng để bạn luyện tập mỗi ngày. Ứng dụng này cũng sẽ theo dơi và thống kê tiến độ học tập từng ngày của bạn và gợi ư bạn cách cải thiện các kỹ năng c̣n yếu.
The Grading Game được thiết kế theo dạng tṛ chơi giúp người học t́m ra những lỗi sai thường gặp trong Writing của SAT và phần ngữ pháp của ACT. Bạn có thể luyện tập với nhiều độ khó khác nhau dưới áp lực thời gian như trong lúc thi thật.
Ứng dụng Math Brain Booster tăng cường tập trung, phản ứng và sự nhanh nhạy bằng cách yêu cầu người học giải quyết các câu hỏi toán trong một khoảng thời gian nhất định. Người học sẽ được tham gia nhiều tṛ chơi vui nhộn, đơn giản và rất hiệu quả để luyện tập bài thi chuẩn.
Chúc bạn ôn thi SAT/ACT hiệu quả và đạt điểm cao!
Tỉ lệ đỗ Đại học Mỹ dựa vào điểm SAT!
Dưới đây là một thống kê tương đối của Niche về tỉ lệ được nhận vào các nhóm trường Đại học theo số điểm SAT bạn đạt được. Các nhóm trường này bao gồm cả trường công và trường tư. Thống kê chủ yếu phục vụ cho học sinh ở Mỹ nhưng các ứng viên
Nếu bạn muốn học tập tại Mỹ: Trang trải chi phí của chương tŕnh cao học
Du học ngành Dược tại Mỹ qua lời kể của 1 Dược sĩ
Đăng ngày: 09/01/2019
[Du học ngành Dược tại Mỹ]
Có nhiều bạn nhắn tin hỏi ḿnh chuyện học dược ra sao, làm sao để vô trường dược, hỏi đủ thứ. Mà ḿnh thấy ngành dược ngày càng băo hoà, trong khi học phí ngày càng tăng, nên ḿnh không biết trả lời các bạn đó ra sao. Hôm nay nhân một lư do đặc biệt, nên ḿnh viết tạm, nhớ ǵ viết nấy, cũng có nhiều chuyện ḿnh quên mất rồi. Mong là giải đáp được thắc mắc của mọi người.
Ḿnh qua Mỹ năm 25 tuổi, bận rộn nghỉ ở nhà sinh con mất vài năm. Năm 28 tuổi mới bắt đầu khăn gói quả mướp quay lại trường học Dược. Hy vọng kinh nghiệm đau thương của ḿnh giúp được cho các bạn c̣n đang “phân vân đứng giữa đôi ḍng nước”, không biết có nên học Dược hay không có quyết định đúng đắn nha.
Nhiều người thường lầm tưởng công việc tương lai của các dược sĩ chỉ là bán thuốc. Bệnh nhân ḿnh c̣n tưởng ḿnh bán khoai tây chiên ở McDonald’s nữa cơ, có mỗi việc đếm thuốc bỏ vô lọ mắc mớ ǵ bắt người ta chờ lâu vậy, chiên khoai tốn có 5 phút thôi mà.
Thực ra ngoài làm việc trong các nhà thuốc retail, dược sĩ có thể quyết định rẽ theo nhiều hướng khác nhau như bào chế thuốc, giảng viên đại học, nghiên cứu và làm việc tại các công ty dược phẩm, hoặc trở thành dược sĩ lâm sàng (clinical pharmacist) làm việc trong các bệnh viện. Thật sự có rất nhiều lựa chọn cho các bạn khi trở thành dược sĩ.
Vậy điều kiện để vào học ngành Dược tại Mỹ cần những ǵ?
Với những yêu cầu cao của nghề, ở Mỹ hoàn toàn không c̣n chương tŕnh cử nhân cho sinh viên ngành Dược nữa, mà đ̣i hỏi các bạn phải hoàn thành chương tŕnh Doctor of Pharmacy (PharmD) mới được chính thức làm việc. Dược sĩ ra trường bây giờ mang title Doctor.
– Prerequisites: Đa số các trường dược cung cấp chương tŕnh pharmD 4 năm. Trước đó bạn phải hoàn tất các lớp prerequisites (dự bị) trước khi có thể apply vào trường dược. Các lớp dự bị này mỗi trường yêu cầu có khác nhau chút đỉnh, nhưng đa số là giống nhau những môn khoa học chính, như toán, lư, hoá, sinh và vi sinh vật. Ngoài ra c̣n có các môn xă hội và Anh văn. Học mấy lớp này tốn khoảng 2-3 năm. Tuy trường dược không yêu cầu phải có bằng cử nhân BA hay BS khi apply, nhưng đa số đều lấy bằng cử nhân rồi mới vô trường dược, nâng tổng thời gian học lên thành 8 năm.
* Các bạn c̣n trẻ, c̣n nhiều thời gian phía trước th́ cứ thong thả lấy prereq trong 2-3 năm, không đi đâu mà vội vàng. Chứ ḿnh hồi đó già rồi, đâu c̣n thời gian mà thong thả, nên ḿnh cứ gom lại lấy thật nhiều lớp, v́ ḿnh chỉ ngóng vô trường dược cho thiệt nhanh để c̣n ra làm nữa. Thế là prereq của ḿnh mất 1.5 năm. Mà hậu quả là học chưa tới đâu tóc bạc mọc đầy đầu rồi.
Ngoại lệ, có một số trường dược cung cấp chương tŕnh pharmD 6 năm. Các bạn tốt nghiệp cấp 3 xong là vô thẳng trường này, không cần lấy prereq, học thẳng một mạch 6 năm là ra pharmD luôn.
Ngoại lệ khác, có một số ít trường dược có chương tŕnh pharmD 3 năm, là accelerated program, thay v́ 4 năm. Học cách này sẽ rút ngắn được 1 năm, đỡ được một mớ tiền, và sẽ tối tăm mặt mũi trong suốt thời gian học. Ḿnh chọn học chương tŕnh này. Quanh năm không có ngày nào nghỉ, không có summer break, túm lại là không có break ǵ hết. Chỉ có cắm đầu cắm cổ học và học. Đúng nghĩa là “mỗi năm đến hè là ta thấy rầu”, v́ ḍm bạn bè tung tăng lên lịch đi chơi hè, c̣n ta chỉ có học chứ không có chơi. Mỗi năm được nghỉ đúng 1 tuần từ Christmas tới New Year mà thôi.
Nếu bạn thấy sinh viên nào mà mặt mày hớt hơ hớt hăi, lúc nào miệng cũng lẩm bẩm exam, exam, và exam. Mặt mũi mụn nhọt tùm lum, răng vàng khè cứ như con nghiện thuốc lá lâu năm, chính là hậu quả của thiếu ngủ và cà phê. Mắt lờ đờ suốt ngày tụng tên thuốc và tác dụng phụ của nó, thậm chí một số thuốc c̣n bị bắt học thuộc ḷng cả h́nh dạng và màu sắc của từng strength, th́ đích thị hắn là sinh viên trường dược chứ không chạy đi đâu được. Hồi đó ḿnh học bài nguyên đêm không ngủ là chuyện b́nh thường. Cà phê nó quen mặt ḿnh tới nỗi, nửa đêm uống một ly thiệt đậm đặc để chuẩn bị thức học bài tới sáng, th́ uống như uống thuốc ngủ, xong lên giường làm một giấc thẳng cẳng tới sáng luôn.
Lư do v́ sao học stress dữ vậy. Bộ học khó lắm hả?
1. Tuần nào cũng có exam, rất nhiều exam, học bài mệt xỉu luôn
Thật ra học không khó. Nhưng mỗi tuần có “multilple exam”. Nghĩa là tuần nào cũng có exam, rất nhiều exam, học bài mệt xỉu luôn. Điểm cuối kỳ là điểm của tất cả các exam chứ không phải chỉ có thi giữa kỳ và cuối kỳ như các ngành b́nh thường khác.
Nếu rớt một môn th́ coi như cầm chắc ở lại lớp. Trong chương tŕnh dược không có chuyện rớt một môn th́ vẫn học tới rồi lấy lại lớp đó sau, mà phải ở nhà ngồi chơi xơi nước, chờ khoá sau lên, học tới lớp đó th́ ḿnh chui vô học chung. Tiền học phí th́ vẫn phải đóng từ thiện đầy đủ cho trường. C̣n rớt thêm lần nữa là coi như xong, vĩnh biệt mùa hè luôn. Muốn học dược tiếp th́ quay lại apply từ đầu, tiếp tục vô interview như mới. Mà ḿnh chưa thấy ai quay lại, đa số đi giao pizza hoặc flip hambuger hết trơn. Mỗi năm lên một lớp ḿnh thấy có khoảng 15-20% gương mặt mới (từ khoá trước rớt lại) và cũng khoảng đó gương mặt cũ trong lớp ḿnh biến mất (được nghỉ dài hạn chờ sang năm học chung với khoá sau).
Ngoài ra, sinh viên muốn vào trường dược phải cần có GPA tốt, thường là trên 3.8; thi kỳ thi đầu vào PCAT, có một quá tŕnh làm việc thiện nguyện, có thành tích cùng kinh nghiệm về ngành dược, và bắt buộc phải có ít nhất một thư giới thiệu của dược sĩ, th́ mới mong đủ điều kiện apply.
2. Chương tŕnh học dược được phân bổ như thế nào?
Trong quá tŕnh 4 năm (hoặc 3 năm) học tập tại trường dược, ngoài kiến thức chuyên môn, dược sĩ tương lai được đào tạo các kĩ năng mềm như phương pháp lănh đạo, làm việc nhóm, cách giao tiếp với bệnh nhân, kể cả cách chăm sóc khách hàng nữa (customer service).
Mới vô năm đầu là phải đi thực tập rồi. Và phải thực tập liên tục không ngừng nghỉ cho tới ngày cuối cùng trước khi ra trường luôn. Năm cuối cùng chỉ có thực tập mà thôi. Năm này tụi ḿnh hay gọi nó là “đóng tiền để được đi làm”.
Ngày đầu tiên ḿnh bước vô Walgreens thực tập lúc học năm hai, gọi là P2 student, đúng hôm cái con robot ở tiệm bị hư. Cả tiệm chạy nháo nhào để làm thay con robot đó. Mà vẫn không kịp thở, ḿnh thấy khói x́ ra lỗ tai. Tối về tới nhà th́ chân đi không vững, run lẩy bẩy v́ chạy quá nhiều, chắc nhiều hơn đi tập gym. Hôm sau ḿnh vô hỏi preceptor, bộ ngày nào cũng khủng khiếp như vậy hay sao, vậy th́ làm sao mà sống nổi… cả tiệm cười rần rần. Họ nói đúng là do tiệm đông, nhưng hôm nay con robot được sửa rồi, không x́ khói ra lỗ tai nữa, đừng lo.
Năm cuối sẽ đi thực tập 6 chỗ, mỗi chỗ 6 tuần, đủ 1500 giờ mới được đi thi license.
Tổng thời gian học của ḿnh là 4.5 năm (1.5 năm prereq, 3 năm pharmD), mà không thấy cuộc đời đâu hết. Nên ḿnh khuyên mọi người cứ từ từ mà học, không việc ǵ phải chạy như ḿnh.
Muốn học ngành dược tại Mỹ, đây là những điều bạn cần phải biết
Hanh Nguyen
17/09/2016 No Comments
Chị Mai Chi, tốt nghiệp bằng Tiến sĩ dược (Doctor of Pharmacy) tại Đại học Texas có những chia sẻ cực ḱ hữu ích về việc học, nghiên cứu và hành nghề của ngành dược tại Mỹ. Đây là những thông tin cực ḱ cần thiết cho những bạn có mong muốn học ngành dược tại Mỹ.
Khác nhau cơ bản giữa việc nghiên cứu sinh ngành dược tại Việt Nam và Mỹ
Chương tŕnh Tiến sĩ dược (Doctor of Pharmacy, PharmD) tại Mỹ đào tạo kĩ cả về chuyên môn và các kĩ năng mềm như lănh đạo, làm việc nhóm, quản lư,…nhằm giúp cho các sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ vững vàng cả về kĩ năng, kiến thức chuyên ngành và chăm sóc bệnh nhân hiệu quả. Chương tŕnh này bao gồm 4 năm học chuyên sâu về dược. Nếu tính cả 4 năm học đại học hoặc 2 năm để hoàn thành chương tŕnh Pre-Pharmacy th́ sẽ cần khoảng 6 đến 8 năm để có được bằng Tiến sĩ dược. Trong quá tŕnh đào tạo, các sinh viên PharmD phải tham gia rất nhiều ḱ thực tập (rotation) ở bệnh viện, nhà thuốc, viện dưỡng lăo,… và được đào tạo bài bản về nhiều kĩ năng và lĩnh vực chuyên ngành của dược và y học. Ngoài ra, các khoá học về luật lệ y tế của liên bang và tiểu bang c̣n là một học phần quan trọng trong chương tŕnh đào tạo.
Trong khi đó tại Việt Nam, chương tŕnh Cử nhân dược thường hoàn tất trong ṿng 4 năm. Do thời lượng chương tŕnh đào tạo ngắn nên lượng kiến thức đào tạo có thể nhẹ hơn so với chương tŕnh tại Mỹ ở một số lĩnh vực.
Health Screenings 1
Mai Chi cùng 2 người bạn học trong ngày khám sức khoẻ cộng đồng (Health Screening Event) của trường ĐH Texas do các chị tổ chức. Đây là một trong những hoạt động t́nh nguyện (volunteer event) mà sinh viên dược đóng góp cho cộng đồng. Trong ngày này, mọi người sẽ được đo huyết áp, xét nghiệm máu, và tư vấn sức khoẻ miễn phí.
Cơ hội việc làm của ngành dược sĩ tại Mỹ
Sau khi tốt nghiệp, các Tiến sĩ dược có thể tiếp tục theo đuổi chương tŕnh đào tạo nội trú (residency) để trở thành các dược sĩ lâm sàng (clinical pharmacist), điều hành và làm việc tại các nhà thuốc của bệnh viện hoặc công ty tư nhân (community pharmacist), công tác tại các công ty dược, công ty tư vấn, nghiên cứu và giảng dạy tại các trường đại học, làm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ y sinh học, hoặc tham gia vào việc hoạch địch các chính sách về y tế cho cộng đồng,… Nếu muốn hành nghề dược, các Tiến sĩ dược mới tốt nghiệp phải thi chứng chỉ hành nghề và luật của tiểu bang, liên bang. Ngoài ra, mỗi năm, các dược sĩ phải hoàn thành các khoá học bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và luật y tế.
Các dược sĩ từ nước ngoài nếu muốn hành nghề dược tại Mỹ đều phải hoàn thành chương trinh đào tạo bổ sung, thực tập khoảng 1000 – 1500 giờ (tuỳ theo quy định của mỗi tiểu bang) dưới sự hướng dẫn của các dược sĩ của Mỹ. Sau đó, các ứng viên dược sĩ này sẽ cần thi chứng chỉ hành nghề (NAPLEX) của liên bang và luật (MPJE) của tiểu bang.
Điều kiện để có thể du học ngành tiến sĩ dược tại Mỹ
Để học chương tŕnh PharmD tại Mỹ, các bạn cần thi PCAT (ḱ thi đánh giá tŕnh độ về dược) và hoàn thành các học phần bắt buộc của các môn cơ bản như Toán, Sinh, Hoá, Lư,… Các bạn có thể học bổ sung các học phần này tại Mỹ. Việc có bằng Cử nhân về dược là một lợi thế nhưng việc các trường dược của Mỹ có công nhận bằng cấp đại học dược tại Việt Nam th́ c̣n tuỳ thuộc vào qui định tuyển sinh của từng trường. Thông thường, các trường dược tại Mỹ ưu tiên các sinh viên người Mỹ tại tiểu bang mà trường đặt cơ sở. Sinh viên quốc tế và sinh viên ngoài tiểu bang thường có khả năng được nhận thấp hơn, nhưng phải trả học phí cao gấp 2 đến 3 lần so với sinh viên trong tiểu bang.
Quá tŕnh tuyển chọn thường dựa trên điểm số GPA, PCAT, hồ sơ dự tuyển, các thành tích, bài tự luận, thư giới thiệu, và kết quả của ṿng phỏng vấn. Các hoạt động cộng đồng và cống hiến cho xă hội là một ưu tiên quan trọng trong quá tŕnh xét tuyển. Hiện nay đa số các trường dược sử dụng hệ thống PharmCAS để nhận và quản lư hồ sơ dự tuyển. Hệ thống này cho phép ứng viên có thể cùng lúc đăng kí dự tuyển nhiều trường mà không cần phải chuẩn bị nhiều bộ hồ sơ khác nhau. Các ứng viên được lựa chọn sẽ phải đáp ứng các yêu cầu về năng lực học thuật, kĩ năng mềm và có niềm đam mê đối với ngành dược.
Mai Chi va gia dinh
Mai Chi cùng bố, mẹ và chồng – TS. Phan Minh Liêm, Tiến sĩ Việt 4 lần được vinh danh trên bức tường Viện ung thư Mỹ
Chương tŕnh học tập của một nghiên cứu sinh ngành dược
Trong năm đầu tiên, sinh viên sẽ học các môn đại cương căn bản và thực tập tại các cơ sở y tế gần trường. Trong năm 2 và 3, sinh viên sẽ học các môn nâng cao và chuyên ngành cũng như tích cực tham gia các hoạt động y tế cộng đồng. Năm thứ 4 chú trọng vào việc hoàn thiện các kĩ năng chuyên môn và kĩ năng mềm. Do đó, trong năm 4, các sinh viên sẽ chỉ tập trung hoàn thành khoảng 6 – 7 ḱ thực tập tại các cơ sở y tế trong khắp tiểu bang. Mỗi ḱ thực tập kéo dài khoảng 6 tuần và giúp cung cấp cho sinh viên nhiều kinh nghiệm thực tế và trau dồi kiến thức, nâng cao kĩ năng để phục vụ bệnh nhân. Trong quá tŕnh thực tập, mỗi sinh viên sẽ làm viêc dưới sự hướng dẫn bởi 1 dược sĩ hoặc một nhóm dược sĩ. Sinh viên c̣n có cơ hội hợp tác và làm việc với các đội ngũ bác sĩ và y tá nhằm nâng cao hiệu quả điều trị và sử dụng thuốc một cách an toàn và hợp lư nhất. Các sinh viên thích nghiên cứu có thể chọn các ḱ thực tập tại các pḥng thí nghiệm hoặc công ty dược.
Cơ hội nghề nghiệp của dược sĩ tại Mỹ hiện nay ở mức triển vọng và nhu cầu dược sĩ tăng liên tục. Tuy nhiên, do có sự xuất hiện của nhiều trường dược nên đă bắt đầu xuất hiện hiện tượng băo hoà dược sĩ tại các thành phố lớn. Chứng chỉ hành nghề và đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ hàng năm là các yêu cầu bắt buộc đối với các dược sĩ tại Mỹ.
Finnish healthcare and social welfare system provides a variety of e-services to citizens
The system presses on towards the next level of usability and interoperability for professionals
National Institute for Health and Welfare
Share
Print E-Mail
The national monitoring of the availability and use of information systems in healthcare in Finland revealed that the use of e-services in the exchange of health information among health service providers has increased compared to earlier studies performed since 2003.
In particular, the national health information exchange service, Kanta, enables information exchange between private and public health service providers.
"Major progress has been made in the range of e-health services available to citizens," says Professor Jarmo Reponen from the University of Oulu.
"In addition to electronic appointment bookings and advisory services, citizens can view their own data and communicate with health services more frequently than they could three years ago."
In the e-welfare sector, the supply of electronic services that are available to citizens and clients has increased, especially in the public sector. The integrating national infrastructure is actively being developed and currently several electronic document specifications and a client data repository as a part of Kanta Services in social welfare are in development.
However, there is a need for information management tools for professionals working in social services.
A drug interaction alert system is already being widely used
Clinical decision support (CDS) systems add intelligence to the healthcare systems and are both more frequently available and more likely to be integrated into the electronic patient record system compared with when the previous survey was conducted.
The most commonly integrated CDS tools are drug interaction alert systems.
"It is extremely important that we have these warning systems which improve patient safety and increase the quality of care. Moreover, in the future, we shall need even more advanced tools to support clinical workflow and the management of care on a daily basis," emphasises Professor Reponen.
Healthcare professionals are proficient users of electronic patient information systems and want to be part of their development
Nurses rate themselves as proficient users when assessing their competence in using electronic data and information systems. However, poor functionalities of information systems may jeopardise information flow and disturb nurses' work processes.
"When data cannot be accessed in a timely manner or the same data is stored in multiple systems, severe safety concerns, difficulties in decision-making, deficiencies in information exchange, and frustration in work processes may arise," highlights Professor Kaija Saranto from the University of Eastern Finland.
Healthcare professionals are keen to be involved in developing information systems. However, because of changes in the working environment, healthcare professionals need more training in the use of information systems and e-services.
Physicians' user experiences of electronic patient record systems have slightly improved compared with the results of two earlier surveys. However, there are still clear areas for improvement, for example information retrieval from other organisations is estimated to be as time consuming as it was in 2010.
The practical application of healthcare and social welfare data will be monitored and assessed regularly based on a national strategy
The Finnish Ministry of Social Affairs and Health has regularly commissioned national surveys on e-health and e-welfare to monitor the current state and trends in e-health and e-welfare in Finland to gather evidence for use in future development.
The national e-health and e-welfare strategy, 'Information to support well-being and service renewal. eHealth and eSocial Strategy 2020' set the goals for the monitoring.
The information was drawn from five nationwide e-health and e-welfare surveys. The survey aimed at citizens measures e-health and e-welfare service use and utilisation.
Two surveys were targeted at organisations (healthcare/social care), and measure the availability and use of e-health tools and services as well as the availability of e-welfare tools and services. Two surveys were targeted at professionals (physicians and nurses), and measure usability and the benefits of e-health tools and services. All the surveys were produced as part of the project on the Monitoring and assessment of social welfare and health care information system services (STePS 2.0 project
Millennials are 'canaries in the coalmine' for toxic economic trends
Stanford University
Share
Print E-Mail
Millennials - young adults in their 20s and 30s - earn less money without a college degree and are more likely to die prematurely from suicide or drug overdose than previous generations, according to a new report from the Stanford Center on Poverty and Inequality.
The report also found that millennials also have a wider set of identities from which they can choose: Unlike older generations, millennials are frequently embracing multiracial and unconventional gender identities. However, this doesn't mean they are any more accepting of people different from them compared with previous generations. The report found that millennials believe common racial and gender stereotypes to be true just as much as people from the Baby Boomer cohort, who were born from 1946 to 1964, and Generation X, born between 1965 and 1980.
The report, issued on June 6, brought together some of the country's leading experts on poverty and inequality and offers a comprehensive assessment of data on education, health, employment and income, occupational segregation, debt and poverty rates, economic mobility, racial and gender identities, social connections, housing and incarceration trends.
"Millennials are the first generation to experience in a full-throttled way the social and economic problems of our time," said David Grusky, professor of sociology and director of the Stanford Center on Poverty and Inequality.
As millennials tried to enter the job market during the Great Recession of the late 2000s, they also had to deal with decades-long economic issues, such as rising inequality and declining economic mobility. This made it an especially difficult period, he said.
"We can think of them as canaries in the coalmine who reveal just how toxic those problems are. By assembling a report that provides a comprehensive understanding of their situation, we can go beyond the usual patchwork policy and begin to address underlying problems," Grusky said.
Millennial education
Contrary to some popular assumptions, when college-educated millennials entered the labor market, they earned just as much as Baby Boomers and Gen Xers when they were their age.
But millennials with only a high school diploma or less are earning much less than their counterparts from previous generations, according to the report's analyses of education, written by Stanford sociologist Florencia Torche and doctoral sociology student Amy Johnson.
For example, the median earnings for 25-year-old millennial men with a bachelor's or higher degree were about $50,000 per year, which is slightly higher than for previous generations after adjusting for inflation. The median earnings for 25-year-old millennial men who have high school degrees or less were $29,000 per year, which is about $2,600 dollars less than Gen Xers and nearly $10,000 less than Baby Boomers received at the same age, according to Torche and Johnson's analysis of U.S. Census data from 1975 to 2018.
"It's not that going to college amounts to striking gold for most people," Grusky said. "The big news is that if you don't go to college you're likely to do worse than ever. What makes college attractive is mainly that it offers some protection from that fate."
Millennial health
Mortality rates among young adults have also increased substantially, according to the report's analyses of health, written by Stanford economist Mark Duggan and economics undergraduate Jackie Li.
Between 2008 and 2016, mortality rates among those between 25 and 34 years old increased by more than 20 percent. These deaths were mainly driven by a rise in suicides and drug overdoses, Duggan and Li found. The mortality rate among non-Hispanic whites, aged 20 through 34, saw the highest jump - 27 percent - in comparison to a 9 percent increase for blacks and a 6 percent increase for the Hispanic population, according to their analyses of data from the Centers for Disease Control and Prevention.
These findings are in juxtaposition with the fact that more millennials were covered by health insurance. Duggan and Li found that because of the Affordable Care Act, the share of adults in their 20s without health insurance fell by more than half from 2009 to 2017.
Duggan and Li also showed that the racial gap in health insurance coverage has grown smaller through the expansion of health insurance under the ACA.
Millennial identities
The report shows that millennials were more likely to identify as multiracial and to adopt unconventional gender identities.
But millennials embrace racial and gender stereotypes in a similar way to previous generations. According to the report, one-fifth of millennials still adopt traditional views of gender roles, nearly the same as the rates among Gen Xers and Baby Boomers, according to analysis of data from the General Social Survey between 1994 and 2016 and previous research from Stanford scholars.
Millennials are also equally likely as Gen Xers to believe that blacks are lazier than whites, according to analyses by sociologist Aliya Saperstein and sociology doctoral student Sasha Shen Johfre.
"When it comes to their identities, millennials are a truly innovative generation that is forging new options," Grusky said. "But when it comes to their attitudes about race and gender, they're just not as special."
Compassion for young adults
Among other findings, the report shows that the racial gap in homeownership among young adults was larger for millennials than for any generation in the past century.
In 2010, young white adults between 20 and 29 years old were 2.7 times more likely to own a home than their black counterparts, according to an analysis of U.S. Census data from 1940 to 2017. Even if you reach back to the Silent Generation, which includes those born between 1928 and 1945, the racial gap in homeownership among those young adults was smaller than it is now.
According to Grusky, these and other results make it clear that millennials are facing big challenges, many of which stem from the "endemic racial, gender and economic problems" of our time. He hopes that the report can inform future policies.
"If you understand the economic and social context within which millennials are growing up," Grusky says, "it's natural to feel real empathy and hard, by contrast, to understand the anger that's often directed toward them."
Study finds FDA dermatology advisors receive payments following drug approvals
Fifty-four percent received at least one payment from pharmaceutical companies
University of Colorado Anschutz Medical Campus
Share
Print E-Mail
A team of researchers led by a member of the University of Colorado School of Medicine faculty at the Anschutz Medical Campus examined post-advisory financial relationships between U.S. physicians who advised FDA committees during dermatological drug approval processes. Critics of these industry-physician relationships claim these types of payments could incentivize advisors to alter their voting habits.
The findings are published in a research letter in the Journal of the American Academy of Dermatology.
"It's known from previous studies that financial payments to FDA advisors can take place after a drug is approved but this is the first time we've researched and seen that this trend spans to the dermatology field," said Robert Dellavalle, MD, PhD, professor of dermatology and public health at the University of Colorado School of Medicine.
Dellavalle adds, "It's hard to control post-advisory financial relationships since it's not on the record going into the committee and top doctors can be paid as ongoing academic advisors for a variety of reasons. Regardless, financial conflicts of interest in medical research are important to discuss and monitor."
Physician advisors serve as external experts in determining whether a new medical therapy is fit for the U.S. market. Of the advisors analyzed, 54 percent received at least one payment from pharmaceutical companies. Twenty-seven percent accepted more than $1,000, 15 percent accepted more than $50,000 and nine percent took more than a $100,000. The advisors received a mean of more than $47,000. For the majority of the drugs examined, payments from competitors outnumbered payments from manufacturers.
The study analyzed Open Payment data, a national transparency program that collects and publishes information about financial relationships between the health care industry (i.e., drug and device companies) and providers (i.e., physicians and teaching hospitals). The study focused on payments made by U.S. physicians who advised FDA committees during the approval of ten dermatologic therapies.
Study suggests popular program that gives veterans flexible budgets for at-home caregivers should be expanded nationwide
Boston University School of Medicine
Share
Print E-Mail
A new study led by Boston University School of Public Health (BUSPH) and Veterans Affairs Boston Healthcare System researchers finds that a program that gives veterans flexible budgets for at-home caregivers is at least as effective as other veteran purchased-care services. Published in the June issue of Health Affairs, the study shows that, although the average enrollee in the Veterans Health Administration (VHA)'s Veteran-Directed Care (VDC) program has more complex health burdens than veterans in other purchased-care programs, enrollees in both groups had similar hospitalization and cost trajectories.
VDC provides monthly budgets and counseling to veterans who need significant assistance with daily living, allowing them to hire personal care workers or family and friends as paid caregivers to help them continue living at home. The VDC program launched in 2009, and has proven very popular with veterans and their family caregivers, but is not yet operational nationwide.
"Given the popularity of this program, and our findings that enrollees have similar outcomes as enrollees in other programs, further expansion of Veteran-Directed Care may be justified," says Dr. Melissa Garrido, associate director of the Partnered Evidence-Based Policy Resource Center (PEPReC) at the VA Boston Healthcare System and research associate professor of health law, policy & management at BUSPH.
The researchers used VHA data from fiscal year 2017 to identify 965 VDC enrollees, 21,117 veterans receiving other purchased-care services at VHA medical centers that offered VDC, and 15,325 veterans receiving other purchased-care services at VHA medical centers that did not yet offer VDC but were interested in implementing the program. The researchers then looked at VHA hospitalizations and related costs for all of these veterans in 2016 and in 2018. When the researchers controlled for demographics, levels of care needed, duration of care, the biases of the data, and other factors, they found similar changes in hospitalization rates and costs from before and after enrollment in VDC or another program.
Researchers reveal key role of pressure-sensing protein in lung edema
University of Illinois at Chicago
Share
Print E-Mail
Researchers at the University of Illinois at Chicago describe for the first time the role of a unique, pressure-sensing protein in the development of lung edema -- a condition in which chronic high vascular pressure in the lungs causes fluid from the bloodstream to enter the air spaces of the lungs.
The results, which are published in the Proceedings of the National Academy of Sciences, suggest that suppressing the activity of the protein could be a new approach to treating lung edema.
Lung edema can have a variety of causes, including heart failure. Certain types of heart failure -- where the heart is chronically unable to pump blood efficiently -- can cause increased pressure in the blood vessels in the lungs. The high pressure can result in capillary stress failure, where connections between the individual cells that make up the walls of the capillary blood vessels become looser, allowing fluid from the bloodstream to enter the air spaces in the lungs.
Yulia Komarova, UIC associate professor of pharmacology, and Asrar Malik, Schweppe Family Distinguished Professor and head of pharmacology in the UIC College of Medicine, have been studying adherens junctions -- the structures that bind together the cells that make up blood vessels. Adherens junctions act like adjustable nuts and bolts that can be tightened or loosened to modulate the flow of fluids and blood cells into and out of the bloodstream, such as immune cells that travel in the blood to get to areas where they are needed.
Komarova and colleagues wanted to see if a protein called piezo 1 -- which is found in many cell types, including in the endothelial cells that line the blood vessels, and that can sense mechanical pressure -- was involved in triggering adherens junctions to loosen up under conditions of high fluid pressure in the lungs.
The researchers engineered mice where piezo 1 was deleted in the adult animal in the endothelial cells. They then elevated the pressure in blood vessels in the lungs in order to mimic the effects of heart failure. In mice where piezo 1 was deleted in the endothelial cells, minimal fluid was seen entering the lungs, while in mice that had the piezo 1 protein, the lungs filled with fluid as blood pressure increased.
In a separate experiment, Komarova and colleagues used a mouse model where the adherens junctions were artificially reinforced in endothelial cells to keep the connections between individual cells lining the blood vessel cells tight. In these mice, no fluid was seen to enter the lungs when high pressures were induced in the animals even when they had the piezo 1 protein.
"Our experiments suggest that by either blocking the activity of piezo 1 or by bolstering the adherens junctions we can prevent fluid from entering the lungs," Komarova said. "Small drug molecules that achieve these goals could represent novel therapeutic approaches to treat lung edema associated with heart failure."
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.