HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .
Cho dù không có vấn đề ǵ khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm ǵ để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .
I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN
Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh. Điều quan trọng là biết làm ǵ, làm thế nào để trị liệu, và khi nào th́ cần t́m kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.
1) B̉ CẠP CẮN (SCORPION BITES)
Ḅ cạp là loại côn trùng nhiều chân có h́nh dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ng̣i / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được t́m thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).
Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết ḅ cạp cắn:
1. Rửa vùng bị ḅ cạp cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước
2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị ḅ cạp cắn trong ṿng 10 phút , nếu cần thiết th́ lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .
3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng ǵ
2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)
Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này th́ dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .
Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)
Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hăy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve
2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước.
3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)
Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tṛn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt ḅ" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .
CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh
· Chúng ta nên thận trọng khi quyết định đi làm CT scan v́ rủi ro bị nhiễm phóng xạ hết sức nguy hiểm.
BỆNH NHÂN BỊ TIA PHÓNG XẠ GÂY HẠI trong một số khám nghiệm y khoa là điều rơ ràng. Tuy nhiên, để bệnh nhân tiếp xúc với tia phóng xạ bao nhiêu th́ mới gọi là nguy hiểm?
Các cuộc nghiên cứu mới đây đưa ra lời báo động cho rằng thủ tục làm CT scan được dùng ngày càng nhiều lúc gần đây, đưa đến nhiều nguy hiểm cho bệnh nhân. CT scan là viết tắt của chữ “computed tomography” nghĩa là kỹ thuật chụp h́nh các bộ phận bên trong cơ thể con người. Đôi khi c̣n gọi là “imaging” hay nội soi. Bác sĩ thường dùng phương pháp này để chẩn đoán bệnh. CT scan được sử dụng để t́m đủ mọi loại bệnh từ nơi nào nhiễm trùng, té ngă vỡ sọ, hay t́m bệnh ung thư. Bác sĩ Rebecca Smith-Bindman, ở bệnh viện UC San Francisco, và ê kíp chuyên viên của bà vừa mới đưa ra một phúc tŕnh nghiên cứu cho biết họ tỏ ư lo ngại v́ phương pháp CT scan được dùng khá nhiều lúc gần đây, tăng gấp ba lần kể từ năm 1996 cho đến nay. Bản phúc tŕnh nghiên cứu nói rằng kỹ thuật CT scan phóng ra nhiều chất phóng xạ (radiation) hơn là phương pháp chụp bằng quang tuyến X thông thường. Đặc biệt đối với trẻ em, rủi ro nhiễm phóng xạ c̣n cao hơn gấp bội phần. Một nhóm nghiên cứu quốc tế công bố bản báo cáo cho thấy trẻ em đang mạnh khoẻ, lỡ bị té ngă, đem các em đi làm CT scan, các em có nhiều rủi ro sẽ bị ung thư so với trẻ em từ chối không làm CT scan. Cuộc nghiên cứu này kéo dài 23 năm theo dơi. Những em làm CT scan có nhiều rủi ro bị ung thư năo gấp ba lần, và ung thư máu gấp bốn lần.
Các chuyên gia không đồng ư với nhau trong việc giải thích kết quả của cuộc nghiên cứu cho những bệnh nhân đang lo âu về nhũng điều ghi nhận trong kết quả nghiên cứu. Tổ chức Radiology Society of North America vẫn cả quyết rằng rủi ro gây ra bệnh ung thư v́ làm CT scan rất nhỏ so với những ích lợi mà kỹ thuật này giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh. Ông Mark Pearce, một trong những tác giả nghiên cứu về rủi ro xảy ra cho trẻ em, thuộc trường đại học Newcastle University nói rằng; “Mặc dầu rủi ro có thể là gấp ba lần, nhưng đó là gấp ba lần của một con số rất nhỏ.”. Nhiều chuyên viên về quang tuyến, trong đó có cả bác sĩ Smith-Bindman, biện minh cho lập trường của ḿnh, và họ nói rằng việc dùng kỹ thuật CT scan đă bị lạm dụng v́ dễ sử dụng. Thậm chí, bệnh nhân đ̣i yêu cầu phải cho đi làm CT scan, và bác sĩ không ngần ngại cho đi làm CT scan chỉ v́ sợ rằng ḿnh có thể đă bỏ sót, chưa làm đầy đủ mọi chẩn đoán.
Dầu sao đi nữa, kết quả nghiên cứu cũng khiến cho các bác sĩ phải suy nghĩ lại trước khi quyết định gửi người bệnh đi làm CT scan. Bác sĩ Smith-Bindman đề nghị: “Chúng ta nên suy nghĩ lại và quyết định xem chúng ta có nên làm việc nội soi cho bệnh nhân hay không, và việc nội soi đó có được chứng minh là cần thiết cho bệnh nhân hay không.”
Lượng Phóng Xạ cho mỗi lần làm CT scan phần ngực gây nguy hại tương đương với:
a.) 1,400 lần chụp h́nh răng bằng quang tuyến X,
b.) 240 lần đi máy bay kéo dài 5 tiếng đồng hồ,
c.) 70,000 đi qua máy ḍ xét ở phi trường,
d.) 19 năm hút thuốc lá, mỗi ngày hút một gói 20 điếu.
Lấy đơn vị đo phóng xạ mSv làm chuẩn: Mỗi lần chụp quang tuyến X phần ngực chỉ bị 0.1 mSv. Dùng CT scan sẽ bị 7 mSv phóng xạ
6 Điều Quan Trọng Về Viêm Loét Dạ Dày Ai Cũng Cần Biết
6 Điều Quan Trọng Về Viêm Loét Dạ Dày Ai Cũng Cần Biết
Viêm loét dạ dày không chỉ gây đau đớn mà c̣n làm cho bạn yếu đi, không thể ăn uống ngon miệng hay tập trung vào công việc, hoạt động khác trong cuộc sống.
Đau bụng, nôn mửa, buồn nôn, có máu trong phân, khó chịu hoặc đau trong bụng... có thể là những triệu chứng của t́nh trạng loét dạ dày (hay loét dạ dày tá tràng). Viêm loét dạ dày không chỉ gây đau đớn mà c̣n làm cho bạn yếu đi, không thể ăn uống ngon miệng hay tập trung vào công việc, hoạt động khác trong cuộc sống. Bệnh cần được điều trị càng sớm càng tốt.
Dưới đây là những thông tin vô cùng quan trọng về bệnh loét dạ dày tá tràng mà mọi người cần nắm được để có thể pḥng và phát hiện bệnh sớm.
1. Viêm loét dạ dày là bệnh phổ biến hàng đầu trong các bệnh đường tiêu hóa, là t́nh trạng dạ dày bị "ăn ṃn" hoặc gặp những tổn thương ở lớp mô của dạ dày. Niêm mạc dạ dày, niêm mạc hoặc biểu mô dạ dày được xếp lớp với nhiều nếp gấp. Loét xảy ra trong lớp này. Nếu vết loét xuất hiện trong dạ dày hoặc ở phần trên của ruột non dẫn ra của dạ dày th́ được gọi là loét dạ dày tá tràng.
2. Loét dạ dày không loại trừ ai. Tuy nhiên nữ giới thường dễ mắc hơn nam giới. Bệnh có thể “tấn công” bạn nếu t́m thấy ở bạn môi trường và điều kiện tiềm năng.
3. Trước đây, chúng ta vẫn cho rằng căng thẳng trong thời gian dài, ăn các thực phẩm "xấu", uống và hút thuốc lá... là những nguyên nhân chính gây ra các vết loét trong dạ dày. Nhưng giờ đây, các nhà khoa học c̣n cho biết t́nh trạng loét dạ dày do nhiễm trùng bởi vi khuẩn, cụ thể hơn là Helicobacter pylori, gây ra. Helicobacter Pylori được cho là gây ra gần 65% các ca loét dạ dày và tá tràng.
Một số thuốc cũng được cho là gây ra viêm loét dạ dày, ví dụ như thuốc aspirin, clopidogrel... loại uống thường xuyên để giúp ngăn ngừa cơn đau tim hoặc đột quỵ, và các loại thuốc viêm khớp. Thuốc kháng viêm (NSAID) cũng được cho là gây ra khoảng 2/5 các ca loét dạ dày. Ung thư dạ dày ở bệnh nhân lớn tuổi cũng có thể do viêm loét dạ dày gây ra.
4. Một số trường hợp bị viêm loét dạ dày không có bất kỳ triệu chứng nào. Nhưng với một số trường hợp khác, người bệnh có thể gặp các triệu chứng và gây ra một số rắc rối nghiêm trọng. Các triệu chứng đó bao gồm: đau bụng ngay dưới lồng ngực, khó tiêu, buồn nôn, chán ăn, nôn mửa, sụt cân, nôn ra máu hoặc chóng mặt, có các triệu chứng của bệnh thiếu máu, chẳng hạn như chóng mặt và sốc do mất máu... Chảy máu trong dạ dày là một t́nh trạng nghiêm trọng, đặc biệt là ở những bệnh nhân lớn tuổi, v́ chúng có thể dẫn đến mất máu và gây tử vong.
5. Loét dạ dày có thể dẫn đến một số biến chứng như:
- Thủng dạ dày: bệnh nhân đột ngột có cơn đau dữ dội như dao đâm, bụng gồng cứng. Trường hợp này cần được phẫu thuật kịp thời nếu không sẽ nguy hiểm cho tính mạng.
- Xuất huyết tiêu hóa: Bệnh nhân có biểu hiện ói ra máu và có máu trong phân hoặc phân đen, hôi.
- Ung thư dạ dày: Ung thư dạ dày chiếm vị trí hàng đầu trong các ung thư đường tiêu hóa và cũng là một trong những biến chứng của các bệnh lư lành tính ở dạ dày mà không được điều trị hoặc điều trị không triệt để.
6. Loét dạ dày hoặc loét dạ dày tá tràng có thể được điều trị bằng thuốc như kháng sinh nhằm làm giảm acid trong cơ thể. Bên cạnh đó, người bệnh cũng cần điều chỉnh các thói quen ăn uống, sinh hoạt trong cuộc sống để trị bệnh hiệu quả. Người bị loét dạ dày nên ăn chậm, nhai kĩ để bảo vệ dạ dày tránh được những rắc rối như đau, viêm, loét, ung thư… Sau khi ăn, đừng vội vận động ngay, nên ngồi nghỉ ngơi thư giăn khoảng một giờ. Nên chia nhỏ các bữa ăn để không tạo nên sức ép làm việc nặng nề với dạ dày. Có thể ăn 4 - 5 bữa mỗi ngày. Nên ăn nhẹ vào bữa tối.
Gần đây tôi có đọc loạt bài Đạt Ma Dịch Cân Kinh của BS Lê Quốc Khánh trong nhật báo Người Việt ngày 17 và 18/1 1/2000và thấy rất vui mừng khi biết tập Cân Kinh thấy rơ, người nào có bệnh th́ Cân Kinh có thể chữa được nhiều bịnh nan y trong đó có cả bịnh ung thư. Do đó tôi muốn góp thêm ư kiến bằng cách nói lên kinh nghiệm bản thân về việc tập Dịch Cân Kinh để giúp đỡ đọc giả hiểu rơ hơn cách luyện tập và củng cố ḷng tin vào phương pháp tập luyện nàỵ
Vào năm 1974, chúng tôi được anh Nguyễn Kim Tri, Thiếu tá ở Vơ Pḥng Tổng Thống, cho chúng tôi phóng ảnh của quyển Dịch Cân Kinh bằng tiếng Tàu và khuyên chúng tôi nên tập luyện theo sách ấy, rất tốt cho sức khoẻ, v́ đây là cách luyện tập của chùa Thiếu Lâm dành cho môn sinh luyện trước khi học vơ.
Sau đó chúng tôi nhờ người dịch đại ư của quyển sách và tập luyện. Sau bốn tháng tập luyện mọi người trong pḥng tôi (Khối Đặc Biệt, Trung Tâm Phối Hợp Thi Hành Hiệp Định Ba Lê, Phủ Tổng Thống) đều đạt kết quả tốt. Người nào không có bịnh th́ đều lên cân, da dẻ hồng hào thấy rơ, người nào có bịnh th́ bớt bịnh. Ông Long, thư kư đánh máy, bị huyết áp cao th́ sau 4 tháng tập, huyết áp xuống b́nh thường mặc dầu không có uống thuốc. Lúc ấy ngày nào tôi cũng tập 1,200 cái đánh tay (Lúc mới khởi sự tập 200, về sau tăng dần)…
Sau tháng 4 năm 1975, suốt thời gian ở trong các trại cải tạo từ miền Nam ra tới miền Bắc, ngày nào tôi cũng tôi cũng tập Dịch Cân Kinh một lần, và vẫn giữ mức 1200 cái đánh taỵ Nhờ vậy mà mặc dù ăn đói và rất ốm yếu, tôi vẫn có thể chịu được và ít bịnh. Anh em nói v́ tôi là quan văn trong nghành vơ (luật sư Toà Thượng Thẩm Sài G̣n, thiếu tá) nên không có sức chịu đựng bằng các anh em khác, phần đông là tiểu đoàn trưởng tác chiến, quận trưởng hoặc hạm trưởng Hải quan cấp chỉ huy Biệt Kích Dù, an ninh quân đội v.v…
Hồi mới ra Hoàng Liên Sơn ở huyện Văn Chấn, thuộc tỉnh Nghĩa Lộc cũ, vào tháng 7 năm 1976, mỗi lần đi lấy gạo, tôi cùng một anh nữa khiêng lối 20, 25 kí đi bộ 7,8 cây số đường rừng. Khi về gần tới trại có đèo 19 tháng 5 rất cao, thường tôi yêu cầu anh cùng khiêng với tôi phải ngồi nghỉ một chút rồi mới đi tiếp. Sau đó tôi nói với thầy Thuần, một Đại Đức, thiếu tá tuyên úy Phật giáo, người ở cùng một láng và cùng tập Dịch Cân Kinh với tôi mỗi ngày, về việc tôi qua không nổi đèo 19 tháng 5. Thầy nói: “Bác cứ tập lên 2000 cái cho tôi, bác sẽ qua nổi đèo ấỵ Nghe lời thầy Thuần, tôi tập lên đến 2000 cái đánh tay mỗi ngàỵ
Và lối nửa tháng sau, khi đi lấy gạo, tôi được giao phải vác một ḿnh 20 kí, (v́ họ cho rằng chúng tôi ra Bắc một thời gian rồi, phải vác nổi 20 kí đi xa), nặng gấp đôi lần trước, thế mà khi qua đèo 19 tháng 5 tôi qua luôn, không phải ngừng lại để nghỉ như trước. Tôi biết ngay là nhờ tập Dịch Cân Kinh theo lối thầy Thuần chỉ nên mới đạt được kết quả ấy, chớ việc ăn uống th́ chúng tôi vẫn bị đói dài dài (ở miền Bắc trong ba năm đầu gia đ́nh không được gởi thực phẩm cho chúng tôi).
Hồi đó tôi tập nổi 2200 cái đánh tay cho mỗi lần là nhờ hằng ngày tôi phải leo núi, đồi, phải làm việc nặng nên chân mạnh hơn lúc ở Sài G̣n. Chân phải mạnh, rắn chắc th́ tập mới lâu được, v́ suốt buổi tập ḿnh phải đứng tấn.
Tôi c̣n nhớ, có một hôm chúng tôi phải khiêng một khúc cây to. Anh bộ đội nói “Chỉ cần 10 người khiêng cây này, anh nào yếu cho khỏi khiêng.” Tôi đưa tay lên xin khỏi khiêng v́ tôi biết là tôi yếu nhất trong anh em. Đồng thời có một anh nữa, anh Duyệt cũng đưa tay. Anh bộ đội trỏ tôi và nói: “Anh không yếu bằng anh này” vưà chỉ anh Duyệt. Sau đó tôi nh́n lại th́ thấy anh Duyệt mặt mày xanh xao mặc dù thực sự anh mạnh hơn tôi. Nhờ tập Dịch Cân Kinh mỗi ngày nên dù ăn đói nhưng da mặt tôi không xanh mét như một số anh khác.
Tập Dịch Cân Kinh giúp ḿnh luôn luôn ngủ ngon và không bao giờ bị táo bón, máu huyết được lưu thông mạnh trong thời gian tập, nhờ đó da dẻ chúng ta luôn được hồng hào và bệnh tật tan biến đi.
Sau đây tôi xin nói về cách tập thế nào cho đúng. Khi chúng tôi mới có cuốn Đạt Ma Dịch Cân Kinh, chúng tôi coi theo h́nh vẽ trong đó mà tập theo. Sau lối hai tuần tập luyện, chúng tôi thấy không có kết quả ǵ cả. Do đó chúng tôi phải nhờ người dịch cuốn sách ấy, và khi tập đúng cách rồi th́ kết quả thấy rất rơ.
Tôi xin diễn tả tư thế và việc phải làm của một người tập Dịch Cân Kinh:
1. Người tập Dịch Cân Kinh nên đi giầy hay dép, không nên đi chân đất,
Hai chân dang ra, khoảng cách giữa hai ngói chân cái bằng khoảng cách của hai vai, hai bàn chân bám chặt xuống giầy hay dép
2. Gồng cứng bắp chuối và bắp vế chân, hậu môn nhíu lại và thót lên.
Suốt buổi tập hai chân như trồng cây xuống đất, từ thắt lưng trở xuống luôn luôn cứng nhắc, không suy suyển
Tóm lại đó là thế đứng tấn của người luyện vơ. Nếu đă dang hai chân đúng tầm, đă gồng (lên gân) hai chân thật chắc, bám mười ngón chân thật chặt xuống dép hoặc giầy, nhíu hậu môn lại và thót lên rồi th́ ta thấy từ thắt lưng trở xuống chân thật là chắc nịch.
Và trong suốt buổi tập ta phải luôn chú ư đến phần từ thắt lưng trở xuống và làm đúng như thế.
Nếu ta không chú ư đến phần này th́ công phu luyện tập sẽ mất gần hết, không mang lại kết quả mong muốn.
3. Đầu như dây treo (giống như có sợi dây treo ḿnh lên vậy) để cổ được thẳng, mặt ngó về phía trước, nh́n một điểm cao hơn ḿnh một tí để cổ không rùng xuống.
4. Ở miệng, hai môi chạm nhẹ vào nhau, không mím môi cũng không hở môi. Hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau (đầu chót luỡi chạm nướu răng trên để luồng điện được lưu thông)
5. Ở mỗi bàn tay, các ngón luôn dính vào nhau (chớ không phải x̣e ra, sách có vẽ h́nh rất rơ về điểm này). Khi đánh tay, ḷng bàn tay hướng về phía sau (tức là mu bàn tay đưa ra phía trước). Động tác duy nhất là đánh hai tay từ phía trước ra phía sau. Khi đưa hai tay ra phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với thân người thành một góc 30 độ. Khi đánh tay ra phía sau, một góc 60 độ.
Tóm lại khi đánh tay ra phía sau, đánh hết tay. Khi đưa hai tay ra phía trước chỉ là một cái trớn của việc đánh tay ra phía sau c̣n lại mà thôi, do đó chỉ có 30 độ.
Mỗi lần đánh tay từ phía trước ra phía sau th́ kể một cái đánh tay. Khi mới bắt đầu tập, nên khởi sự đánh tay 200 cái mỗi lần tập. Nếu muốn mau có kết quả th́ tập mỗi ngày hai lần, sáng và chiều. C̣n nếu có ư chí lớn hơn nửa th́ tập ba lần mỗi ngày (sáng, trưa, chiều) càng tốt.
Tập ở ngoài sân hay ở trong nhà đều được miển là thoáng khí và yên tĩnh.
Không nên tập sau khi ăn cơm no. Khi thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức, và khi c̣n có thể tập nữa mà không mệt th́ nên tiếp tục tập cho đúng sức ḿnh.
Khi mới tập, khởi sự bằng 200 cái đánh tay mỗi lần tập, về sau khi thấy c̣n có thể tập thêm th́ tăng lên dần, thí dụ 250, 300, 350, v.v... Hồi tôi mới tập một thời gian ngắn sau là tôi lên đến 1200 cái đánh tay cho mỗi lần tập (trong 15 phút). Hồi đó c̣n trẻ nên tôi đánh rất nhanh, và mỗi ngày tôi chỉ tập một lần . Sau khi tập xong ta thấy khát nước (nên uống nước ngay), đó là tập vừa sức . Sau khi tập tôi thường đi chậm bằng cách giở chân lên cao, vừa co giản hai cánh tay.
Có người mới khởi sự đă tập trên 1000 cái th́ mặt bị nổi mụt ngay. Nếu tập đúng cách tôi thấy không có bị phản ứng ǵ cả mà càng ngày ta càng thấy khỏe ra. Ḿnh tập đuợc nhiều hay ít là do ḿnh có thể đứng tấn được bao lâu, chứ không phải ai muốn tập bao nhiêu lần cũng được. C̣n nếu đánh tay để đếm số lần cho được nhiều mà không gồng (lên gân) hai chân cho thật cứng chắc và nhíu hậu môn lại, thót lên th́ sẽ không đạt được kết quả mong muốn.
Về tốc độ đánh tay th́ sách nói đánh tay nhanh như người đi đánh đồng xa . Đánh tay càng nhanh th́ máu huyết lưu thông càng mạnh trong thời gian ấy, và sẽ cuốn theo mọi bệnh tật .
Sách nói muốn tập trị bệnh th́ nên tập từ 2000 - 3000 cái mỗi ngày trong ṿng lối 30 phút.
Và sau đây là hai nguyên tắc quan trọng cần phải áp dụng trong lúc tập:
1) Thượng tam hạ thất:
Nếu trong thời gian tập ḿnh dùng 10 phần sức lực th́ từ thắt lưng trở xuống ḿnh dùng đúng 7 phần và phải luôn luôn chú ư đến việc gồng cứng (lên gân) hai chân, nhíu hậu môn lại và thót lên.
Từ thắt lưng trở lên, ḿnh dùng 3 phần sức lực .
Đó gọi là thượng tam hạ thất, là thượng hư hạ thực, trên ba dưới bảy, hay trên hư dưới thực.
Trong việc đánh tay cũng thế. Khi đưa tay ra phía sau dùng 7 phần sức lực, đưa ra trước th́ chỉ dùng 3 phần.
Trước ba sau bảy, hay trước hư sau thực, đánh tay ra phía sau mới là thực cần thiết, và phải đánh cho hết tay.
2) Tâm b́nh khí tịnh:
Trong suốt thời gian tập ta không được suy nghĩ điều ǵ (điều này hơi khó) ngoại trừ việc nhẩm đếm số lần đánh tay. Đó là tâm b́nh. C̣n khí tịnh là trong thời gian tập ta thở b́nh thường, chứ không phải thở theo nhịp tay.
Có một môn phái thở theo nhịp tay, nghe nói đó là phái Vơ Đang. Nhưng phái Thiếu Lâm Tự th́ không thở theo nhịp tay.
Hồi tôi ở Hoàng Liên Sơn, tôi tập không thở theo nhịp tay, thầy Thuần thở theo nhịp tay, cả hai chúng tôi đều đạt kết quả tốt .
Sau cùng tôi xin nói một vài kinh nghiệm trong khi tập:
Nếu đánh tay nhanh mà ta thấy tê mười đầu ngón tay th́ đó là v́ ta không nhíu hậu môn và thót lên, hoặc là v́ ta để hở mười ngón tay (bàn tay năm ngón phải để dính với nhau, không được hở, điều này trong sách có vẽ h́nh rơ lắm).
Nếu lúc tập mà ta thấy đầu hơi nặng là v́ cổ ta không thẳng, đầu không như dây treo, luồng điện thay v́ đi xuống lại đi nguợc lên đầu.
Hồi ở Hoàng Liên Sơn, tối nào tôi cũng ra sân tập và đeo bao tay vi` trời lạnh. Khi đánh tay được lối 1500 cái trở lên là tôi thấy ấm người, khỏi mang bao tay nữa, và mỗi cái đánh tay nghe như có hai luồng điện chạy xuống hai chân vậy.
Bây giờ đă lớn tuổi, tôi chỉ tập nổi tối đa là trên dưới 800 cái đánh tay mỗi lần mà thôi. Thêm vào đó, ngày nào tôi cũng đi bộ ít nhứt nữa giờ và tôi thấy rất tốt cho sức khỏe, rất tốt cho việc tập Dịch Cân Kinh. Trong tất cả các môn tôi đă tập (hồi ở VN tôi tập dưỡng sinh trong vườn Tao Đàn), tôi nhận thấy môn Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Tổ Sư là hữu hiệu hơn cả. Nhưng điều cần yếu là phải tin tưởng và kiên nhẫn tập đều đặn th́ mới có kết quả.
Trong chuyến đi về thăm Canada vừa qua, chúng tôi có rất nhiều niềm vui và sự ấm cúng được gặp lại bạn bè và người thân nhưng đồng thời chúng tôi cũng đă sống qua những giây phút chạnh ḷng. Đă có những người bạn thân của chúng tôi ra đi vĩnh viễn gần đây v́ bệnh ung thư. Và chúng ta đều biết bệnh này là một trong những căn bệnh ngặt nghèo nhất trong thời đại chúng ta đang sống.
Vừa qua, tôi nhận được tạp chí Science et Vie, một tạp chí có giá trị xuất bản ở Pháp, số đặc biệt nói về bệnh ung thư. Và tôi đă để th́ giờ đọc và tóm tắt những chi tiết quan trọng dưới đây.
Hiện nay theo thống kê của bộ y tế Pháp, một trên hai người đàn ông Pháp và một trên ba ngựi đàn bà Pháp trước sau cũng phải bị con bệnh ung thư đến viếng trong cuộc đời của họ. Bệnh này đă được nhà y sĩ kiêm hiền triết Hippocrate khám phá ra từ thế kỷ thứ tư trước công nguyên và bệnh ung thư đă trở thành nguyên nhân đầu tiên trong các bệnh gây tử vong ở Pháp năm 2004.
Các phương pháp chữa bệnh ung thư ngày nay cũng rất tiến bộ, nhờ vào những nghiên cứu trong ngành y khoa gần đây. Bên cạnh những cuộc giải phẫu và phương pháp dùng tia phóng xạ và dùng thuốc hoá học cực mạnh, hiện nay các nhà nghiên cứu đang phát triển một phương pháp dùng những tế bào đặc biệt mà họ có thể tiêm vào máu để “tiêu diệt” thẳng những tế bào ung thư.
Trước khi nói thêm về những phương pháp chữa bệnh ung thư của y khoa Âu Mỹ, tôi xin ôn lại những cấu trúc của căn bệnh trầm kha này.
Hiểu bệnh
Trong cơ thể chúng ta có khoảng 200 loại tế bào khác nhau. Tế bào gan, tế bào máu, da, và những nơ ron của óc v.v…; mỗi loại tế bào có công năng và cấu trúc riêng rẽ. Trong tất cả những tế bào này, chỉ có khoảng 10% là trường thọ (nghĩa là sống rất lâu, nhiều sách dùng chữ bất tử (cellules immortelles)), c̣n lại đều theo một chu kỳ tự hủy hoại và tự làm mới không ngừng. Mỗi ngày, trung b́nh có khoảng một ngàn tỉ tế bào trong cơ thể chúng ta tự hủy diệt và cùng lúc có cả ngàn tỉ tế bào mới được sinh ra. Khi sự hủy diệt và sự sinh sản của các tế bào nằm trên thế quân b́nh (nghĩa là số lượng hai bên bằng nhau), mọi việc êm đẹp, sức khoẻ chúng ta được ǵn giữ. Khi thế quân b́nh ấy lung lay, bệnh ung thư gơ cửa đặt chân vào nhà.
Theo sự giải thích đơn giản nhất của các bác sĩ chuyên môn, bệnh ung thư nhen nhúm khi có một số tế bào thoát khỏi cấu trúc của sự hủy hoại tự nhiên và trở thành bất tử. Những tế bào này thoát khỏi mọi kiểm soát của cơ thể và tiếp tục tự sinh sôi nẩy nở và khi chúng trở thành đông đảo, chúng tụ họp lại thành một cái bướu (tumeur). Cái bướu này không ngồi yên mà tiếp tục hoạt động và tự tạo ra những mạch dẫn máu riêng biệt và dùng những mạch máu này đưa những tế bào mới (hung hăng, hay c̣n gọi là có ác tính) đi vào những bộ phận khác của cơ thể và dần dà tạo thành những ốc đảo (bướu) mới. Lúc đó các nhà chuyên môn gọi t́nh trạng này là ung thư toàn diện (cancer généralisé hay métastases).
Tất cả cấu trúc của sự sinh sản ra tế bào ung thư, theo những lư thuyết căn bản hiện thời, nằm trong các gien (gènes) của chúng ta (c̣n được gọi tắt là ADN hay DNA). Mỗi tế bào của con người chứa khoảng 30,000 gien. Những gien này được trao truyền lại từ cha mẹ (và tổ tiên) chúng ta. Chúng có mặt và có công năng giúp các tế bào mới được sinh sản đúng theo gien mà chúng ta đă được trao truyền. Phần lớn các nhà chuyên môn nghiên cứu về bệnh ung thư ngày nay (trừ hai bác sĩ ở Boston, xin xem chú thích cuối bài này (*)), đều xác nhận là trong quá tŕnh sinh sản những tế bào mới, đôi khi công thức ADN (DNA) bị sai lệch và không được theo đúng. Ở mỗi đầu dây ADN, có một một nhóm nhỏ được gọi là đồng hồ chẩn y (télomères) ngày đêm canh gác và săn sóc những tế bào mới sinh. Khi sự chẩn y này không chạy hay bị trục trặc, việc sinh sản những tế bào mới không theo đúng công thức ADN b́nh thường và những tế bào mới này đơn phương hoạt động và biến đổi dưới những dạng ADN khác nhau. Các nhà nghiên cứu t́m thấy 33,000 bộ mặt ADN mới trong các bướu ác tính ở da và khoảng 23,000 trong những bướu ung thư ở phổi. Gần đây nhất, các nhà nghiên cứu t́m ra thêm là những gien mới có khả năng biến những tế bào b́nh thường thành tế bào khác thường (có ác tính) và phương thức biến hoá này rất phức tạp và biến đổi liên tục. Và chính v́ sự phức tạp và tính cách biến đổi nhanh chóng này mà ngành y khoa hiện nay chưa t́m ra được thuốc chữa phổ quát (universel). Tuy thế các nhà chuyên khoa hy vọng sẽ t́m được thuốc chữa cho từng loại ung thư khác nhau.
Sau đây là tóm tắt các loại ung thư đang được nghiên cứu (v́ sự hiểu biết về từ ngữ y khoa của người viết bài này yếu kém nên xin được mạn phép “mượn” những từ y-khoa Pháp):
• Adénocarcinome và carcinome: chiếm đa số (85%) những bệnh ung thư của các bộ phận như vú, gan, bao tử, phổi v.v…
• Sarcome: 2%, xương, gân cốt, mạch dẫn máu và các ống quản…
• Lymphome: 5-7%, tuyến, lá lách, đường tiêu hoá, bộ phận sinh dục…
• Leucémie và myélome: 4%, máu, tủy…
Việc đầu tiên đập vào mắt tôi là thống kê về ung thư trên toàn cầu. Có một sự khác biệt rơ rệt về số người chết v́ ung thư giữa bắc và nam bán cầu (không tính Úc Châu). Ở Nam Mỹ và Phi Châu số người chết về ung thư rất ít. Tôi ṭ ṃ đọc thêm th́ người viết bài có chú thích thêm là ở những nước nghèo ở nam bán cầu, người ta chết v́ những bệnh truyền nhiễm trước khi khám phá ra họ có bệnh ung thư. Và thống kê về bệnh ung thư rất hiếm hoi. Ngay chỗ tôi ở hiện nay (Yaoundé, Cameroun), không ai nói tới bệnh ung thư cả. Phương tiện chẩn bệnh và chữa bệnh ung thư ở đây hầu như không có, th́ làm ǵ mà nói đến thống kê. Những bệnh gây tử vong lớn nhất ở đây là bệnh sốt rét rừng (malaria hay paludisme), bệnh HIV và bệnh lao, sau đó chiếm hạng tư là những người chết bởi tai nạn lưu thông. Và theo thống kê của những nước Âu Mỹ, tỷ lệ người bệnh được cứu sống sống sau khi ung thư được phát hiện sớm ngày nay cao hơn so với cách đây 10 năm trước nhờ vào những thuốc chữa mới. Và dưới đây là thống kê của bộ y tế Pháp:
• Ung thư tiền liệt tuyến (prostate, đàn ông), tỷ lệ cứu sống sau khi ung thư phát hiện: 80%
• Vú (phụ nữ), 85%
• Ruột, 56%
• Phổi, 14%
• Cổ họng và mồm, 95%
• Máu, 55%
• Thận, 62%
• Bọng đái, 58%
Những nguyên nhân đưa đến bệnh
Theo tổ chức quốc tế về sức khoẻ (OMS), hiện nay, tùy nơi chốn chúng ta sống, người dân của rất nhiều quốc gia trên thế giới, v́ nhu cầu mở mang kinh tế và mưu sinh, không c̣n sống gần thiên nhiên như tổ tiên họ. Con người, với sức khám phá và cuộc thi đua kinh tế cũng như quân sự, đă bào chế hơn 100,000 chất hoá học. Đa số những chất này được dùng trong hầu hết những kỹ nghệ canh tác nông nghiệp, chăn nuôi, thực phẩm, dược phẩm và những kỹ nghệ bào chế xe hơi, máy bay, tàu thủy cho đến tất cả những máy móc dùng trong nhà chúng ta hằng ngày. Những độc tố gây ra bởi sự tranh đua này hiện nay được t́m thấy trong nước uống, trong không khí chúng ta thở và trong thức ăn chúng ta dùng mỗi ngày. Hiện nay ở những nước Âu Mỹ, đă có những phong trào ăn uống dùng thức ăn được biến chế hoặc trồng trọt từ những nông trại không dùng thuốc hoá học và các thuốc trừ sâu. Thực phẩm mang tên “bio” (bên Pháp) hoặc mang tên “organique” (Bắc Mỹ) có thể được t́m thấy dễ dàng hầu hết trong các siêu thị. Và tương lai, nếu số người dùng những thức ăn này tăng lên, giá hàng sẽ rẻ đi (hiện nay th́ khá đắt nếu quư vị muốn hoàn toàn ăn theo kiểu bio (dịch tiếng Việt là dưỡng sinh được không? ở trong nước họ dùng chữ “sinh thái” để dịch cho chữ écologique).
Môi trường thiên nhiên có nhiều độc tố, thêm vào đó, cũng theo tạp chí Science et Vie, cách sống và mưu sinh của con người trong những xă hội tân tiến làm tinh thần họ luôn căng thẳng (stress). Một số bác sĩ tin rằng có sự liên hệ mật thiết giữa tâm thần (mental) và bệnh ung thư, mặc dù họ chưa hiểu rơ sự liên hệ này. Tôi có một anh bạn sau khi ung thư phát hiện, bác sĩ nói anh chỉ sống thêm khoảng 6 tháng là nhiều. Anh đi học tu theo đạo Phật và sống theo phương pháp thiền của đạo Phật và anh đă sống thêm được gần 10 năm. Ngày nay bên Mỹ, ở vùng Boston, có ông bác sĩ tên là Jon Kabat-Zin đă mở một trung tâm chữa bệnh tâm thần bất an và bệnh ung thư bằng phương pháp sống có chánh niệm của đạo Phật (phương pháp ông được gọi là mindfulness based stress-reduction technique). Ông này đào tạo được rất nhiều chuyên viên về ngành y tế và những người này khi về lại thành phố họ, đă tiếp tục đóng góp cho cộng đồng của họ qua những dịch vụ y tế dùng phương pháp của ông Kabat-Zin.
Ngừa bệnh
Theo tạp chí Science et Vie th́ cách ngừa bệnh hay nhất là chúng ta phải có một đời sống thật đơn giản, một cách sống kỷ cương và có ư thức, nhất là ăn uống cẩn thận và có chừng mực, tránh xử dụng những chất có nhiều độc tố, và phải luôn hoạt động thể dục cơ thể cũng như tạo cho ḿnh những niềm vui lành mạnh. Đă có rất nhiều sách viết về cách ăn uống để ngừa bệnh ung thư. C̣n vấn đề giảm bớt những phiền năo và lo âu trong cuộc sống thường nhật đầy bươn chải và nhiễu nhương th́ tạp chí chỉ nói là mỗi chúng ta phải tự t́m ra những phương pháp riêng và thích hợp cho ḿnh. Cộng đồng VN chúng ta ở hải ngoại đă có những hội đoàn tổ chức các buổi tập thể dục dưỡng sinh như khí công, yoga, tài chí v.v… và những khoá tu thiền theo những pháp môn khác nhau của đạo Phật và đạo Chúa. Có một số người xả stress bằng cách đánh bóng bàn mỗi tối sau khi ăn hoặc đi bộ cả mấy tiếng đồng hồ trên chiếc tapis có máy quay (thread mills), hoặc đi bơi; có người th́ thích học và tập nhảy theo những điệu nhảy latino rất kích động gọi là zumba v.v… Bất cứ loại thể dục nào nếu chịu khó làm đều đặn đều tốt cả. Và dĩ nhiên một đời sống gia đ́nh êm ấm đoàn tụ cũng là một yếu tố quan trọng khác.
Chẩn bệnh
Ở các nước tân tiến, điều kiện chăm sóc về y tế và sức khoẻ người dân tương đối khá đầy đủ. Việc chẩn bệnh sớm nhờ vào máy móc tối tân cũng giúp và cứu được rất nhiều người cho những bệnh ung thư về vú, ruột, tử cung, tiền liệt tuyến và da. Phương pháp chẩn bệnh khác nhau tùy từng loại ung thư. Về ung thư vú th́ bác sĩ khuyên các phụ nữ trên 50 tuổi nên có rọi kiếng (hay chụp h́nh, radiographie) mỗi hai năm. Những h́nh này cho thấy rất sớm những tế bào ung thư chưa kịp làm thành bướu. Về ung thư ruột th́ việc chẩn bệnh rất đơn giản: chỉ cần dùng thuốc Hemoccult II (và chính bạn cũng có thể tự làm) để t́m ra những vết máu trong phân. Về ung thư tử cung th́ việc chẩn bệnh cũng dễ dàng: bác sĩ dùng dụng cụ mềm để xoa và lấy một phần da trên mặt tử cung và đem đi xem bằng kính hiển vi (microscope) sau đó. Về ung thư tiền liệt tuyến th́ ngoài việc khám tại pḥng bác sĩ để xem độ lớn của tiền liệt tuyến, họ c̣n thử cường độ PSA trong máu. Và cuối cùng là ung thư da: bác sĩ dùng kính đặc biệt để xem thẳng những vùng da trên người bạn bằng mắt thường.
Những cách chữa bệnh theo khoa học tân tiến Âu Mỹ
Giải phẫu: cách thông thường hiện nay là phương pháp cắt bỏ vùng có tế bào ung thư hoành hành. Bác sĩ William Stewart Halsted là người đầu tiên dùng phương pháp này trên vú (mastectomie) bên Mỹ năm 1890. Ngày nay nhờ vào tiến bộ kỹ thuật, những phương pháp mổ này tinh vi và nghệ thuật hơn.
Cách dùng hormone (hormonothérapie): phương pháp này dùng một số hormones để chận sự tăng trưởng của một số bệnh ung thư như ung thư vú và tiền liệt tuyến, được phát hiện từ năm 1896.
Xử dụng tia phóng xạ X: nhờ vào những khám phá của bà Marie Curie, ngày nay việc dùng quang tuyến X trở thành chuyện dễ dàng, từ việc dùng tia này để tiêu hủy những tế bào ung thư cho đến việc chụp h́nh những vùng bị tế bào ung thư xâm chiếm (scintigraphie, Petscan…).
Dùng máy chụp và xoi cực bé (endoscope): với kỹ thuật dùng những dây thật bé (làm bằng fibre de verre) và mềm mỏng, các bác sĩ có thể nh́n và cắt đi những bướu ung thư mọc trong những vùng hóc hiểm xa xôi của cơ thể mà không cần phải mổ bệnh nhân.
Dùng thuốc hoá học cực mạnh (chimiothérapie): năm 1943, một tai nạn xảy ra ở hải cảng Naples trên một tàu chiến của Hoa Kỳ. Một cái b́nh chứa hơi moutarde (mustard) bị vỡ và một số thủy thủ hít phải hơi độc. Bác sĩ Alfred Gilman theo dơi bệnh t́nh của mấy bệnh nhân này và nhận xét là số bạch huyết cầu (globules blancs) trong máu họ giảm đi rất nhiều. Từ đó các bác sĩ nghĩ ra cách làm thuốc hoá học để tiêu diệt những bạch huyết cầu ác tính trong những bệnh ung thư máu. Từ đây, phương pháp dùng những chất hoá học cực mạnh (méthotrexate, actinomycine, caryolysine…) ra đời.
Dùng tia phóng xạ gamma, từ trường và tia positron: Bác sĩ Mỹ Hal Anger được xem là người đầu tiên (1957) dùng máy ảnh chụp h́nh những vùng có bệnh trên cơ thể nhờ vào những tia phóng xạ gamma từ những bộ phận cơ thể có tế bào ung thư phát ra. Những tia gamma này phát ra từ một dung dịch được bơm vào vùng có bệnh dưới dạng chất lỏng (tỉ dụ như chất iode 123 dùng trong việc chẩn bệnh yết hầu) trước khi chụp. Và c̣n nhiều phương pháp dùng tia phóng xạ hay từ trường ngày càng tối tân như IRM (hay MRI, imagerie par résonance magnétique) hay TEP (topographie par émissions de positrons)…
Dùng những thực vật thiên nhiên như cây IF (một loại thông): lá và vỏ cây IF có chất taxol có tác dụng ngăn ngừa sự sinh sản của tế bào ung thư và được dùng để chữa một vài ung thư như tiền liệt tuyến, phổi và vú.
Chữa bệnh bằng thuốc chỉ nhắm vào tế bào ung thư (thérapies ciblées): phương pháp này được áp dụng từ năm 2000 và ngày càng tiến bộ. Nguyên tắc của cách chữa này là nhắm vào tế bào ung thư và tránh tối đa không động đến những tế bào lành mạnh. Hai nhà nghiên cứu người Mỹ về sinh học, ông Harold Varmus và ông Michael Bishop, là những người đầu tiên khám phá ra những gien biến đổi của gien b́nh thường (1976). Cho măi đến năm 2001 mới bắt đầu có thuốc chỉ nhắm vào những gien ung thư được bào chế. Gần đây nhất có thuốc Avastin được dùng để bóp nghẹt những bướu ung thư. Người ta tiên đoán từ nay đến năm 2015 sẽ xuất hiện rất nhiều thuốc mới càng ngày càng hiệu quả hơn.
Nguyễn Duy Vinh
(cựu học sinh trung học Nguyễn Trăi Sài G̣n)
(*) hai giáo sư chuyên về ung thư, ông Carlos Sonnenschein và bà Ana Soto của đại học Tufts (Boston, USA) nghĩ rằng bệnh ung thư là do sự xáo trộn của những tế bào được gây ra bởi sự truyền thông giữa các tế bào bị gián đoạn.
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua : Phần 1 - Arthritis
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua : Phần 1 - Arthritis
Arthritis : Đau nhức các khớp xương, hay c̣n gọi là phong thấp
Có hai loại Đau nhức: Osteoarthristis, tạm gọi là loại Một (cho các vị cao niên dễ nhớ) và Rheumatoid Arthritis mà ta tạm gọi là loại Hai.
Loại Một gây ra những đau nhức ở cổ, vai, bàn tay, ngón tay, đầu gối, xương chậu... Nguyên nhân thường là do tuổi tác (phụ nữ trên 45 tuổi có thể mắc bệnh này), thoái hóa xương, di truyền, bệnh mập ph́, hay do những động tác không ngay ngắn được lập đi lập lại lâu ngày như ngồi ghế cong lưng, ngồi lái xe mà thắt lưng bị bẻ cong, nghiêng đầu sang một bên, tay đánh máy suốt ngày không thư dăn, đứng một vị thế cong trong nhiều giờ, nhiều ngày.... Trên nước Mỹ có tới 21 triệu người bị đau loại Một.
Loại Hai cũng đau ở các đốt xương, có thể sưng lên, làm biến dạng xương, khó đi đứng, cử động. Loại này có trên 2 triệu nguời mắc bệnh. Nguyên nhân có thể do hệ thống miễn nhiễm không làm việc tốt, bị di truyền, hay v́ thời tiết thay đổi đột ngột.
Nói chung cả hai loại đều gây đau nhức, nhiều người cảm thấy “khốn khổ, khốn nạn” khi bị các cơn đau hành hạ. Hoặc đi một lúc th́ cảm thấy nhức chân, rồi đi lệch lạc. Hoặc ngủ không nổi v́ khớp xương đầu gối buốt quá. Hoặc ngồi lâu th́ tê hai bả vai...
Thường th́ có ba (3) cách điều trị các bệnh đau nhức : Thuốc uống (Medication), giải phẫu (Surgery) và Không dùng thuốc (Non-medication). Hai phương pháp đầu tiên, dĩ nhiên, là phải qua Bác sĩ.
Phương pháp thứ Ba: Không dùng thuốc lại gồm ba cách: châm cứu, vật lư trị liệu, và tập luyện (exercise). Trong ba cách này, Tập Luyện (Exercise) dễ hơn cả và tác dụng lâu bền hơn cả. Châm cứu có tác dụng tức khắc, nhưng cũng hết tác dụng nhanh lắm. Vật Lư trị liệu cũng thế. Khi được Mát xa, th́ thấy rất “đă”, nhưng chỉ một ngày sau là lại đau như cũ. Vậy chỉ c̣n các TẬP LUYỆN lấy một ḿnh, không tốn tiền, không phải giải phẫu, cũng không phiền ai, nhưng chỉ cần Ư CHÍ tự thắng mà thôi.
Người viết bài này, chỉ c̣n một ít chỗ khớp xương nào c̣n nguyên vẹn mà chưa lần ...gẫy. Tuổi trẻ, đi tập đủ loại vơ nghệ: Nhu Đạo, Thái cực Đạo, Hapkido, Aikido, Thiếu Lâm.. không môn nào mà không mang cho thân thể một lần trật xương, gẫy vỡ. Đấu vật th́ cắm đầu xuống đất, lọi cổ tưởng chết. Rồi chống tay xuống đất, vỡ xương cổ tay, lọi cùi chỏ.. Nhẩy qua chướng ngại vật: gẫy vai (2 lần). Đá người th́ bị lọi ngón chân. Vật người th́ bị gẫy thắt lưng... Bó bột liên miên, hết tay lại chân. Vào nhà thương chích thuốc rồi qua Thầy Cự Thất bó gà, qua Thầy Tầu điểm huyệt, có lần nhờ thầy Cao Miên thổi bùa cho lành vai... Tất cả những lần gẫy vỡ ấy, tuổi thanh niên sung sức chẳng coi nhằm nḥ ǵ, giờ này, mới thấy thấm thía: đau nhức khắp người. Muốn hết đau nhức mà không muốn uống thuốc, không chích Cortisone, không đi Bác sĩ chỉnh xương, th́ phải tập luyện hoài hoài, ngưng tập là .. đau! Cho nên, viết bài này để chia xẻ những ai đau đớn v́ bệnh phong thấp, nhức xương, mong mọi nguời cùng khỏe.
Nguyên lư :
Hệ thống thần kinh của con người chạy cùng khắp thân thể, chỗ nào cũng có, từ đầu cho tới ngón tay, ngón chân. Tuy nhiên, theo h́nh vẽ về hệ thần kinh được treo tại các pḥng mạch Tây, Đông Y, ta thấy chùm dây thần kinh đi từ sau ót tỏa ra cánh tay, xuống lưng, qua xương sống, tới hông, đùi, rồi chân (trông như một bó dây điện) là chùm quan trọng nhất. Nếu bị “kẹt” đâu đó, th́ đau. “Kẹt” trên cổ có thể gây đau ra cánh tay, bàn tay. “Kẹt” thấp xuống dưới th́ đau bắp thịt lưng, đau thắt lưng, “kẹt” ở chỗ thắt lưng lại gây đau ở đùi, chân... Cho nên, khi bị đau quá v́ xương thoái hóa hay v́ đụng xe, mà phải giải phẫu, bác sĩ sẽ cân nhắc rất kỹ. Mổ ở thắt lưng, nếu “xui”chạm giây thần kinh, có thể bị liệt chân mà thôi, nếu mổ ở cổ mà bị “xui”, có thể liệt cả người! V́ thế, chỉ những trường hợp đau cổ chịu hết nổi, bắt buộc phải giải phẫu th́ phải kư giấy chấp nhận 50/50, một là khỏi, hai làđời xe lăn. Hên th́ cũng có thể phải ghép một cây sắt vào trong cổ. Đôi khi phải mổ lại.. Chỉ c̣n cách Tập Luyện, cho thư giăn thần kinh chỗ gây đau, cho mạnh bắp thịt chỗ đau, cho khớp xương được chuyển động dịu dàng trở lại, kích thích chất nhờn đầu khớp xương phục hoạt, điều chỉnh lại những chỗ lệch lạc xương cốt, th́ sẽ .. bớt đau (không phải HẾT đau, v́ hễ ngưng tập một thời gian, có thể đau lại).
A- CHỮA ĐAU CỔ, ĐAU VAI, ĐAU TAY :
1-Xoay cổ trái phải: nh́n thẳng trước mặt, xoay cổ từ trái sang phải chầm chậm, mắt vẫn nh́n ra đằng trước, từ từ hít vào. Từ từ trả cổ trở lại phía trước, rồi xoay sang bên phải, mắt vẫn nh́n ra đằng trước, thở ra. Nhớ xoay cho hết cỡ, tới khi không xoay được nữa th́ thôi. Làm 10 lần.
2-Gập cổ: ngửa cổ lên chầm chậm cho tới hết cỡ, từ từ hít vào. Chầm chậm gập cổ xuống ngực, hết cỡ, thở ra. Làm 10 lần.
3-Bẻ cổ: Mắt nh́n thẳng đằng trước, bẻ cổ nghiêng xuống đầu vai trái, hít vào. Từ từ thở ra, bẻ cổ qua đầu vai bên kia. (Khác với xoay cổ trái phải: ở đây, khi bẻ đầu xuống vai th́ đầu vai có hơi nhô lên cho chạm với đầu, c̣n xoay cổ trái phải th́ chỉ quay đầu vào khoảng trống sau vai mà thôi). Làm 10 lần.
4-Xoay cổ ṿng tṛn: Dùng điểm tựa là cổ, xoay ṿng đầu chung quanh cổ, từ phải sang trái 10 lần rồi từ trái qua mặt 10 lần.
B-CHỮA ĐAU CÁNH TAY, BÀN TAY :
1-Xoay vai: hai tay buông thỏng, dùng đầu vai làm điểm tựa, xoay vai theo một ṿng tṛn chạy chung quanh đầu vai ( không phải nhô lên, hụp xuống) từ sau ra trước, rồi từ trước ra sau. 10 lần. Trong khi xoay vai, vẫn hít thở đều đặn.
2-Lắc bàn tay: giơ cánh tay ra trước mặt, cùi chỏ ép hai bên thân ḿnh, giữ nguyên cổ tay và cánh tay, hai bàn tay để trước mặt, ḷng bàn tay hướng vào phía ngực. Lắc từ trên xuống dưới (như giũ giũ bàn tay) thật mạnh 10 lần. Đổi hướng, cho mu bàn tay lên trên, ḷng bàn tay hướng về mặt đất, giũ mạnh bàn tay từ trên xuống dưới. 10 lần. Đổi hướng, hai ḷng bàn tay quay vào nhau, giũ mạnh bàn tay từ trái qua phải, từ phải qua trái. Những người thư kư đánh máy, làm “neo”, thợ may.... phải tập bàn tay thường xuyên, nếu không, có thể bị mổ cổ tay v́ khớp xương cổ tay bị cứng khô lại.
3-Vẽ ṿng trên đất: đứng rộng chân ra, một tay vịn vào mặt bàn, nguời nghiêng xuống cho song song với mặt đất, cánh tay buông thỏng, tưởng tượng như đang cầm một cái que, vẽ một ṿng tṛn tưởng tượng thật to trên mặt đất . Vẽ nhanh 10 lần rồi đổi tay. Hít thở đều ḥa.
C-CHỮA ĐAU THẮT LƯNG, ĐÙI, CHÂN :
1-Xoay thắt lưng theo ṿng tṛn: hai tay chống hông, ngón tay để ra sau lưng, ngón cái phía trước, các ngón tay ấn mạnh vào thắt lưng, dùng thắt lưng làm điểm tựa, xoay ṿng bụng ra trước rồi ṿng qua bên phải (bên trái) ra sau, rồi ṿng tới trước. Làm liên tục không ngừng, khi ra tới trước, th́ bụng phải ưỡn ra hết cỡ. Khi ra sau th́ thắt lưng cong lại cũng hết cỡ. Hít thở chầm chậm theo ṿng.
2-Gập lưng: cũng như gập cổ, ngửa lưng ra, hít vào, gập thắt lưng xuống, thở ra. Khi ngửa lên, ngửa hết cỡ, khi gập xuống, cũng gập hết cỡ.
3-Xoay hông: hai tay buông thơng bên sườn, vặn người qua bên trái th́ hai cánh tay cũng “văng” theo bên trái, nghĩa là không dùng sức tay, chỉ để cho hai cánh tay “văng” theo mà thôi. Xong, vặn người qua bên phải. Hai cánh tay lại “văng” theo bên phải. Nhớ khi xoay sang bên nào th́ xoay gót chân bên đó, và bàn chân bên đó nhấc lên, nghĩa là xoay trên gót chân mà thôi. Mục đích làm cho ṿng xoay rộng thêm, nếu giữ nguyên bàn chân trên mặt đất, ṿng xoay sẽ ngắn lại. Hít thở chầm chậm.
D-CHỮA ĐAU ĐẦU GỐI :
1-Xoay gối trái phải: đứng vừa phải, hai bàn tay đặt trên đầu gối, thấp người xuống, xoay đầu gối theo một ṿng tṛn về phía phải (theo ṿng kim đồng hồ) 10 lần rồi đổi hướng quay theo bên trái.
2-Xoay gối trong ngoài: đứng rộng chân ra, hai tay đặt trên đầu gối, thấp người xuống, xoay đầu gối từ ngoài vào trong rồi từ trong ra ngoài.
Các thế đầu gối này, mới đầu th́ chỉ thấp người xuống một chút, sau đó, mỗi ngày càng thấp người xuống hơn, công lực sẽ mạnh hơn. Chỉ cần làm 10 phút, là đă thở mạnh, toát mồ hôi rồi. Người nhức đầu gối ban đêm phải tập trước khi lên giường ngủ.
Lưu ư :
- Những thế tập này chỉ được áp dụng với người chưa giải phẫu xương lần nào. Nếu đă giải phẫu cổ th́ không được tập cổ. Nếu giải phẫu lưng rồi mà muốn tập lưng, phải hỏi bác sĩ, xem phim X-ray có trở ngại ǵ không..
- Phối hợp vừa châm cứu, vừa mát xa, vừa tập luyện th́ rất tốt.
- Trường hợp đau kinh niên v́ xương rồi, có thể uống thêm Glucosamine có bán tại các tiệm thuốc Tây để kích thích chất nhờn đầu xương và xương. -Mua một cái máy mát-xa nhỏ cầm tay để chà xát chung quanh chỗ bắp thịt đau sẽ hiệu nghiệm nhanh hơn.
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua : Phần 2 - Tai biến Mạch Máu Năo
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua : Phần 2 - Tai biến Mạch Máu Năo
Hỏi: Tai Biến Mạch Máu Năo (TBMMN) là bệnh ǵ?
Đáp: TBMMN tiếng Anh gọi là stroke hay cerebrovascular accident (CVA) xảy ra lúc mạch máu đem dưỡng khí và chất dinh dưỡng đến nuôi năo bị vỡ ra hay nghẽn lại. Lúc năo thiếu máu như vậy, dưỡng khí sẽ bị thiếu và tế bào năo sẽ chết đi.
Hỏi: Bệnh TBMMN có thường xảy ra không?
Đáp: Hàng năm tại Hoa Kỳ có khoảng 730,000 trường hợp mới của bệnh TBMMN. Theo thống kê năm 2000 ở Úc, mỗi năm có 12,000 người chết v́ bệnh TBMMN so với 24,000 người chết v́ bệnh tim. Càng lớn tuổi càng dễ bị TBMMN. Trên thế giới từ thập niên 70s, số tử vong do TBMMN giảm xuống c̣n 7% mỗi năm nhờ sự hữu hiệu của việc điều trị bệnh cao huyết áp.
Hỏi: Có dễ bị TBMMN lần thứ hai không?
Đáp: Rất dễ bị TBMMN lần thứ hai. Trong ṿng 5 năm kể từ lần bị đầu tiên có từ 1/3 đến Ỏ số người sống sót sẽ bị TBMMN lần thứ hai. Có nghĩa là 34% đến 50% (hay 1 trong 2 hay 3 người sẽ bị TBMMN lần thứ hai).
Hỏi: Bệnh TBMMN được phân loại như thế nào?
Đáp: Bệnh TBMMN đuợc chia thành nhiều loại chính dựa trên sự hư hại của mạch máu: mạch máu bị nghẽn hay mạch bị vỡ làm chảy máu trong đầu. V́ mỗi loại TBMMN có cách điều trị khác nhau cho nên các BS cần định bệnh sớm và xác định loại nào và nơi hư hại một cách chính xác. Loại nghẽn mạch máu gây ra sự thiếu máu đến năo (tiếng Anh gọi là ischemic stroke) có thể do máu đông tại chỗ "thrombotic stroke" hay bị nghẽn v́ cục máu chuyển đi từ nơi khác trong thân thể "embolic stroke" :
53% TBMMN thuộc loại thrombotic stroke
31% thuộc loại embolic stroke
13% do chảy máu trong sọ
6% do chảy máu dưới màng nhện trong vỏ năo.
Hỏi: Có bệnh nào gây ra chảy máu trong TBMMN?
Đáp: Mạch máu bị vỡ làm cho thiếu máu ở vùng năo sau nơi vỡ và các tế bào năo bị chết đi. Ngoài ra, máu chảy ra đông lại thành cục có thể đẩy lệch các cơ cấu của năo và làm hư hại các chức năng của năo bộ. Có 2 loại chảy máu trong đầu: một là chảy máu dưới màng nhện; hai là chảy máu trong sọ. Loại chảy máu dưới màng nhện có thể do bệnh mạch lựu (nở động mạch- aneurysm) hay do tật động tĩnh mạch bẩm sinh - arteriovenous malformations (AVM).
Hỏi: Xin mô tả các triệu chứng báo hiệu bệnh TBMMN
Đáp: BS của quí vị có thể t́m thấy các dấu hiệu cho thấy quí vị dễ bị TBMMN. Quí vị cũng có thể được báo hiệu bởi các triệu chứng của bệnh TBMMN như sau:
1. tự nhiên thấy yếu, tê rần hay liệt tay chân hay mặt nhất là nếu bị một phiá của thân thể
2. mất khả năng nói hay khó nói hay không hiểu ngôn ngữ
3. đột nhiên mất thị giác nhất là ở một mắt.
4. đột nhiên nhức đầu dữ dội không có nguyên nhân
5. đột nhiên chóng mặt, mất thăng bằng.
Hỏi: Thế nào là cơn thiếu máu tạm thời (TIA: transient ischemic attack)?
Đáp: Khoảng 1/3 các trường hợp TBMMN được báo hiệu trước bằng cơn thiếu máu tạm thời, tiếng Anh gọi tắt là TIA (Transient Ischemic Attack). TIA có thể xảy ra trước TBMMN vài ngày, vài tuần hay vài tháng. TIA xảy ra do sự tạm thời ngưng cung cấp máu lên năo. Triệu chứng thường ngắn hạn từ vài phút đến vài giờ. Chẳng hạn quí vị đột nhiên thấy yếu tay hay yếu chân rồi tự nhiên triệu chứng biến mất. Đó là triệu chứng báo hiệu quan trọng, quí vị phải đi khám BS ngay.
Hỏi: Có liên hệ ǵ giữa thuốc ngừa thai và bệnh TBMMN?
Đáp: Thuốc ngừa thai đặc biệt là loại chứa nhiều estrogen làm tăng gia hiểm nguy đông máu có thể gây ra bệnh TBMMN, nhất là ở phụ nữ trên 30 tuổi.
Hỏi: Các yếu tố gây bệnh TBMMN?
Đáp: Có nhiều yếu tố gây hiểm nguy của bệnh TBMMN như: tuổi tác, tính phái, sắc dân và bệnh sử gia đ́nh.
Càng lớn tuổi càng dễ bị TBMMN; 2/3 các trường hợp xảy ra ở người trên 65 tuổi. Bệnh TBMMN xảy ra ở đàn ông 25% nhiều hơn đàn bà. Người Mỹ da đen bị TBMMN nhiều hơn người da trắng.
Ngoài ra cũng có nhiều yếu tố có thể thay đổi được trong việc gây bệnh TBMMN như chữa trị bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, không hút thuốc lá, giữ cho người không quá mập, tăng gia thể dục thể thao, ăn uống điều độ, giảm cholesterol hay tránh thuốc ngừa thai ở phụ nữ dễ bị đông máu.
Hỏi: Các phương pháp mới để định bệnh TBMMN?
Đáp: Trong bệnh TBMMN, định bệnh sớm và chính xác rất quan trọng. Các phương cách định bệnh hiện đại sau đây được dùng để định bệnh TBMMN:
1. h́nh cắt lát CT scan là phương cách đầu tiên cho người bệnh ở pḥng cấp cứu. CT scan giúp phân biệt nhanh chóng loại TBMMN do nghẽn mạch hay do chảy máu.
2. H́nh MRI giúp xác định chính xác vị trí hư hại trong bệnh TBMMN. H́nh rất bén nhậy cho nên thường dùng trong các bệnh TBMMN do các mạch nhỏ
3. MRA, để t́m xem nơi chảy máu và phân loại
4. Transcranial Dopler
5. Carotid Duplex Scanning để xem động mạch ở cổ có bị nghẽn không
6. Xenon CT scan dùng để đo lưu lượng máu trong năo
7. Radionuclide SPECT Scanning dùng chất phóng xạ để đo lưu lượng máu trong năo.
8. H́nh chụp mạch máu năo có thể cho biết t́nh trạng của các mạch máu năo.
Ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp. Nhưng ăn ngon có cái nguy hiểm của nó nhất là khi ở những nước sống lâu quá tuổi 60 mới nh́n thấy hậu quả.
Việc đầu tiên là cơm chúng ta ăn. Ở Mỹ hay Châu Âu hay Úc Châu, dân Việt vẫn coi cơm là cơ bản. Dân Á Châu là vậy, di dân sang Mỹ hay Úc họ vẫn coi cơm là món ăn chính, bánh ḿ không thể thay thế. V́ ăn cơm chặt bụng, no lâu và tiêu hóa dễ chịu hơn bánh ḿ v́ cơm có số lượng nước liên kết chặt chẽ với bột, amylose hay amylopectin.
Và cơm là phải cơm trắng dẻo như Nàng Thơm hay Jasmine Thái Lan hay Kyoto Nhật Bản. Và phải hai bát mỗi bữa tức là phải 300 hay 400gr cơm một bữa..
Ngày xưa tổ tiên chúng ta chọn gạo là đúng v́ khí hậu nhiệt đới không thể trồng lúa ḿ, lúa ḿ đ̣i hỏI khí lạnh nhiệt độ 17 độ C. Trồng gạo hai vụ rất lợi cho kinh tế và nhất là hột gạo có những chất bổ vô cùng hấp dẫn cả về phẩm chất cũng như số lượng.
Nhưng tiếc thay bao nhiêu chất bổ tập trung vào vỏ cám ngoài hạt và oái oăm hơn nữa, cám có nhiều chất lipoproteins rất bổ nhưng mau chóng bị chất enzyme lipase trong cám oxy hóa và trở nên khét không dự trữ được. Các cụ chỉ có cách giă gạo cho bớt cám rồi ăn hạt, cám cho heo ăn. Tuy vậy bao gạo cũng không tồn trữ trữ lâu được, phải đến thế kỷ thứ 19, khi Pháp sang làm nhà máy xay lúa mới giải quyết được vấn đề kinh tế, làm sao tồn trữ được bao gạo hàng năm, dùng máy xay cho trắng sạch gạo rồi đánh bóng “Polish” hạt gạo nhẵn và đều. Cám bị loại hết cho heo ăn. Nhưng tai hại cho sức khoẻ con người nhất là dân “khá giả” hay “trưởng giả”, may cho dân nghèo vẫn ăn gạo đỏ hay “gạo Lức muối mè”.
Hạt gạo đă xay máy và đánh bóng chỉ c̣n chất bột starch mà lúc đó là tinh bột “Refined Starch” nó có đặc điểm của nó. Nó cũngnhư các Refined Starch từ lúa ḿ, nó không c̣n chất xơ (Fiber) tập trung trong cám, nó mất đi 67% Vitamin B3, 80% Vitamin B1, 90% Vitamin B6, một nửa số Manganese, môt nửa số Phosphorus, 60% Sắt Iron, 100% Fiber, và tất cả những fatty acids cần thiết. Mất. tất cả Selenium, Magnesium. Đến nỗi theo Luật Hoa Kỳ gạo sản xuất ở Hoa Kỳ phải cho thêm B1, B2 và Iron nhưng cho thêm không thể nào bằng thiên nhiên.
Brown Rice, gạo đỏ cũng được sản xuất ở Hoa Kỳ nhưng không phảI là dễ dàng, phải vô hiệu hóa chất enzyme lipase trong cám nếu không chỉ vài giờ sau là gạo hư. Phần nhiều người ta dùng nhiệt độ 80 độ C xấy khô nhưng gạo đỏ cũng chỉ tồn trữ được 6 tháng.
Khi đă xay vỡ vỏ thóc ngoài cùng, c̣n lại lớp cám Bran và nhân Germ, xay nữa và mài nữa th́ mất lớp Aleurone (rất nhiều chất mỡ rất cần thiết, essential fats). Nhưng như vậy mới tồn trữ được hột gạo trông rất trắng rất đẹp, ăn ngon v́ mềm và thơm, nhưng chỉ c̣n bột Refined Starch.
Nghiên cứu của Đại Học Tufts, Boston Massachusetts cho biết tinh bột Refined Starch được hấp thụ ở ruột rất nhanh và nằm đó dưới t́nh trạng mỡ, mỡ xung quanh ruột, gan và vùng xương chậu pelvis. Trông không mập, bụng không phệ nhưng có một lượng mỡ quan trọng trong vùng bụng xung quanh ruột .. Có thể người coi ốm chứ không mập.
Đại học Tufts nghiên cứu một số người ăn bánh ḿ trắng tinh bột so với một số người ăn bánh ḿ có bran có fiber. Sau 1 năm rưỡi, những người ăn bánh ḿ tinh bột thấy dây thắt lưng phải nới thêm ( ½ inch mỗi năm). Có vẻ đường hấp thụ th́ Insulin đẩy vào tồn trữ ngay trong những tế bào mỡ xung quanh ruột. Và những người đó có nguy cơ bị bệnh tiểu đường loại 2, Diabetes type 2, đường trong máu glycemia cao hơn nhóm ăn bánh ḿ nâu có bran.
Sau đó nước Mỹ thay đổi cách ăn uống, khẩu hiệu White Bread Round Waist (Bánh trắng bụng tṛn) do Bộ Y tế (Dept of Health and Human Services) tung ra và các siêu thị (Super Market) thay đổi bộ mặt tại gian hàng bánh ḿ. Bánh ḿ trắng vẫn c̣n bán nhưng không được trắng lắm v́ FDA ra lệnh ít nhất phải 51 % xơ (Fiber) trong bánh ḿ. Và vô số bánh ḿ có chứ W tức là Whole grain không được Refined Starch nữa.
Và nay người ta biết tại sao. Các tế bào mỡ vùng xung quanh ruột rất quan trọng trong vai tṛ điều ḥa bằng tín hiệu (signaling), sản xuất nhiều hormons, cytokines đi hoạt động ở nhiều bộ phận vùng bụng như Pancreas. Một cytokine khích động NF-KB pathway làm chất Insulin không c̣n hữu hiệu nữa. Insulin Resistance (Chống lại Insulin là định nghĩa của Diabetes type 2).
Tiểu đường loại 1 là Pancreas không sản xuất được Insulin hay sản xuất rất ít, phần nhiều người trẻ do di truyền hay cơ thể tự hủy hoại autoimmunity sau khi nhiễm siêu vi trùng ở Pancreas. Tiểu đường loại 2 là sản xuất Insulin nhưng không hữu hiệu tại các tế bào chính địa bàn hoạt động của Insulin không nhận ra Insulin nữa. Insulin có nhiệm vụ là mở ch́a khóa cửa các tế bào mỡ, gan và bắp thịt cho đường trong máu vào tồn trữ. Đầu tiên là các tế bào Beta của pancreas cũng không nhận ra Insulin, mất chức năng Feedback điều ḥa. Bệnh nhân tiểu đường loại 2 phần nhiều là có tuổi trên 45 khi Insulin và Pancreas bắt đầu thấm mệt. Và người trẻ cũng bi bệnh này nếu quá mập hay ăn quá nhiều đường, số lượng Insulin không cáng đáng nổi.
Con số 22.5% người Việt Nam trên 65 bị tiểu đường loại 2 ở Hoa kỳ không làm ngạc nhiên chút nào. Ông Việt Kiều Hải Ngoại sáng chế ra những thức ăn nhiều bôt tinh chất hay mỡ với số lượng kinh hoàng như bánh ḿ Ba Lẹ, chiêu với cà phê sữa đặc Ông Thọ hay Borden 30% đường nguyên chất. Xong rồi tráng miệng bằng chè đường. Nhiều gia đ́nh ông tiểu đường, cháu béo ph́ v́ bà chiêu đăi mỗi tối môt bữa chè. Ở Việt Nam cũng vậy từ 10 năm nay giai cấp giầu có cũng béo ph́ và tiểu đường như hải ngoại. Béo ph́ ảnh huởng tới genes, bố mẹ béo th́ con cũng vậy.
Khi đường trong máu cao th́ chỉ có 2 cách chữa chạy, phần nhiều là phải thực hiện cả hai; bỏ đường, bỏ bột tinh chất và cử động bắp thịt (exercise). Nếu không ăn kiêng th́ không thuốc nào trị nổi. Có nhiều thực vật có khả năng hạ đường một chút (chúng tôi đă thử một số) như Okra đậu đũa, lá xương rồng, lá dứa, lá ổi, đậu đen, tỏi ta ngâm rượu v.v… nhưng không thay thế nổi insulin và nhất là ăn kiêng (diet). Không thay thế nổi các thuốc hypoglycemiants tác dụng trên pancreas hay gan hay ruột.
Khi đường trong máu lên tới con số trên 126mg/dl khi nhịn đói lúc sáng sớm th́ bắt đầu bênh tiểu đường. Và đầu tiên đi nha sĩ v́ đường cao đưa đến nhiễm trùng mọi nơi trên cơ thể, đặc biệt là răng và lợi. Trong mồm có môt số lượng lớn vi trùng, 30 thứ vi trùng nhiều thứ ta chưa biết tên. Nhiễm trùng răng lợi đưa đến nhiễm trùng nơi xa xôi như tim (endocarditis) và thận (pyelonephritis).
Khi đường trong máu lên cao, nó tác hại nhẹ nhàng nhưng liên tục tới mọi tế bào đặc biết là tế bào nội mạch (endothelial) trên màng trong các mạch máu.Tế bào bị hư hại và atherosclerosis xuất hiện, cholesterol và calcium đóng mảng (Atheroma Plaque) mở đường cho máu đang chảy bị đông lại (thrombosis). Basement membrane của mạch máu dày thêm nhưng không v́ thế mà chắc chắn thêm. Trái lại yếu đi máu thoát vào chảy máu ngay trong thành của mạch. Mạch tắc thiếu dinh dưỡng thiếu oxy cho mọi cơ và bộ phận bị chi phối. Mọi bộ phận từ óc tới ngón chân bị ảnh hưởng, nhưng tai hại nhất là tim, thận, thấu kính (lens) và vơng mạc (retina) tại mắt, và tế bào thần kinh. Mọi mạch máu bị ảnh hưởng, từ động mạch lớn, trung và nhỏ. Người bị tiểu đường nếu thoát được bệnh tim mạch (Cardiovascular accident heart attack), đột quỵ (cerebro vascular accident stroke) th́ tương lai họ là thận suy phải thường xuyên lọc máu (dialysis). Và cuối cùng là tắc tĩnh mạch sâu ở chân (deep vein theombosis), cuối cùng phải cắt chân.
Chất đường glucose không được dùng hết cho sản xuất năng lực, c̣n một số chất thải được phân hóa theo glycosalisation bằng hai hệ thống. Hệ thống không cần enzyme, đường dính với protein và từ từ thành những chất trung gian như Schiff base, Amodari products (???) tỷ lệ thuận với đường trong máu. V́ vậy bác sĩ theo dơi t́nh trạng đường bệnh nhân bằng cách đo Hemoglobin A1C và biết t́nh trạng trong 6 tuần hay 2 tháng vừa qua, đo đường glycemia chỉ cho biết t́nh trạng ngày hôm nay mà thôi. Hemoglobin A1 C người thường từ 4 đến 5, tới 5.7 là t́nh trạng "tiền tiểu đường" hay Prediabetic, 7 là tiểu đường không c̣n kiểm soát nổi.
Khi chúng ta tŕnh diện tại pḥng mạch bác sĩ với t́nh trạng tiểu đường loại 2 phải chờ đợi một khuyến cáo, ông bác sĩ nào cũng vậy "anh hay chị phải giải quyết cái gánh nặng dư 5 hay 10 kư quá mức th́ thuốc mới hữu hiệu". Anh chị ăn ít đi và tập thể dục nhiều lên". Nói th́ dễ mà làm thực khó. Một cuộc chiến đấu gay go và cam khổ cả năm hay cả đời lúc thắng lúc bại.
Glycemic Index (GI) là một chỉ số đo số lượng của món ăn về phương diện đường, ăn xong phần nhiều là 50 gr 2 tiếng sau đo đường trong máu, so với 50 gr đường nguyên chất Glucose. Đo diện tích (Area under curve) giữa đường cong và trục X (thời gian, t, số giờ) và tính nếu bằng glucose là GI 100. Nếu chỉ bằng phần mười diện tích đường cong Glucose th́ GI là 10. Nếu món ăn được hấp thụ ngay qua ruột như glucose th́ GI cao 100 hay gần như vậy. Nhưng nếu món ăn được hấp thụ dần dần một cách nhịp nhàng như trường hợp có nhiều xơ (fiber) th́ GI thấp chỉ 10 hay 20.
Tùy món ăn trong ruột được phân hóa nhanh hay chậm, nhịp nhàng hay không, cách kết hợp của chất bột với xơ, với phân tử protein và mỡ, tùy theo chất bột starch ra sao như bột gạo chất amylose cứng có GI thấp, chất amylopectin dẻo th́ GI cao. GI gạo trắng cao hơn GI gạo nâu khá xa. Tùy theo số lượng Protein trong món ăn, số lượng organic acid. Ví dụ có dấm th́ GI thấp hơn, có mỡ và fiber th́ dạ dày chậm mở hơn. Bánh ḿ nâu GI thấp hơn bánh ḿ trắng nhưng nếu cho enzymes vào cho dẻo th́ GI lên cao ngay. Trái cây và rau có GI đặc biệt thấp nhưng vài trái cây như soài theo kinh nghiệm cá nhân tôi th́ GI cao.
C̣n về số lượng th́ dùng Glycemic Load. Có món ăn rất ngọt nhưng nhiều nước không thể so với món ăn ngọt nặng về đường. Và c̣n tùy theo khẩu phần (serving) là bao nhiêu, ông Mỹ hay Châu Âu khẩu phần bánh ḿ trắng là 30-50 gr, ông Việt Nam bánh ḿ Ba Lẹ tới 300 gr, mập là cái chắc. Cơm trắng ông Mỹ hay ông Úc tính khẩu phần chỉ 150gr cơm, ông Việt Nam hai bát nhỏ là 200 gr rồi.
Glycemic Load là tính theo phưong tŕnh GL= GI x số lượng gr đường trong khẩu phần chia cho 100. Glycemic Load từ 1 đến 10 là thấp, 10 là trung b́nh, 20 là cao.
Vấn đề ăn uống không thể trông cậy vào ai, phải tự ḿnh lo cho thân ḿnh. Không thể lúc nào cũng ăn môt ḿnh một mâm theo sách vở. Món ăn phải hợp khẩu v́ ḿnh ăn không ngon th́ không thể nhịn lâu được. Biết bao trường hợp thành công một thời gian rồi đâu vào đó. Phải biết Glycemic Index và Glycemic load của từng món, ăn cho đủ không thể ăn đói..
Glycemic load cao nhất là cơm nếp rồi tới cơm hay cháo đặc trắng rồi tới cơm hay cháo đặc gạo nâu v́ có cám. Bánh ḿ bagel trắng GL cao nhất là 28, baguette của Pháp GL 15. Bánh ḿ whole wheat chỉ có 9, whole grain bread chỉ có 7, Cơm Gạo Jasmine được dân Việt Kiều ưa chuộng cao kỷ lục về cả GI lẫn GL. Chúng ta bị mập béo tiểu đường là lẽ dĩ nhiên. Chúng ta không cần biết tới khuyến cáo Bộ Y Tế Mỹ, vẫn khư khư bám lấy gạo Thái Lan Nàng Thơm cho khoái khẩu. Chúng ta không cần biết v́ không muốn biết.
Nghiên cứu từ Đại Học Harvard đăng trong American Journal of Nutrition. Nghiên cứu 12 năm liền với 74,000 nữ điều dưỡng cho thấy càng ăn nhiều chất xơ fiber th́ càng bớt cân.
Gạo trắng mất đi 45% trọng lượng hat nguyên thủy khi mất vỏ Bran cám, nguy hại không phải chỉ về vấn đề đường mà thôi. Nguy hiểm hơn nữa là mất rất nhiều dinh dưỡng không thể thay thế được. Mớ mỡ xung quanh ruột và tràn ra máu Triglycerides cao rất khó giải quyết v́ thiếu nhiều công cụ để phân hủy mỡ. Khó giải quyết v́ nằm sâu trong bụng, xa các bắp thịt chân và tay.
Muốn giải quyết lớp mỡ phải cần tới hàng ngàn phản ứng Enzyme phân hóa và trao đổi hàng ngàn metabolites. Phải cần nhiều loại enzymes chống oxydation các fatty acids. Cám Bran có 120 chất antioxydants, có đầy đủ sinh tố (Vitamins) chỉ trừ có Vitamin D và C. Có đầy đủ các loại phytosterols, Beta sitosterols, fibers, Vitamin E Complex, đầy đủ các loại B Complex B1 B2, B3 ngay cả Vitamin B15 hiếm có. Có Enzyme Q 10, nhất là Omega 3, Omega 6 fatty acids, không có th́ không thể giải quyết được Triglycerides cao trong máu. Omega 3 fatty acids trong dầu cá fish oil dùng để trị mỡ Triglycerides cao trong máu đă được các bác sĩ dùng từ lâu, 3 viên mỗi viên 1000 mg Omega 3 fatty acids có thể giảm lượng Triglycerides 300 hay 350mg/dl xuống 150 trong ṿng vài tháng.
Tiếc thay một phần lớn những chất bổ đó bị hủy nếu đun sôi trong 45 phút. Tiếc thay cám gạo "mỏ vàng chất bổ" dùng để làm cám nuôi heo.
Dầu trong cám chứa nhiều Antioxydants hơn mọi thứ dầu thực vật khác, , Vitamin E tocopherol, tocotrienol và nhất là oryzanol (2417 phần trong 1 triệu), hơn hẳn cả về lượng cũng như phẩm dầu đậu soybean, bắp corn, canola, cotton seed, sunflower.
Có Enzyme th́ phải có Co Enzyme. Cám cho ta đầy đủ số lượng Manganese, Selenium, Magnesium.Mn là Coenzym cho nhiều phản ứng antioxidant. Nhiều phản ứng phát sinh năng lượng, phân hóa và sản xuất proteins, fatty acids, cholesterol, metabolites cho sex hormons và mediators cho tế bào thần kinh.
Selenium quan trọng không kém, phối hợp chặt chẽ với xơ trong tiêu hóa và chống oxydation. Đặc biệt chống ung thư (?), phối hợp với Glutathion, sinh tố E.
Magnesium phối hợp chặt chẽ với Ca, được gọi là Calcium channel blocker thiên nhiên, không thể thiếu trong mọi phạm vi hoạt động của Ca như xương, thần kinh, và bắp thịt.
V́ thế gạo trắng tinh chúng ta ăn thiếu những dinh dưỡng cần thiết. Gây cho chúng ta những vấn đề như tiểu đường loại 2. Không thể giải quyết được nạn Việt kiều tiểu đường loại 2 nếu không đi vào nguyên nhân như người Mỹ đă làm. Không dễ đâu v́ người Mỹ cũng có một số nhất định vẫn ăn bánh ḿ trắng. Dân Việt cũng như dân Á Châu khác có vẻ cứ ăn gạo ngon, bệnh tật tính sau.
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua: Phần 4 - Sáu Bước Đơn Giản Để Giữ Đầu Óc Minh Mẩn
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua: Phần 4 - Sáu Bước Đơn Giản Để Giữ Đầu Óc Minh Mẩn
Dr Mehmet Oz & Michael Roisen/ Liên Mai Nguyễn
B́nh thường Bị Alzheimer
Phúc tŕnh mới nhất của chính phủ cho biết rằng thuốc bổ (supplements), hay thuốc chữa bệnh không giúp ǵ được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer, tức là bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng phải, giống như trường hợp của cựu Tổng Thống Ronald Reagan.
Nhưng nếu chúng ta đọc thật kỹ phúc tŕnh của chính phủ, để ư đến những ḍng chữ nhỏ, chúng ta sẽ t́m thấy được nhiều thông tín hữu ích trong việc ǵn giữ những tế bào chất xám trong đầu không bị lăo hoá.
Sự thực được báo cáo này đưa ra cho chúng ta thấy là không có hồ sơ chứng liệu nào cho biết thuốc chữa bệnh, hay thuốc bổ đem lại ích lợi cho việc chống lại căn bệnh quái ác này. Nhưng ngược lại, phúc tŕnh đó lại đưa ra những bằng chứng rơ ràng là nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên năo dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ.
Bản phúc tŕnh không giải thích v́ sao. Nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rơ : Không phải mọi hiện tượng mất dần trí nhớ - dementia - đều trở thành bệnh Alzheimer. Nhưng đầu óc của chúng ta trở nên cùn lụt khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau. Yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu, v́ mạch máu bị tắc nghẽn, hay bị hở, gọi chung là vascular dementia ...Trong cả hai trường hợp đều khiến cho trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ của chúng ta trở nên loạng quạng (fuzzy), hậu quả bởi việc óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar).
Nhiều bệnh nhân của căn bệnh Alzheimer không ít th́ nhiều đều vướng phải t́nh trạng vascular dementia. Những trở ngại khi suy nghĩ mà các cụ già gặp phải phần lớn v́ máu không đưa lên đầu dễ dàng. Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này, hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên năo bộ đuợc thông tuông dễ dàng.
Pḥng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những ǵ để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng.
1 - Mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10000 bước đi : Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc. Phân bón tự nhiên cho năo bộ chính là máu đưa lên đầu. Mỗi ngày ráng bước đi khoảng 10000 buớc chân, bằng cách này hay cách khác để máu từ tim đi lên đầu. Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít nhất 3 lần một tuần tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer. Bạn có thể làm một trong những hoạt động sau đây tuỳ theo sở thích của ḿnh : Đi Bộ, Làm Vườn, hay Khiêu Vũ.
2 - Ăn thực đơn có nhiều rau và hoa quả như người Hy Lạp : Rau tươi, trái cây tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất « flovonoids » giúp tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu nhóm đàn ông đàn bà thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê, hay rượu nho, có nhiều chất flovonoids. Họ thường có năo bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi. Và sự suy sụp cuả năo bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76 % bệnh lú lẫn, hay mỗi ngày uống khoảng 900 mg thuốc bổ để thay thế rau, sẽ giúp tăng sự bén nhậy của trí óc, và giúp trẻ thêm được khoảng 3,5 tuổi.
Hay ăn thực đơn của dân Địa Trung Hải : ăn uống hàng ngày giống thực đơn của người Ư và người Hy Lạp, gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá, và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt. Ăn theo kiểu dân Địa Trung Hải sẽ giúp đầu óc minh mẫn sáng suốt tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48 %.
3 - Cương quyết từ bỏ những thói hư, tật xấu như hút thuốc lá, và nghiện rượu. Thuốc lá chứa độc tố rất hại ho năo bộ, v́ thế người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80 %.
4 - Đừng uống rượu mạnh quá độ. Đa số những người nghiện rượu đều vướng vào bệnh Alzheimer. Đàn bà chỉ nên uống rượu tối đa mỗi ngày một ly thôi. Đàn ông đuợc uống tới hai ly. Uống một chút rượu có lợi cho việc ǵn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25 % người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu.
5 - Ráng duy tŕ huyết áp ổn định ở mức thấp : Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính v́ vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50 % trường hợp gây ra lú lẫn, hư trí nhớ. Chúng ta hăy ráng duy tŕ huyết áp ở mức thấp - lư tưởng là 115/75 - bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, giữ trọng lượng thân thể thấp, đừng để lên cân, béo mập. Nên theo dơi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường, hay thậm chí sắp sửa bị tiểu đường cũng là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, gây ra bệnh lú lẫn. Bệnh tiểu đường dễ làm các mạch máu nhỏ bị hở, và chảy máu trong năo.
6 - Tránh đừng để bụng phệ : Ṿng bụng ở tuổi trung niên to báo hiệu trước có thể bị vướng bệnh lú lẫn khi về già. Cuộc nghiên cứu theo dơi 6000 người đưa ra kết quả cho thấy cái bụng phệ rất hại cho động mạch chính dẫn máu về tim, và máu lên đầu. V́ thế cho nên chúng ta nên cố gắng duy tŕ ṿng bụng dưới 35 inches cho các bà, và dưới 40 inches cho các ông.
Chỉ có một bộ phận nên ǵn giữ cho to lớn. Đó chính là năo bộ của bạn.
Việc tự đặt ra những thử thách, kích thích và luyện tập hiệu quả cả 5 nhóm chức năng của bộ năo sẽ giúp sống khỏe, minh mẫn ngay cả khi tuổi tác đă nhiều.
Ghi nhớ
Ghi nhớ đóng vai tṛ thiết yếu hơn cả trong nhóm các chức năng tri giác, nó có trong những việc đọc, lập luận, tính toán.
Để duy tŕ trí nhớ tốt, bạn cần phải rèn luyện, và điều này đơn giản hơn bạn tưởng: Nghe nhạc rơ ràng là hoạt động rất thú vị, và nếu bạn chọn một bài hát không biết hoặc không nhớ lời, bạn sẽ tự làm tăng lượng acetylcholine, một chất hóa học giúp kiến tạo thêm cho năo, nâng cao khả năng ghi nhớ cho năo bộ.
Hăy tự tạo ra thử thách cho ḿnh bằng cách tắm hoặc mặc quần áo trong bóng tối, hoặc dùng tay trái đánh răng. Tất cả những hoạt động như vậy sẽ giúp tạo ra những kết nối mới giữa các tế bào thần kinh khác nhau trong bộ năo.
Sự tập trung
Khả năng tập trung là yếu tố rất cần thiết gần như trong mọi hoạt động hàng ngày của con người. Biết tập trung tốt sẽ giúp bạn có thể duy tŕ sự chú ư ngay cả khi xung quanh rất ồn ào và liên tục bị ngắt quăng để hoàn thành nhiều hoạt động trong cùng một thời điểm.
Ta có thể cải thiện năng lực tập trung bằng cách đơn giản là thay đổi những thói quen hàng ngày. Chẳng hạn, bạn có thể thay đổi đường đi tới công ty hay sắp xếp lại bàn làm việc, cả hai cách đó đều sẽ bắt trí óc bạn phải tỉnh táo hơn để thoát khỏi những thói quen.
Khi tuổi tác nhiều hơn, sức chú ư của chúng ta cũng giảm dần, điều này khiến ta dễ bị phân tán hơn và khả năng kết hợp nhiều hoạt động cùng lúc cũng giảm hiệu quả. Bằng cách kết hợp các hoạt động như vừa nghe một cuốn sách nói vừa chạy bộ, hay làm toán trong khi lái xe có thể khiến năo bạn hoạt động nhiều hơn trong cùng một thời điểm. ( Ghi thêm : vừa làm toán vừa lai xe th́ có thể giúp bạn lên thiên đàng sớm hơn !!! )
Ngôn ngữ
Các hoạt động ngôn ngữ sẽ buộc chúng ta phải nhận diện, ghi nhớ và hiểu ư nghĩa các từ vựng. Chúng cũng sẽ giúp ta rèn luyện kỹ năng ngữ pháp, sự trôi chảy trong khi nói, viết và tăng lượng từ vựng.
Với bài tập hàng ngày, bạn có thể mở rộng kho từ mới và dễ dàng nhận diện các từ ngữ quen thuộc. Chẳng hạn, nếu bạn chỉ thường xuyên đọc những bản tin thể thao th́ bây giờ, hăy thử đọc những bài báo viết về thương mại một cách kỹ lưỡng.
Bạn sẽ tiếp cận với những từ mới, tuy nhiên, chúng sẽ dễ hiểu hơn khi đọc trong một văn cảnh nhất định và thậm chí, nếu bạn chưa hiểu được, bạn có thể tra cứu bằng từ điển. Hăy dành thời gian để hiểu những từ mới đó ngay trong ngữ cảnh văn bản, điều này sẽ giúp bạn xây dựng kỹ năng ngôn ngữ và dễ dàng vận dụng những từ ngữ mới trong cuộc sống hàng ngày cũng như công việc.
Nhận thức thị giác
Chúng ta đang sống trong một thế giới 3 chiều đầy màu sắc. Việc phân tích các thông tin về mặt thị giác là điều cần thiết và có thể được thực hiện ngay trong môi trường sống của bạn.
Để luyện tập chức năng tri giác này, bạn hăy đi vào một căn pḥng, chọn t́m 5 đồ vật và ghi nhớ vị trí của chúng. Khi ra khỏi pḥng, hăy cố gắng nhớ lại 5 vật đă chọn đó cùng vị trí của chúng. Bạn thấy điều này quá đơn giản ư? Hăy chờ qua 2 giờ đồng hồ sau đó, và nhớ lại những vật này cùng vị trí của chúng.
Hăy nh́n về phía trước và ghi lại mọi điều bạn có thể thấy trước mặt và hai bên tầm nh́n của bạn. Hăy bắt ḿnh nhớ lại mọi điều và ghi ra. Cách làm này sẽ buộc bạn phải sử dụng trí nhớ và rèn luyện cho trí năo khả năng tập trung vào những điều xung quanh bạn.
Chức năng hành động
Mặc dù có thể không nhận ra, nhưng bạn đang sử dụng kỹ năng logic và lập luận hàng ngày để đưa ra những quyết định, xây dựng các giả thuyết và xem xét những kết quả có thể diễn ra trong những hành động của ḿnh. Các hoạt động trong đó bạn phải xác định chiến lược để đạt được kết quả mong muốn và tính toán những hành động thích hợp để t́m ra giải pháp trong thời gian ngắn nhất có thể chính là những hoạt động yêu thích bạn làm mỗi ngày, giống như các hoạt động tương tác xă hội và các tṛ game chẳng hạn.
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với một người bạn có thể kích thích hoạt động trí tuệ v́ bạn sẽ phải cân nhắc những lời đối đáp có thể và những kết quả mong muốn. Các tṛ game đ̣i hỏi người chơi phải có chiến lược và kỹ năng giải quyết những khó khăn để đạt được mục đích tốt nhất.
Luyện tập trí óc
Cùng với tuổi tác, việc rèn luyện trí óc cũng quan trọng như luyện tập cơ thể. Và bây giờ, bạn đă biết 5 nhóm chức năng tri giác của năo và cách thức luyện tập chúng, thế nên bạn sẽ nhận thấy dễ dàng hơn những hoạt động hàng ngày có thể giúp ḿnh rèn luyện trí óc và năo bộ ra sao.
Trong suốt cuộc đời, cơ thể con người trải qua một quá tŕnh tạo xương liên tục, trong đó những xương già bị hủy đi và những xương mới được tạo ra. Loăng xương xuất hiện là do sự mất thăng bằng trong chu tŕnh tạo xương đó, khi lượng xương bị hủy nhiều hơn lượng thay thế. Từ đó làm cho xương trở nên xốp hơn , và dần trở nên yếu và dễ găy hơn.
Ngày nay, có khoảng 28 triệu người Mỹ bị mắc chứng loăng xương - 80% trong số này là phụ nữ. Tuy nhiên, chỉ một lượng tương đối nhỏ những phụ nữ này được chẩn đoán và điều trị.
Bởi v́, ở giai đoạn sớm, loăng xương diễn ra rất thầm lặng, nghĩa là bạn không có một triệu chứng nào. Hơn nữa, nhiều phụ nữ tin rằng nếu họ duy tŕ một chế độ ăn tốt và tập thể dục đều đặn, họ sẽ không bị ảnh hưởng.
Hiểu biết chính là mấu chốt. Bạn càng hiểu biết nhiều về chứng mất xương và cách lựa chọn của bạn trong sự pḥng tránh và điều trị loăng xương, bạn càng có nhiều cơ hội để sống chủ động và không phụ thuộc. Chỉ dẫn này được cung cấp để đem lại cho bạn những kiến thức cơ bản về loăng xương, cũng như những thông tin về những xét nghiệm cần thiết.
Cơ thể mỗi người đều khác nhau, bạn có thể trao đổi với bác sĩ về t́nh trạng của cá nhân. Cách tốt nhất để giúp bác sĩ quyết định xem bạn có mật độ xương thấp hay loăng xương, và có nguy cơ găy xương do những chấn thương nhỏ hay không dựa vào xét nghiệm đo mật độ xương.
Xương b́nh thường có mật độ dày và khoẻ mạnh.
Trong bệnh loăng xương, xương bị làm cho mảnh và yếu đi.
Hăy hỏi bác sĩ về xét nghiệm đo mật độ xương.
Bởi v́, trong giai đoạn đầu, loăng xương không có triệu chứng, bạn có thể không biết rằng xương bạn đang trở nên yếu đi. Xét nghiệm đo mật độ xương là một cánh giúp bác sĩ chẩn đoán được bạn có loăng xương hay không. Xét nghiệm này cũng được dùngđể đánh giá tỷ lệ mất xương và đáp ứng với điều trị của bạn.
Có nhiều cách đo mật độ xương như sử dụng sóng âm thanh, hay dùng một lương nhỏ phóng xạ để xác định độ dày hay mật độ của xương. Xét nghiệm đo mật độ xương đơn giản, an toàn, và không đau và hầu hết các xét nghiệm chỉ tốn chừng vài phút.
Xét nghiệm chấm điểm (T-score) so sánh mật độ xương của bạn với xương của phụ nữ trẻ b́nh thường. T-score b́nh thương là -1 hay cao hơn. Xương bị yếu đi do loăng xương trở nên mỏng, dễ găy. Nếu T-score của bạn dưới mức b́nh thường, bạn nên điều trị.
Các xét nghiệm là một phương cách tốt để giúp xác định bạn có nguy cơ loăng xương hay không. Hăy hỏi bác sĩ xem bạn có nên thực hiện xét nghiệm đo mật độ xương không và dùng thuốc hay phương pháp điều trị loăng xương nào là thích hợp cho bạn.
Phụ nữ thời kỳ măn kinh có nguy cơ cao. Măn kinh thường bắt đầu ở độ tuổi 50. Cho dù có thể xuất hiện sớm hơn, ví dụ trong trường hợp người phụ nữ bị phẫu thuật lấy đi buồng trứng.
Các yếu tố khác có thể đóng góp vào các yếu tố nguy cơ gồm:
-Di truyền: Gia đ́nh có tiền căn loăng xương, Thân h́nh nhỏ con hay ốm.
Chủng tộc người da trắng hay Châu Á ( Nhóm người này có nguy cơ cao nhất cho dù loăng xương có thể ảnh hưởng đến mọi phụ nữ mọi dân tộc).
-Giảm mức estrogen:Trong hay sau khi măn kinh
-Thuốc: Steroide, Tăng nội tiết tố tuyến giáp
-Cách sống :Hút thốc lá, Dùng quá nhiều caffeine, Dùng quá nhiều rượu, Thiếu các hoạt động thể lực…
-Lượng vitamine D và calci không tương xứng. Ví dụ: không uống hoặc uống ít sữa hoặc ăn kiêng mỗi ngày.
Qua thời gian, khi xương bạn mỏng và yếu hơn, bạn có thể gặp phải các triệu chứng: Giảm cân, Đau lưng,C̣ng lưng, Găy xương hông, cổ tay, xương sống.
Măn kinh là yếu tố mấu chốt góp phần phát triển loăng xương. Ngay cả khi không có yếu tố nguy cơ nào tác động vào bạn, bạn vẫn có thể có loăng xương nếu bạn đă sau măn kinh.
Trong giai đoạn sớm của loăng xuơng, bạn có thể không có triệu chứng ǵ. Tuy nhiên, khi bệnh phát triển, bạn có thể bị găy xương chỉ do một chấn thương nhỏ, đặc biệt ở xương hông, cổ tay, xương sống.
Các xương bị yếu do loăng xương dễ bị găy hơn. Một sự té ngă hay căng cơ lưng quá nhiều có thể tăng nguy cơ găy xương. Việc này có thể dẫn đến đau, giảm chiều cao, giới hạn hoạt động, gù lưng. Đi kèm với tác động về mặt thể chất, loăng xương có thể dẫn đến cảm giác gây bơ vơ, thiếu tự tin, hay mất độc lập.
Ng̣ai việc thực hiện một xét nghiệm đo mật độ xương và biết đuợc thang điểm T- score, bạn có thể tự bảo vệ ḿnh thoát khỏi sự nguy hiểm của loăng xương bằng cách làm theo các bước sau:
-Tập thể dục nhiều và đều đặn :
Bạn có thể bảo vệ xương của bạn chống lại găy bằng tập thể dục và làm các hoạt động thể lực khác. Các bài tập thể dục nhằm tăng độ khỏe mạnh của cơ và nâng cao tính mềm dẻo giúp pḥng tránh té ngă.
-Bảo đảm chế độ ăn có đầy đủ calci và vitamine D :
Cơ thể của bạn cần calci và vitamine D để giữ cho xương khoẻ mạnh. Nguồn tốt nhất để cung cấp calci là thức ăn. nếu bạn không thể lấy đủ calci từ thức ăn, bạn có thể lấy thêm từ các nguồn phụ khác.
-Pḥng tránh tai nạn bằng cách sống an toàn :
Với loăng xương, bạn cần phải học cách sống an toàn pḥng tránh té ngă và chấn thương xương. Tạo một căn nhà an toàn bằng cách loại bỏ các mối nguy hiểm. Cẩn trọng khi mang vác, cúi xuống hay với tay ra.
-Làm xét nghiệm đo mật độ xương :
Bạn có thể không biết rằng xương của bạn đang yếu đi. Cách tốt nhất để bác sĩ của bạn quyết định bạn có mật độ xương thấp hay loăng xương và bạn có nguy cơ cao bị găy xương hay không là dựa vào xét nghiệm đo mật độ xương.
-Tṛ chuyện cùng bác sĩ của bạn :
Tham khảo ư kiến của bác sĩ về thuốc pḥng hay phương pháp điều trị nào là thích hợp với bạn.
-Hoạt động hàng ngày :
Tất cả phụ nữ nên biết về chứng mất xương và loăng xương. Gần như một phần hai phụ nữ trên 50 tuổi bị loăng xương bị găy xương. Một cú té ngă nặng nề hay căng cơ lưng quá mức có thể làm gia tăng nguy cơ găy xương. Điều này có thể dẫn đến đau, mất chiều cao, giới hạn hoạt động, và c̣ng lưng.
Tập hít thở để giữ ǵn sức khỏe (rất đơn giản !)
Nguyễn Văn Cư
Lớn tuổi hay sắp già mới biết thở đúng cách, nhưng không trễ đâu.
Tập được lúc nào, ngày nào tốt ngày đó.
Chỉ cần vài phút, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khi ngồi hoặc nằm (trước khi ngủ, hoặc sau khi thức dậy), tập càng nhiều lần trong ngày càng tốt cho sức khỏe. Khi tập nhắm mắt hoặc mở mắt không thành vấn đề, chủ yếu là vận hành hơi thở từ từ nhẹ nhàng bằng mũi, sẽ khiến cho máu chạy đều, tim đập tốt hơn, đầu óc bớt căng thẳng và làm tiêu tan sự mệt mỏi.
Phương pháp hít thở theo nguyên tắc: hít vào ph́nh bụng ra, nín thở, rồi thở ra cùng lúc thót bụng vào, đều, chậm răi, êm dịu có tác dụng phục hồi sức khỏe rất kỳ diệu nhất là về tim. Cách thở này không những cung cấp đủ dưỡng khí mà c̣n giúp điều ḥa các rối loạn tạng phủ.
Chính tôi đă tập được hơn 3 năm rồi, thấy trong người khỏe khoắn và minh mẫn, tim đập b́nh thường (trước đó nhập viện 11 ngày, Bác Sĩ chuyên khoa về tim nói 2 valves tim của tôi hoàn toàn bị hỏng (nghẽn), cho uống thuốc điều trị tạm, trước khi có thể phải mổ, nhưng sau 9 tháng tập hít thở, tim mạch trở lại b́nh thường và sau đó không c̣n dùng thuốc về tim nữa)
Chỉ cần 3 động tác rất đơn giản bên dưới lập đi lập lại:
1/ Hít vào từ từ và nhẹ nhàng bằng mũi, đồng thời từ từ ph́nh bụng ra. êm dịu kéo dài đến mức có thể chịu được.
2/ Nín thở, giữ hơi càng lâu càng tốt.
3/ Thở ra từ từ và nhẹ nhàng bằng mũi, đồng thời từ từ thót bụng vào hết cỡ, êm nhẹ và kéo dài đến mức có thể chịu được.
Theo tài liệu y học tổng quát về ung thư tụy tạng th́ bệnh này không có triệu chứng báo sớm. V́ vậy khi được phát hiện bệnh thuờng đă ở giai đoạn tiến triển xa và bệnh nhân không có hi vọng sống quá năm năm. Nhưng thật ra cũng có những dấu hiệu báo trước ung thư tụy tạng, Tuy nhiên muốn hiểu các dấu hiệu và triệu chứng này th́ điều quan trọng là chúng ta phải biết rơ tụy tạng nằm ở đâu và có chức năng ǵ
Tụy tạng (pancreas) là một bộ phân cơ thể nằm xâu trong bụng, chỉ dài khoảng 4 tới 6 inch, có h́nh dạng giống con ṇng nọc.
Ở “đuôi” (tail) tụy tạng có những tế bào sản xuất insulin, và những khối u ở phần đuôi này thuờng là khối u nội tiết (endocrinic tumors). Loại khối u này dễ phát hiện nhưng rất hiếm. Phía đầu (head) của tụy tạng có những tế bào sản xuất các enzim tiêu hóa và khối u ở đầu này cũa tụy tạng được gọi là khối u ngoại tiết (exocrine tumors). Loại khối u này thông thường hơn nhiều và khó phát hiện hơn
Cho rằng khối u tụy tạng không gây triệu chứng nào th́ có phần không hợp lư. Sau khi đào xâu các báo cáo khoa học và ḍ hỏi các bệnh nhân về những ǵ họ nhớ lại, người ta đă lập ra được một danh sách dài những dấu hiệu và triệu chứng của ung thư tụy tạng cần phải để ư. Nếu xét riêng từng triệu chứng một, th́ các triệu chứng trên có thể có nhiều nghĩa khác nhau. Nhưng nếu bạn thấy hai hay ba trong số những triêu chứng này xuất hiện th́ bạn cần gặp bác sĩ để yêu cầu được rà (scan) bệnh. Kỹ thuật chụp h́nh công hưởng từ(MRI) đôi khi có thể ḍ thấy ung thư tụy tạng tùy theo vị trị cũa khối u.
Các Dấu Hiệu Báo Sớm Ung Thư Tụy Tạng
1- Bệnh tiểu đường, đặc biệt là nếu bệnh xuất hiện đột ngột Gần đây một báo cáo của Mayo Clinic đă gây ngạc nhiên khi dẫn chứng là 40 phần trăm những bệnh nhân ung thư tuy tạng đă được chẩn đoán bị tiểu đường một hay hai năm trước khi khối u tụy tạng được phát hiện.
Các nhà khảo cứu cho rằng bệnh tiểu đường là do các khối u chưa được phát hiện gây ra. Vấn đề là bệnh tiểu đường rất thông thường mà phần lớn các bệnh nhân tiểu đường lại không bị ung thư tụy tạng, nên các bác sỉ đang t́m cách triển khai những phương cách sàng lọc thích ứng. Trong khi chờ đợi, tiền sử y lư của gia đ́nh bệnh nhân là một đầu mối quan trọng. Nếu bạn được chẩn đoán bị tiểu đường, mà nếu bệnh này xẩy ra đột ngột và gia đ́nh bạn không có tiền sử bị bệnh tiểu đường th́ bạn nên lưu ư bác sĩ về điều này và yêu cầu đuợc rà (scan) bệnh ung thư tuỵ tạng.
2- Mắt hay da vàng
Một khối u nhỏ ở tuỵ tạng cũng có thể làm nghẹt ống dẫn mật ở phía đầu (head) tụy tạng làm cho mật ứ lại và gây bệnh vàng da (jaundice)
3- Da, ḷng bàn tay hay gót bàn chân bị ngứa
Một tác dụng phụ ít được biết đến của bệnh vàng da là làm bàn tay và bàn chân bị ngứa, Đây là do phản ứng của da đối với chất bilirubin--một hóa chất mầu nâu vàng của gan gây ra bệnh vàng da
4-Ăn không ngon
Một báo cáo khoa học của Ư cho biết sáu hay tám tháng trước khi được chẩn đoán có khối u trong tụy tạng, bệnh nhân đột ngột ăn không thấy ngon và cảm thấy no chỉ sau khi ăn đôi chút
5- Vị giác thay đổi
Cũng báo cáo trên của Ư cho biết một số bệnh nhân đột nhiên không c̣n thấy hương vị của cà phê, rượu vang và hút thuốc thấy lạt lẽo. Thật ra, các bệnh nhân này cho biết họ cảm thấy chán ghét mùi vị của cà phê và rượu
6- Đau nơi bụng
Các bệnh nhân ung thư tụy tạng cho biết họ bi đau âm ỉ nơi bụng , chứ không thấy đau thắt hay đau nhức, và cái đau tỏa ra phía sau lưng. Một đầu mối đặc trưng: khi cúi người về phía trước th́ không c̣n thấy đau
7- Túi mật to ra
Sự tắc nghẽn ống dẫn mật không những gây bệnh vàng da mà c̣n có thể làm túi mật to ra. Rất may là triêu chứng này có thể được phát hiện khi chụp h́nh và cũng có thể được bác sĩ nhận ra khi khám sức khỏe
8- Phân có mầu lợt, nổi, có mùi
Nếu khối u tụy tạng ngăn không cho các enzim tiêu hóa xuống ruột, th́ hậu quả là các thức ăn béo không được tiêu hóa. Điều này dẫn đến t́nh trạng phân rời ra, nặng mùi, nổi lều bều do chất béo dư thừa. Bác sĩ cho biết triệu chứng này có thể là một dấu hiệu đăc biệt báo sớm, nhưng thường ra lại không được lưu ư tới
9- Phân đen, mầu hắc ín
Triêu chứng này xuất hiện do chảy máu phần ruột trên
10- Giảm cân đột ngột , không giải thích được
Trái với điều nhiều người nghĩ, giảm cân không phải luôn luôn là dấu hiệu của ung thư tiến triển (advanced cancer) lan tràn trong gan. Giảm cân cũng có thề là do thiếu các enzim tiêu hóa từ tụy tạng, làm cho chất béo không được tiêu hóa trong cơ thể
Bạn Phải Làm Ǵ Khi Quan Tâm Về Bất Cứ Triệu Chứng Nào Trên Đây
Bạn hăy ghi lại tất cả các triêu chứng và báo cáo chi tiết cho bác sĩ. Nếu bạn thuyết phục được bác sĩ là mối lo ngại cũa bạn chính đáng th́ bác sĩ sẽ cho tiến hành các thử nghiệm như siêu âm, CT scan, nội soi kèm theo sinh thiết để t́m kiếm khối u tuỵ tạng Ngoài ra cũng c̣n có thể thử máu để xác định lượng chất đánh dấu sinh học (biomarker) CA-19-9
Ung thư tụy tạng có tỉ lệ gây tử vong rất cao, như trường hợp đáng buồn của nhà kinh doanh thiên tài Steve Jobs. (Xem bài của Bác Sĩ Vũ Văn Dzi đă đăng trước đây) Tuy nhiên nếu phát hiện sớm, bệnh nhân vẫn có thể được cứu và tiếp tục một cuộc sống phong phú. Điển h́nh là trường hợp của vị Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Rub Bader Ginsburg vẫn sinh hoạt b́nh thưởng sau khi cắt một bướu nhỏ nơi tụy tạng.
Thấp tim hay c̣n gọi là thấp khớp cấp tính hoặc sốt thấp khớp (rheumatic fever) được coi là một trong những chứng bệnh của hệ miễn dịch mô liên kết hay thuộc hệ thống tạo keo.
Bệnh thường gặp ở trẻ từ 5 - 15 tuổi. Đây là căn bẹnh làm tổn thương khớp, tim, thần kinh, da và chỉ để lại di chứng ở tim. Những di chứng tại van tim là nguyên nhân chính của bệnh tim mắc phải, gây tử vong cho trẻ em từ 5 - 15 tuổi, làm mất sức lao động của những người trưởng thành.
Chẩn đoán xác định thấp tim khi nào?
Khi có bằng chứng của nhiễm liên cầu A đường hô hấp (biểu hiện lâm sàng của viêm đường hô hấp trên và/hoặc làm phản ứng ASLO dương tính và/hoặc cấy dịch họng t́m thấy liên cầu), kèm theo có ít nhất 2 tiêu chuẩn chính hoặc có 1 tiêu chuẩn chính kèm 2 tiêu chuẩn phụ. Sở dĩ là vậy v́ trong màng tế bào liên cầu khuẩn nhóm A có một thành phần protein rất giống với protein màng tế bào cơ tim và một số tổ chức liên kết khác của cơ thể. Ngoài ra, cấu trúc cacbon hydrat màng tế bào liên cầu khuẩn nhóm A cũng giống mucoprotein ở van tim người. Khi bị nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A, cơ thể sẽ sản xuất các kháng thể chống liên cầu khuẩn, vô t́nh các kháng thể này cũng tấn công luôn cả cơ tim và các tổ chức liên kết có thành phần protein tương tự. Ngoài có cấu tạo protein rất giống với protein màng tế bào cơ tim dẫn tới sự “nhầm lẫn” kể trên, màng tế bào liên cầu khuẩn c̣n mang nhiều chất có độc tính với tế bào cơ tim, thận, phá hủy hồng cầu, tiểu cầu...
Dấu hiệu nhận biết
Sau khi bị viêm họng từ 1 - 5 tuần, những trẻ bị nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A sẽ thấy xuất hiện t́nh trạng đau ở khớp với đặc điểm là đau từ khớp này sang khớp khác. Các khớp lớn như khớp gối, khớp khuỷu, khớp cổ chân, cổ tay sẽ bị sưng, đau, nóng đỏ khiến bệnh nhân đi lại và cử động rất khó khăn (riêng khớp cột sống hoặc khớp ngón tay, ngón chân rất ít khi đau nhức). Điểm đặc biệt của bệnh này là khi khớp sau bị sưng đau th́ các khớp bị sưng đau trước đó lại khỏi và trở lại hoạt động b́nh thường, không có biến dạng khớp và bị hạn chế cử động như các loại viêm khớp khác. Chính v́ biểu hiện như vậy mà căn bệnh này c̣n được gọi là bệnh thấp khớp cấp.
Cùng với những cơn đau ở khớp th́ ở tim cũng có tổn thương (cơ tim, các màng tim và các van tim) làm cho người bệnh mệt mỏi, đau tức ngực, khó thở, nhịp tim chậm hoặc nhanh, có thể không đều. Nếu viêm cơ tim nặng gây khó thở, tím tái, phù, gan to.
Tổn thương thường gặp khi bị thấp tim
Viêm tim: Viêm tim là một biểu hiện bệnh lư nặng của thấp tim và khá đặc hiệu. Có khoảng 41 - 83% số bệnh nhân thấp tim có biểu hiện viêm tim. Các biểu hiện của viêm tim có thể là viêm màng trong tim, viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim. Viêm tim có thể biểu hiện từ thể không có triệu chứng ǵ đến các dấu hiệu suy tim cấp nặng hoặc tử vong. Các triệu chứng lâm sàng có thể gặp là: tăng nhịp tim, tiếng thổi tâm thu, tiếng thổi tâm trương, tiếng rung tâm trương, rối loạn nhịp, tiếng cọ màng tim, suy tim...
Một trong những biểu hiện phải chú ư và là biến chứng nặng của thấp tim là viêm van tim. Hở van hai lá là một trong những biểu hiện thường gặp nhất, trong khi hở van động mạch chủ ít gặp hơn và thường kèm theo hở van hai lá.
Viêm khớp: Viêm khớp là một biểu hiện hay gặp nhất trong thấp tim (80%) nhưng lại ít đặc hiệu. Biểu hiện của viêm khớp là sưng, nóng, đỏ, đau khớp, xuất hiện ở các khớp lớn (gối, cổ chân, cổ tay, khuỷu, vai...) và có tính chất di chuyển. Viêm khớp do thấp tim thường không bao giờ để lại di chứng ở khớp.
Múa giật Sydenham: Đây là biểu hiện của tổn thương ngoại tháp và khá đặc hiệu cho thấp tim. Các biểu hiện là những động tác vận động không mục đích và không tự chủ ở các cơ mặt, chi; giảm trương lực cơ, rối loạn cảm động. Các biểu hiện ban đầu có thể là khó viết, khó nói hoặc đi lại. Các biểu hiện này thường rơ khi bệnh nhân bị xúc động hoặc thức tỉnh và mất đi khi bệnh nhân ngủ.
Múa giật Sydenham là một trong những biểu hiện muộn của thấp tim, nó thường xuất hiện sau khi viêm đường hô hấp trên khoảng 3 tháng. Múa giật Sydenham thường biểu hiện đơn độc trong thấp tim và gặp ở khoảng 30%. Triệu chứng này thường mất đi sau 2 - 3 tháng.
Nốt dưới da: Đó là những nốt có đường kính khoảng 0,5 - 2cm, cứng, không đau, di động và thường xuất hiện ngay trên các khớp lớn hoặc quanh các khớp. Nốt dưới da có thể gặp ở khoảng 20% số bệnh nhân bị thấp tim và thường biến mất sau vài ngày. Da ở trên nốt này thường vẫn di động b́nh thường và không có biểu hiện viêm ở trên.
Đây là một loại ban trên da, có màu hồng và khoảng nhạt màu ở giữa tạo thành ban ṿng. Thường không hoại tử và có xu hướng mất đi sau vài ngày. Hồng ban ṿng là một dấu hiệu khá đặc hiệu trong thấp tim và ít gặp (5%), thường chỉ gặp ở những bệnh nhân có da mịn và sáng màu. Hồng ban ṿng thường xuất hiện ở thân ḿnh, bụng, mặt trong cánh tay, đùi và không bao giờ ở mặt. Khi có hồng ban ṿng th́ thường có kèm theo viêm cơ tim.
Do các triệu chứng nói trên, bệnh thấp tim hay bị nhầm với một số bệnh khác nên dễ bị bỏ qua. Điều này rất nguy hiểm, bởi nếu không được điều trị, bệnh cũng sẽ khỏi, nhưng sau đó một thời gian lại tái phát. Mỗi lần tái phát như vậy các tổn thương ở tim càng nặng hơn dẫn đến các chứng hẹp hay hở van tim, hoặc hở hay hẹp các van động mạch tại tim.
Lời khuyên của thầy thuốc
Khi thấy đau khớp sau một đợt viêm họng, nên nghĩ tới thấp tim và cần sớm đi khám bệnh, làm các xét nghiệm cần thiết để và có liệu tŕnh điều trị đúng đắn. Nếu đúng mắc bệnh thấp tim, trẻ nên tuân thủ chế độ điều trị dự pḥng nghiêm ngặt cụ thể: tiêm kháng sinh dự pḥng một tháng một lần theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Thời gian dự pḥng là 5 năm, tốt nhất đến 18 tuổi, với thể tổn thương nặng ở tim, pḥng tái phát cho đến 25 tuổi.
Để pḥng bệnh thấp tim, trẻ cần tránh không để bị cảm, bị viêm họng, viêm khí - phế quản, đồng thời ǵn giữ vệ sinh răng miệng thật tốt. Cần chú trọng cải thiện các điều kiện ăn, ở, chú ư vấn đề vệ sinh môi trường, điều kiện dinh dưỡng đối với trẻ em.
Thanks Florida80 - Very useful... Things that I never know before
"Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) hay ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn"
The Following User Says Thank You to maxima88 For This Useful Post:
dây hoành tù: buo’u cổ (goiters), u hay nang ỏ cổ, nhũng khô’I u ỏ trung thâ’t (mediastinal masses), và nhũng bâ’t thụng của co hoành nhu: thoa’t vị bao tủ-hoành (hiatal hernia), trào nguọc dạ Dày thục quản (gastroesophageal reflux), hay nhũng ki’ch thi’ch trục tiê’p của nhũng abscess duo’I co hoành hay ki’ch thi’ch trong khi đang phẫu thuật
Hiccup kho’ chũa cũng là một biê’n chu’ng không thông thụng ỏ AIDS; hầu hê’t nhũng trụng họp do nâ’m candida thục quản hay nhũng bịnh kha’c của thục quản
2)Rô’I loạn thần kinh trung uong (Central nervous system disorders): gây hiccups dai dẳng và kho’ trị do qua’ tŕnh nhiễm trùng, mạch ma’u và câ’u tru’c; nhũng t́nh trạng này đuọc nghĩ do sụ giảI thoa’t của nhũng sụ u’c chê’ b́nh thụng của cung phản xạ Hiccup; nhũng tổn thuong câ’u tru’c nhu: u trong năo đặc biệt ỏ cuô’ng năo, multiple sclerosis, năo nuo’c (hydrocephalus) và syringomyelia; Nhũng nguyên nhân nhiễm trùng và mạch ma’u thụng gặp hon
3)Liên quan to’I thuô’c-chuyển hoa’ châ’t độc( toxic-metabolic or drug-related disorders): co’ thể gây hiccup do ảnh huỏng hệ Thần kinh trung uong hay dây thần kinh hoành hay dây X; hiccup kho’ chũa co’ thể xảy ra ỏ uremia, ngộ Độc ruọu và gây mê toàn thân (general anesthesia)
4)Tâm ly’: co’ thể gây hiccup tụ gio’I hạn và hiccup kho’ chũa; Vi’ dụ Nhu: lo lă‘ng, căng thẳng, ki’ch thi’ch hay malingering; nguyên nhân tâm ly’ chỉ đuọc kê’t luận sau khi đă co’ thăm kha’m kỷ (extensive medical evaluation)
ĐỊNH BỊNH(EVALUATION) không no’I v́ liên quan to’I chuyên môn nhiều; nhung hiccup nhẹ (brief hiccup bouts) thụng gặp và không cần y học can thiệp (medical intervention)
ĐIỀU TRỊ (TREATMENT)
Nhiều phuong ca’ch điều trị Đă đuọc nêu lên; tuy nhiên hầu nhu nhũng thông tin đuọc nêu ra tù trong nhũng ba’o ca’o tùng trụng họp (case reports) và sô’ luọng râ’t I’t do đo’ nhũng điều trị Này thụng dụa vào kiê’n thu’c quan sa’t (anecdotal information) hon là nghiên cu’u co’ kiểm tra (controlled studies)
Điều trị Trục tiê’p vào nguyên nhân nê’u co’
Điều trị Bao vây (empiric therapy) nê’u không t́m ra nguyên nhân; điều trị Bao vây chia ra 2 loại: dùng thuô’c và không dùng thuô’c;
Không dùng thuô’c: bao gồm nhũng phuong ca’ch dân gian co’ tù lâu nhu: ngung thỏ (breath holding), nuô’t một muỗng đụng (swallowing a teaspoon of sugar) và uô’ng nuo’c ỏ phi’a đô’I diện của ca’I ly (drinking from the opposite side of a glass); (Vietnam ta co’ ca’ch là uô’ng tùng ngụm nuo’c nhỏ ???) và phẫu thuật; nhiều phuong ca’ch điều trị Dân gian Thành công đă đuọc luu truyền tù đ̣I này sang đ̣I kha’c; một vàI ca’ch co’ co bản về sinh ly’ là chu’ng sẽ ngăn chận nha’nh đi lên của cung phản xạ Hiccup qua sụ ki’ch thi’ch mũI-hầu (nasopharyngeal stimulation), gia tăng ki’ch thi’ch dây X và ngăn cản chu’c năng hô hâ’p b́nh thụng;
Dùng thuô’c: (ba’c sĩ cho toa nên Fair1 không no’I ỏ đây); đôI khi dùng thuô’c vẫn không khỏI th́ co’ thể châm cu’u hay hypnosis
CÁC CƠ CHẾ GÂY PHÙ
drtho89 ( Theo wXw.diendanykhoa.com )
I.PHÙ TOÀN THÂN
Phù do sự mất quân b́nh giữa khu vực nội mạch và gian bào, bắt buộc kèm theo sự ứ nước – muối.
1. Phù do tim
Trong trường hợp suy tim, cung lượng tim giảm, dẫn đến giảm lượng máu đến thận, đặc biệt các nephron cạnh vùng lơi thận, gia tăng sự tái hấp thu H2O2.Na+ , chứng tăng aldosteron huyết xảy ra trong trường hợp này, một phần do rối loạn tưới máu vùng thận, phần khác do giảm sút sự thanh lọc,chuyển hóa ở gan. Đồng thời áp lực tĩnh mạch toàn thân và phổi gia tăng , dịch tái hấp thu sẽ đổ vào khoảng gian bào, gây triệu chứng phù. Duy nhất, chỉ có cải thiện cung lượng tim, mới có thể phá vỡ ṿng lẩn quẩn làm giảm phù.
Trường hợp suy tim ứ huyết, có cung lượng tim b́nh thường hoặc cao (thí dụ do thiếu máu, tăng năng tuyến giáp, ḍ động – tĩnh mạch, bệnh Paget, bệnh tê phù) cơ chế phù cũng tương tự như trên, chỉ có sự không đáp ứng của cung lượng tim đồi với nhu cầu của tế bào ngoại vi gây ra sự tái phân phối lượng máu. Sự giảm tưới máu vô thận, do hệ giao cảm gây co mạch, dường như có vai tṛ chủ yếu. T́nh trạng cường giao cảm này lại tạo điều kiện cho chứng cường aldosteron xảy ra trong trường hợp này.
Trong cả 2 trường hợp trên, tăng áp lực tĩnh mạch trong phổi dẫn đến t́nh trạng phù phổi và t́nh trạng giảm oxy huyết do phù phổi gây ra càng thúc đẩy suy tim và phù.
2. Phù do thận
Sự mất protein với số lượng lớn qua đường niệu gây ra giảm protid máu và kèm theo giảm albumin máu. Khi albumin huyết thanh giảm dưới 25g/l, phù toàn thân sẽ xuất hiện. Sự giảm áp lực thể keo gây ra sự giảm thể tích nội mạch kèm theo giảm lượng máu đến thân, tăng tái hấp thu Na+ và chứng cường aldosteron thứ phát Giảm áp lực thể keo hữu hiệu dẫn đếnsự tích tụ nước và muối trong khu vực gian bào và giảm thể tích máu.Vị trí phù phần lớn ảnh hưởng do tư thế bệnh nhân.
Trong chừng mực mà áp lực tuần hoàn phổi giảm ngay cả áp lực thể keo có giảm, phù phổi cũng có thể xảy ra.
3. Phù do xơ gan
Sự giữ nước, muối trong bệnh xơ gan cổ trướng liên quan đến 2 yếu tố:
a. Suy tế bào gan: nguồn gốc của giảm albumin máu là do giảm khả năng tổng hợp của gan, cũng tương tự trường hợp hội chứng thận hư. Giảm albumin máu làm giảm áp lực thể keo dẫn đến t́nh tạng giảm thể tích máu.
b. Sự nghẽn hệ thống cửa hay bạch huyết do xơ gan gây ra, làm tăng áp lực thủy tĩnh và tích tụ nước trong khu vực gian bào và khoảng cửa. Tăng áp lực cửa thông thường kèm theo sự tăng tính thấm của các mao mạch cửa đối với albumin và sự thất thoát albumin kiểu này càng thúc đẩy sự h́nh thành dịch cổ trướng. Nghẽn dẫn lưu hệ bạch huyết của gan càng tạo điều điện củng cố hội chứng phù do sự giàu protein tương đối của dịch cổ trướng. Sự tích lũy nước trong hệ thống cửa cũng tùy thuộc vào các địa hạt khác, cũng xảy ra t́nh trạng giảm thể tích máu hữu hiệu tạo điều kiện cho sự giữ nước và muối.
Chứng cường aldosteron xảy ra ở bệnh xơ gan liên quan đến việc tưới máu ở thận đồng thời cũng do giảm sự thanh lọc, chuyển hóa ở gan. Trường hợp cổ trướng lớn, sự tăng áp lực trong ổ bụng làm trở ngại tuần hoàn tĩnh mạch hệ chi.
4. Phù do suy dinh dưỡng
T́nh trạng thiếu ăn kéo dài, nuôi ăn qua đường tiêm truyền không đầy đủ hoặc kém hấp thu ruột măn tính trong khuôn khổ bệnh viện hoặc kư sinh trùng ruột là nguồn gốc của sự giảm albumin huyết và hậu quả là tăng thể tích dịch gian bào. Trên các bệnh nhân này, triệu chứng phù rất rơ ràng v́ bệnh nhân rất gầy. Dinh dưỡng tái phục hồi đột ngột cũng có thể làm phù nặng hơn trong giai đoạn đầu do tăng sự ứ nước và muối.
Nếu phối hợp với t́nh trạng tê phù và nếu có tổn thương tim th́ phù càng dễ xuất hiện.
5. Phù của các bệnh ruột xuất tiết
Mất protein quá nhiều và kéo dài qua đường tiêu hóa trong một số bệnh:
•Bệnh dạ dày: K dạ dày, bệnh Ménétrier, hội chứng sau khi cắt dạ dày, viêm dạ dày thể keo.
•Bệnh ruột non: bệnh scrue, bệnh Whipple, u lympho, tăng sinh tuần ḥa bạch huyết, lao ruột, viêm ruột cấp tính, xơ cứng b́, bệnh túi thừa, viêm ruột dị ứng.
•Bệnh ruột già: K đại tràng, viêm loét đại tràng, viêm đại tràng u hạt tiên phát, chứng to ruột kết.
•Linh tinh: suy tim phải, bệnh cơ tim tiên phát, thông liên thất, chứng không gamma globulin máu do có sự thay đổi niêm mạc ruột (viêm, loét, dị thường trong cấu trúc tế bào), tăng áp lực hệ bạch huyết. Điều quan trọng là mất toàn bộ protein, albumin cũng như globulin, sẽ làm giảm protein máu, tăng thể tích khu vực gian bào và phù càng hiển nhiên nếu bệnh nhân gầy mất nhiều mô mỡ.
6. Phù vô căn
Phù không rơ nguyên nhân xảy ra trên phụ nữ sau tuổi dậy th́, thường kèm theo rối loạn kinh nguyệt và xáo trộn tâm lư. Đặc điểm của bệnh này là xảy ra từng đợt phù toàn thân, không đặc tính viêm, tiểu ít, trong ngày thể trọng cơ thể tăng nhiều và dễ xảy ra khi bệnh nhân đứng lâu, do nắng, dùng thuốc và đôi khi do chu kỳ kinh nguyệt.
Người bị bệnh phù vô căn không hề có dữ kiện nào về một bệnh tim, thận, gan, nội tiết, dinh dưỡng dị ứng, tĩnh mạch, bạch huyết hoặc bệnh do dùng thuốc. Phân bố phù diễn tiến một cách lạ thường:
a. Buổi sáng sưng mặt
b. Trong ngày phù 2 chi, bụng chướng cho đến khi phù vùng ngực, khii bệnh nhân đứng huyết áp thương thấp, mạch rất nhanh, phản ánh t́nh trạng giảm thể tích máu lưu hành
Sinh bệnh học của phù vô căn rất phức tạp: môt số tác giả ghi nhận có t́nh trạng protein thoát ra ngoài mạch, gây hạ albumin huyết, hậu quả giảm thể tích máu, giảm tưới máu thận. Người ta cũng t́m thấy có hiện tượng tăng áp lực thể keo ở khu vực ngoại bào, tăng độ thấm và diện tích mao mạch. Người ta cũng đề cập đến vai tṛ của một số chất trung gian như Bradykinine, Histamin và hormon như oestrogen. Ngoài ra c̣n có nghẽn tuần hoàn bạch huyết, t́nh trạng cường aldosteron thứ thát, tăng tiết AND. Gần đây có một giả thuyết cho phép giải thích một số yếu tố của hội chứng này là do có sự suy yếu của hệ thống giải phóng Dopamin, bằng cớ là có sự giảm bài tiết Dopamin trong nước tiểu, từ đó giải thích đượccác rối loạn hành vi, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn tính thấm mao mạch, sự ứ Na+ và t́nh trạng cường aldosteron thứ phát.
Tóm lại, tăng thể tích dịch gian bào tong hội chứng phù vô căn không những liên quan đến sự thay đổi bất thường của mao mạch mà c̣n liên hệ đến sự ứ nước, muối do thận gây ra và càng rơ trong tư thế đứng.
II.PHÙ VÀ CÁC BỆNH TĨNH MẠCH
Hội chứng giăn tĩnh mạch, hội chứng thuyên tắc và loạn sinh chảy máu, tất cả đều có thể gây ra phù và có tính chất cục bộ, liên quan đến sự tăng áp lực thủy tĩnh do nghẽn mạch cũng như do biến đổi thành mạch. Phù trong trường hợp này có ư nghĩa là suy hệ tĩnh mạch mất bù quan trọng kèm theo tím tái ngoại vi và cũng nặng thêm trong tư thế đứng, bất động và sốt cao.
Biến chứng về sau, nếu kéo dài sẽ dẫn đến t́nh trạng viêm dưới da, loét da. Trong khuôn khổ bệnh tĩnh mạch cấp như viêm tắc tĩnh nạch, th́ phù luôn là một yếu tố nhất định. Các chẩn đoán phân biệt cần nêu ra như phù trong trường hợp viêm tế bào nhiễm khuẩn, viêm mạch bạch huyết hoặc vỡ một nang Baxer.
III.PHÙ BẠCH HUYẾT
Bệnh có nguồn gốc: phù do tắc tuần hoàn bạch huyết, rất nhiều liên quan đến các nguyên nhân bẩm sinh, chấn thương, tân sinh, kư sinh trùng, viêm dị ứng, nhiễm trùng hoặc vô căn. Thường phù rất lớn, không đau, phù hướng về trung ương, phù trắng cứng, ít khi nào xảy ra biến chứng ở da. Ở chân, tổn thương ở mu bàn chân và các ngón chân là đặc điểm của sinh bệnh học này. Điều trị thường khó và không hiệu quả.
IV.PHÙ VÀ CÁC BỆNH LƯ NỘI TIẾT
Bệnh đái tháo đường, phù có thể liên quan đến một hội chứng thận hư, bệnh thần kinh thực vật hoặc do biến đổi đặc hiệu của màng đáy các mao mạch
Bệnh Basedow: suy tim và biến đổi các các mô nâng đỡ, giải thích hiện tượng phù. Phù kèm với bệnh mắt đặc biệt được giải thích bằng cơ chế miễn dịch
Bệnh suy giáp: phù có tính chất đặc thù của bệnh phù niêm. Trong một số trường hợp, ngừoi ta đă chứng minh có bài tiết ADH dẫn đến sự ứ nước
Bệnh Cushing: phù ngoại vi kín đáo, do tăng tiết cortisol gây giữ nước và do tính dễ vỡ của thành mao mạch
Bệnh to cực: bên cạnh sự dày lên của các phần mềm dưới tác dụng của các hormon phát triển, c̣n có phù thật sự do liên quan đến đái tháo đường, suy giáp và nhất là suy tim kèm theo
Hội chứng trước kỳ kinh nguyệt do mất quân b́nh hormon (oestrogen, progesteron) gồm có phù 2 chi, căng tuyến vú và tăng nhiều thể trọng.
V.PHÙ VÀ CÓ THAI
Sự ứ nước và Na+ gia tăng khi mang thai đạt đến trung b́nh 12,5kg, trong đó 4kg chất mỡ được giải thích là do có tăng tiết hormon mineral corticoid, oestrogen, prolactin, angiotensin và vasopressin.
Có khoảng 35% các trường hợp có mang b́nh thường kèm theo t́nh trạng phù rơ rệt, có lúc phù hạ chi, có lúc phù toàn thân, khi lượng nước giữ lại quá 8 lít. Phù này do trở ngại trên đường về của hệ tĩnh mạch từ hạ chi, do khối tử cung, do giảm áp lực thể keo, thay đổi các mô nâng đỡ dưới ảnh hưởng của hormon oestrogen. Trong trường hợp nhiễm độc huyết thai kỳ và cao huyết áp, có t́nh trạng giảm thể tích máu lưu hành, một cách tương đối, và phù được giải thích là do có sự thấm Na+ một cách bất thường qua các mao mạch làm tăng khu vực gian bào.
VI.PHÙ VÀ CÁC BỆNH COLLAGEN
Người ta nhận thấy trong các quá tŕnh tiến triển của một số bệnh (lupus ban đỏ rải rác, xơ cứng b́, viêm đa cơ, viêm quanh động mạch cơ cục và đa khớp dạng thấp) có xảy ra hiện tượng phù.
Đôi khi chứng phù này được giải thích là do suy tim, suy gan, suy thận, hạ albumin máu, có tác giả c̣n giải thích là do tăng độ thấm mao mạch, đối với albumin do có sự rối loạn chất collagen và dường như không có sự xáo trộn miễn dịch đặc hiệu nào xảy ra trên các mao mạch.
VII.PHÙ DO LOẠN THẦN KINH – MẠCH
Là thí dụ điển h́nh của phù do rối loạn thẩn kinh thể dịch. Đây là một di truyền thể hiện bằng các giai đoạn phù các chi, mặt và đường hô hấp, thường không có đau bụng kèm theo.
Phù chắc, không để lại dấu Godet, không ngứa, không đau và thường khởi phát sau một chấn thương ngoại khoa, nhổ răng. Nguy cơ lâu dài của bệnh này là khả năng xảy ra phù hầu, cần mở thông khí đạo. Bệnh này liên quan đến sự thiếu hụt oxy của bổ thể, có thể điều trị lâu dài bằng các thuốc làm đồng hóa.
VIII.PHÙ DO KẺ HỞ MAO MẠCH
Bao gồm một số bệnh cùng có chung triệu chứng như phù loại viêm, có định khu trú đặc biệt và xảy ra sau một chấn thương vật lư, hóa học, do dị ứng hoặc miễn dịch. Nhiều chất trung gian đă gây sự tăng tính thấm mao mạch có xuất xứ từ huyết thanh như: Kinine, Anaphylatoxine, Fibrinopeptide hoặc từ các mô như: Histamin, Hydroxytryptamine, Prostaglandine, chất P…
Phù Quinine là một t́nh huống của loại phù này. Do một kháng nguyên nào đó (thuốc, thức ăn, nhiễm trùng) đă gây ra một xung đột dị ứng, giải phóng các chất trung gian nói trên, gây phù các mô tế bào dứoi da và niêm mạc có khả năng đe dọa tai biến hô hấp.
IX. PHÙ DO SỬ DỤNG THUỐC
Nhiều loại thuốc có thể gây ra phù với các cơ chế khác nhau : do phản ứng miễn dịch, dị ứng kèm theo sự tăng tính thẩm mao mạch, xảy ra với Aspirine, kháng sinh, do thay đổi tính thẩm mao mạch, xảy ra với Oestrogen, thuốc chống rối lọan tâm thần, do ít nước, muối xảy ra với thuốc chống viêm, thuốc ưc chế tổng hợp, Prostaglandine, Gluco – corticoide, hormon nữ tổng hợp, các loại giăn mạch, do giữ nước : thông qua AND với Nicotine, Chlopropamide, Morphine, Barbiturique…
Celebrate the 25th anniversary of the timeless love story this Valentine’s Day Weekend. #Titanic returns to the big screen in remastered 4K 3D on February 10. pic.twitter.com/WcBFJJ8hBI
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.