Chuyên gia Simon Watkins của hăng tin Oil Price đă chia sẻ những phân tích về cách thức mà phía TQ nhập khẩu một số lượng lớn dầu thô Iran bất chấp các lệnh cấm vận của Mỹ qua những thông tin thu thập được từ giới thạo tin trên thị trường dầu thô và tại Iran.
Một số báo cáo về thị trường đă trích dẫn dữ liệu của Tổng cục hải quan TQ (
GAC) trong tháng 7 vừa qua cho thấy, TQ, lần đầu tiên kể từ tháng 01/2007, đă ngưng nhập khẩu dầu thô từ Iran trong tháng 06/2020. Tuy nhiên, trên thực tế mọi việc đă không diễn ra như vậy. Các công ty của TQ vẩn nhập khẩu hàng triệu thùng dầu thô Iran mỗi tháng và sẽ tiếp tục hoạt động này như một phần của thỏa thuận 25 năm được kư giữa giữa chính quyền TQ và Iran. Một nguồn tin từ một chuyên gia dầu khí cao cấp có liên hệ chặt chẽ với Bộ Dầu mỏ Iran cho biết, từ ngày 01/6-21/7, TQ đă nhập khẩu ít nhất là 8,1 triệu thùng dầu (tương đương 158.823 thùng/ngày) từ Iran. Phần lớn trong số 8,1 triệu thùng dầu này được vận chuyển bằng tàu chở dầu có tên
"Giessel".
Theo nguồn tin của
Kpler, tàu
"Giessel" có khả năng đă nạp dầu thô của Iran thông qua việc chuyển dầu từ tàu sang tàu ở ngoài khơi eo biển Hormuz, Vịnh Oman trong khoảng thời gian từ 26/4 đến 05/5. Tàu
"Giessel" sau đó đă chuyển khoảng 2,1 triệu thùng dầu thô của Iran cho tập đoàn
Sinopec (thuộc sở hữu nhà nước TQ) tại cảng Hoàng Đảo, Thanh Đảo vào ngày 13/6. Ngay sau đó, theo nguồn tin từ phía Iran, hai tàu chở dầu là
"Stream" và
"Snow" đă rời các cảng của Iran để đến TQ, chuyển lần lượt 1,6 triệu thùng và 2,1 triệu thùng dầu thô cho đối tác tại các cảng của TQ.
Ngoài 8,1 triệu thùng dầu thô được xuất khẩu trực tiếp sang TQ, khoảng 6,8 triệu thùng dầu khác được xuất khẩu gián tiếp trong khoảng thời gian từ 01/6-21/7, xuất phát từ Iran đến Malaysia hoặc Indonesia, sau đó đến TQ. Quá tŕnh này bao gồm việc vận tải dầu thô Iran đến khu vực ranh giới biển của Malaysia hoặc Indonesia, thay đổi các giấy tờ đăng kư tàu có liên quan đến nguồn gốc và quyền sở hữu tàu, cũng như xuất xứ của dầu thô. Sau đó, các tàu vận chuyển dầu tiếp tục cuộc hành tŕnh đến TQ.
Một dấu hiệu cho thấy điều này đă diễn ra trong nhiều tháng khi sản lượng nhập khẩu dầu thô của TQ từ Malaysia tăng trung b́nh 81,2% trong 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng thời kỳ vào năm 2019. Ngoài ra, TQ c̣n nỗ lực làm xáo trộn vấn đề hơn nữa đối với chuyến hàng ngày 13/6 của tàu "
Giessel" tại cảng Hoàng Đảo, Thanh Đảo. Các tài liệu nội bộ của hải quan TQ chỉ ghi thống kê là "hỗn hợp dầu thô đến từ Indonesia (không phải Malaysia)". Gần 15 triệu thùng dầu thô xuất khẩu từ Iran sang TQ trong giai đoạn từ 01/6-21/7 (292.157 thùng/ngày) đă chiếm hơn 58% trong tổng số sản lượng xuất khẩu 500.000 thùng/ngày hiện tại của Iran. Trong khi đó, sản lượng khai thác của Iran trong giai đoạn này được cho là ở mức 2,2 triệu thùng/ngày.
Sự kiện không có số liệu dầu thô nào của Iran trong tài liệu ghi chép thống kê của
GAC không gây ngạc nhiên đối với giới thị trường dầu thô. Bất cứ một số lượng dầu thô nào nhập khẩu vào TQ từ Iran đều được lưu trữ trong kho ngoại quan. Hiểu một cách đơn giản hơn là dầu thô Iran được đưa vào kho
"ngoại quan"(?), hoàn toàn không được đưa qua sổ sách của hải quan TQ và thậm chí không được thống kê là "đă thanh toán xong". Do đó không có bất cứ số liệu nào được ghi nhận trong sổ sách thống kê của GAC. Điều này cho thấy là TQ có thể nhập khẩu bao nhiêu dầu của Iran tùy ư mà không bị hề được ghi chép đầy đủ, rỏ ràng trong sổ sách nhập khẩu của hải quan nước này.
[
chắc chắn là theo lệnh của đảng CS Tàu]
Sơ đồ Đường ống ESPO Đông Siberia-Thái B́nh Dương của Nga
Một phương pháp xuất khẩu dầu khác từ Iran sang TQ hiện được chính quyền Iran, phối hợp với Nga và cả TQ cùng thực hiện. Đó là hoạt động thu gom, lưu trữ và vận chuyển dầu từ khu vực biển Caspien của Iran vào hệ thống đường ống
ESPO (Đông Siberia - Thái B́nh Dương) và sau đó được chuyển đến TQ. Iran hiện có 11,8% nguồn tài nguyên tại biển Caspi với các mỏ ở trên bờ và ngoài khơi. Trữ lượng dầu đă được chứng minh lên đến 48 tỷ thùng. Nga đă có kinh nghiệm sử dụng dầu thô Iran trong hỗn hợp dầu thô
ESPO. Vào năm 2018, phía Nga đă phải đối mặt với nhiều lời phàn nàn từ những nhà nhập khẩu dầu ở châu Âu khi nỗ lực đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng từ TQ v́ sản lượng khai thác dầu thô ở Đông Siberia là không đủ. Để giải quyết vấn đề chất lượng dầu đối với châu Âu, Nga đă sử dụng loại dầu thô ngọt, nhẹ tương đương của Iran để đưa vào hệ thống đường ống vận chuyển
ESPO của ḿnh, kết hợp giao hàng cho thị trường EU và TQ.
Đối với TQ, ngoài lư do "lách" các lệnh cấm vận, c̣n những lợi ích khác biệt khác khi lưu trữ hàng triệu thùng dầu thô Iran trong kho "ngoại quan". Để giao dịch dầu thô, phía Iran có thể đảm bảo giao dầu với chiết khấu lớn, phù hợp với yếu tố bảo mật trong thỏa thuận 25 năm đă được kư kết. Trong trường hợp dầu thô được giao bởi các tàu chở dầu
"Giessel",
"Stream" và
"Snow", có đến 5,8 triệu thùng dầu sẽ được chiết khấu 10,95 USD/thùng so với giá rao bán của Iran. Ngoài khoản chiết khấu này Iran cũng cung cấp cho TQ giá CIF thay v́ giá FOB. Ngoài ra, phía Iran cũng cung cấp cho bên mua là TQ bảo hiểm và điều khoản bồi thường đối với các phương tiện vận chuyển dầu khác.
Một điểm tích cực nữa đối với TQ là lượng dầu dự trữ này có thể được rao bán bất cứ thời điểm nào nếu nhu cầu phát sinh hoặc vào thời điểm giá dầu tăng cao đáng kể. Nó cũng có thể được sử dụng v́ lợi ích địa lư chính trị, cho phép TQ giao dịch dầu trong các thỏa thuận với các nước nghèo năng lượng để đổi lấy những lợi thế, ưu tiên cho các nhà đầu tư TQ phát triển cơ sở hạ tầng tại nước đó, góp phần phục vụ cho các mục tiêu trong đại dự án
"Vành đai, Con đường". Cuối cùng, lưu trữ dầu thô Iran mang lại cho TQ một mạng lưới an ninh năng lượng rộng hơn trong trường hợp Mỹ áp đặt thêm các biện pháp trừng phạt đối với nhiều nhà cung cấp dầu thô truyền thống của TQ, như Nga chẳng hạn.
Ở phía bên kia, Iran được hưởng lợi một phần nhờ thực tế là họ không phải ngừng việc sản xuất tại các mỏ dầu lớn của ḿnh v́ sắp hết chổ lưu trữ dầu thô. Iran cũng không cần phải cam kết chuyển tất cả đội tàu của ḿnh vào băi neo đậu (điều này gây tốn kém nhiều và hạn chế khả năng xuất khẩu dầu thô sang các nước khác). Tuy nhiên, lợi ích chính trị đối với Iran là các khoản tài trợ. Trước khi Iran kư kết thỏa thuận bảo mật 25 năm với TQ, v́ nước này đă bị thiếu hụt khoảng 150 tỷ USD để hoàn thành các dự án phát triển dầu khí và sản xuất xăng dầu, cộng thêm 250 tỷ USD mà họ cần để xây dựng các công tŕnh dầu khí mới, có liên quan đến các hoạt động xuất khẩu dầu ra thị trường quốc tế.
Trong khi TQ đă cam kết bảo đảm số tiền thiếu hụt 400 tỷ USD này, Iran vẫn ở trong t́nh trạng nghèo tiền mặt. V́ vậy, việc xuất khẩu dầu với giá chiết khấu là một công cụ cho phép nước này thanh toán cho TQ một phần chi phí để phát triển cơ sở hạ tầng. Theo nhiều nguồn tin khác nhau, việc chiết khấu giá dầu, được vận chuyển trên các tàu
"Giessel", "Stream" và
"Snow" là một phần trong khoản thanh toán cho công việc của
Sinopec trong giai đoạn 2 phát triển mỏ dầu
"Yadavaran" có trữ lượng lớn của Iran.
Sinopec hiện đang làm việc tại mỏ dầu này thông qua 7 công ty
"b́nh phong" đă được đăng kư ở các nước như Myanmar, Malaysia, Singapore và Pakistan.
Ngoài các lô dầu thô từ Iran được xuất khẩu trực tiếp sang TQ và các lô dầu thô được vận chuyển gián tiếp qua Malaysia hoặc Indonesia, trong khoảng thời gian từ 01/6-21/7, các công ty TQ c̣n mua thêm 1,2 triệu thùng dầu thô Iran được
dán mác là dầu thô Iraq, được bán với giá chiết khấu là 12 USD/thùng so với giá dầu thô Basra. Việc dán nhăn lại dầu thô của Iran thành dầu thô của Iraq rất đơn giản v́ dầu được khai từ các mỏ dầu tại khu vực biên giới Iraq-Iran có chất lượng giống hệt như dầu đang được khoan ở Iran khiến cho phía Mỹ khó phát hiện.
Tóm lại, các phương thức bán dầu trực tiếp từ Iran đến TQ chiếm khoảng 159.000 thùng/ngày bằng cách vận chuyển gián tiếp từ Iran đến TQ qua Malaysia hoặc vùng biển của các nước khác chiếm 133.000 thùng/ngày, dán lại nhăn cho dầu thô xuất khẩu cho TQ chiếm 24.000 thùng/ngày. Điều này có nghĩa là trong giai đoạn 01/6-21/7, Bắc Kinh đă nhập khẩu ít nhất 300.000 thùng dầu thô Iran/ngày. Con số này chiếm khoảng 60% tổng số 500.000 thùng/ngày xuất khẩu của Iran vào thời điểm hiện tại. Khoảng 200.000 thùng c̣n lại được Iran xuất khẩu sang các thị trường truyền thống khác.
Nhận định
Qua những phân tích trên có thể thấy, việc Bắc Kinh tiếp tục nhập khẩu dầu thô Iran cả bằng con đường trực tiếp và gián tiếp đă phá vỡ thế bao vây, cấm vận của Mỹ đối với Iran, đồng thời đem lại lợi ích đáng kể cho TQ nhờ chính sách bán dầu với giá rẻ của Iran dành cho các công ty TQ. Do đó, dù Mỹ có tái áp đặt, gia hạn các biện pháp cấm vận đối với Iran cũng khó có thể làm thay đổi cục diện chính trị và làm sụp đổ nền kinh tế nước này. Bên cạnh đó, không ngoại trừ khả năng phía Bắc Kinh đang tiếp tục nhập khẩu gián tiếp dầu thô từ Venezuela cho các nhu cầu của ḿnh. Hiện tại, Mỹ đang chuẩn bị gói cấm vận tiếp theo đối với Iran thông qua Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Chính sách cấm vận đối với Iran và các chính sách của các nước đồng minh với Mỹ trong khu vực vùng vịnh sẽ làm nóng lên các tranh chấp tiềm ẩn, chưa kể đến việc Mỹ sẽ giảm bớt sự hiện diện quân sự của ḿnh tại khu vực trong khi IS lại gia tăng các hoạt động của ḿnh.
Sưu tầm