VietBF

VietBF (https://vietbf.com/forum/index.php)
-   School | Kiến thức 2006-2019 (https://vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=273)
-   -   Những câu chuyện để học hỏi (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=1280322)

florida80 10-13-2019 22:33

Học Phật để làm người tốt hơn

Thứ tư, 11/09/2019 | 09:12










Lời Phật dạy là vô cùng vô tận, trong khi sự hiểu của chúng ta tuy nhiều nhưng ứng dụng th́ c̣n giới hạn. Học Phật để làm người tốt hơn, đó là vấn đề cốt lơi.


>>Lời Phật dạy

Mục đích học Phật là ǵ?


Bài liên quan

Làm thế nào cảm hóa người nhà học Phật?

Người học Phật có nhiều mục đích khác nhau: Học Phật để thành Phật, học Phật để giải thoát sinh tử, học Phật để về Tây Phương, học Phật để thoát khổ, học Phật chuyển hóa thân tâm,…Nhưng dù thế nào đi nữa, học Phật để làm người tốt, có ích cho gia đ́nh và xă hội chính là điều cơ bản nhất.

Điều kỳ diệu của đạo Phật chính là lời Đức Phật dạy không phải là công thức cứng ngắt mà nó huyền biến trong từng đối tượng, căn cơ của mỗi người và tùy hoàn cảnh. Nghĩa là người đau khổ muốn hạnh phúc th́ ứng dụng lời Phật dạy ở góc độ nào? Người muốn thành Phật ứng dụng lời dạy theo phương pháp nào?

Người học Phật có nhiều mục đích khác nhau: Học Phật để thành Phật, học Phật để giải thoát sinh tử, học Phật để về Tây Phương, học Phật để thoát khổ, học Phật chuyển hóa thân tâm,…

Người học Phật có nhiều mục đích khác nhau: Học Phật để thành Phật, học Phật để giải thoát sinh tử, học Phật để về Tây Phương, học Phật để thoát khổ, học Phật chuyển hóa thân tâm,…


Bài liên quan

Tâm lư học Phật giáo

Do đó,Phật giáo có đến tám muôn bốn ngh́n pháp môn để ứng với khả năng và mục đích tu học của từng người, dù ai, trong bất kỳ hoàn cảnh nào với mong muốn hướng thiện cũng dễ dàng t́m thấy phương pháp tương ứng trong những lời dạy của Đức Phật.

Đạo Phật luôn mang đến hạnh phúc cho đời sống thực tại bằng chính sự thực hành thông qua từng lời dạy. Và nếu tu tập không đúng phương pháp hoặc được hướng dẫn sai cách sẽ khiến bản thân dễ dàng rơi vào sự đau khổ của cuộc đời.

Thế nào là người tu học đúng?

Đức Phật từng dạy rằng: Phụng sự chúng sinh chính là cúng dường chư Phật.

Nghĩa là người tu học phải ứng dụng lời Phật để hoàn thiện bản thân rồi giúp đỡ những người lầm đường lạc lối hướng thiện. Đó mới đúng là sứ mệnh của người tu học chân chính.

V́ thế, đừng học Phật để mưu cầu sự trong sáng, thanh khiết, khác thường so với mọi người sẽ vô t́nh tạo nên khoảng cách của ḿnh với người và đẩy đạo Phật xa rời thực tế.

Chúng ta học Phật để làm người tốt hơn chứ không phải sinh tâm ái ố trước những người thấp kém hơn ḿnh.

Chúng ta học Phật để làm người tốt hơn chứ không phải sinh tâm ái ố trước những người thấp kém hơn ḿnh.

Một số người càng tu học, họ trở nên khắt khe hơn khi đối nhân xử thế, nhất là đối với những người lầm đường lạc lối muốn quy hướng hay những người mới bước đầu học Phật bằng những giáo điều tự nghĩ ra, và cho rằng đó là đúng đắn.


Bài liên quan

Học Phật bằng cách nào?

Nhưng không, đây là hành động tạo nên một rào cản lớn cho chúng sanh và cho cuộc đời, nhất là người mê tín lại tạo một rào cản lớn hơn.

Trong kinh Di Ma có dạy rằng: Đời càng tệ chừng nào th́ tâm nguyện, bản lĩnh của Bồ Tát càng cao. Nghĩa là người tu hành chân chính th́ phải càng làm cho đạo gần gũi với đời, dấn thân vào cuộc đời mới thấy được thực tế và độ được chúng sinh. Hoa sen tươi mộc giữa bùn nhơ mà vẫn đẹp là như thế. Có tu học như thế mới trở thành người có ư nghĩa cho cuộc đời. Bởi đạo Phật ra đời chỉ để cứu độ những người đau khổ, khiến người xấu trở nên lương thiện hơn.

Chúng ta học Phật để làm người tốt hơn chứ không phải sinh tâm ái ố trước những người thấp kém hơn ḿnh.

Đức Phật đă trở nên một con người vĩ đại nhờ vào những hành động nhỏ mà người người không làm, tránh xa. Người đă độ tận một U Ba Ly thuộc giai cấp thấp hèn nhất xă hội bị mọi người khinh chê, đến một anh chàng Vô Năo giết người không gớm tay, tàn ác.

Là người học Phật, là sứ giả của Như Lai, chúng ta hăy phát huy đúng vai tṛ ấy để đưa đạo Phật đến gần hơn trong cuộc sống để hóa giải đi những phiền muộn, khổ đau cho mọi người.

Là người học Phật, là sứ giả của Như Lai, chúng ta hăy phát huy đúng vai tṛ ấy để đưa đạo Phật đến gần hơn trong cuộc sống để hóa giải đi những phiền muộn, khổ đau cho mọi người.

Người học Phật chúng ta phải nêu gương này. Không khởi tâm phân biệt đối với tất cả chúng sanh thấp hèn hay đă tạo nên tội lỗi mà ngược lại phải khởi tâm từ bi lớn hơn để tạo điều kiện giúp đỡ họ hướng thiện. Đừng tự biến ḿnh thành người cao quư để xa rời chúng sinh, tu như thế không có ư nghĩa ǵ cả!


Bài liên quan

Đọc sách học Phật để trở thành Phật

Ư nghĩa của giác ngộ và giải thoát không đâu xa vời mà rất b́nh dị đối với sự tu học của mỗi con người. Giải thoát chính là tự do trong mọi ràng buộc, hạnh phúc, tự tại giữa khổ đau mà không nản chí và dao động. Có học Phật, chúng ta mới tốt hơn khi tự thân nhận diện được lỗi lầm và tránh xa nó cũng như giúp đỡ cho cuộc đời nhiều hơn. Nên người học Phật sẽ thay đổi về nội dung và h́nh thức.

Đạo Phật tuyệt vời là thế. Do đó, muốn con em chúng ta sống có đạo đức và hữu ích cho đời, hăy khéo léo dạy chúng bằng những giá trị đạo đức căn bản nhất theo lời Phật dạy bằng sự hiếu thảo, ḷng biết ơn và ḷng nhân ái. Khi chúng có nhận thức về điều đó th́ tất nhiên sẽ có những hành động mang đến lợi ích cho bản thân, gia đ́nh và xă hội. Khi một cộng đồng sống có đạo đức th́ đó là một cơi “Tịnh Độ nhân gian” thiết thực nhất. Đừng ép chúng phải có hành động tốt đẹp nếu không trang bị cho chúng nền tảng cốt lơi về đạo đức.

Học Phật để làm người tốt hơn bởi lời dạy của đức Phật có sức mạnh chuyển hóa được tâm hồn của mọi người trong từng hoàn cảnh khác nhau. Do đó, là người học Phật, là sứ giả của Như Lai, chúng ta hăy phát huy đúng vai tṛ ấy để đưa đạo Phật đến gần hơn trong cuộc sống để hóa giải đi những phiền muộn, khổ đau cho mọi người

florida80 10-13-2019 22:37

Lời Phật dạy về công ơn người mẹ khi mang thai

Thứ hai, 23/09/2019 | 16:00










Chúng ta ai cũng là con cả, v́ ai cũng có cha có mẹ, để cho ta h́nh hài như ngày hôm nay cha mẹ đă chịu biết bao khổ nhọc. Ngay từ những ngày ta c̣n trong bụng mẹ, mẹ đă phải chịu biết bao khổ nhọc. Thật không thể kể hết công ơn của người mẹ khi mang thai ta.


>>Lời Phật dạy

Chúng ta ai cũng là con cả, v́ ai cũng có cha có mẹ, để cho ta h́nh hài như ngày hôm nay cha mẹ đă chịu biết bao khổ nhọc. Ngay từ những ngày ta c̣n trong bụng mẹ, mẹ đă phải chịu biết bao khổ nhọc. Thật không thể kể hết công ơn của người mẹ khi mang thai ta.

Chúng ta ai cũng là con cả, v́ ai cũng có cha có mẹ, để cho ta h́nh hài như ngày hôm nay cha mẹ đă chịu biết bao khổ nhọc. Ngay từ những ngày ta c̣n trong bụng mẹ, mẹ đă phải chịu biết bao khổ nhọc. Thật không thể kể hết công ơn của người mẹ khi mang thai ta.

Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc b́nh sinh, thường lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đă qua, hồn về cơi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới c̣n như nữ giới trong lúc b́nh sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong ḿnh chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, xương ở trong ḿnh giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.

Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nước mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:

Lạy Đức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm ngh́n trùng, lấy ǵ báo đáp, cúi xin Đức Phật dủ ḷng thương xót, dạy bảo chúng con.


Bài liên quan

Có hiếu với mẹ cha tức là kính Phật

Nầy A-Nan con, về ân đức mẹ, trong ṿng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết:

Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác ǵ hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm c̣n tụ đọng, trưa đă tan, khó ḷng giữ được.

Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, h́nh như sữa đặc, đă chắc ǵ đâu.

Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.

Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng h́nh người.

Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm h́nh, chân tay đầu tóc.

Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân h́nh và ư.

Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn ngh́n chân lông.

Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ư chí mới đủ, chín khiếu mới thông.

Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ h́nh người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dăy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra ḍng máu, rót vào trong miệng.

Ở trong thai mẹ, trong ṿng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu h́nh, thuận lối mà ra, không đau ḷng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến ḷng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như ngh́n mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.

Phật bảo A-Nan: Công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu.

Những ǵ là mười điều?

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.

Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.

Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, quên cả âu lo.

Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.

Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.

Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.

Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu.

Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, v́ thương nhớ con, trong ḷng cầy cậy, một phút chẳng ngơi.

Nhớ công ơn mẹ, v́ sinh nuôi con, mà mẹ cam ḷng tạo bao nhiêu ác nghiệp.

Nhớ công ơn mẹ, ḷng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.

ĐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC

Bao kiếp, duyên cùng nợ;

Ngày nay, mới vào thai

Đầy tháng, sinh ngũ tạng;

Bảy bảy, sáu tinh khai

Thân trọng, như non Thái

Động tĩnh, sợ phong tai

Áo the, đành xốc-xếch,

Gương lược, biếng trang đài.

ĐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SINH NỞ

Khi gần ngày sinh nở

Nặng nhọc, khổ vô cùng,

Cưu mang, trong mười tháng

Sinh nở, sắp đến ngày

Đứng ngồi coi nặng nhọc;

Dáng vẻ, tựa ngô ngây,

Sợ hăi lo, cùng lắng;

Tử sinh giờ phút nầy!

ĐỆ TAM ÂN: SINH NỞ

Mẹ ta, khi sinh nở,

Thân thể đều mở toang!

Tâm hồn như mê mẩn,

Máu me chan ḥa đầy,

Chờ nghe, thấy con khóc;

Ḷng mẹ mừng rỡ thay!

Đương mừng lại lo đến

Rầu rĩ ruột gan nầy.

ĐỆ TỨ ÂN: ĂN ĐẮNG NHẢ NGỌT

Mẹ ta ḷng thành thực,

Thương con chẳng chút ngơi

Nhả ngọt nào có tiếc!

Ăn đắng nói cùng ai?

Yêu dấu như vàng ngọc.

Nâng niu tay chẳng rời

Những mong con ấm no;

Mẹ đói rách cũng vui .

ĐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP

Tự ḿnh nằm chỗ ướt,

Chỗ ráo để xê con,

Hai vú pḥng đói khát;

Hai tay ủ gió sương.

Thâu đêm nằm chẳng ngủ;

Nâng niu tựa ngọc vàng

Những mong con vui vẻ;

Ḷng mẹ mới được yên.

ĐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG

Đức mẹ dày như đất;

Công cha thẳm tựa trời

Chở che coi b́nh đẳng;

Cha mẹ cũng thế thôi!

Chẳng quản, câm mù, điếc!

Chẳng hiềm, quắt tay chân!

Bởi v́ con ruột thịt,

Trọn đời dạ chẳng khuây.

ĐỆ BÁT ÂN: ĐI XA L̉NG MẸ THƯƠNG NHỚ

Từ biệt, ḷng khôn nhẫn;

Sinh ly dạ đáng thương;

Con đi đường xa cách

Mẹ ở chốn tha hương,

Ngày đêm thường tưởng nhớ;

Sớm tối vẩn vấn vương

Như vượn thương con đỏ

Khúc khúc đoạn can trường?

ĐỆ CỬU ÂN: V̀ SINH CON MÀ CAM L̉NG TẠO BAO ÁC NGHIỆP

Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,

Công lao tựa vực trời

Bồng bế cùng nuôi nấng;

Mong sao con ăn chơi

Nhường cơm cùng xẻ áo;

Mẹ đói rách dũng vui!

Khôn lớn t́m đôi lứa

Gây dựng cho nên người

ĐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ĐỜI THƯƠNG YÊU CON

Công cha cùng đức mẹ

Cao sâu tựa vưc Trời

Mẹ già, hơn trăm tuổi,

Vẫn thương con tám mươi!

Bao giờ ân oán hết?

Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…

florida80 10-13-2019 22:39

Đức Phật đă làm ǵ để đền đáp công ơn sinh thành của từ mẫu?

Thứ sáu, 14/06/2019 | 06:00










Mẫu thân của Đức Phật, hoàng hậu Māyādevī, trong một kiếp quá khứ khi c̣n là một thiên nữ ở cung trời Đâu Suất, đă cầu nguyện tha thiết rằng nguyện bà sẽ được tái sinh nơi cơi Người và trở thành người mẹ sinh hạ ra một vị Phật.



Hoàng hậu Maya (Māyādevī) là vợ của vua Tịnh Phạn, là mẹ đẻ của Phật Thích Ca và là chị gái của Mahà Pajàpati (Mahāpajāpatī Gotamī) - nữ tăng đầu tiên.

Theo truyền thuyết trong đạo Phật th́ hoàng hậu Maya qua đời sau khi sinh ra Tất-đạt-đa Cồ-đàm được 7 ngày, và tái sinh vào cơi trời. V́ vậy, người em gái Mahà Pajàpati đă nuôi con của chị.

Maya nghĩa là "t́nh yêu" trong tiếng Phạn. Trong tiếng Tây Tạng, bà được gọi là Gyutrulma và trong tiếng Nhật, bà được biết đến với tên Maya-fujin (摩耶夫人).

Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm thân mẫu Phật của bà Maya như sau: cách đây 91 đại kiếp Trái đất, đă có 1 vị Phật tên là Vipassī (Phật Tỳ Bà Thi) ra đời. Có một công chúa đă cúng dường Phật Tỳ Bà Thi với ḷng chí thành và ước nguyện rằng trong tương lai, cô sẽ được làm mẹ của 1 vị Phật. Phật Tỳ Bà Thi đă thọ kư cho cô sẽ được như nguyện. Công chúa đó chính là tiền kiếp của hoàng hậu Maya.

Sức mạnh của lời khẩn nguyện tha thiết đă đưa bà sinh ra trong ḍng tộc hoàng gia và lên ngôi hoàng hậu, vương hậu của đức vua Tịnh Phạn. Ngay sau khi Đức Phật chào đời, bà đă băng hà và tái sinh trở về cung trời Đâu Suất.

Đức Phật đầu thai vào ḍng tộc Thích Ca

Phía nam duới chân núi Tuyết Sơn có rừng cây tươi tốt rậm rạp, nơi ấy ngày xưa gọi là nước Ca-tỳ-la-vệ, vị vua cai trị nước này rất khôi ngô tuấn tú, dũng cảm, tài trí, đức độ hơn người - đó là vua Tịnh Phạn. Trong ḍng tộc Thích Ca, vua Tịnh Phạn là người đứng đầu gia tộc và cũng là người đứng đầu trị v́ đất nước.

Ở phương bắc có ḍng tộc Câu Lợi, vua nước này là Thiện Giác, có người em gái là Maya đă trưởng thành, rất đoan trang, hiền thục. Cô là người thùy mỵ, nết na, nhă nhặn, trầm tĩnh, tiếng đồn về cô vang rộng khắp thành ai ai cũng biết. Danh tiếng này đến tai vua Tịnh Phạn, Ngài liền cùng các đại thần sang phương bắc diện kiến vua Thiện Giác để xin cầu hôn công chúa Maya.

Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Māyādevī

Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Māyādevī

Từ khi vua Tịnh Phạn kết hôn cùng công chúa Maya , trải qua hai mươi năm vẫn chưa có thái tử để nối ngôi thiên tử. Hoàng hậu Maya trong ḷng luôn mang nỗi ưu tư, lo nghĩ sợ mai sau không người nối dơi, không người kế vị. V́ thế, hoàng hậu thường khuyên vua làm nhiều điều hiền thiện, tạo phúc cho muôn dân. Bản thân hoàng hậu cũng thường làm việc bố thí và cứu giúp những người nghèo khổ ở khắp nơi, khiến cho người dân trong nước ai ai cũng đều mến phục đức hạnh của bà.

Hoàng hậu Maya là bậc mẫu nghi của nước Ca- tỳ-la-vệ, dung mạo tuy không phải là tuyệt thế, nhưng tâm hồn bà trong sáng như hoa sen. Do trên gương mặt của bà lúc này mang nét u buồn là bởi hoàng hậu đă hơn bốn mươi tuổi rồi mà vẫn chưa có được thái tử.

Trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, chui vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật ḿnh tỉnh giấc, kể lại giấc mộng

Trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, chui vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật ḿnh tỉnh giấc, kể lại giấc mộng

Thế rồi, cho đến vào một đêm vắng lặng, lúc thiếp đi, trong một giấc mơ, bà thấy được 4 thiên thần chở tới hồ Anotatta bên dăy Himalaya. Sau khi tắm xong, các thiên thần đă mặc bộ quần áo của cơi trời, xức dầu thơm và trang điểm cho bà bằng những bông hoa tuyệt đẹp. Ngay sau đó, một con voi trắng ṿi giữ một bông hoa sen trắng xuất hiện và đi ṿng quanh bà 3 lần, đi vào dạ con của bà từ bên phải. Cuối cùng voi biến mất và hoàng hậu thức giấc, kể lại giấc mộng.

Các quan đại thần đều đoán rằng đây là điềm lành, chắc chắn hoàng tộc sắp có tin vui. Quả nhiên, từ đó hoàng hậu mang thai Thái tử. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng cùng thần dân mơ tiệc ăn mừng.

Thái Tử ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni vào ngày 8/4

Mang thai đă được mười tháng, nay đă đến ngày sinh, hoàng hậu Maya xin với vua cho phép bà về nhà mẹ đẻ để sinh con theo phong tục thời bấy giờ. Không đành để Hoàng hậu đi một ḿnh, đích thân vua dẫn đoàn tùy tùng đi hộ tống Hoàng hậu về nhà mẹ đẻ.

Hôm đó là ngày mồng tám, gió tháng tư hiu hiu thổi, khí trời ấm áp. Khi đoàn đi ngang qua vườn Lâm Tỳ Ni, cảnh vật nơi đây tuyệt đẹp, mọi người ai cũng thấy dễ chịu. Hoàng hậu cho dừng kiệu đế vào vườn nghỉ ngơi một chút. Lúc này xuân hạ giao mùa, trong vườn Lâm Tỳ Ni th́ hoa đang nở rộ, muôn chim đua hót. Hoàng hậu ngồi cạnh hồ nước chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên, rồi bà đứng dậy dạo quanh vườn hoa, đến cội vô ưu có cành lá sum suê nở rộ. Hoàng hậu đưa tay lên định ngắt lấy một nhành hoa, bỗng ngay lúc ấy Thái tử chào đời.

scan0015

Bấy giờ ánh sáng tỏa chiếu khắp thế gian, nhạc trời trỗi khắp, từ đấy nhân loại có được bậc giác ngộ ra đời để dẫn dắt muôn loài. Hoàng hậu Maya - người mẹ vĩ đại đă cho đời một vị Phật tương lai. Thật đáng kính trọng, thật đáng tán thán! Thái tử khi ra đời đă biết đi. Mỗi bước đi của ngài đều nở một bông hoa sen.

Sau khi sinh thái tử được bảy ngày th́ hoàng hậu băng hà. Sau khi thác, bà được sinh về cung trời Đâu Suất, sống đời an vui tịnh hạnh. Trên cung trời Đâu Suất, nhà cửa toàn bằng pha lê, vàng bạc của báu chất đầy như núi, vật dùng đều quư giá bằng vàng. Trong cảnh an nhàn như thế nhưng hoàng hậu vẫn mong ước được gặp Phật.

Sau khi thành Phật, đức Phật thị hiện ở cung trời Đâu Suất để thuyết pháp cho mẫu thân

Đức Phật thị hiện xuống cơi Ta bà này là đế giáo hóa chúng sinh, Ngài muốn chúng sinh cũng được giác ngộ, thoát khổ như Ngài. Cũng giống như bao nhiêu người con hiếu khác, Ngài nhớ đến công ơn sinh thành của từ mẫu nên đă rời khỏi Tăng đoàn, lên cung trời Đâu Suất trong 3 tháng để thể hiện ḷng kính trọng, sự báo ân, báo hiếu của một người con với mẹ, để thuyết pháp cho mẫu thân. Đức Phật và đă thuyết kinh nói về hiếu hạnh, gọi là kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Công Đức Vi diệu pháp cho bà.

Đức Phật thuyết pháp cho chư thiên và Thánh mẫu trên cung trời Đâu Suất

Đức Phật thuyết pháp cho chư thiên và Thánh mẫu trên cung trời Đâu Suất


Như vậy, Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do ḷng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sinh thành. Khi biết rằng ḿnh sẽ không c̣n trụ thế bao lâu nữa, Đức Phật đă lập pháp hội tại cung trời này để độ thoát cho thân mẫu.

Hoàng hậu Maya là người mẹ vĩ đại nhất với lời nguyện cầu tha thiết trong tiền kiếp đă sinh ra thái tử Tất Đạt Đa. Bà là người phụ nữ cao quư nhất đă có công sinh ra một bậc vĩ nhân kiệt xuất của nhân loại, để chúng ta có được đạo Phật mà nương theo, có được Chính pháp mà tu tập, hướng đến sự giác ngộ và thoát ra khỏi luân hồi sinh tử.

florida80 10-13-2019 22:40

Hai người mẹ lớn của Đức Phật

Thứ tư, 27/03/2019 | 13:53










Nói về người phụ nữ, trong lịch sử Phật giáo có hai người mẹ lớn. Một vị là Hoàng hậu Maya, người đă sinh ra sắc thân của Đức Phật. Vị kia là Pajapathi, d́ ruột và cũng là người nuôi dưỡng sắc thân Đức Phật khi Ngài c̣n sống trong hoàng cung.


>>Lời Phật dạy


Đối với đạo Phật, người phụ nữ được tôn vinh bằng một quan điểm đầy nhân bản. Trong đạo Phật, người phụ nữ nhận được chân giá trị của họ: họ là những người cũng có đủ tiềm năng thành Phật, những vị Phật sẽ thành, họ cũng là những người có đủ ḷng đại bi, có đủ khả năng phát tâm Bồ đề v́ lợi ích chúng sinh. Và người mẹ trong Phật giáo v́ vậy được nh́n trong một không gian rộng lớn, trong một thời gian dài lâu, với một chiều sâu đầy nhân bản.

Đức Phật đă nhiều lần dùng h́nh ảnh người mẹ để minh họa cho giáo pháp của Ngài. Như đoạn kệ sau đây trong truyền thống Theravada:

Như người mẹ trong khổ nạn cuộc đời,

yêu thương và bảo vệ người con trai duy nhất.

Cũng vậy, các thầy Tỳ kheo hăy cố gắng tu tập

Ḷng thương vô giới hạn này

đến khắp chúng sinh trong vũ trụ…

Khi vị Tỳ kheo sống hoàn toàn trong chánh niệm,

chắc chắn vị ấy sẽ không c̣n trở lại trong bào thai.


Bài liên quan

Tôn giả Kiều Đàm Di - ni trưởng đầu tiên trong lịch sử Phật giáo

Dường như có sự mâu thuẫn trong bài kệ trên. Ca tụng người mẹ nhưng không muốn trở lại làm một người con. Theo quan niệm của đạo Phật, t́nh thương của mẹ đối với con tuy là một t́nh thương cao cả nhất trong thế gian, nhưng vẫn là một t́nh thương ràng buộc. Người tu sĩ Phật giáo cố gắng có một t́nh thương mạnh mẽ như t́nh mẹ, nhưng phải vượt qua những ràng buộc để t́nh thương được ban rải khắp chúng sinh, để tiến xa trên con đường giải thoát sinh tử.

Nói về người phụ nữ, trong lịch sử Phật giáo có hai người mẹ lớn. Một vị là Hoàng hậu Maya, người đă sinh ra sắc thân của Đức Phật. Vị kia là Pajapathi, d́ ruột và cũng là người nuôi dưỡng sắc thân Đức Phật khi Ngài c̣n sống trong hoàng cung.

Hoàng hậu Maya: Người mẹ thứ nhất của Đức Phật

Hoàng hậu Maha Maya, một người mẹ có nguyện lớn “thà sinh một con mà phát tâm Bồ Đề, hiện thế xuất gia, chứng được Nhất Thiết Trí, c̣n hơn sinh nhiều con mà không phát tâm Bồ Đề.”

Hoàng hậu Maha Maya, một người mẹ có nguyện lớn “thà sinh một con mà phát tâm Bồ Đề, hiện thế xuất gia, chứng được Nhất Thiết Trí, c̣n hơn sinh nhiều con mà không phát tâm Bồ Đề.”

Hoàng hậu Maya được gọi là lớn - bà thường được gọi là Maha Maya (maha có nghĩa là lớn) - v́ đă sinh ra Đức Phật, như đoạn cuối của bài kệ diễn tả lời phát biểu của Tỳ kheo ni Pajapathi:

Kính lễ Phật Đà,

bậc đệ nhất trong muôn loài,

Ngài đă đưa tôi và nhiều người khác thoát khỏi sự khổ đau.

Tất cả những khổ đau đă được nhận diện,

Nguyên nhân của chúng, ḷng khát ái

Đă được làm khô kiệt,

Con đường Bát chánh được mở bày,

Tôi đă đạt đến chỗ mọi sự đều dừng lại.

Tôi đă là

Mẹ,

Con trai,

Cha,

Anh em,

Bà;

Không biết ǵ về sự thật

Tôi đă măi miết đi hoài.

Nhưng tôi đă gặp Đức Từ Tôn;

Đây là thân sau cùng của tôi

Và tôi không c̣n đi nữa

Trong sinh tử tử sinh

Nh́n những đệ tử quây quần,

Nghị lực của họ,

Sự tinh tấn của họ,

Là công ơn của chư Phật.

Maya đă sinh Đức Gautama

V́ lợi ích của tất cả chúng ta.

Bà đă đẩy lui sự khổ đau

của bệnh và chết.

(Therigaha)

Maha Maya và Maha Pajapathi là hai chị em, con của thủ lănh bộ tộc Koliya. Khi trưởng thành, hai chị em đều cùng về làm vợ của thủ lănh bộ tộc Sakya là Suddhodana. Sau khi Hoàng hậu Maya sinh Thái tử Siddhattha th́ qua đời sau đó bảy ngày. Nguyên nhân về sự qua đời sớm của bà là đại nguyện ra đời chỉ để sinh một vị Phật. Bà là một "bà mẹ lớn" v́ đại nguyện này.

Hoàng hậu Ma Da vào một đêm vắng lặng, lúc thiếp đi, trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, chui vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật ḿnh tỉnh giấc, kể lại giấc mộng. Các quan đại thần đều đoán rằng đây là điềm lành, chắc chắn hoàng tộc sắp có tin vui. Quả nhiên, từ đó hoàng hậu mang thai Thái tử. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng cùng thần dân mơ tiệc ăn mừng. Ảnh minh họa

Hoàng hậu Ma Da vào một đêm vắng lặng, lúc thiếp đi, trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, chui vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật ḿnh tỉnh giấc, kể lại giấc mộng. Các quan đại thần đều đoán rằng đây là điềm lành, chắc chắn hoàng tộc sắp có tin vui. Quả nhiên, từ đó hoàng hậu mang thai Thái tử. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng cùng thần dân mơ tiệc ăn mừng. Ảnh minh họa

Theo kinh Đại phương tiện Phật báo ân, vào thời quá khứ xa xưa có một người nữ, do một nguyên nhân không tốt ở tiền kiếp đă sinh ra làm con của một con nai cái. Nhưng cũng nhờ những nguyên nhân tốt đẹp khác, cô gái do nai sinh ra có một tướng mạo đoan chính, tính t́nh bao dung, hiền thiện. Cô gái được một vị tiên thờ lửa nuôi lớn, và v́ do nai sinh nên được gọi là Lộc Nữ.

Khi Lộc Nữ được 14 tuổi, người cha rất thương và được giao cho công việc giữ lửa. Một hôm v́ vô ư, cô đă để lửa tắt. Người cha ra ngoài trở về thấy thế, phạt cô phải sang động của vị tiên bên cạnh, ở sườn núi phía Bắc, để xin lửa.

V́ tạo nhân trong sạch nhiều đời, sau mỗi bước chân của Lộc Nữ đều mọc lên một đóa sen. Vị tiên phía Bắc thấy vậy, yêu cầu Lộc Nữ đi bảy ṿng quanh động của ông th́ ông mới cho lửa. Và bảy ṿng hoa sen trang nghiêm, đẹp đẽ mọc lên.

Khi đó, vua nước Ba La Nại cùng quần thần vào rừng săn bắn. Nhà vua thấy bảy ṿng hoa sen quanh động vị tiên, sanh ḷng hoan hỷ, ca tụng đức hạnh của vị tiên. Vị tiên nói với nhà vua về nguyên nhân của bảy ṿng hoa sen, nhà vua vui mừng qua động phía Nam, ngỏ lời xin kết hôn cùng Lộc Nữ.

Về hoàng cung được một thời gian th́ Lộc Nữ có thai. Nhưng đến ngày sinh, nàng chỉ sinh ra một đóa hoa sen. Nhà vua rất giận, cho là yêu tinh, sai liệng bỏ hoa sen và giáng chức phu nhân.

Sau đó mấy ngày, nhà vua cùng quần thần vào hậu viên để du ngoạn. T́nh cờ nhà vua nh́n thấy trong ao sen có một đóa sen hồng tỏa ra ánh sáng mầu nhiệm. Vua sai người xuống ao xem. Hoa có năm trăm cánh, dưới mỗi cánh hoa có một em bé, mặt mày khôi ngô tuấn tú.

Khi nghe kẻ hầu tâu lại, nhà vua kinh ngạc hỏi: "Có thực quả như vậy chăng? Hoa sen ấy có phải do Lộc Mẫu sinh ra chăng?" Các người theo hầu đều bảo rằng hoa sen do Lộc Mẫu sinh ra được đem chôn ở đó.


Bài liên quan

Chân dung 10 vị đại đệ tử của Đức Phật

Nhà vua ăn năn, đem hoa sen và năm trăm Hoàng tử về hoàng cung và phục chức cho Lộc Mẫu. Các hoàng tử được Lộc Mẫu chia cho các phu nhân khác của vua đồng đều nuôi dưỡng.

Khi năm trăm Hoàng tử đến tuổi trưởng thành, một hôm cùng nhau du ngoạn đến ngồi trên bờ một ao sen. Nh́n thấy h́nh dung của ḿnh ảnh hiện trong nước, các Hoàng tử cùng bảo với nhau:

"Tất cả các pháp, chẳng khác nào tṛ huyễn thuật, như hoa đốm trên không, như cảnh tượng trông thấy trong giấc chiêm bao, như bóng h́nh dưới đáy nước, thể tính vốn không phải là chân thực, lũ chúng ta ngày nay cũng lại như thế. Tuy là chúng ta ở địa vị tôn quư cao sang, sống trong hoàng cung hưởng dụng bao nhiêu dục lạc, trẻ trung đẹp đẽ, rốt cuộc cũng không thể nào giữ được lâu. Vạn vật có thành tất phải có hoại, người ta rồi cũng phải chết, trẻ khỏe không được bao lâu, mà già nua sẽ tới, ăn uống không tiết độ tất nhiên bệnh hoạn sẽ phát sinh, dù cho sống lâu đến trăm tuổi, rồi cũng phải chết".

Các Hoàng tử ḷng sinh không vui, trở về hoàng cung, cùng nhau thưa với cha mẹ: "Thưa cha mẹ! Thế giới đều là khổ, không có ǵ đáng vui, nay xin cha mẹ cho chúng con được xuất gia".

Nhà vua và Hoàng hậu thấy không thể ngăn cản các Hoàng tử, nên cho họ xuất gia, ra ở hậu viên để tu hành.

Sau khi xuất gia, các Hoàng tử đều chứng quả Bích Chi Phật. Chứng quả xong, các vị Hoàng tử v́ cha mẹ, hiện các thứ thần biến, rồi nhập Niết bàn.

Hoàng hậu thâu các thân cốt, xây năm trăm tháp, ngày ngày thắp hương, trổi nhạc để cúng dường. Hoàng hậu buồn ḷng tự nhủ: "Ta tuy sinh năm trăm Hoàng tử mà không có một người nào phát tâm Bồ đề". Bà lập thệ nguyện: "Ta cúng dường năm trăm vị Bích Chi Phật, gồm xây năm trăm tháp, cúng dường xá lợi, công đức xin hồi hướng cho tất cả chúng sinh, khiến ta đời sau, thà sinh một con mà phát tâm Bồ đề, hiện thế xuất gia, chứng được Nhất thiết trí, c̣n hơn sinh nhiều con mà không phát tâm Bồ đề".

Thái tử ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni. Ảnh minh họa

Thái tử ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni. Ảnh minh họa

Lộc Mẫu là tiền thân của Maha Maya. Lời nguyện lớn của bà là nhơn duyên khiến bà đời đời làm mẹ của Phật. Nền tảng của Phật giáo Đại thừa là Bồ đề tâm. Bồ đề tâm là tâm v́ chúng sinh. Đức Phật đă xuất gia t́m đạo v́ Ngài muốn t́m đường diệt khổ cho chúng sinh.

Tỳ kheo ni Maha Pajapathi: Người mẹ thứ hai của Đức Phật


Người "mẹ lớn" thứ hai trong Phật giáo là Tỳ kheo ni Maha Pajapathi (Ma ha Ba Xà Ba Đề). Bà là người đă nuôi dưỡng sắc thân của Phật khi mẹ Ngài qua đời, cũng là vị Tỳ kheo ni đầu tiên, vị thiết lập và lănh đạo Ni chúng đầu tiên trong Phật giáo.

Sự cố gắng cầu đạo của bà Maha Pajapathi là một cố gắng phi thường. Sự cố gắng phi thường của bà Maha Pajapathi là một ưu điểm của nữ giới so với nam giới. Và tiến tŕnh nhận nữ giới vào hàng ngũ Tăng già cho chúng ta thấy một cái nh́n nhân bản của đạo Phật. Cả hai giới đều có chung một khả năng giác ngộ và giải thoát như nhau, b́nh đẳng với nhau trong tự tánh. Tuy nhiên, v́ tâm sinh lư khác nhau, đời sống xă hội khác nhau, nên tiến tŕnh tiến đến chân thiện cũng khác nhau.

Người

Người "mẹ lớn" thứ hai trong Phật giáo là Tỳ kheo ni Maha Pajapathi (Ma ha Ba Xà Ba Đề). Bà là người đă nuôi dưỡng sắc thân của Phật khi mẹ Ngài qua đời, cũng là vị Tỳ kheo ni đầu tiên, vị thiết lập và lănh đạo Ni chúng đầu tiên trong Phật giáo. Ảnh minh họa

Lư do Phật không chấp nhận cho nữ giới xuất gia ngay được bà Maha Pajapathi nói trong kinh Đại phương tiện Phật báo ân như sau:

"Phật pháp là lợi ích lớn. Chỉ trong giáo pháp của Đức Như Lai mới có đầy đủ các công đức và ba thứ quả báo. Hết thảy chúng sinh đều có phần trong đó. Thế mà Đức Như Lai lại không cho phụ nữ của chúng ta được dự vào Phật pháp là lẽ ǵ? Là v́ phụ nữ chúng ta phần nhiều hay ngờ vực, chấp trước, không có ḷng hỷ xả.


Bài liên quan

Bộ ảnh mô tả cuộc đời Đức Phật Thích Ca

Cũng v́ chấp trước nên mới tạo không biết bao nhiêu nghiệp trói buộc, đến nỗi bị ngu si và ái dục che lấp mất chân tâm, do đó mà phải ch́m đắm măi trong bể khổ sinh tử, mặc cho lớp sóng ái dục dập vùi. V́ tà kiến và tham ái làm chướng ngại, nên mới sinh ra kiêu ngạo, lười biếng, bởi thế thân này không thể đạt đến đạo quả Vô thượng Bồ đề, không thể có được ba mươi hai tướng tốt… Thiên ma Ba Tuần, các loại tà kiến, và hết thảy ngoại đạo chuyên làm điều ác, chấp theo tà thuyết, phá hoại Chánh pháp, diệt Phật Pháp Tăng. V́ vậy Đức Như Lai không cho nữ nhân dự vào Phật pháp".

Đó là một lời phân tích, nhưng chính thực là một lời khuyên nhủ của bà Pajapathi với nữ giới. Sự thật, không phải Đức Phật nhất quyết không cho nữ giới xuất gia. Nhưng xuất gia có điều kiện. Và những điều kiện này cần thiết cho nữ giới trong quá tŕnh giải thoát. Chúng ta biết rằng Đức Phật đă mở ṿng tay tiếp nhận bất cứ hạng người nào thuộc bất kỳ giai cấp nào.

Khi Đức Phật trở về hoàng cung để thuyết pháp cho dân chúng bộ tộc Sakya th́ bà Pajapathi đă ở vào khoảng 50, 60 tuổi. Trong số những người tham dự nghe Phật thuyết pháp chắc chắn có bà. Sau đó, bà và cả vua Suddhodana trở thành đệ tử tại gia của Phật. Ananda, con trai của bà, Rahula, cháu của bà, cũng theo Phật xuất gia.

Sau khi bà trở thành đệ tử tại gia của Phật, chắc chắn bà cũng đă dùng giáo pháp của Đức Phật để an ủi những người con gái và phụ nữ đến nương tựa bà, con số là "500 người" (tượng trưng cho một số đông).

Câu chuyện về việc xuất gia của bà Maha Pajapathi được ghi lại như sau:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại tịnh xá Nigrodha trong thành Kapilavathu. Maha Pajapathi đến chỗ Phật, chào hỏi rồi đứng ở một nơi, cung kính thưa rằng: "Thưa Thế Tôn, nếu Ngài cho phép phái nữ được xuất gia để nương tựa vào giáo pháp và giới luật của Như Lai th́ nhiều người sẽ được lợi lạc".

Đức Phật trả lời: "Này Gotami, hăy đừng nghĩ đến việc đó".

Ba lần bà Pajavathi thưa thỉnh như vậy và Phật đều trả lời như vậy. Nghĩ rằng Phật không cho phép nữ giới xuất gia, bà Pajavathi xá Phật rồi buồn bă lui ra theo phía phải.

Sau khi Đức Phật đi đến Vesali, bà Pajapathi cạo tóc, mặc áo cà sa, cùng với một số phụ nữ bộ tộc Sakya đi đến Vesali để xin Phật được xuất gia.

Di mẫu Maha Pajapathi thỉnh cầu Phật cho xuất gia

Di mẫu Maha Pajapathi thỉnh cầu Phật cho xuất gia

Chúng ta biết rằng từ thành Capilavatthu đến Vesali khoảng cách 150 dặm. Bà Maha Pajapathi lúc đó đă trên 50 tuổi, cùng với một số phụ nữ, đa số thuộc ḍng dơi quư tộc, đi bộ một đoạn đường như vậy là một cố gắng phi thường, phải có một ḷng cầu đạo phi thường.


Lời tâm sự của bà về tâm cầu đạo của ḿnh như sau: "Ta v́ hết thảy phụ nữ, ba lần thỉnh cầu Đức Như Lai cho được xuất gia, tu học Phật pháp, mà Phật không thuận. V́ không được như nguyện, ḷng ta buồn tủi, giận cho thân phận nữ nhân, bất giác lệ tràn mí mắt ta mới bước ra khỏi Kỳ Hoàn tịnh xá".

Bà đă "v́ hết thảy phụ nữ" mà không quản ngại bao nhiêu khó khăn quyết cầu xuất gia. Đó là tâm nguyện Đại thừa.

Và cuối cùng, với lời xin của ngài A Nan, Đức Phật đă cho nữ giới xuất gia nhưng có điều kiện. Trong kinh Đại phương tiện Phật báo ân, Đức Phật dạy như sau:

"Bấy giờ ngài A Nan cúi đầu lễ, rồi quỳ gối, chắp tay lại, bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, con tự nghĩ chư Phật ở quá khứ đều có đủ bốn bộ chúng, mà chỉ ḿnh Đức Thích Ca Như Lai là không đủ.

Phật bảo ngài A Nan:

- Nếu Di mẫu quư chuộng Phật pháp, phải hết sức tinh tiến, tu tập phép Bát kính, ta sẽ ưng thuận, cho được xuất gia sống trong Phật pháp".

Lúc đó ngài A Nan lễ Phật, đi nhiễu ba ṿng, rồi lui trở ra. Ngài liền đến báo cho ta (Pajapathi) biết là Đức Như Lai đă theo lời cầu xin của ngài mà bằng ḷng cho ta được xuất gia, phụng tŕ Phật pháp. Được biết tin ấy, ḷng ta vui mừng vô hạn, và bạch ngài A Nan rằng:

- Quư hóa thay, ngài A Nan! Ngài đă hết ḷng thỉnh cầu Đức Như Lai, khiến cho tôi được toại nguyện.

florida80 10-13-2019 22:41

Hạnh nguyện bố thí thân mạng cứu chúng sinh của nàng Ngân Sắc - tiền thân Đức Phật

Thứ bảy, 12/10/2019 | 16:05










Trong vô số những tiền thân mà Đức Phật đă trải qua, v́ ḷng từ bi vô điều kiện, Ngài đă từng xả thân cứu giúp và mang lại sự an vui, hạnh phúc cho vô số chúng sinh. Ngài không hề nghĩ đến tự thân, đă từng nhiều lần đem thân mạng ḿnh bố thí cho những chúng sinh đói khổ.


>>Phật tử có thể đọc loạt bài về Đức Phật

Tôi nghe như vầy:

Một thời Bà-ca-bà ở tại rừng cây Kỳ-đà, vườn cấp cô độc, nước Xá-vệ, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo:

- Này các Tỳ-kheo, có chúng sinh nào có thể biết rơ được công đức và quả báo của việc bố thí như đă biết mà trong bữa ăn, từ miếng ăn đầu đến miếng ăn cuối, không có ḷng rộng mở bố thí th́ tự ḿnh không nên ăn.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu có các chúng sinh

Như lời Phật đă dạy

Bớt phần ăn bố thí

Thành tựu quả báo lớn,

Hoặc ngay miếng cơm đầu

Hoặc là miếng sau cùng

Ai không dùng bô thí

Tự ḿnh không nên ăn.

Đức Thế Tôn dạy bài kệ xong, bảo các Tỳ-kheo:

- Này các Tỳ-kheo, từ vô lượng kiếp quá khứ có một kinh đô tên Liên hoa, trong thành có danh nữ tên Ngân sắc, tướng mạo đoan trang vô cùng xinh đẹp, bởi nàng được kết hợp bằng những nét đẹp tuyệt diệu nhất. Một hôm có việc cần, Ngân sắc rời nhà đi đến một nhà kia. Khi vào nhà, cô thấy một sản phụ vừa sinh một đứa con trai rất xinh đẹp, dễ thương. Khi ấy, bà ta đang bế đứa con lên và muốn ăn thịt nó. Thấy thế Ngân sắc liền hỏi:

- Em làm ǵ vậy?

Sản phụ đáp:

- Tôi quá đói, không c̣n khí lực, không biết lấy ǵ ăn, nên tôi muốn ăn con tôi.

Ngân Sắc liền bảo sản phụ.

- Em hăy dừng lại, việc này không thể được. Trong nhà này không có ai lo thức ăn cho em sao?

Vị ấy đáp:

- Đă từ lâu tôi chỉ chất chứa xan tham, keo kiệt, cho nên bây giờ không có một chút ǵ có thể ăn được.

Ngân Sắc liền bảo:

- Em hăy đợi một lát, tôi về nhà đem thức ăn cho em.

Bà ta lại nói:

- Hiện giờ hai bên sườn của tôi như muốn găy, lưng lại muốn bại, trong ḷng ngỗn ngang, nh́n nơi nào cũng mờ mịt. Cô vừa ra khỏi nhà chắc tôi chết ngay.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Khi ấy, Ngân sắc suy nghĩ: “Nếu đem đứa con đi chắc người mẹ sẽ chết, mà nếu không đem nó đi ắt mẹ nó ăn thịt. Ta phải t́m cách nào để cứu hai mẹ con”.

Cô liền nói với sản phụ:

- Tôi cần có một con dao bén, trong nhà này có không?

Sản phụ nói:

- Có.

Và liền lấy dao trao cho Ngân sắc. Ngân sắc dùng dao cắt hai vú của ḿnh bảo sản phụ ăn và nói với bà ấy:

- Em hăy ăn vú của tôi, thân thể của em sẽ bớt đói khổ.

Khi sản phụ ăn xong, Ngân sắc lại hỏi:

- Em no chưa?

Sản phụ đáp:

- Tôi no rồi.

Ngân Sắc nói:

- Em nên biết, đứa bé này chính là tôi đă đem thân thể chuộc lại. Nay tôi gởi nó cho em, tôi muốn về nhà lấy thức ăn.

Ngân Sắc nói xong th́ khắp thân máu ra lênh láng, lê lết đi về đến nhà, bà con quyến thuộc trông thấy Ngân sắc đều cùng hỏi:

- Ai làm thế này?

Ngân Sắc trả lời:

- Tự tôi làm như vậy.

Họ lại hỏi:

- V́ sao cô làm như vậy?

Ngân Sắc nói:

- Tôi đă khởi tâm không bỏ đại bi v́ mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Những người thân quyến nói:

- Tuy cô hành hạnh bố thí mà tâm c̣n hối tiếc, th́ chỉ gọi là bố thí, mà không phải là Ba-la-mật.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Họ lại hỏi:

- Trong lúc cắt bỏ phần thân như vậy, cô có hoan hỷ không? Cô chớ v́ đau đớn quá mà sinh buồn tiếc.

Ngân Sắc liền phát thệ nguyện:

- Tôi cắt hai vú, ḷng không hề nuôi tiếc hay có một vọng tưởng nào khác. Nếu đúng như lời, xin hai vú của tôi trở lại như cũ.

Ngân Sắc vừa nguyện xong th́ hai vú trở lại b́nh thường.


Bài liên quan

Đức Phật nói về việc bố thí trong các Kinh như thế nào?

Bấy giờ, trong thành Liên hoa, các Dạ-xoa cùng nói lớn rằng: “Cô Ngân Sắc tự bỏ hai vú”. Khi ấy Địa thiên nghe được lại truyền lên hư không. Chư Thiên nghe được lại loan truyền tiếp, truyền măi như vậy cho đến Phạm thiên, trời Đế Thích suy nghĩ: “Thật là sự kiện hy hữu, cô Ngân sắc này v́ ḷng thương chúng sinh cho nên tự bỏ hai vú, nay ta đến hỏi cô ấy xem”. Nghĩ xong, Đế Thích hóa thân làm người Bà-la-môn, tay trái cầm b́nh nước và bát đều bằng vàng, tay phải cầm cây gậy cũng bằng vàng, rồi ông đi thẳng đến thành Liên hoa và đi dần đến nhà Ngân sắc ở, đứng ngoài cửa cất tiếng khất thực; Ngân sắc nghe ngoài cửa có tiếng người khất thực, vội lấy đồ đựng đầy thức ăn đem ra ngoài cửa. Người Bà-la-môn nói:

- Thôi cô ạ, tôi không cần thức ăn.

Ngân Sắc hỏi tại sao, người Bà-la-môn nói:

- Ta là Đế Thích. Ta có sự hoài nghi đối với cô nên đến đây, xin cô đáp lời ta hỏi.

Ngân Sắc thưa:

- Đại Bà-la-môn, xin ông cứ hỏi, con sẽ trả lời những điều ông hoài nghi, con sẽ làm vừa ư ngài Bà-la-môn.

Bà-la-môn hỏi:

- Có phải cô thật cắt hai vú để bố thí cho người khác không?

Cô đáp:

- Đúng như vậy, thưa Đại Bà-la-môn.

Bà-la-môn lại hỏi:

- Tại sao cô làm như vậy?

Ngân Sắc trả lời:

- V́ ḷng đại bi muốn đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bà-la-môn nói:

- Việc này rất khó. Cái rất khó là đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu cô bố thí rồi mà sinh tâm hối tiếc, th́ chỉ là thí chứ chẳng phải Ba-la-mật. Lúc đang bố thí, cô có hoan hỷ không? Trong lúc đang bị cắt đau đớn, cô có sinh ư khác không?

Ngân Sắc đáp:

- Thưa Kiều-thi-ca, con nay lập thệ: Con v́ tâm cầu Nhất thiết trí, v́ tâm cầu thắng nhất thiết thế gian, tâm mong cứu độ tất cả chúng sinh, nên con không hề hối tiếc khi cắt bỏ hai vú. Nếu đúng là con không hối tiếc, xin cho thân nữ của con biến thành người nam.

Khi Ngân sắc phát lời thệ nguyện xong, liền trở thành người nam. Ngân sắc thấy thân nữ đă biến thành thân nam rồi, ḷng sinh hoan hỷ, vui mừng không xiết, đi đến gốc cây nằm ngủ.


Bài liên quan

Tiền thân của đức Phật là vua Chuyển luân thánh vương Đại Thiện Kiến tôn quư

Trong thời gian ấy, vua Liên Hoa bỗng nhiên băng hà. Vua lại không có con. Thời tiết vô cùng nóng bức. Ngay thời điểm ấy, các quan đại thần t́m kiếm khắp nơi, từ rừng này qua rừng khác, từ làng này qua làng khác, từ thành này đến thành kia, từ đô thị này đến đô thị khác, một người có tướng xứng đáng lên ngôi vua. Các quan đều nói: “Chúng ta phải làm thế nào t́m được vị vua cai trị nước nhà đúng chánh pháp”.

Trong lúc ấy có một vị quan đại thần, nhân trời nóng bức nên vào trong ao Liên hoa. Vị đại thần chợt thấy người nằm dưới gốc cây tướng mạo thật hoàn hảo, thù thắng. Người ấy nằm ngủ mà không biết mặt trời dọi vào, thế nhưng bóng cây luôn che mát cho người. Vị đại thần khảy móng tay cho người ấy thức dậy và dẫn người ấy vào thành Vương xá, cho cạo râu và mặt vương phục đội mũ châu báu, rồi nói với người ấy:

florida80 10-13-2019 22:42

- Xin ngài làm vua trị v́ đất nước.

Người ấy liền đáp:

- Tôi thật không thể chăm lo việc nước.

Các quan lại nói:

- Hôm nay chúng tôi cần mời ngài lên ngôi vua.

Vị ấy liền bảo:

- Nếu tôi làm vua th́ sẽ cai trị đất nước đúng như pháp, tất cả dân chúng trong nước phải nên thọ tŕ Thập thiện nghiệp đạo th́ tôi chịu lên làm vua.

Các quan đồng thưa:

- Chúng thần xin thuận ư ngài.

Ngay khi ấy mọi người đều thọ Thập thiện nghiệp đạo. Vị ấy khuyên mọi người thọ Thập thiện nghiệp đạo như vậy rồi, mới lên ngôi vua hiệu là Ngân sắc.

Bấy giờ nhân dân trong nước vua Ngân sắc sống lâu bảy vạn na-do-tha tuổi. Nhà vua trị v́ đất nước đến vô lượng trăm ngàn năm mới mạng chung. Trước giờ lâm chung vua nói kệ:

Tất cả đều vô thường

Ắt có sự tan hoại

Hội họp sẽ chia lỵ

Có sinh đều có tử.

Tùy theo nghiệp đă làm

Hoặc thiện hoặc bất thiện

Tất cả cái có sinh

Không tồn tại lâu dài.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Sau khi nhà vua mạng chung, thác sinh trở lại kinh đô Liên hoa, trong một gia đ́nh trưởng giả. Vừa tám chín tháng, bà vợ ông trưởng giả đă sinh một đồng tử. Đồng tử có tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Măi hơn tám tuổi đồng tử mới đến trường học cùng năm trăm đồng tử khác. Ở nơi trường học trước đó có năm trăm đồng tử đọc sách. Đồng tử hỏi người bạn học cũ rằng:

- Các người ở đây làm ǵ?

Chúng nói:

- Chúng tôi đọc sách.

Đồng tử lại hỏi:

- Đọc sách được ích lợi ǵ? Các bạn không cần đọc sách này làm chi, các bạn chỉ cần phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Các bạn hỏi:

- Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác th́ phải làm ǵ?

Đồng tử liền nói:

- Tất nhiên cần phải tu hạnh sáu Ba-la-mật, đó là:

1. Đàn ba-la-mật.

2. Thí ba-la-mật.

3. Sằn-đề ba-la-mật.

4. Tỳ-lê-da ba-la-mật.

5. Thiền ba-la-mật.

6. Bát-nhă ba-la-mật.

Người bạn cũ nghe xong nói:

- Tôi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi vị đồng tử đă giáo hóa cho mọi người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, suy nghĩ: “Bây giờ ta muốn đem chút ít bố thí cho những loài cầm thú hai chân, bốn chân”. Suy nghĩ như vậy, đồng tử đi vào rừng Thi-đà, dùng dao bén cắt thân chảy máu thoa lên khắp thân, lại dùng dầu bôi lên rồi nằm trong rừng mà tự xướng rằng:

- Các loài cầm thú hai chân, bốn chân như hươu, nai… ở gần xa, có cần thức ăn hăy đến đây ăn thịt của ta.

Khi đó có con chim tên Hữu Thủ ở trong đàn chim, bay đến đậu trên trán đồng tử và móc mắt phải của ông ta rồi bay đi. Đồng tử hỏi chim:

- V́ sao ngươi móc mắt của ta rồi bay đi?

Chim đáp:

- Đối với tôi trong phần thịt của con người, tất cả chỉ có thịt ở mắt là ngon hơn hết.

Đồng tử hỏi chim:

- Giả sử ngươi có móc ngàn con mắt phải của ta rồi lại bay đi, ta cũng không có phật ư, ân hận.

Chim ở đó ăn hai con mắt của đồng tử rồi, vô lượng chim khác trong rừng bay đến chỗ đồng tử ăn hết sạch thịt trên thân đồng tử, chỉ c̣n lại đống xương trắng.

Đồng tử xả thân bố thí rồi, lại sinh trở lại kinh đô Liên hoa, vào nhà một người Bà-la-môn. Đúng mười tháng, bà vợ người Bà-la-môn sinh được một đồng tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú không ai sánh kịp. Đến năm đồng tử đă hai mươi tuổi, cha mẹ nói:

- Ma-na-bà, chúng ta sẽ xây dựng nhà cửa.

Đồng tử thưa cha mẹ:

- Cha mẹ v́ con mà xây dựng nhà cửa có ư nghĩa ǵ? Hiện giờ tâm con không ở tại nhà, xin cha mẹ hăy cho vào núi sâu.

Cha mẹ đồng tử bằng ḷng cho đi. Đồng tử rời nhà đi đến núi rừng. Vừa đến nơi đă thấy phía trước có hai Tiên nhân Bà-la-môn cũ đang ở trong rừng kia. Khi đó Ma-na-bà đến chỗ hai vị Tiên nhân Bà-la-môn, hỏi hai vị đó rằng:

- Hai vị Phạm tiên ở trong núi rừng làm ǵ thế?

Họ đáp:

- Ma-na-bà, chúng tôi đều v́ lợi ích của chúng sinh nên ở tại núi rừng này thực hiện tất cả các việc khổ hạnh.

Đồng tử nói:

- Hôm nay tôi cũng v́ lợi ích của tất cả chúng sinh nên muôn đến đây thực hành khổ hạnh.


Bài liên quan

Cuộc đời trầm luân của Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc

Ma-na-bà liền đến rừng cây, đắp đất làm nhà. Nhờ phước đức tu nghiệp thiện, Ma-na-bà bỗng nhiên đắc đại nhăn. Ngay khi ấy ông trông thấy có một vùng núi, cách đó không xa lắm, có một con hổ mẹ đang có thai sắp sinh. Thấy vậy, Ma-na-bà suy nghĩ: “Con hổ mẹ này chẳng bao lâu sẽ sinh con. Khi sinh xong có lẽ nó sẽ bị chết đói, hoặc chịu biết bao điều khốn khổ v́ đói khát, hoặc nó sẽ ăn thịt con. Ai có thể cắt thân cho con hổ này?”. Sau khi suy nghĩ, đồng tử liền hỏi: “Vị nào có thể cắt thân ḿnh cho hổ ăn”. Tiên nhân kia đáp:

- Chúng tôi không thể cắt thân bố thí.

Bảy ngày sau con hổ mới sinh. Sinh xong, nó ngậm con đặt trên đất và ôm giữ con. Ma-na-bà thấy như vậy rồi, liền đến chỗ hai vị tiên nói:

- Đại tiên, hổ mẹ đă sinh. Nếu hai người v́ lợi ích chúng sinh thực hành bao khổ hạnh, th́ nay đă đúng lúc nên cắt thịt thân ḿnh đem cho con hổ này.

Lúc đó hai vị tiên Bà-la-môn đi ngay đến bên trái con hổ mẹ, suy nghĩ: “Ai có thể nhẫn nhục chịu việc khổ này mà thực hành đại thí? Ai có cắt thân thể yêu quư của ḿnh cho hổ đói ăn?”. Suy nghĩ như vậy rồi, hai vị Tiên nhân rời hổ mẹ đi ra xa và v́ tiếc thân mạng nên hai vị tiên này bay lên hư không đi mất.

Từ xa, Ma-na-bà nói với theo hai Tiên nhân Bà-la-môn:

- Đây không phải là lời thệ nguyện của các vị sao?

Nói xong, Ma-na-bà phát nguyện:

- Nay tôi xin xả bỏ thân này để giúp hổ đói. Nguyện cho tôi nhờ nhân duyên này chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phát nguyện xong, Ma-na-bà nhặt con dao bén dưới đất tự hủy hoại thân ḿnh để bố thí cho hổ đói.

Này các Tỳ-kheo, Ta sợ các ông sinh tâm hoài nghi. Này các Tỳ-kheo, các ông chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều ǵ khác. V́ sao? Các ông nên biết, lúc bấy giờ cô Ngân sắc ở vương quốc Liên hoa kia đă cắt hai vu đâu phải người nào lạ, nay chính là Ta vậy.

Này các Tỳ-kheo, chớ sinh tâm hoài nghi và chớ nghĩ điều ǵ khác. V́ sao? Các ông nên biết, vua Ngân sắc ở kinh đô Liên hoa lúc ấy nay cũng chính là Ta.

Các Tỳ-kheo, các ông chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều ǵ khác. V́ sao? Các ông nên biết, Ta lúc ấy tên là Ngân sắc, cắt bỏ hai vú để cứu giúp đứa bé kia.

Các Tỳ-kheo, các ông chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều ǵ khác. V́ sao? Các ông nên biết, đứa bé lúc đó chính là La-hầu-la chớ không phải ai khác.

Các Tỳ-kheo, chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều ǵ khác. V́ sao? Các ông nên biết, lúc đó vua nước Liên hoa trong vườn Thi-đà v́ các bầy chim cắt xả thân thể, đâu phải người nào lạ, nay chính là Ta vậy.

Này các Tỳ-kheo, chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều ǵ khác. V́ sao? Các ông nên biết, lúc ấy hai vị tiên Bà-la-môn đâu phải người nào lạ, nay chính là các Tỳ-kheo.

Này các Tỳ-kheo, các ông chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ nghĩ điều ǵ khác. V́ sao? Các ông nên biết, lúc ấy Ma-na-bà, con của người Bà-la-môn, cũng chính là Ta vậy.

Này các Tỳ-kheo, v́ thế cho nên Ta bảo cho các ông: Nếu các Tỳ-kheo biết rơ công đức bố thí và quả báo bố thí th́ phải bố thí miếng ăn ban đầu, hoặc bố thí miếng ăn sau cùng, như vậy tự ḿnh mới nên ăn.

Khi Đức Phật nói kinh này, các vị Tỳ-kheo thảy đều rất hoan hỷ

florida80 10-13-2019 22:43

Vấn đề thừa kế trong tôn giáo theo Bộ luật Dân sự

Chủ nhật, 13/10/2019 | 11:24










Ư kiến này đă được đăng trên báo Giác Ngộ nhiều năm trước đây, trong chuỗi góp ư về Bộ luật Dân sự (sửa đổi) khi c̣n là dự thảo, đặc biệt liên quan tới giáo sản và kế thừa sở hữu hợp pháp liên quan Phật giáo. Nay xin giới thiệu lại cùng quư độc giả.


>>Kiến thức

Vừa qua, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM đă tổ chức hội nghị lấy ư kiến nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi).

Bộ luật Dân sự cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, là những quy định địa vị pháp lư, chuẩn mực pháp lư cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự; bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng cũng như tính b́nh đẳng và an toàn pháp lư trong quan hệ dân sự, làm cho xă hội ổn định và phát triển.

Hoà thượng Thích Giác Toàn

Hoà thượng Thích Giác Toàn


Bài liên quan

7 thứ tài sản của bậc Thánh

Với sự vận động của xă hội, đặc biệt là sau khi Hiến pháp 2013 được ban hành, Bộ luật Dân sự 2005 cho thấy chưa đáp ứng được yêu cầu của đời sống thực tiễn trong xă hội chúng ta hiện nay, do đó, sửa đổi là một yêu cầu chính đáng. Để có những góp ư cho nội dung 712 điều cụ thể trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi) sẽ là quá khó đối với một công dân b́nh thường.

Với nhân duyên của một người hoạt động tôn giáo, ở đây chúng tôi chỉ xin lưu ư nội dung các điều khoản thuộc phần thứ tư liên quan đến việc thừa kế.

Trong 4 chương liên quan trực tiếp tới phần thừa kế, không thấy có nội dung cụ thể nào đề cập đến thừa kế tài sản tôn giáo (giáo sản).

Đối với Phật giáo, cơ sở vật chất liên quan tới đất đai chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường… khi được Giáo hội chính thức công nhận được xem là tài sản của Giáo hội. Vị trụ tŕ được bổ nhiệm coi sóc, hướng dẫn sinh hoạt Phật sự ở cơ sở đó do Giáo hội quyết định, căn cứ phối hợp theo Hiến chương, Nội quy Tăng sự, pháp luật hiện hành và công đức, phẩm hạnh của cá nhân đó.

Đối với Phật giáo, cơ sở vật chất liên quan tới đất đai chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường… khi được Giáo hội chính thức công nhận được xem là tài sản của Giáo hội.

Đối với Phật giáo, cơ sở vật chất liên quan tới đất đai chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường… khi được Giáo hội chính thức công nhận được xem là tài sản của Giáo hội.

Sau khi cá nhân vị trụ tŕ đă mất, hoặc v́ một lư do nào đó không c̣n đảm nhận vai tṛ trụ tŕ nữa, th́ việc bổ nhiệm vị trụ tŕ mới cũng do Giáo hội quyết định. Nhưng thực tế, hiện có một số cơ sở chùa chiền, tịnh xá, tịnh thất vẫn được chuyển giao từ người trụ tŕ (chủ hộ) cho một cá nhân khác, hoặc một cá nhân mặc nhiên được thừa kế một phần hoặc toàn bộ tài sản cơ sở tôn giáo chỉ v́ người đó có quan hệ huyết thống với vị trụ tŕ.


Bài liên quan

Đ́nh chỉ chức vụ trụ tŕ chùa Nga Hoàng đối với Đại đức Thích Thanh Toàn

Thí dụ, một ông A đă lập gia đ́nh, có giấy tờ hôn nhân và sinh con cái hợp pháp, sau đó ông A đi xuất gia, được Phật tử thập phương hùn phước cúng dường một sở đất để lập chùa. Các thủ tục pháp lư được tiến hành, và cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng cũng được h́nh thành với người đại diện pháp lư là sư A. Vị sư A qua đời đột ngột, vấn đề thừa kế cơ sở đó được đặt ra, và đương nhiên, những thành viên huyết thống của sư A (là con, vợ trước khi xuất gia) chắc chắn được quyền thừa kế nếu chiếu theo các điều khoản trong Bộ luật Dân sự hiện hành cũng như trong Bộ luật Dân sự sửa đổi.

Đó là chỉ mới đơn cử một thí dụ, c̣n trong thực tế c̣n nhiều trường hợp phức tạp hơn nhiều. Để đảm bảo được tính công bằng trong mối quan hệ dân sự đúng với thực tế, thiết nghĩ cần bổ sung những điều khoản liên quan tới các tôn giáo, trong đó có Phật giáo, đặc biệt trong nội dung liên quan tới thừa kế.

Có như vậy, sự điều chỉnh, sửa đổi lần này mới bảo đảm tính khả thi thiết thực của hệ thống pháp luật được cụ thể hóa qua Bộ luật Dân sự.

florida80 10-13-2019 22:57

Kiến thức



V́ sao Thái tử Tất Đạt Đa quyết định đặt tên con là "La Hầu La"?

Thứ bảy, 12/10/2019 | 10:03










Thái tử đă nhiều lần vào xin phép đức vua Suddhodana để đi xuất gia tầm đạo nhưng lần nào cũng bị từ chối. Thái tử cố giấu giếm nỗi niềm tâm sự trước lệnh bà Mahā Pajāpati Gotamī hoặc Amitā Pamitā v́ cả hai đang vui mừng thay phiên nhau đến săn sóc Yasodharā mang thai đứa con đầu ḷng.


>>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Đức Phật

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa


Bài liên quan

Sự ra đời của La Hầu La - người con duy nhất của đức Phật khi chưa xuất gia

Bản thân Thái tử cũng luôn kề cận, chăm sóc Yasodharā cho nàng yên tâm dưỡng thai. Có lẽ đây là những ngày tháng cuối cùng chàng biểu lộ thâm t́nh với một người - mà chàng biết đă cùng kết tóc se tơ, cùng chung niềm vui, nước mắt, đă cùng thương yêu d́u dắt nhau qua bao kiếp luân hồi, sinh tử. Cái đẹp tuyệt vời ở nơi nàng không chỉ ở ngoại h́nh tuyệt mỹ mà c̣n ở nơi tâm hồn, cá tính và cả tri thức hiểu biết nữa. Nhưng trước sau ǵ cũng phải từ giă. Tiếng gọi sâu thẳm từ kiếp nào đă hiện về trong ba linh kiến của chàng. Chúng như lời cảnh tỉnh, bảo với chàng rằng là đừng có chần chờ, lần lữa măi trong ṿng vây của hữu hạn, của sinh già bệnh chết nữa....

Mấy ngày trước lúc Yasodharā lâm bồn, hai viên ngự y tài giỏi được đức vua Suddhodana cử sang cũng phải túc trực ở bên cạnh. Một bà mụ mát tay nhất của cung đ́nh cũng nhận nhiệm vụ như vậy.

Yasodharā rất tươi tỉnh, không biểu hiện một lo lắng, sợ hăi nào làm ai cũng yên tâm. Đức vua Suddhodana cũng không ngồi yên được, đi tới đi lui măi. Cái cảm giác sẽ có một đứa cháu nội, niềm mơ ước bấy lâu, làm cho ḷng đức vua bổi hổi, bồi hồi. Không đừng được, vua bảo quân hầu cho thắng xe để ngài sang thăm con dâu.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Thái tử ân cần đón đức vua từ ngoài sân. Đức vua cao lớn, phương phi, mạnh khỏe nhưng Thái tử c̣n cao hơn cả nửa cái đầu. Dấu ấn của ḍng giống Aryan hiện rơ nơi vóc dáng, nước da, sống mũi, màu mắt xanh của hái tử đậm nét hơn đức vua.

Sau khi ghé thăm Yasodharā một lát, quan sát thấy mọi sự được chuẩn bị chu đáo, đức vua hài ḷng, tỏ ra khen ngợi hai bà mẹ không hết lời. Khi chuẩn bị về cung, đức vua nói với Thái tử:

- Con sắp có một bổn phận mới, bổn phận làm cha; ấy là bổn phận thiêng liêng nhất, con nhớ đấy!

- Dạ, con hiểu.

- Là ḍng giống thượng đẳng, cháu của ta cần có một chương tŕnh giáo dục tốt, xứng đáng - để khỏi hổ thẹn với tổ tông.

- Dạ, con hiểu.

Trầm ngâm một lát, như đă quyết định, đức vua lại phán:

- Sau khi đứa trẻ ra đời, ta sẽ chọn ngày giờ hoàng đạo để con chính chức đăng quang vương vị, không thể chậm trễ hơn nữa... - Giọng ngài như chợt chùng xuống - Ta đă già quá rồi, lực đă suy, trí đă giảm. Con phải biết thương yêu gia đ́nh, vợ con, cha mẹ, huyết thống và cả giang sơn này nữa chứ!

Đức vua không tỏ ra quyết liệt đề cập đến chuyện xuất gia của Thái tử là “chuyện trái đạo”, là “ư tưởng lăng mạn siêu h́nh” như vài hôm trước đây; mà ngài đă khôn khéo sử dụng t́nh cảm để mềm yếu ư chí của chàng đây!

Hôm ấy, một bầu không khí yên lặng bao phủ Cung Vui. Mọi người đi vào đi ra đều cẩn trọng, nhẹ nhàng. Yasodharā vừa kêu bụng đau dữ dội th́ viên quan ngự y liền xem mạch và thông báo giờ sinh...


Bài liên quan

Bài học về đức nhẫn nhục của tôn giả La Hầu La đệ nhất Mật hạnh

Bà mụ, hai bà mẹ và mấy thị nữ ở pḥng trong. Hai viên ngự y và một số thị nữ khác túc trực ở pḥng ngoài. Thái tử ngồi cách xa mấy liếp cửa, tuy không nghe ǵ nhưng cũng cảm thấy nôn nao khó tả. Trái tim chàng như chùng xuống. Thái tử đi lui đi tới nghe ḷng ḿnh như lửa đốt. Một sự lo lắng, bất an mơ hồ nào đó như từng lớp sóng trào lên, trào xuống, không chịu ở yên. Ôi, mẹ chàng, bà Mahāmāyā, lúc sinh chàng, nghe nói là nhẹ nhàng lắm. Tuy nhiên, sinh nở là cửa ải mà bất cứ chúng sinh nào cũng phải bước qua. Sự sinh ra này cũng là một sứ giả mang đến sự kinh hoàng cho nhân thế. Đó cũng là động lực cuối cùng giúp chàng xuất gia, dũng mănh thực hiện con đường vô thượng – “Ta phải t́m cho ra lộ tŕnh bất tử...”.

Lúc Thái tử cố điều ḥa hơi thở để trấn áp cảm xúc th́ phía bên trong chợt im lặng. Chàng lắng tai nghe, vừa lo lắng vừa sợ hăi xen lẫn. Bỗng nghe tiếng khóc của em bé vọng lại...

Lệnh bà Gotamī mở cửa bước ra, nh́n chàng mỉm cười:

- Mẹ tṛn con vuông đấy, hoàng nhi! Nó bước ra chỉ như duỗi tay, duỗi chân vậy đó! Một cậu con trai thật kháu khỉnh.

Thái tử lau mồ trán, thở dài, nhẹ nhơm:

- Con rất cảm ơn mẫu hậu!

Thái tử cúi đầu tưởng tượng h́nh bóng đứa con trai trong tâm tưởng. Chàng không biết ḿnh có vui hay không, nhưng đây là cả một việc trọng đại. Nhất là đối với chàng, có một đứa con sẽ có một ràng buộc. Có một đứa con, phụ hoàng sẽ làm lễ đăng quang cho chàng lên ngôi vua, sẽ là sự ràng buộc thứ hai... Bất chợt, Thái tử thốt lên: “Rāhulo jāto bandhanaṃ jātan ti āha” (Con trai ra đời, sự ràng buộc cũng đến với ta).

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tiếng của lệnh bà Gotamī thoảng bên tai Thái tử:

- Hoàng nhi sẽ đặt tên cho nó chứ?

- Phải, thưa mẫu hậu! Hoàng nhi sẽ hội ư với Gopā.

Lát sau, Thái tử được phép vào thăm hai mẹ con. Niềm vui nào đó sáng ngời trong đôi mắt của Yasodharā. Đứa bé nằm một bên, được bọc trong tấm lụa màu hồng điều trông xinh xắn, bụ bẫm, đôi mắt tṛn to, xanh đen, đẹp như một tiểu thiên thần.

Thái tử bước đến, mỉm cười nh́n Yasodharā rồi cúi xuống, đưa tay vuốt nhẹ lên má đứa con của ḿnh với một t́nh cảm dạt dào.

- Nàng có khỏe không, Gopā?

- Vâng, thiếp khỏe. Và thiếp sung sướng lắm!

- Ta cũng vậy. Có cái ǵ đó lâng lâng ở trong ta. Đây là cảm giác lạ lùng đầu tiên trong đời, Gopā.


Bài liên quan

Hành tŕnh Chứng ngộ của La Hầu La và chế độ cúng dường Tịnh xá theo luật Phật

Thái tử nhè nhẹ bế đứa trẻ vào trong ṿng tay của ḿnh với cả sự nâng niu và trân trọng. Ôi, cái sự sống này sao mà mong manh quá! Một mầm sống đang nứt lên, nẩy mầm và hiện thành một chúng sinh. Đằng sau mầm sống này là ǵ? Nó ở đâu mà đến cuộc đời này? Rồi phải chịu già, bệnh, chết... niềm vui, nước mắt... để lại ra đi nữa? Trong cuộc tử sinh ch́m nổi vô định ấy bao giờ khổ cũng nhiều hơn vui? Rồi c̣n những thống khổ, đọa đày khi lỡ tạo những ác nghiệp rồi chịu đựng quả báo khốc liệt trong các con đường dữ? Nhưng mà, dẫu thế nào chăng nữa, t́nh cảm huyết thống thiêng liêng này, quả thật, nó như là sợi giây cột buộc, trói chặt ta ở lại măi trong cuộc luân hồi tử sinh vô tận này hay sao? Thế là những đám mây ưu tư lại u ám, nặng trĩu trong ḷng chàng.

- Có thể đặt tên cho con là Rāhula (La Hầu La) được không, Gopā?

- Rāhula? Yasodharā mở lớn mắt - Ồ được lắm chứ! Nàng im lặng một lát - Chàng đặt tên cho con trai là “Ràng buộc” nhưng thiếp biết chẳng có ǵ trên đời này ràng buộc chàng được cả!

Nghe giọng của Yasodharā có vẻ hờn dỗi, Thái tử dịu dàng:

- Thôi mà, Gopā! Nàng hiểu ta quá mà.

Im lặng khá lâu giữa hai người. Yasodharā nín hơi nhẹ, thở dài:

- Thái tử yên trí, thiếp đă chuẩn bị tâm lư rồi. Có Rāhula, thiếp không c̣n sợ cô đơn nữa đâu.

- Nàng thật kỳ diệu, Gopā! Ta biết nàng đă thông cảm cho ta từ lâu rồi mà.

Từ giây phút đó trở đi, Thái tử đă quyết định xuất gia. Năm ấy chàng vừa tṛn hai mươi chín tuổi.

florida80 10-13-2019 23:01

Tu âm và tu tướng

Chủ nhật, 13/10/2019 | 07:59










Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.


>>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về các giáo lư Phật giáo hay

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa


Bài liên quan

Nhân cách người tu sĩ

Trong cuộc đời này, nói rộng ra ở cơi Ta Bà này, từ Đông sang Tây, con người thường bị mê mờ hay mê luyến vào h́nh tướng bề ngoài và quên mất hay đồng hóa nó với thực tướng/bản chất/nội tâm ở bên trong. Nguyên do chỉ v́ chúng sinh vọng chấp vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sanh tâm ḿnh (Kinh Viên Giác). Thí dụ:

- Một cậu thanh niên thấy một cô người mẫu, hoa khôi, á hậu…đẹp như tiên nga giáng thế… tưởng đó là “người trong mộng” hay “người yêu lư tưởng”. Khi lấy về th́ bao nhiêu tính xấu mới lộ ra, bao xung đột v́ khác tính t́nh. Mối t́nh trong mộng nay biến thành “oan gia trái chủ” khiến cười đau khóc hận.

- Một cô gái thấy một anh chàng hào hoa, đẹp trai, cử chỉ lịch sự…tưởng đó là “hoàng tử của ḷng em”, lấy về mới tá hỏa ra đó là anh chàng Sở Khanh, tốt mă giẻ cùi…thôi th́ vỡ mộng.

- Vào siêu thị thấy trái cây vỏ ngoài c̣n xanh tốt. Mua về bổ ra, cắt ra mới thấy bên trong đă hư thối. Đi các chợ rẻ tiền không tín nhiệm thường bị lường gạt là như thế.

- Nghe quảng cáo các món hàng, dịch vụ trên truyền h́nh, đài phát thanh…thấy mà mê. Háo hức mua về dùng thử mới thấy đó là đổ dỏm hay đồ giả.


Bài liên quan

Cảnh giới của người tu

Tất cả những thứ này người ta đă dùng h́nh tướng tốt đẹp bề ngoài (sắc,thanh, hương, vị) để che dấu thực tướng tức cái không tốt, cái xấu ở bên trong. Ngay trong đường lối tu hành ngày nay, một số rất đông cũng đă và đang mải mê theo con đường tu tướng, tức lấy h́nh thức, h́nh tướng để hành đạo… mà cho đó hoặc tưởng đó là con đường tu hành chân chính. Một số rất đông Phật tử không phân biệt được thế nào là Tâm (thực chất) và thế nào là Tướng (h́nh thức bề ngoài) vô t́nh đă bị các vị này mê mờ. Thậm chí tại California nơi tôi ở, một số chùa làm cơm chay miễn phí thật ngon để “câu” Phật tử. Một số bà khi gặp nhau th́ b́nh phẩm chùa nào nấu cơm chay ngon rồi rủ nhau đi chùa đó. Nghe cả trăm thầy giảng và băng đĩa, thậm chí hành hương cả Tứ Động Tâm nơi Đức Phật sinh ra, thành đạo, hành đạo và nhập diệt… mà tu hành mà như thế th́ đúng là cười ra nước mắt. Vậy th́ đâu là tu tướng và đâu là tu tâm?

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tu tướng tức là dựa vào h́nh tướng bên ngoài:

- Tụng kinh cho hay, cho hấp dẫn…

- Thuyết giảng cho hay cho hấp dẫn…vẫn chỉ là h́nh tướng.

- Lễ nghi trang trọng, huyền bí vẫn chỉ là h́nh tướng.

- Phát hành cả trăm băng đĩa, viết cả chục cuốn sách…

- Thậm chí có cả triệu tín đồ đi theo vẫn chỉ là h́nh danh sắc tướng. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát trụ vào nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đều không phải là Bồ Tát.” Xin nhớ cho tín đồ đi theo chính là chúng sinh tướng.

- Được báo chí phỏng vấn bốc lên tận mây xanh, trao giải thưởng…vẫn chỉ là h́nh tướng. Giải thưởng, thậm chí như Giải Nobel, nhiều khi chỉ v́ nhu cầu chính trị và trao lầm không biết chừng. Thụy Điển đă đe dọa thu lại Giải Thưởng Nobel Ḥa B́nh trao cho Bà San Suu Kyi v́ bà này không ngăn cản quân đội đàn áp người thiểu số Hồi Giáo Rohingya tại Miến Điện. Rồi thế giới lại hối hận v́ đă trao lầm Giải Thưởng Nobel Ḥa B́nh cho Ô. Obama khi ông mới nhậm chức tổng thống được vài tháng, sau đó tiến hành cuộc tiến công vào Libya giết chết Ô. Gaddafi khiến đất nước này tan nát cho tới bây giờ.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

- Ngài Thần Tú văn chương uyên bác mà vẫn chưa ngộ. Trong khi Huệ Năng không biết một chữ mà tâm đă là tâm Phật. Vậy th́ chữ nghĩa, kiến thức, bằng cấp không phải là nhân tố quyết định trong việc tu học. Ngộ và quyết tâm tu học mới là yếu tố quyết định.

- Trụ tŕ chùa thật to, thật đồ sộ…vẫn chỉ là h́nh tướng...

- Thậm chí cả “Thiền trà, thư pháp” cũng vẫn chỉ là h́nh tướng, nó chẳng biểu lộ sự chứng đắc của Thiền sư.

- Làm thơ rồi nhờ nhạc sĩ phổ nhạc, ca sĩ nổi tiếng hát…chính là “bệnh” phô trương. Kinh Phật, kệ tụng của chư Tổ…có cần nhờ ai phổ nhạc, ca sĩ hát, thu vào băng đĩa…sao đọc tụng cho tới bây giờ?


Bài liên quan

Tu hành như khúc gỗ trôi sông

- Đi đâu cũng đ̣i phải có lọng che như “vua quan vơng lọng ngày xưa”, tức lụy vào h́nh danh, sắc tướng…mà giảng về “thiền chánh niệm” về “tỉnh thức” là…phỉ báng Thiền.

- Thậm chí có 32 tướng tốt như Phật vẫn chỉ là nhan sắc, chưa phải là Phật. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề, “Chuyển Luân Thánh Vương có 32 tướng tốt cũng gọi là Phật sao?”

- Hoa hậu, hoa khôi, á hậu, ca sĩ, MC, người mẫu, tài tử nổi tiếng, ăn mặc đẹp như Tiên, nữ trang đeo đầy cổ, đầy tay…đứng khép nép, chắp tay cung kính trước tượng Phật, trông dịu hiền như Phật Bà Quan Âm…rồi h́nh chụp đăng tràn lan trên các báo…nhưng nhiều khi chỉ là “đóng kịch”, chưa chắc đă là Phật tử chân chính giữ được năm giới cấm. Chớ có lụy vào h́nh tướng bề ngoài này. Các cô nên thay một bộ áo lam b́nh dị, tới chùa quét dọn, lau chùi nhà vệ sinh, phục vụ cơm chay cho các cụ già, các khóa tu mùa hạ… như thế mới chính là tu hành theo Phật và tu tâm. Tu tướng chỉ mang tội v́ lừa dối chính ḿnh. Tu tâm mới vun trồng phước báu và phát triển trí tuệ. Tu tướng làm mê mờ trí tuệ.

Như vậy thế nào là tâm tướng và tu tâm?

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

- Nguy nhiên, tự tại, tâm không động…đó là hiện bày của tâm tướng.

- Từ bi hiện ra trên nét mặt, qua hành động cử chỉ, lời nói…đó là hiển lộ của tâm tướng.

- Trước cảnh khổ, oan trái… nhẫn nhục không kêu than giống như “Tiểu Kính Tâm”…đó chính là biểu lộ của tâm tướng.

- Coi quyền chức, danh vọng như phù vân…đó chính là hạnh của tu tâm.

- Thấy tiền bạc phải thấy sợ v́ muôn ngàn tai họa xảy đến đều do tiền bạc. Đức Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ nói rằng ngài sợ hăi, lánh xa tiền bạc…đó chính là biểu hiện của tâm thanh tịnh hay tâm Phật.

- Tiền của đàn na thí chủ, Phật tử cúng dường…chỉ dùng vào Phật sự, chu cấp cho kẻ nghèo khó, phát học bổng cho học sinh hiếu học…không giữ làm của riêng…đó chính là tu hạnh thanh tịnh và bố thí Ba-la-mật.

- Thấy sắc đẹp của nam-nữ phải thấy đó là ngục tù và tai họa.

- Nghe lời khen không động tâm, nghe lời chê không tức giận…là tâm đă đi vào Định.

- Chùa nghèo, dù trong hang động, nơi thâm sơn cùng cốc…không Phật tử cúng dường, không các bà giàu có đến thăm viếng, không cơm chay chục món…mà vẫn thong dong tự tại…đó chính là Bồ Tát ẩn tu.

- Thuyết pháp cả trăm ngàn người nghe mà tâm vẫn không cao ngạo… coi đó như “giấc mộng ngày hôm qua”, không coi thường Phật tử, không nghĩ ḿnh đă là Thánh, là Phật…đó là tâm địa của Bồ Tát. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát diệt độ được vô lượng vô biên chúng sinh, nhưng không có chúng sinh nào được diệt độ. Như thế mới gọi là Bồ Tát.”

- Chùa rộng biến thành quán trọ cho học sinh nghèo tá túc trong mùa thi. Rồi cơm chay miễn phí…đó là công hạnh từ bi.

- Xây nhà t́nh nghĩa, xây cầu, giếng nước cho các thôn bản, gia đ́nh nghèo khó…đó là huân tập hạnh “hằng thuận v́ lợi ích chúng sinh”.

- Phát áo ấm cho học sinh nghèo trong mùa lạnh, thăm hỏi cô nhi quả phụ, người già trong bệnh viện…là thể hiện tinh thần cứu khổ.

- Cùng các bạn trẻ, sinh viên xuống đường thu dọn rác, làm sạch môi trường chính là “làm trang nghiêm cơi Phật”. Cơi Phật không có uế trược, không có ô nhiễm, không có xả rác bừa băi.

- Mở mang trí tuệ cho mọi người, không mê mờ chúng sinh bằng những chuyện mê tín, huyễn hoặc như …xin xâm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt-xấu, tuổi nào hợp với tuổi nào, người chết phải chôn vào giờ nào. Phật tử và người tu hành chân chánh phải “Duy tuệ thị nghiệp”. Thiền Sư Bảo Giám đời Lư (1173) dạy rằng, “Muốn thành Phật cháng đẳng chánh giác phải nhờ trí tuệ”. Chúng sinh sống bằng t́nh cảm, mê tín và gom góp của cải. Các bậc đại sĩ, hiền thánh, Bồ Tát và Phật sống bằng trí tuệ (Bát Nhă). Tài sản của các ngài là ḷng Từ Bi.

- Tổ chức các khóa tu mùa hạ, xuất gia gieo duyên cho giới trẻ …là gieo trồng căn lành, gầy dựng hạt giống Phật cho ngày mai, là góp phần xây dựng xă hội. Đó là hạnh cứu thế. Đức Phật ra đời cũng chỉ v́ hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo của thời trang, kiểu cọ, h́nh thức bề ngoài. Đạo Phật không bao giờ dùng h́nh tướng hay nghi thức tế lễ huyền bí để ḷe mị chúng sinh. Như Tổ Đạt Ma đă nói, cốt tủy của đạo Phật là, “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” hay “Tức tâm tức Phật” hay “Ngoài tâm không Phật”. Ngày xưa, khi Đức Phật c̣n tại thế, các đệ tử của Phật kể cả hàng tục gia (cư sĩ) chỉ tu theo Bát Chánh Đạo và Thiền Định mà đắc quả. Không hề có chuyện Đức Phật cúng vong, cúng mông sơn thí thực, cầu siêu, làm lễ chôn cất người chết. Cũng không hề có chuyện Đức Phật làm lễ thành hôn (nay gọi là hằng thuận) cho ai. Các đệ tử của Phật cũng không hề cầu nguyện để được giải thoát mà chỉ nương theo lời chỉ dạy và công hạnh của chư Phật và các hàng Bồ Tát để tu tập. Khi du nhập vào Trung Hoa và Việt Nam, đạo Phật đă biến thể và đẻ ra rất nhiều nghi thức cầu nguyện và cúng tế không khác ǵ các pháp sư, thầy cúng, thầy bói.

Nhập thế và độ sinh không có nghĩa là chiều theo và dung dưỡng tinh thần mê tín, dị đoan của chúng sinh. Chúng ta phải coi lại và biết dừng lại và đánh giá xem đâu là chánh pháp và đâu là tà pháp. Cột trụ “Trí Tuệ”, “Tánh Không” và “Trí Tuệ Bát Nhă” của Phật Giáo sẽ gẫy đổ nếu chúng ta cứ sa đà vào các h́nh tướng cúng kiếng cầu nguyện đầy h́nh thức như thế này.


Bài liên quan

Cốt cách người tu hành: HT Thích Trí Tịnh

Đạo Phật nổi bật và hi hữu trên thế gian này là v́ nó không dựa và Thần Linh và những nghi thức cúng tế, cầu nguyện. Đạo Phật cũng nổi bật v́ lời dạy của Đức Phật “Tự thắp đuốc lên mà đi”. Điều đó có nghĩa là, nghe lời giảng dạy của Phật, của chư Tổ.. rồi như con chim đủ lông đủ cánh, ĺa tổ và tự lo cho cuộc đời ḿnh…tức không cần thầy nào, chùa nào độ cho ḿnh cả. Cầu nguyện chỉ là trợ lực, nhưng sẽ là vô ích nếu ḿnh không tự tu, tự chứng. Đă đến lúc chúng ta phải giảm bớt và thanh lọc bớt nhưng nghi thức, tế lễ, cúng kiếng trong tinh thần “độ sinh nhưng không xa ĺa trí tuệ”. Đó là công việc vô cùng nặng nề và bức thiết của Giáo Hội. Xin nhớ cho, mất Trí Tuệ th́ Đạo Phật cũng giống hệt như các tôn giáo khác.

Riêng đối với người Phật tử hay người xuất gia tu hành chân chính… phải soi rọi vào tâm ḿnh, nh́n thẳng vào tâm ḿnh và phải thấy trong tâm ḿnh có Phật. Khi đă nh́n thấy tâm ḿnh là tâm Phật (kiến tánh, thấy tánh) th́ quyết tâm tu hành để hiển lộ tâm ấy. Tâm Phật là tâm “bất nhị”, bản tế b́nh đẳng, thân tâm vắng lặng, viên măn mười phương cơi, tịch mịch chiếu soi mà hiện ra các Tịnh Độ (Kinh Viên Giác). Tâm Phật không huyền bí mà có thể hiển lộ ra ngoài bằng những ǵ nói ở phần trên. Do đó người Phật tử chân chánh phải xa ĺa lối tu tướng mà phải hướng về tu tâm. Tu theo chánh đạo là tu tâm. Tu theo tà đạo là tu tướng. Chính v́ thế mà trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.

florida80 10-13-2019 23:02

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)

Chủ nhật, 08/09/2019 | 14:28










Phật giáo là một hệ thống triết lư sống cao thượng sản sinh từ Ấn Độ. Và từ đó, theo hai con đường khác nhau, Phật giáo truyền bá sang các quốc gia trong khu vực và dần dần lan rộng tới các châu lục khác trên thế giới.


>>Lời Phật dạy

Ở mỗi quốc gia, do sự tiếp biến văn hóa mà Phật giáo có thể có những điểm bất đồng. Tuy vậy, về cơ bản, triết lư sống của Phật giáo đều đặt trên một nền tảng chung mang tính thống nhất.

Nền tảng đó chính là các nguyên tắc đạo đức, các phương pháp đưa tới sự chú tâm và tuệ giác giải thoát. Trong đó Bát chánh đạo được xem là nền tảng căn bản nhất.

1. Đạo đức Phật giáo và các phương diện biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo

Đạo đức là một phạm trù có ư nghĩa đặc biệt quan trọng trong Phật giáo. Nó đóng vai tṛ nền tảng giúp con người thăng hoa trên con đường hướng đến đời sống giác ngộ, giải thoát.

Trong Bát chánh đạo, nội dung của đạo đức biểu hiện qua ba chi phần: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Trong Bát chánh đạo, nội dung của đạo đức biểu hiện qua ba chi phần: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Chánh Ngữ


Bài liên quan

Xây dựng chánh ngữ để ứng phó khủng hoảng truyền thông

Chánh ngữ là lời nói chân chính, lời nói đưa đến . Trong kinh Tăng Chi, đức Phật liệt kê bốn phương diện khác nhau đưa tới sự tịnh hạnh hay sự đúng đắn, chân chính của lời nói:

“Một là từ bỏ nói dối, nói láo;

Hai là từ nói hai lưỡi;

Ba là từ bỏ nói lời độc ác;

Bốn là từ bỏ nói lời phù phiếm”.

Đó là việc nh́n nhận chánh ngữ ở phương diện tiêu cực. Từ một phương diện khác mang tính tích cực, đức Phật khuyến khích hành giả cần phải nỗ lực ở 4 phương diện:

“- Ở đây, có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo. Nếu không biết, người ấy nói: “Tôi không biết”; nếu biết, người ấy nói: “Tôi biết”; nếu không thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy”; nếu thấy, người ấy nói: “Tôi thấy”. Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ư vọng ngữ, hoặc nguyên nhân v́ ḿnh, hoặc nguyên nhân v́ người, hoặc nguyên nhân v́ một vài quyền lợi ǵ.

- Người ấy đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi. Nghe điều ǵ ở chỗ này, người ấy không đi đến chỗ kia nói, để gây chia rẽ ở những người này; nghe điều ǵ ở chỗ kia, người ấy không đi nói với những người này, để gây chia rẽ ở những người kia. Như vậy người ấy sống ḥa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ ḥa hợp, thích thú ḥa hợp, nói những lời đưa đến ḥa hợp.

Chánh ngữ là lời nói xuất phát từ t́nh thương và tuệ giác

Chánh ngữ là lời nói xuất phát từ t́nh thương và tuệ giác

- Người ấy đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác. Người ấy chỉ dùng những lời nói nhu ḥa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhă, đẹp ḷng nhiều người, vui ư nhiều người.

- Người ấy đoạn tận lời nói phù phiếm. Người ấy nói đúng thời, nói chân thật, nói có ư nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những lời đáng được ǵn giữ. V́ nói hợp thời, nên lời nói thuận lư, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích”.

Như vậy, chánh ngữ thực chất là lời nói xuất phát từ t́nh thương và tuệ giác. Nó mang tính chất chân thật và đưa tới sự đoàn kết, ḥa hợp; lời nhu ḥa, êm ái và cuối cùng là lời có ích thiết thực đối với đời sống chuyển hóa nội tâm.

Chánh Nghiệp


Bài liên quan

Con đường Bát chánh đạo của Phật tử Lê Phước Vũ

Chánh nghiệp là hành động đúng đắn, chân chính. Truyền thống Phật giáo thường hiểu chánh nghiệp là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Điều này có nghĩa là, trong Bát chánh đạo, chánh nghiệp chỉ chú trọng tới thân nghiệp. Tuy nhiên, căn cứ vào tinh thần giáo pháp của đức Phật và thực tiễn, ta có thể mở rộng chánh nghiệp ở ba phương diện: thân, khẩu và ư.

Trong đó ư đóng vai tṛ quan trọng nhất. Chính tâm thức hay ư dẫn dắt các hành động của thân và khẩu.

Trong Kinh Pháp Cú có chép:

“Ư dẫn đầu các pháp,

Ư làm chủ, ư tạo,

Nếu với ư ô nhiễm

Nói năng hay hành động,

Khổ năo bước theo sau

Như chiếc xe theo chân con vật kéo”.

” Ư dẫn đầu các pháp,

Ư làm chủ, ư tạo,

Nếu với ư thanh tịnh

Nói năng hay hành động

An lạc bước theo sau,

Như bóng không rời h́nh”.

Ư dẫn đầu các pháp, ư làm chủ hành vi và ngôn ngữ. Tùy thuộc vào sự tác ư, tư duy của mỗi người mà gặt hái hoa trái hạnh phúc hay khổ đau. Do đó, thực tập chánh nghiệp chính là nuôi dưỡng tâm ư chân chính. Không tạo điều kiện, cơ hội cho thân, khẩu, ư hoạt động theo chiều hướng tiêu cực, nhiễm ô.

florida80 10-13-2019 23:03

Chánh mạng


Bài liên quan

Chánh niệm trong cuộc sống

Chánh mạng là chi phần thứ ba thuộc về đạo đức trong Bát chánh đạo. Chánh mạng là sống bằng các phương tiện, nghề nghiệp, điều kiện sống chân chính. Nói rộng ra, chánh mạng là từ bỏ cuộc sống không trung thực, giữ và hướng cuộc sống của ḿnh phù hợp với chánh pháp. Đối với người cư sĩ, chánh mạng là sống bằng các điều kiện có được từ các nghề nghiệp chân chính. Trong Phật giáo, những nghề nghiệp chân chính là những nghề không vi phạm vào các nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực tạo nên nhân cách cao thượng. Trong kinh Vinajjā, đức Phật cho biết có năm loại ngành nghề mà một người cư sĩ không nên tham gia v́ chúng là tà mạng. Năm loại nghề nghiệp đó là:

“Buôn bán thịt,

Buôn bán người,

Buôn bán vũ khí,

Buôn bán rượu, các chất gây say, nghiện

Buôn bán chất độc”.

Nói cách khác, thực tập chánh mạng là tránh xa các nghề nghiệp nuôi sống có thể gây tổn hại đến cá nhân và tha nhân. Trong ư nghĩa đó, thực chất rất khó để có một bản liệt kê đầy đủ và chính xác các ngành nghề thuộc chánh mạng hoặc tà mạng. Bởi v́, trên thực tế, ranh giới thiện ác; tốt xấu rất mong manh. Không dễ để phân định rạch ṛi nghề nghiệp nào hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Tốt – xấu, thiện – ác c̣n phụ thuộc vào thái độ, tâm lư, mục đích, động cơ của các hoạt động liên quan tới nghề nghiệp của cá nhân.

Tuy vậy, khi nhận thấy những nghề nghiệp nào có thể gây nguy hại tới bản thân ḿnh, gia đ́nh và xă hội th́ ta biết chắc là nghề nghiệp đó không phù hợp với người Phật tử. Ngược lại, nghề nghiệp nào có thể mang tới lợi ích cho ḿnh, gia đ́nh và xă hội th́ chúng ta nên lấy đó làm phương tiện nuôi sống. V́ đó chính là chánh mạng theo tinh thần của lời Phật dạy.

Đối với người tu sĩ, chánh mạng là sống đúng theo tiêu chuẩn nuôi sống của người xuất gia. Điều kiện để thực hành chánh mạng lư tưởng là thiết lập đời sống thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc là sống biết đủ, biết chấp nhận những cái đang có để duy tŕ mạng sống nhằm mục đích tu học đạt tới an lạc, giải thoát. Thông thường, thiểu dục tri túc thường được hiểu như là cách sống đơn giản, vừa đủ đối với việc ăn, mặc, chỗ ở và thuốc men, tức thiên về đời sống vật chất.

Đạo đức trong Bát chánh đạo là các giá trị được thiết lập trên nền tảng của sự tu tập, chuyển hóa thân, khẩu, ư thông qua thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.

Đạo đức trong Bát chánh đạo là các giá trị được thiết lập trên nền tảng của sự tu tập, chuyển hóa thân, khẩu, ư thông qua thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.


Bài liên quan

Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín?

Thời đức Phật tại thế, các đệ tử của Ngài nuôi sống bản thân bằng cách khất thực. Ai cúng dường thứ ǵ th́ các thầy ăn thứ ấy, dĩ nhiên là theo một số nguyện tắc nhất định. Chỗ ở cũng hết sức đơn giản, có khi là gốc cây, có khi là am thất bằng các vật liệu thô sơ. Càng về sau, điều kiện tu học càng phát triển, đời sống của tu sĩ có phần đầy đủ hơn. Tuy vậy đối với một tu sĩ chân chánh mà nói, vẫn phải sống trong điều kiện vừa phải và bằng các phương tiện chân chánh, chủ yếu là từ chế độ cúng dường từ các Phật tử tại gia. Các phương tiện khác như cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, truyền bá mê tín dị đoan, mai mối… xuất hiện trong đời sống sinh hoạt Phật giáo sau này là hoàn toàn không phù hợp với lư tưởng xuất gia của người tu sĩ, với bất kỳ lư do nào.

Đạo đức trong Bát chánh đạo là các giá trị được thiết lập trên nền tảng của sự tu tập, chuyển hóa thân, khẩu, ư thông qua thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Tuy vậy, sự hoàn thiện này không diễn ra một cách độc lập mà diễn ra đồng thời với các chi phần khác của Bát chánh đạo. Trong đó, chánh niệm, thuộc về thiền định, đóng vai tṛ then chốt trong Bát chánh đạo.

florida80 10-13-2019 23:04

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (II)

Thứ hai, 09/09/2019 | 12:36










Sự hoàn thiện hay thành tựu thiền định trong Bát chánh đạo đều có sự hiện diện, thúc đẩy của tinh tấn. Không có tinh tấn, các yếu tố c̣n lại của Bát chánh đạo nói chung và thiền định nói riêng không thể nào đạt tới kết quả mỹ măn.


>>Lời Phật dạy

2. Thiền định và các phương diện biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo

Trong Bát chánh đạo, nội dung thiền định thể hiện qua ba phương diện: chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Chánh tinh tấn


Bài liên quan

Hiểu về hạnh tinh tấn

Chánh tinh tấn là sự nỗ lực chân chánh, tức là nỗ lực thực hành con đường đưa tới an lạc, giải thoát, mà trước hết là làm cho các thiện pháp phát sinh nơi tâm thức hành giả, như chính Đức Phật đă dạy:

“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tinh tấn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ diệt, khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi, khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đă được sanh có thể duy tŕ, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên măn, khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tinh tấn.”

a36289_afd66e3a4ba74 a03a661ebbdf1b4941c_ mv2

Có thể khái quát nội dung của đoạn kinh này như sau:

- Các tâm lư mang tính tiêu cực chưa phát sinh th́ nỗ lực ngăn chặn, cắt đứt các cơ hội, nhân duyên khiến cho nó phát sinh.

- Khi tâm lư tiêu cực đă phát sinh th́ nỗ lực làm cho nó lắng dịu, nhẹ nhàng, mờ nhạt và cuối cùng vắng mặt.

- Nỗ lực tạo cơ hội cho các tâm lư tích cực chưa sinh khởi có mặt nơi tâm thức.

- Duy tŕ, phát triển tâm lư tích cực đă phát sinh, khiến cho tâm lư tích cực ngày càng lớn mạnh hơn.


Bài liên quan

Tinh tấn trong đạo Phật khác với nỗ lực, cố gắng của thế gian

Trong cuộc sống, muốn thành tựu một điều ǵ đó cần phải có sự nỗ lực. Không có một sự thành công nào tự dưng đến với ḿnh không thông qua sự nỗ lực của bản thân. Buôn bán kinh doanh, làm việc hành chính, giảng dạy, học tập…, tất cả đều đ̣i hỏi một sự nỗ lực cần thiết để đi tới thành công. Đó là sự tinh tấn hay nỗ lực ở phương diện sinh hoạt hằng ngày. Nó thể hiện năng lực của tâm, chưa mang hàm nghĩa đạo đức. Sự phát triển tâm linh càng đ̣i hỏi sự tinh tấn hay sự nỗ lực nhiều hơn nữa. Sự hoàn thiện hay thành tựu thiền định trong Bát chánh đạo đều có sự hiện diện, thúc đẩy của tinh tấn. Không có tinh tấn, các yếu tố c̣n lại của Bát chánh đạo nói chung và thiền định nói riêng không thể nào đạt tới kết quả mỹ măn.

nhung-tuong-tot-cua-duc-phat

Nói một cách khái quát, tinh tấn là sự nỗ lực hướng tới sự gạn lọc, chuyển hóa các yếu tố có tính cách tiêu cực, tàn hại, cấu uế; phát triển các yếu tố an lạc, giải thoát nơi nội tâm, giúp cho hành giả tu học hoàn thiện trên con đường đưa tới sự an lạc, giải thoát theo đúng tinh thần lời dạy của Đức Phật.

Chánh niệm

Một chi phần khác của Bát chánh đạo thuộc về phương diện thiền định là Chánh niệm. Chánh niệm là sự ghi nhận, quán chiếu đối tượng bằng sự tỉnh thức. Khác với tà niệm, đưa con người tới khổ đau, chánh niệm có khả năng điều phục được các tham đắm ở đời như trong kinh Bát chánh đạo Đức Phật dạy:

“Này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh niệm.”

so-tam


Bài liên quan

Bác Hồ và thiền định

Trong Phật giáo, chánh niệm được xem là trái tim của thiền định. Chánh niệm giúp dừng lại mọi suy tưởng, các phán đoán, nhận xét và suy diễn liên hệ tới các đối tượng, vấn đề, sự kiện, t́nh huống chung quanh. Thực tập chánh niệm chỉ cần nhận biết mà không cần nhận xét. Nhờ nhận biết một cách sâu sắc, tâm trở nên định tĩnh, không c̣n bị cuống hút vào các đối tượng, vấn đề, sự kiện, t́nh huống diễn ra. Nhờ đó, hành giả có thể làm chủ được cảm xúc và các phản ứng của các thói quen tiêu cực.

Chánh niệm c̣n giúp cho ḿnh nhận diện được bản chất của sự vật, hiện tượng, tức là sự vật hiện tượng như thế nào, nhận thức như thế ấy. Ḿnh không để cho các ư niệm, nhận thức chủ quan phủ đầy lên bản chất của sự vật, hiện tượng. Không dán mác, dán nhăn lên mọi thứ để rồi đến một lúc nào đó chính các mác, nhăn đó chi phối, ràng buộc, đưa tới khổ đau cho ḿnh. Chánh niệm v́ thế, là cánh cửa mở ra một thế giới mới nơi con người: thế giới của sự chân thật.

Chánh định

don-gian-hoa-cuoc-song

Chánh định thường được hiểu là sự lắng tâm chân chính, sự lắng tâm hướng tới xả ly, giải thoát tất cả các phiền năo, khổ đau vi tế ở đời. Trong kinh Bát chánh đạo, Đức Phật định nghĩa chánh định như sau:


Bài liên quan

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)

“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh định.”

Từ sự tịch tĩnh nội tâm này, tiếp tục đi sâu vào các tầng thiền cao hơn và vi tế hơn, tức định của 4 thánh quả. Chính v́ vậy, chánh định là con đường đưa tới thành tựu chánh trí. Nhờ chánh định, đạo đức được trong sạch, không tỳ vết, trí tuệ được trong sáng, thanh cao, hành giả thành tựu được tuệ giác giải thoát.

florida80 10-13-2019 23:05

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (III)

Thứ ba, 10/09/2019 | 13:46










Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lơi của Bát chánh đạo. Trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên măn.


>>Lời Phật dạy

3. Trí tuệ và biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo

Chánh kiến

Chánh kiến c̣n gọi là chánh tri kiến, là cái nh́n, sự nhận thức chân chánh, đúng đắn. Có hai loại tri kiến hay nhận thức cần phải phân biệt. Đó là tri kiến hay nhận thức thế gian và tri kiến hay nhận thức xuất thế gian.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.

Tri kiến xuất thế gian xây dựng trên nền tảng chánh niệm. Chánh kiến thuộc loại tri kiến xuất thế gian.

Trong Bát chánh đạo, chánh kiến trước hết là cái nh́n đúng đắn, cái nh́n phân biệt rạch ṛi thiện và bất thiện, tốt và xấu. Khi một vị Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản của bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri căn bản của thiện, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có ḷng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.


Bài liên quan

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)

Thông thường, muốn xác định hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện của một người nào đó, người ta có các tiêu chuẩn, hệ tiêu chuẩn đạo đức nhất định của xă hội để làm công cụ phân định. Tuy nhiên, ở mỗi cộng đồng, quốc gia, nền văn hóa khác nhau th́ quan niệm hay tiêu chuẩn đạo đức khác nhau. Do đó tùy vào không gian, thời gian và chủ thể cụ thể mà các tiêu chí xác định hành vi thiện – ác, tốt – xấu khác nhau. Từ đó cho thấy việc phân định rạch ṛi hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện theo đạo đức quy ước xă hội là rất tương đối.

Trong đạo Phật, việc phân định này có tiêu chí rất rạch ṛi và đặc thù: Theo đó Đức Phật dạy hành vi thiện là hành vi gắn với tâm lư không tham, không sân, không si; hành vi ác là hành vi gắn với tham, sân và si. Biểu hiện cụ thể của thiện là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ… Biểu hiện cụ thể của bất thiện là ngược lại: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ… Nói một cách khái quát, những hành vi thiện là hành vi đưa tới đời sống an lạc, giải thoát, lợi ḿnh lợi người. Hành vi bất thiện là hành vi đưa tới sự ràng buộc, bất hạnh, khổ đau, hại ḿnh hại người.

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh kiến c̣n là cái nh́n thấu suốt bản chất của các pháp. Bản chất đó chính là tính cách vô thường, duyên sinh, vô ngă của các pháp. Nói khái quát chánh kiến là cái nh́n thấu suốt Tứ đế, Bát chánh đạo, như trong kinh Chánh tri kiến Đức Phật dạy: “Khi nào vị Thánh đệ tử biết già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của già chết và con đường đưa đến đoạn diệt già chết, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến…

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh tư duy

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si, Đức Phật dạy:


Bài liên quan

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (II)

“Này chư Tỷ-kheo! Trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành chánh giác và c̣n là Bồ Tát, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia hai suy tầm”. Này chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ hai. Này chư Tỷ-kheo! Rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Khi dục tầm khởi lên Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại Ta, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, dục tầm này đưa đến diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết Bàn”. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại Ta”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai Ta và người”, dục tầm được biến mất. Này chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết Bàn”, dục tầm này được biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Như vậy Ta cứ Chánh Tư Duy tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt dục tầm”.

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.

Nói cách khác, chánh tư duy là tư duy đúng đắn về các tâm lư diễn ra nơi tâm thức, nhận diện bản chất tác hại của chúng đối với quá tŕnh thanh lọc tâm bằng chánh niệm tỉnh giác. Nhờ tư duy chân chính trên nền tảng của chánh niệm, hành giả tự trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt được chúng. Như vậy, chánh tư duy thực chất chính là tuệ giác, nó đưa tới sự xa ĺa các nguyên nhân đưa tới phiền năo khổ đau.

Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lơi của Bát chánh đạo. Việc phân định một cách rạch ṛi các chi phần Bát chánh đạo vào các phạm trù đạo đức, thiền định, trí tuệ chỉ là một thao tác mang tính tương đối trên phương diện lư thuyết. Trên thực tế, trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên măn.

Minh Chính (TH)



Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (III)

Thứ ba, 10/09/2019 | 13:46










Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lơi của Bát chánh đạo. Trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên măn.


>>Lời Phật dạy

3. Trí tuệ và biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo

Chánh kiến

Chánh kiến c̣n gọi là chánh tri kiến, là cái nh́n, sự nhận thức chân chánh, đúng đắn. Có hai loại tri kiến hay nhận thức cần phải phân biệt. Đó là tri kiến hay nhận thức thế gian và tri kiến hay nhận thức xuất thế gian.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.

Tri kiến xuất thế gian xây dựng trên nền tảng chánh niệm. Chánh kiến thuộc loại tri kiến xuất thế gian.

Trong Bát chánh đạo, chánh kiến trước hết là cái nh́n đúng đắn, cái nh́n phân biệt rạch ṛi thiện và bất thiện, tốt và xấu. Khi một vị Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản của bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri căn bản của thiện, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có ḷng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.


Bài liên quan

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)

Thông thường, muốn xác định hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện của một người nào đó, người ta có các tiêu chuẩn, hệ tiêu chuẩn đạo đức nhất định của xă hội để làm công cụ phân định. Tuy nhiên, ở mỗi cộng đồng, quốc gia, nền văn hóa khác nhau th́ quan niệm hay tiêu chuẩn đạo đức khác nhau. Do đó tùy vào không gian, thời gian và chủ thể cụ thể mà các tiêu chí xác định hành vi thiện – ác, tốt – xấu khác nhau. Từ đó cho thấy việc phân định rạch ṛi hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện theo đạo đức quy ước xă hội là rất tương đối.

Trong đạo Phật, việc phân định này có tiêu chí rất rạch ṛi và đặc thù: Theo đó Đức Phật dạy hành vi thiện là hành vi gắn với tâm lư không tham, không sân, không si; hành vi ác là hành vi gắn với tham, sân và si. Biểu hiện cụ thể của thiện là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ… Biểu hiện cụ thể của bất thiện là ngược lại: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ… Nói một cách khái quát, những hành vi thiện là hành vi đưa tới đời sống an lạc, giải thoát, lợi ḿnh lợi người. Hành vi bất thiện là hành vi đưa tới sự ràng buộc, bất hạnh, khổ đau, hại ḿnh hại người.

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh kiến c̣n là cái nh́n thấu suốt bản chất của các pháp. Bản chất đó chính là tính cách vô thường, duyên sinh, vô ngă của các pháp. Nói khái quát chánh kiến là cái nh́n thấu suốt Tứ đế, Bát chánh đạo, như trong kinh Chánh tri kiến Đức Phật dạy: “Khi nào vị Thánh đệ tử biết già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của già chết và con đường đưa đến đoạn diệt già chết, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến…

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh tư duy

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si, Đức Phật dạy:


Bài liên quan

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (II)

“Này chư Tỷ-kheo! Trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành chánh giác và c̣n là Bồ Tát, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia hai suy tầm”. Này chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ hai. Này chư Tỷ-kheo! Rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Khi dục tầm khởi lên Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại Ta, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, dục tầm này đưa đến diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết Bàn”. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại Ta”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai Ta và người”, dục tầm được biến mất. Này chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết Bàn”, dục tầm này được biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Như vậy Ta cứ Chánh Tư Duy tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt dục tầm”.

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.

Nói cách khác, chánh tư duy là tư duy đúng đắn về các tâm lư diễn ra nơi tâm thức, nhận diện bản chất tác hại của chúng đối với quá tŕnh thanh lọc tâm bằng chánh niệm tỉnh giác. Nhờ tư duy chân chính trên nền tảng của chánh niệm, hành giả tự trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt được chúng. Như vậy, chánh tư duy thực chất chính là tuệ giác, nó đưa tới sự xa ĺa các nguyên nhân đưa tới phiền năo khổ đau.

Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lơi của Bát chánh đạo. Việc phân định một cách rạch ṛi các chi phần Bát chánh đạo vào các phạm trù đạo đức, thiền định, trí tuệ chỉ là một thao tác mang tính tương đối trên phương diện lư thuyết. Trên thực tế, trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên măn.

Minh Chính (TH)

florida80 10-13-2019 23:07

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (III)

Thứ ba, 10/09/2019 | 13:46










Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lơi của Bát chánh đạo. Trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên măn.


>>Lời Phật dạy

3. Trí tuệ và biểu hiện của nó trong Bát chánh đạo

Chánh kiến

Chánh kiến c̣n gọi là chánh tri kiến, là cái nh́n, sự nhận thức chân chánh, đúng đắn. Có hai loại tri kiến hay nhận thức cần phải phân biệt. Đó là tri kiến hay nhận thức thế gian và tri kiến hay nhận thức xuất thế gian.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.

Tri kiến xuất thế gian xây dựng trên nền tảng chánh niệm. Chánh kiến thuộc loại tri kiến xuất thế gian.

Trong Bát chánh đạo, chánh kiến trước hết là cái nh́n đúng đắn, cái nh́n phân biệt rạch ṛi thiện và bất thiện, tốt và xấu. Khi một vị Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản của bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri căn bản của thiện, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có ḷng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.

Tri kiến thế gian là loại tri kiến xây dựng trên nền tảng của sự tích lũy, học tập.


Bài liên quan

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (I)

Thông thường, muốn xác định hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện của một người nào đó, người ta có các tiêu chuẩn, hệ tiêu chuẩn đạo đức nhất định của xă hội để làm công cụ phân định. Tuy nhiên, ở mỗi cộng đồng, quốc gia, nền văn hóa khác nhau th́ quan niệm hay tiêu chuẩn đạo đức khác nhau. Do đó tùy vào không gian, thời gian và chủ thể cụ thể mà các tiêu chí xác định hành vi thiện – ác, tốt – xấu khác nhau. Từ đó cho thấy việc phân định rạch ṛi hành vi tốt – xấu, thiện – bất thiện theo đạo đức quy ước xă hội là rất tương đối.

Trong đạo Phật, việc phân định này có tiêu chí rất rạch ṛi và đặc thù: Theo đó Đức Phật dạy hành vi thiện là hành vi gắn với tâm lư không tham, không sân, không si; hành vi ác là hành vi gắn với tham, sân và si. Biểu hiện cụ thể của thiện là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ… Biểu hiện cụ thể của bất thiện là ngược lại: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ… Nói một cách khái quát, những hành vi thiện là hành vi đưa tới đời sống an lạc, giải thoát, lợi ḿnh lợi người. Hành vi bất thiện là hành vi đưa tới sự ràng buộc, bất hạnh, khổ đau, hại ḿnh hại người.

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh kiến c̣n là cái nh́n thấu suốt bản chất của các pháp. Bản chất đó chính là tính cách vô thường, duyên sinh, vô ngă của các pháp. Nói khái quát chánh kiến là cái nh́n thấu suốt Tứ đế, Bát chánh đạo, như trong kinh Chánh tri kiến Đức Phật dạy: “Khi nào vị Thánh đệ tử biết già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của già chết và con đường đưa đến đoạn diệt già chết, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến…

Chánh kiến được xem là cái nh́n bất nhị, cái nh́n vô tướng, cái nh́n “không”. Các cái nh́n này đều đưa tới xả ly các tham muốn, ước vọng, truy cầu, đ̣i hỏi mang tính vọng chấp, đưa tới an lạc, giải thoát viên măn.

Chánh tư duy

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si, Đức Phật dạy:


Bài liên quan

Đạo đức - Thiền định - Trí tuệ: Ba nền tảng an lạc giải thoát (II)

“Này chư Tỷ-kheo! Trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành chánh giác và c̣n là Bồ Tát, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia hai suy tầm”. Này chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, đó là Ta phân làm phần thứ hai. Này chư Tỷ-kheo! Rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Khi dục tầm khởi lên Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại Ta, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, dục tầm này đưa đến diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết Bàn”. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại Ta”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm tự biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai Ta và người”, dục tầm được biến mất. Này chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết Bàn”, dục tầm này được biến mất. Này chư Tỷ-kheo! Như vậy Ta cứ Chánh Tư Duy tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt dục tầm”.

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.

Chánh tư duy là tư duy chân chính, tư duy đúng như pháp, tư duy đưa tới an lạc, giải thoát khỏi tham, sân, si.

Nói cách khác, chánh tư duy là tư duy đúng đắn về các tâm lư diễn ra nơi tâm thức, nhận diện bản chất tác hại của chúng đối với quá tŕnh thanh lọc tâm bằng chánh niệm tỉnh giác. Nhờ tư duy chân chính trên nền tảng của chánh niệm, hành giả tự trừ bỏ, xả ly và đoạn diệt được chúng. Như vậy, chánh tư duy thực chất chính là tuệ giác, nó đưa tới sự xa ĺa các nguyên nhân đưa tới phiền năo khổ đau.

Đạo đức, thiền định, trí tuệ là ba phương diện cốt lơi của Bát chánh đạo. Việc phân định một cách rạch ṛi các chi phần Bát chánh đạo vào các phạm trù đạo đức, thiền định, trí tuệ chỉ là một thao tác mang tính tương đối trên phương diện lư thuyết. Trên thực tế, trong thực tập Bát chánh đạo, đạo đức, thiền định và trí tuệ luôn luôn có mặt trong nhau, không thể tách rời nhau, chúng cùng hỗ trợ cho nhau, giúp cho sự thành tựu giác ngộ, giải thoát của hành giả đạt tới viên măn.






homeaz






Cùng chủ đề





Lời Phật dạy với người cư sĩ


Lời Phật dạy với người cư sĩ



Nghe pháp và gieo duyên pháp để tạo phước báu


Nghe pháp và gieo duyên pháp để tạo phước báu



Câu chuyện nhân quả của Tỳ kheo ni Kim Sắc


Câu chuyện nhân quả của Tỳ kheo ni Kim Sắc


Tin liên quan





Trí huệ và trí tuệ dưới cái nh́n Phật Giáo


Trí huệ và trí tuệ dưới cái nh́n Phật Giáo



Niệm Phật để giải thoát vong hồn theo quấy phá


Niệm Phật để giải thoát vong hồn theo quấy phá



Người tu Phật là người t́m về nguồn an lạc giải thoát


Người tu Phật là người t́m về nguồn an lạc giải thoát





Tháng 10 năm 2019

13
Chủ nhật


Tháng Chín
15
Năm Kỷ Hợi


Tháng Giáp Tuất
Ngày Quư Mùi
Giờ Nhâm Tư
Hàn lộ


CN T2 T3 T4 T5 T6 T7








1 3/9 2 4 3 5 4 6 5 7
6 8







7 9







8 10







9 11







10 12







11 13







12 14








13 15







14 16







15 17







16 18







17 19












18 20












19 21













20 22












21 23












22 24












23 25












24 26












25 27












26 28













27 29







28 1/10







29 2







30 3







31 4

florida80 10-13-2019 23:08

Lời Phật dạy về "Thiểu dục tri túc"

Thứ sáu, 06/09/2019 | 17:34










Trong tất cả các Kinh, Đức Phật đều cho rằng một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nỗi khổ là do tham lam. V́ thế, Người đă dạy phương pháp đối trị ḷng tham chính là sống theo hạnh “Thiểu dục tri túc”.


>>Lời Phật dạy

Tuy nhiên, hạnh sống thiểu dục tri túc ngày nay dường như đang trở nên mâu thuẫn với những quan điểm của xă hội hiện đại. Đó là do cách sống này không phù hợp hay do chúng ta chưa hiểu đúng và làm theo lời dạy của Đức Phật về Thiểu dục tri túc?

Thiểu dục tri túc là ǵ?

Thiểu dục tri túc nghĩa là giảm bớt ham muốn và biết đủ. Ở xă hội hiện đại, con người không ngừng nỗ lực và vươn lên để đạt được những thành công cũng như là thỏa măn được đời sống vật chất đầy đủ, th́ hạnh sống biết đủ có vẻ làm kiềm chế đi sự cầu tiến của một người. Đây là cách hiểu c̣n quá nông cạn, đi lệch hướng với lời dạy của Đức Phật.

Đức Phật có dạy: “Này các Tỳ kheo, hai cực đoan này người xuất gia không nên thực hành”.

Đức Phật có dạy: “Này các Tỳ kheo, hai cực đoan này người xuất gia không nên thực hành”.


Bài liên quan

Thiểu dục tri túc: Một cách sống hạnh phúc

Ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy”, để chỉ rằng ḷng tham con người là vô hạn. Chính v́ ḷng tham đó mà chúng ta không t́m được hạnh phúc ngay trong cuộc sống này cũng như sản sinh ra nhiều hệ lụy của xă hội bằng những tệ nạn đầy nguy hiểm. Nhu cầu ở con người không có điểm dừng, đói th́ muốn no, no th́ muốn ngon, ngon th́ món ăn lạ, độc đáo,…Chính v́ cứ măi theo những nhu cầu này mà gây nên sự phiền năo.

Đức Phật có dạy: “Này các Tỳ kheo, hai cực đoan này người xuất gia không nên thực hành”. Đó là: Chuyên tâm tham đắm dục lạc thấp hèn, không xứng đáng và không ích lợi; Chuyên tâm khổ hạnh, gây khổ đau, không xứng đáng và không ích lợi.

Lối sống ép thân, khổ hạnh Đức Phật không muốn chúng ta phải đi theo. Và ngược lại lối sống quá tham đắm vào dục lạc là nguyên nhân của sự khổ. Chúng ta thường khổ v́ tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ.

Khi không có đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu của bản thân đặt ra th́ phiền năo xuất hiện. Nó khiến chúng ta phải t́m mọi cách để có tiền.

Không có tiền th́ chúng ta cảm thấy bế tắc, khó chịu và tuyệt vọng. Khi không có nhan sắc, chúng ta thường đau khổ, tủi thân, đố kỵ. Luôn muốn ḿnh nổi trội, đẹp hơn người. Khi không có địa vị, danh vọng, chúng ta lại đi t́m mọi cách để đạt được, bày mưu tính kế để hăm hại, đạp đổ người khác để ḿnh có được vị trí cao trong xă hội. Ngày đêm mưu tính, lo sợ khiến chúng ta không có được một giây phút thanh thản thật sự.

Khi không có đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu của bản thân đặt ra th́ phiền năo xuất hiện. Nó khiến chúng ta phải t́m mọi cách để có tiền.

Khi không có đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu của bản thân đặt ra th́ phiền năo xuất hiện. Nó khiến chúng ta phải t́m mọi cách để có tiền.


Bài liên quan

Biến đổi khí hậu môi trường là do ḷng người chẳng thiểu dục tri túc

Khi những món ăn không ngon, chúng ta lại khó chịu, bỏ ăn và buồn phiền. Lúc nào cũng muốn được ăn ngon, ăn nhiều. Và khi ngủ không đủ giấc, chúng ta sinh ra sự cáu gắt, khó chịu. Luôn muốn được ngủ kỹ, ngủ nhiều.

V́ sao chúng ta lại rơi vào điều này? V́ chúng ta đang là nô lệ của ḷng tham, bị ḷng tham điều khiển và khống chế nên gây ra bao khổ năo v́ không đáp ứng được những mong muốn của nó.

Trong kinh Thuỷ Sám có câu: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ư”. Đó là lư do v́ sao nhiều người giàu nhưng vẫn không t́m được hạnh phúc, người nghèo lại có được hạnh phúc tràn đầy. Ta thấy rằng, thiếu thốn hay đầy đủ không phải phụ thuộc vào vật chất, mà nó phụ thuộc vào tư tưởng hay cách suy nghĩ của chúng ta.

Đây là lư do v́ sao Đức Phật dạy hạnh thiểu dục tri túc cho người Phật Tử. Thiểu dục tri túc không kiềm hăm sự phát triển của bất kỳ ai, cách sống này là để đối trị với ḷng tham không đáy, ḷng tham gây ra phiền năo không có điểm dừng mà chúng ta, những con người hiện đại đang bị vướng phải. Thiểu dục tri túc là môt sắc thái tâm lư sống.

Trong kinh Thuỷ Sám có câu: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ư”.

Trong kinh Thuỷ Sám có câu: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ư”.

Người sống theo hạnh thiểu dục tri túc có những lợi ích ǵ?


Bài liên quan

Tri túc: Biết đủ, cách sống mang lại hạnh phúc

Khi nhu cầu giảm bớt và biết đủ, chúng ta sẽ không bị ḷng tham điều khiển, dẫn dắt để thỏa măn cái mong muốn cao xa ngoài khả năng của bản thân. Từ đó, chúng ta không cảm thấy ngột ngạt, khó chịu với thực tại, với những ǵ chúng ta đang có. Người sống theo hạnh thiểu dục tri túc là người hạnh phúc nhất, bởi chúng ta được tự tại trong đời sống mà không bị điều ǵ g̣ bó, gán ép. Chúng ta sẽ tự chủ trong mọi thứ, dù có thất bại cũng không nản ḷng hay tuyệt vọng.

Hiểu được hạnh thiểu dục tri túc, dù là người nghèo chúng ta vẫn không cảm thấy mặc cảm, tự ti mà hài ḷng với những ǵ có được. Ngược lại chúng ta sẽ cảm thấy cuộc sống vô cùng nặng nề, khổ sở, đó là do cách suy nghĩ của chúng ta tạo ra. Nếu mọi người trong xă hội hiểu được và thực hành được hành thiểu dục tri túc như Đức Phật dạy th́ sẽ giảm thiểu rất nhiều tệ nạn xă hội.

Phật dạy: “Đa dục chi nhân, đa cầu lợi cố, khổ năo diệc đa”. Có nghĩa là: người mong muốn nhiều, cầu lợi nhiều th́ khổ năo cũng nhiều.”

Phật dạy: “Đa dục chi nhân, đa cầu lợi cố, khổ năo diệc đa”. Có nghĩa là: người mong muốn nhiều, cầu lợi nhiều th́ khổ năo cũng nhiều.”

Hệ lụy của ḷng tham và không thực hành cách sống Thiểu dục tri túc


Bài liên quan

Cuộc chiến đấu với ḷng tham

Thực tế cho thấy, xă hội càng hiện đại, vật chất càng phát triển th́ nạn trộm cướp cũng phát triển. V́ họ chạy theo những nhu cầu bên ngoài mà bất chấp tất cả để có được tài sản từ người khác. Giết người, lừa gạt ngày càng tinh vi hơn nhằm thỏa măn nhu cầu của bản thân, gây nên sự lo lắng cho nhiều người. Ngoài ra, sự tham đắm địa vị đă làm cho ḷng người mất đi ḷng tin ở nhau, đạo đức suy đồi bởi sự hăm hại, đố kỵ, mưu tính đáng sợ. Là một người sống chân chính, biết kiểm soát nhu cầu và an vui với những ǵ ḿnh có sẽ không bao giờ gây ra những điều tiêu cực như trên.

Chiến tranh, thiên tai cũng do ḷng tham của con người gây nên. Từ bao đời nay, nguyên nhân chiến tranh xuất phát từ quyền lợi, đất đai, vị thế của những người cầm quyền một đất nước. Khi ḷng tham nổi lên th́ măi không có tiếng nói chung và sự thỏa hiệp, nhường nhịn nhau. Khi con người luôn muốn thỏa măn được những nhu cầu tự đặt ra của bản thân th́ vô tư khai thác tài nguyên môi trường đến cạn kiệt và phải nhận hậu quả như ngày ngay.

Nếu chúng ta không kiểm soát được ham muốn của ḿnh, không có điểm dừng th́ sẽ tự gây hại cho bản thân và xă hội. Phật dạy: “Đa dục chi nhân, đa cầu lợi cố, khổ năo diệc đa”. Có nghĩa là: người mong muốn nhiều, cầu lợi nhiều th́ khổ năo cũng nhiều.”

Từ những lẽ trên, chúng ta có lẽ đă nh́n nhận được tầm quan trọng của lời Phật dạy về cách sống “Thiểu dục tri túc”. Ngày nay, cách sống ấy vô cùng cần thiết khi mà tốc độ phát triển của xă hội nhanh chóng đi lên, vật chất đáp ứng đầy đủ nhưng phiền năo chưa bao giờ được giải quyết triệt để. Hiểu đúng lời dạy của Đức Phật về Thiểu dục tri túc chắc chắn chúng ta sẽ t́m được sự b́nh an nơi tâm hồn và tự tại giữa cuộc sống, không bị ngũ dục tri phối trong mọi hoàn cảnh.

florida80 10-13-2019 23:09

"Tham" là ǵ?

Thứ năm, 05/09/2019 | 11:45










Ḷng tham của con người giống như con khỉ trèo lên cây hái đào, nó thấy những trái đào căng tṛn, nặng trũi trên cây nên muốn hái, trái nào nó cũng muốn ăn; kết quả, nó hái cầm trong tay không hết, lại kẹp dưới hai bên nách; hái đến trái cuối cùng, chẳng ăn được trái nào mà c̣n mệt đứt hơi.


>>Lời Phật dạy


Bài liên quan

Cuộc chiến đấu với ḷng tham

Trong kinh Phật nói tham có rất nhiều loại khác nhau như tham gọi là dục, cũng là ư nghĩa ước vọng, t́m cầu, khao khát. Rốt cuộc con người mong muốn cái ǵ? Khát khao mong cầu điều ǵ? Nhu cầu của con người không ngoài tham năm dục là: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Mắt tham thấy đẹp, tai tham nghe tiếng hay, mũi tham ngửi mùi thơm, lưỡi tham thích vị ngon, thân tham xúc chạm vật mềm mại.

Nhưng con người vốn không thể không ăn uống, không ngủ nghỉ, mắt không thể không nh́n, tai không thể không nghe; cho nên tham là khi chúng ta đ̣i hỏi quá mức. Có được những thứ cần dùng không phải là tham, không cần mà muốn có thêm, đó là tham. Trên thực tế, chúng ta cần không nhiều, như chúng ta ngủ chỉ cần một cái giường, ăn cơm chỉ cần ăn no... nhưng mọi người vẫn muốn mưu cầu được nhiều thứ. V́ sao con người tham không biết chán?

Tâm lư con người là măi măi chạy theo ham muốn của ḿnh, nhưng những thứ mà con người mong muốn tham đắm th́ không thể giữ ǵn lâu dài, nên khi được nó rồi, lại bắt đầu lo sợ mất đi.

Tâm lư con người là măi măi chạy theo ham muốn của ḿnh, nhưng những thứ mà con người mong muốn tham đắm th́ không thể giữ ǵn lâu dài, nên khi được nó rồi, lại bắt đầu lo sợ mất đi.


Bài liên quan

Tham lam là liều thuốc độc!

Tâm lư con người là măi măi chạy theo ham muốn của ḿnh, nhưng những thứ mà con người mong muốn tham đắm th́ không thể giữ ǵn lâu dài, nên khi được nó rồi, lại bắt đầu lo sợ mất đi. Ví như Tiền, chi phí sinh hoạt hàng ngày của chúng ta không nhiều, nhưng ai cũng muốn tiền thu vào mà không ai muốn chi ra, cho nên mong muốn gom góp của cải càng nhiều, để pḥng cần đến bất cứ lúc nào, kết quả trở thành ḷng tham không đáy.

Ḷng tham của con người giống như con khỉ trèo lên cây hái trái đào non, nó thấy những trái đào căng tṛn, nặng trũi trên cây nên muốn hái, trái nào nó cũng muốn ăn; kết quả, nó hái cầm trong tay không hết, lại kẹp dưới hai bên nách; hái đến trái cuối cùng, chẳng ăn được trái nào mà c̣n mệt đứt hơi. Con người thường cũng như vậy, bị ḷng tham lôi kéo mà chuốc nhiều phiền năo và mệt mỏi.

Tục ngữ nói: “Người chết v́ tiền tài, chim chết v́ miếng ăn”.

Tục ngữ nói: “Người chết v́ tiền tài, chim chết v́ miếng ăn”.

Thật ra, con người không chỉ tham đắm tiền tài mà c̣n t́m cầu, giành giật đủ thứ, giữa người với người chà đạp, tranh căi nhau cũng v́ ḷng tham. V́ thế, ḷng tham chẳng những làm cho ḿnh bất an mà c̣n gây tai họa cho xă hội.

Xưa nay, nhu cầu của con người đều giống nhau là cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đi lại. Nếu như người nào, ngoài lo nhu cầu cho ḿnh, lại c̣n lo cho đời sống của mọi người th́ không gọi là tham, như chúng ta mong muốn cho mọi người đầy đủ cơm ăn, áo mặc, có xe đi lại, có nhà ở, c̣n làm phúc giúp mọi người trong xă hội th́ không gọi là tham.

Do đó, ngoài những thứ ḿnh cần, chúng ta không nên tham. Biết đủ th́ dừng mới là trí tuệ, phương thức đơn giản nhất chính là thường chú ư đến khởi tâm động niệm, biết được ḿnh đang sống cho ḿnh hay cho người khác.

Minh Chính (TH)

florida80 10-13-2019 23:10

Tham lam là liều thuốc độc!

Thứ bảy, 23/03/2019 | 18:55










Ḷng tham chính là thuốc độc giết chết nhân cách của con người, có những lúc chỉ v́ sân si những lợi ích nhỏ mà chúng ta đánh mất những thứ quư giá và quan trọng, đến khi nh́n lại mới thấy thật sai lầm.


>>Phật giáo thường thức

Câu chuyện giếng nước và ḷng tham của con người

Người học đạo, hành đạo, không để bị rơi vào tâm cảnh hối tiếc quá khứ hay vọng tưởng tương lai. Hạnh phúc chỉ có thể hiển hiện ngay nơi thực tại hiện tiền. Nhưng hạnh phúc thực sự không phải là thứ hạnh phúc có được tất cả, mà chính là buông được tất cả. Người nào không buông được tất cả sẽ không bao giờ nếm được hương vị của tịch nhiên, giải thoát.

Người học đạo, hành đạo, không để bị rơi vào tâm cảnh hối tiếc quá khứ hay vọng tưởng tương lai. Hạnh phúc chỉ có thể hiển hiện ngay nơi thực tại hiện tiền. Nhưng hạnh phúc thực sự không phải là thứ hạnh phúc có được tất cả, mà chính là buông được tất cả. Người nào không buông được tất cả sẽ không bao giờ nếm được hương vị của tịch nhiên, giải thoát.


Bài liên quan

Thấu lẽ vô thường, bạn sẽ hạnh phúc hơn

Có một vị Thiền sư có sở thích đi khắp mọi nơi trên thế gian, ban đầu sức khỏe của ông c̣n có thể giúp ông đi rất nhiều nơi, học hỏi và quan sát được nhiều điều. Càng về sau, ông càng ốm yếu, khi dừng chân tại một vùng núi nọ th́ ông bị cảm. Ông lạc trong một khu lạc và được một bà góa đưa về chăm sóc. Mặc dù không biết ông là ai nhưng bà chủ vẫn tận t́nh giúp ông qua khỏi. Ba tháng sau, ông dần b́nh phục, lúc này không biết lấy ǵ cảm ơn bà chủ nhà, ông liền đào một cái giếng để lấy nước sạch ở cạnh nhà rồi rời đi.

Điều mà không ai ngờ tới đó là nhờ vào nước từ giếng đó, trà của bà góa trở nên thơm ngon hơn. Từ đó quán trà của bà cũng nổi tiếng dần. Người ta biết đến bà và t́m đến.

Một thời gian sau, vị Thiền sư quay lại quán, thầy nhà cửa của bà góa đă trở nên khang trang giàu có hơn, ông cảm thấy rất mừng, ông t́m đến bà và nói chuyện. Thế nhưng trái với suy nghĩ của ông, bà ta kêu than thảm thiết: "Giếng nước này tốt lắm, có điều nước cạn liên tục, vài ngày mới lại đầy nên tôi chẳng bao giờ đủ để bán cho khách".

V́ Thiền sư trả lời: "Không tốn kém ǵ cả, từ nguồn nước trời cho rồi kiếm ra nhiều tiền mà bà vẫn không thấy hài ḷng ư?". Sau đó ông ngẩng mặt lên trời và than: "Trời đất bao la nhưng ḷng tham của con người c̣n mênh mông hơn thế!".

Ḷng tham giống như rắn độc, nó hăm hại người khác, khiến con người trở nên xấu xa.

Ḷng tham giống như rắn độc, nó hăm hại người khác, khiến con người trở nên xấu xa.


Ḷng tham giống như rắn độc, nó hăm hại người khác, khiến con người trở nên xấu xa. Nó là thứ gây hại nhưng nhiều người lại cho rằng đó là liều thuốc bổ. Tự họ khiến nó càng ngày càng lớn hơn, làm chúng ta sẽ trở nên mù quáng, điên cuồng, thậm chí sử dụng âm mưu, tiểu xảo để đạt bằng được mục đích của bản thân.

Chúng ta dần dần sẽ đánh mất bản thân ḿnh, không c̣n những giá trị như ban đầu, đến lúc muốn quay về sẽ không c̣n có thể được nữa. V́ vậy hăy chọn cho ḿnh cách sống đừng sân si, những ǵ không phải của chúng ta sẽ măi măi không thuộc về ta, hăy quư trọng mọi thứ đang có, tự nó sẽ sản sinh ra cái mới mà thôi.

Để có được sự hạnh phúc và vui vẻ con người ta chỉ cần học được 3 điều dưới đây:

Thứ nhất: Nghỉ ngơi

Thứ hai: Cho đi

Thứ ba: Buông xuống

Nghỉ ngơi hợp lư


Bài liên quan

Sống hạnh phúc theo lời Phật dạy

Phật giáo cho rằng, trong xă hội này có hai loại người. Một là quá tham lam, mong muốn và theo đuổi sự thành công, mong muốn kiếm tiền, ham muốn sao cho ḿnh không ngừng vươn xa hơn nữa. C̣n loại người thứ hai sống không có mục đích, không có chí tiến thủ.

Nếu một người lao đầu vào kiếm tiền, không chừa thủ đoạn nào để theo đuổi thành công và tài phúc mà không biết dừng nghỉ sẽ có ngày cảm thấy vô cùng mỏi mệt. Theo đuổi những chân trời viễn mộng khiến ta rất đau khổ, rất căng thẳng, bởi v́ khi đă giành được nó ta lại sợ sẽ mất đi, sau khi mất đi th́ lại muốn giành được nó, cũng gần giống như việc đánh bạc, mong muốn tất cả những đồng tiền ở túi kẻ khác là tiền của ḿnh, bị thua lại mong thắng, thắng được rồi lại muốn thắng nữa, không bao giờ biết thỏa măn.

Người thông minh là người biết nên làm và nên nghỉ ngơi hợp lư. Có như thế mới cân bằng cuộc sống và an nhiên, tự tại.

Người thông minh là người biết nên làm và nên nghỉ ngơi hợp lư. Có như thế mới cân bằng cuộc sống và an nhiên, tự tại.

Cuộc sống phải biết cho đi

Trong cuộc sống này, những ǵ ta cho đi bằng t́nh người mới thật sự đúng nghĩa là cho mà không phải là sự trao đổi hay mua bán dưới nhiều h́nh thức. Tuy nhiên, nếu ta biết cho đi những giá trị vật chất để giúp đỡ hoặc chia sẻ khó khăn cho người khác th́ đây chính là cách giúp ta có thể nhận lại được niềm vui và hạnh phúc bởi trong ta không có sự toan tính.

Khi cho đi mà chúng ta không kèm theo bất cứ một điều kiện hay sự mong cầu nào th́ chính ngay khi ấy chúng ta đă nuôi dưỡng được ḷng từ bi vô hạn. Khi ta cho mà không có sự tính toán th́ sự cho ấy mới là cao thượng nên ta sẽ nhận được sự an lạc, hạnh phúc.

Học cách buông bỏ


Bài liên quan

T́m sự an lạc trong cuộc sống theo lời khuyên của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Nếu như con người biết buông xả trong đời sống hiện tại. Buông đi những lợi danh, buông đi những hận thù chấp nhặt. Đồng thời xả đi những mưu cầu tính toán cho bản thân, xả đi những “tham – sân – si” trong cuộc sống thường nhật th́ sẽ tự t́m thấy cho ḿnh niềm an vui và thanh thản trong tâm hồn. Bởi khi biết buông xả th́ tâm ta mới trong sáng để vượt qua những cám dỗ của tham, sân, si, của mạn nghi ác kiến để rồi nh́n thấy niềm vui xung quanh ta.

Có buông xả được th́ ḷng ta mới rộng mở, ai nói ǵ không vừa ư cũng bỏ qua mà không chấp. Nếu ai có làm điều ǵ xúc phạm cũng dễ dàng tha thứ, mà nếu có giận có buồn th́ chỉ một vài phút hoặc một vài giờ, cùng lắm qua một đêm rồi quên hết đi cho đời ḿnh được an vui.

Xả bỏ, buông bỏ những

Xả bỏ, buông bỏ những "Tham-sân-si" để hồn được an lạc, thể xác được tự do

Tham lam là một liều thuốc độc, và dục vọng là con dao hai lưỡi; có một cuộc sống ổn định rồi vẫn muốn theo đuổi sự thoải mái; có cuộc sống thoải mái rồi lại muốn hưởng thụ những vật chất xa hoa… Nếu dục vọng không có điểm dừng th́ con người vĩnh viễn không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ cảm thấy thỏa măn, và cũng không bao giờ t́m kiếm được niềm vui. Hăy trân trọng những ǵ bạn đang có, bạn sẽ thấy rằng bản thân ḿnh là người giàu có nhất trên cơi đời này.

florida80 10-13-2019 23:11

Cuộc chiến đấu với ḷng tham

Thứ năm, 13/06/2019 | 09:22










Đạo đức Phật giáo và mọi đạo đức mang tính xă hội ở mọi xă hội, cổ kim đông tây, lên án ḷng tham với mọi h́nh thức và luật pháp - mọi nền luật pháp, chiến đấu với ḷng tham để bảo vệ công lư.


>>Những giáo lư Phật giáo nên đọc

Trong giáo lư căn bản, Phật giáo nhấn mạnh cảnh giác với tham, sân, si sống tinh thần vật chất con người. Ảnh minh họa

Trong giáo lư căn bản, Phật giáo nhấn mạnh cảnh giác với tham, sân, si sống tinh thần vật chất con người. Ảnh minh họa

Tham lam không bao giờ và ở đâu được coi là ưu điểm. Âu đấy là điểm tương đồng trong khác biệt giữa các hệ giá trị sống?

Trong giáo lư căn bản, Phật giáo nhấn mạnh cảnh giác với tham, sân, si sống tinh thần vật chất con người. Tham không hẳn chỉ hiểu hẹp tham ăn, ngủ, tiền bạc, lợi lộc... Tham c̣n ở vế lớn, về tinh thần: tham danh, tham lời ngon ngọt tâng bốc, tham sắc dục...Nội hàm tham, theo ư Phật vô cùng rộng và va đụng hết thảy nhân sinh. Có thể nói, hàng ngày hàng giờ, từng sat na, nhân sinh - dù là tín đồ tôn giáo, giai tầng, hoàn cảnh... bất kỳ - sống trong không khí đặc biệt của ḷng tham và chiến đấu với nó, có khi ngay ở chính ḿnh, để bảo vệ công lư, đạo lư, sự thiện lương, đạo đức...


Bài liên quan

Lời Phật dạy về tham, sân, si của con người

Tôi có bán buôn lặt vặt và hàng ngày va đụng chợ búa, để ư, rồi nhận ra: bán giá nào cũng có người chê đắt! Người mua luôn khát khao cái giá hạ măi không ngừng bất chấp ở chừng mực - ngưỡng - nào đấy, giá có thể hay chắc chắn gây phương hại cho thị trường ổn định, cho người sản xuất và thương nhân. Sự đôi co mặc cả có khi vài đồng lẻ, quyết liệt đến khó tin. Ḷng tham đấy.

Có người ôm giấc mơ giản dị, chốn quan trường, một chức quan be bé đủ cơm ăn áo mặc, chút danh phận với đời. Nhưng rồi anh chị ấy mải miết chạy theo danh vọng bao nhiêu cũng không thỏa, mất ăn mất ngủ, tranh đấu không ngừng để chiếc ghế cao hơn dù chỉ một phân. Tham danh.

Dịch vụ chăm sóc nhân dáng phụ nữ (và cả nam giới) ăn nên làm ra măi v́ khách hàng không hài ḷng với những ǵ đă có đang có, trời cho, nâng cấp miết, bất chấp hệ số rủi ro và chi phí đắt đỏ... Tham sắc.

Chính ḷng tham vô độ là động lực mănh liệt của nhân loại chinh phục tự nhiên, khám phá, kiến tạo và phát hiện. Các cuộc phát kiến địa lư để có bản đồ thế giới hoàn thiện dần nói lên điều đó. Chinh phục không gian, cách mạng khoa học kỹ thuật... Nói cách nào đấy, ḷng tham cũng đă góp phần to lớn h́nh thành đời sống văn minh ngày nay. Vậy, có một cách hiểu nào đấy khác nhau về chữ THAM?

THAM nghiên cứu học hỏi cần lao để phát triển, thăng tiến, không bị cho là xấu, tiêu cực hay ác. Đấy là khát vọng, mong cầu chính đáng và nên có. Ngay giới tu sĩ và tu sĩ phật giáo cũng có thể dùng chữ "tham" để chí nỗ lực tinh tấn đạt ngộ, đến mục đích tu hành. Ai cho dáy là ḷng tham xấu ác? Nó, ḷng tham ấy, thành động lực.

Hàng ngày, từng sat na, nhân sinh chiến đấu với ḷng tham, các hành giả cũng chiến đấu sinh tử với ḷng tham phàm t́nh trong chính bản thân sâu dày nghiệp chướng c̣n đâu đấy, như một nỗ lực gạn đục khơi trong, lắng lọc thân tâm t́m nẻo sáng, sự giải thoát. Ảnh minh họa

Hàng ngày, từng sat na, nhân sinh chiến đấu với ḷng tham, các hành giả cũng chiến đấu sinh tử với ḷng tham phàm t́nh trong chính bản thân sâu dày nghiệp chướng c̣n đâu đấy, như một nỗ lực gạn đục khơi trong, lắng lọc thân tâm t́m nẻo sáng, sự giải thoát. Ảnh minh họa


Bài liên quan

Tham lam là liều thuốc độc!

Tôi cũng để ư và có lần thú vị nhận ra ư nghĩa đặc biệt của chữ "thi": thi ở học đường, đấu trường thể thao hay sân khấu...Thi tú tài, cử nhân, tiến sĩ...đă đành, nó xác lập đẳng cấp, ghi nhận tiến bộ và kết quả học tập nghiên cứu. Song, có khi người ta tinh quái tổ chức những cuộc thi mà đỉnh cao là phong b́ mấy trăm hay một triệu bạc (VNĐ), mảnh giấy in vội cùng tiếng vỗ tay, cả nước một ngày có bao nhiêu cuộc thi như thế không ai thống kê hết, vậy mà tranh nhau, ngẩng đầu như lên bục danh dự nhận nobel! Tâm lư sinh chữ thi, giải thưởng. Chuyện một lớp học 100% có giải thưởng không hiếm, ở xứ ḿnh, cũng khai thác ḷng tham danh vị. Chữ tham ở đây có tiêu cực?

Như trên sân cỏ, ḷng tham chức vô địch danh giá cuốn các cầu thủ xung trận không khác trên chiến trường, không ai trách họ "tham" thành tích, sự lơ là chểnh mảng trên sân bị lên án la ó và có hậu quả. Người ta vỗ tay tán thưởng ḷng tham ấy, tham danh dự, một giá trị ở đời trần tục. Nhưng khi chơi xấu, phá chân, tiểu xảo, ăn gian... cũng v́ ḷng tham không đi cửa chính, bị lên án, đả kích và có hậu quả. Cũng sự tham, khác nhau nhiều.

Hàng ngày, từng sat na, nhân sinh chiến đấu với ḷng tham, các hành giả cũng chiến đấu sinh tử với ḷng tham phàm t́nh trong chính bản thân sâu dày nghiệp chướng c̣n đâu đấy, như một nỗ lực gạn đục khơi trong, lắng lọc thân tâm t́m nẻo sáng, sự giải thoát.

Ḷng tham, chữ tham, khôn cùng...

florida80 10-13-2019 23:11

Tự tại trước khen chê!

Chủ nhật, 13/10/2019 | 11:18










Khen là có những lời tâng bốc một ai đó, thậm chí tô hồng sự thật, đôi khi có tính cách thổi phồng các sự việc hướng tích cực nhất. Chê là sự chỉ trích, dè bỉu, từ đó có những lời nói bất măn, bôi nhọ một người, tất cả những h́nh thái tiêu cực ấy chúng ta gọi là chê.


>>Góc nh́n Phật tử

Như vậy, khen chê trong xă hội là chuyện muôn đời, dường như không có cách nào để tránh, cách duy nhất là để tâm b́nh thản trước mọi sự khen chê.


Bài liên quan

Trải ḷng về "số thị phi" của Hoa hậu Đại dương Lê Âu Ngân Anh

Những người được khen nếu không làm chủ được ḿnh sẽ cảm thấy mất phương hướng, từ đó sinh tâm kiêu ngạo, không c̣n giữ được tâm thái b́nh thường khi đối diện với cuộc sống. Thê thảm hơn, v́ những lời khen mà người ta thể hiện một cách quá đà sở đắc của bản thân, thành ra tính tự cao tự đắc, đó là điều đáng tiếc nhất. Ngược lại, người bị chê sẽ cảm thấy bị tổn thương, đau khổ, từ đó h́nh thành nên tâm lư mặc cảm, tự ty. Hai trạng thái đối lập trên là điều thường xảy ra trong cuộc đời. Những người chưa từng trải, thiếu kinh nghiệm sống sẽ bị khen chê làm cho chao đảo. Một người con Phật, có học giáo lư và hành tŕ sẽ nhận thức được tai hại của cả khen lẫn chê, từ đó quán chiếu và b́nh thản trước chúng, không c̣n sống dở chết dở bởi thị phi của miệng đời.

Một người con Phật, có học giáo lư và hành tŕ sẽ nhận thức được tai hại của cả khen lẫn chê, từ đó quán chiếu và b́nh thản trước chúng, không c̣n sống dở chết dở bởi thị phi của miệng đời.

Một người con Phật, có học giáo lư và hành tŕ sẽ nhận thức được tai hại của cả khen lẫn chê, từ đó quán chiếu và b́nh thản trước chúng, không c̣n sống dở chết dở bởi thị phi của miệng đời.

Dân gian có câu:

“Ở sao cho vừa ḷng người,

Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.

Cao chê ngổng, thấp chê lùn.

Béo chê béo trục béo tṛn.

Gầy chê xương sống xương sườn lồi ra”.

Ngài Narada có nói trong quyển Những bước thăng trầm: “Bạn có thể sống đời trong sạch như một vị Phật, nhưng bạn không thể tránh khỏi những lời chỉ trích, tấn công và nguyền rủa”. Chúng ta có sống tốt cỡ nào cũng có những người trách móc, chỉ trích, mỉa mai, chê bai, nói xấu. Đức Phật là một người phước trí vẹn toàn, hoàn thiện về mọi mặt, vậy mà Ngài cũng không thể tránh được những lời thị phi trong cuộc đời. Nhưng đức Thế Tôn không để tâm vào những chuyện đó, hoàn toàn bất động trước khen chê. Một người theo bước chân Phật cần nh́n rơ bản chất khen chê, từ đó học cách b́nh thản trước thịnh, suy, tồn, vong, được, mất. Chúng ta hăy tập nh́n một cách rơ ràng hơn, sâu sắc hơn khi đối diện với những vấn đề khó khăn mà ta vô t́nh gặp phải. Người nào bị cột trói bởi lời khen tiếng chê th́ tự gánh lấy khổ đau v́ thiếu bản lĩnh và trí tuệ.


Bài liên quan

V́ sao Hoàng hậu Mallikā được đức Phật ngợi khen là hương thơm đức hạnh của người tŕ giới

Có người nói rằng: “Muốn b́nh yên th́ hăy giẫm lên dư luận mà đi”. Đó lại là một cách nghĩ tiêu cực khác với trạng thái b́nh thản hay tự tại trước những lời gièm pha, mỉa mai. Người có trí tuệ không phải bất cần đời khi nghe người khác nói về ḿnh. Thầy chúng tôi thường dạy: “Lắng nghe để hiểu, nh́n lại để thấy, biết quấy để sửa”. Khi nghe người ta phê phán hay khen ngợi ḿnh, trước phải xem điều đó đúng hay sai, nếu người ta nói ḿnh xấu mà ḿnh xấu thật th́ phải sửa, người ta khen ḿnh hay giỏi và điều đó đúng th́ không nên tự măn và cần cố gắng để tốt hơn. C̣n họ thêu dệt sự thật th́ nên mỉm cười v́ điều đó chẳng liên can ǵ đến ḿnh. Một người có sự hàm dưỡng và có nội lực sẽ b́nh thản vượt qua tất cả thử thách, biết những ǵ cần thiết để tưới tẩm cho hạt giống lành trong nội tâm đơm hoa kết trái.

Chúng ta biết nh́n lại bản thân khi nghe những lời khen tiếng chê th́ ḿnh sẽ học được những điều mới. Nếu bạn cảm thấy hănh diện, tự hào, khi được khen tặng th́ khó ḷng có được những bước tiến ở tương lai. Chuyện khen và chê như đôi bàn tay lật ngửa và lật úp, hôm nay người khen th́ mai có thể họ lại chê, ngày mốt họ khen, ngày kia họ lại chê tiếp. Khi đă nh́n thấy được bản chất vô thường của lời nói, chúng ta sẽ “để gió cuốn đi”, cuốn đi những muộn phiền, cuốn đi những tâm lư ưa hay ghét, cuốn luôn cả “cái tôi vô minh” mà ḿnh đă chấp chặt bấy lâu.

Khen chê là chuyện thiên hạ, chúng ta không thể lấy tay ḿnh che miệng đời được. Người ta có quyền nói, có quyền khen, có quyền chê, c̣n ḿnh có quyền không tiếp nhận để tâm b́nh thản. Người thành công dám đặt sự khen chê ở sau lưng.

Khen chê là chuyện thiên hạ, chúng ta không thể lấy tay ḿnh che miệng đời được. Người ta có quyền nói, có quyền khen, có quyền chê, c̣n ḿnh có quyền không tiếp nhận để tâm b́nh thản. Người thành công dám đặt sự khen chê ở sau lưng.


Bài liên quan

Câu chuyện về vị Ḥa thượng ngày ngày đi mua thịt cá nhưng vẫn được vua Tự Đức khen thưởng

Một người muốn làm được việc lớn đừng bao giờ bị nhấn ch́m bởi khen chê, nếu ḿnh bận tâm nhiều về điều đó sẽ rất khó khăn để thực hiện những lư tưởng của đời ḿnh. Đối với một người có tâm học đạo, không kể là người xuất gia hay cư sĩ tại gia, th́ sự khen chê chỉ là hoa đớm giữ hư không, người ta chỉ rút ra những bài học kinh nghiệm để tự hoàn thiện bản thân trên con đường hướng đến bến bờ giải thoát. “Người khen ta mà khen đúng là bạn ta, người chê ta chê đúng là thầy ta, c̣n người nịnh là kẻ thù của ta”. Đây là câu mà chúng ta nên học.

Khen chê là chuyện thiên hạ, chúng ta không thể lấy tay ḿnh che miệng đời được. Người ta có quyền nói, có quyền khen, có quyền chê, c̣n ḿnh có quyền không tiếp nhận để tâm b́nh thản. Người thành công dám đặt sự khen chê ở sau lưng. Đôi khi, họ c̣n dùng sự chê bai, phỉ báng, chỉ trích làm bàn đạp, tạo động lực để rèn luyện tính kiên tŕ, nhẫn nại. Những ai bị lệ thuộc vào sự khen chê sẽ khó mà tiến bộ được. Chúng ta làm việc ǵ mà cảm thấy điều đó hợp t́nh, hợp lí và phù hợp với khả năng, không phạm vào những quy tắc đạo đức th́ hăy thầm lặng, vững bước mà làm, đừng để bị chi phối và tác động bên ngoài để không đánh mất lư tưởng mà ḿnh đang ấp ủ.

Dùng tâm nhẫn trước những lời nói chê bai.

Dùng tâm nhẫn trước những lời nói chê bai.


Bài liên quan

Thi hóa Kinh Bách Dụ: Kẻ ngốc khen cha

Phương Tây có một câu nói: “Dog bark, We go”. Vững bước không dè dặt trước thị phi phải trái. Sự thành công đến với ta đôi khi phải được đánh đổi bằng máu và nước mắt. Muốn bước chân trên thảm đỏ huy hoàng th́ phải có những lúc đi qua những đoạn đường sỏi đá, chông gai. Khen và chê chỉ là những ngọn gió đời, đôi khi chúng đem đến sự mát mẻ trong ngày hè nhưng có những khi mang về sự lạnh lẽo lúc mùa đông. Người trang bị cho ḿnh vũ khí của bậc hiền nhân là tín, tàm, quư, giới, văn, thí, tuệ th́ sẽ luôn tự tại và thảnh thơi trước sự khen và chê của thế gian.

florida80 10-13-2019 23:12

Tu âm và tu tướng

Chủ nhật, 13/10/2019 | 07:59










Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.


>>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về các giáo lư Phật giáo hay

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa


Bài liên quan

Nhân cách người tu sĩ

Trong cuộc đời này, nói rộng ra ở cơi Ta Bà này, từ Đông sang Tây, con người thường bị mê mờ hay mê luyến vào h́nh tướng bề ngoài và quên mất hay đồng hóa nó với thực tướng/bản chất/nội tâm ở bên trong. Nguyên do chỉ v́ chúng sinh vọng chấp vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sanh tâm ḿnh (Kinh Viên Giác). Thí dụ:

- Một cậu thanh niên thấy một cô người mẫu, hoa khôi, á hậu…đẹp như tiên nga giáng thế… tưởng đó là “người trong mộng” hay “người yêu lư tưởng”. Khi lấy về th́ bao nhiêu tính xấu mới lộ ra, bao xung đột v́ khác tính t́nh. Mối t́nh trong mộng nay biến thành “oan gia trái chủ” khiến cười đau khóc hận.

- Một cô gái thấy một anh chàng hào hoa, đẹp trai, cử chỉ lịch sự…tưởng đó là “hoàng tử của ḷng em”, lấy về mới tá hỏa ra đó là anh chàng Sở Khanh, tốt mă giẻ cùi…thôi th́ vỡ mộng.

- Vào siêu thị thấy trái cây vỏ ngoài c̣n xanh tốt. Mua về bổ ra, cắt ra mới thấy bên trong đă hư thối. Đi các chợ rẻ tiền không tín nhiệm thường bị lường gạt là như thế.

- Nghe quảng cáo các món hàng, dịch vụ trên truyền h́nh, đài phát thanh…thấy mà mê. Háo hức mua về dùng thử mới thấy đó là đổ dỏm hay đồ giả.


Bài liên quan

Cảnh giới của người tu

Tất cả những thứ này người ta đă dùng h́nh tướng tốt đẹp bề ngoài (sắc,thanh, hương, vị) để che dấu thực tướng tức cái không tốt, cái xấu ở bên trong. Ngay trong đường lối tu hành ngày nay, một số rất đông cũng đă và đang mải mê theo con đường tu tướng, tức lấy h́nh thức, h́nh tướng để hành đạo… mà cho đó hoặc tưởng đó là con đường tu hành chân chính. Một số rất đông Phật tử không phân biệt được thế nào là Tâm (thực chất) và thế nào là Tướng (h́nh thức bề ngoài) vô t́nh đă bị các vị này mê mờ. Thậm chí tại California nơi tôi ở, một số chùa làm cơm chay miễn phí thật ngon để “câu” Phật tử. Một số bà khi gặp nhau th́ b́nh phẩm chùa nào nấu cơm chay ngon rồi rủ nhau đi chùa đó. Nghe cả trăm thầy giảng và băng đĩa, thậm chí hành hương cả Tứ Động Tâm nơi Đức Phật sinh ra, thành đạo, hành đạo và nhập diệt… mà tu hành mà như thế th́ đúng là cười ra nước mắt. Vậy th́ đâu là tu tướng và đâu là tu tâm?

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tu tướng tức là dựa vào h́nh tướng bên ngoài:

- Tụng kinh cho hay, cho hấp dẫn…

- Thuyết giảng cho hay cho hấp dẫn…vẫn chỉ là h́nh tướng.

- Lễ nghi trang trọng, huyền bí vẫn chỉ là h́nh tướng.

- Phát hành cả trăm băng đĩa, viết cả chục cuốn sách…

- Thậm chí có cả triệu tín đồ đi theo vẫn chỉ là h́nh danh sắc tướng. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát trụ vào nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đều không phải là Bồ Tát.” Xin nhớ cho tín đồ đi theo chính là chúng sinh tướng.

- Được báo chí phỏng vấn bốc lên tận mây xanh, trao giải thưởng…vẫn chỉ là h́nh tướng. Giải thưởng, thậm chí như Giải Nobel, nhiều khi chỉ v́ nhu cầu chính trị và trao lầm không biết chừng. Thụy Điển đă đe dọa thu lại Giải Thưởng Nobel Ḥa B́nh trao cho Bà San Suu Kyi v́ bà này không ngăn cản quân đội đàn áp người thiểu số Hồi Giáo Rohingya tại Miến Điện. Rồi thế giới lại hối hận v́ đă trao lầm Giải Thưởng Nobel Ḥa B́nh cho Ô. Obama khi ông mới nhậm chức tổng thống được vài tháng, sau đó tiến hành cuộc tiến công vào Libya giết chết Ô. Gaddafi khiến đất nước này tan nát cho tới bây giờ.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

- Ngài Thần Tú văn chương uyên bác mà vẫn chưa ngộ. Trong khi Huệ Năng không biết một chữ mà tâm đă là tâm Phật. Vậy th́ chữ nghĩa, kiến thức, bằng cấp không phải là nhân tố quyết định trong việc tu học. Ngộ và quyết tâm tu học mới là yếu tố quyết định.

- Trụ tŕ chùa thật to, thật đồ sộ…vẫn chỉ là h́nh tướng...

- Thậm chí cả “Thiền trà, thư pháp” cũng vẫn chỉ là h́nh tướng, nó chẳng biểu lộ sự chứng đắc của Thiền sư.

- Làm thơ rồi nhờ nhạc sĩ phổ nhạc, ca sĩ nổi tiếng hát…chính là “bệnh” phô trương. Kinh Phật, kệ tụng của chư Tổ…có cần nhờ ai phổ nhạc, ca sĩ hát, thu vào băng đĩa…sao đọc tụng cho tới bây giờ?


Bài liên quan

Tu hành như khúc gỗ trôi sông

- Đi đâu cũng đ̣i phải có lọng che như “vua quan vơng lọng ngày xưa”, tức lụy vào h́nh danh, sắc tướng…mà giảng về “thiền chánh niệm” về “tỉnh thức” là…phỉ báng Thiền.

- Thậm chí có 32 tướng tốt như Phật vẫn chỉ là nhan sắc, chưa phải là Phật. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề, “Chuyển Luân Thánh Vương có 32 tướng tốt cũng gọi là Phật sao?”

- Hoa hậu, hoa khôi, á hậu, ca sĩ, MC, người mẫu, tài tử nổi tiếng, ăn mặc đẹp như Tiên, nữ trang đeo đầy cổ, đầy tay…đứng khép nép, chắp tay cung kính trước tượng Phật, trông dịu hiền như Phật Bà Quan Âm…rồi h́nh chụp đăng tràn lan trên các báo…nhưng nhiều khi chỉ là “đóng kịch”, chưa chắc đă là Phật tử chân chính giữ được năm giới cấm. Chớ có lụy vào h́nh tướng bề ngoài này. Các cô nên thay một bộ áo lam b́nh dị, tới chùa quét dọn, lau chùi nhà vệ sinh, phục vụ cơm chay cho các cụ già, các khóa tu mùa hạ… như thế mới chính là tu hành theo Phật và tu tâm. Tu tướng chỉ mang tội v́ lừa dối chính ḿnh. Tu tâm mới vun trồng phước báu và phát triển trí tuệ. Tu tướng làm mê mờ trí tuệ.

Như vậy thế nào là tâm tướng và tu tâm?

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

- Nguy nhiên, tự tại, tâm không động…đó là hiện bày của tâm tướng.

- Từ bi hiện ra trên nét mặt, qua hành động cử chỉ, lời nói…đó là hiển lộ của tâm tướng.

- Trước cảnh khổ, oan trái… nhẫn nhục không kêu than giống như “Tiểu Kính Tâm”…đó chính là biểu lộ của tâm tướng.

- Coi quyền chức, danh vọng như phù vân…đó chính là hạnh của tu tâm.

- Thấy tiền bạc phải thấy sợ v́ muôn ngàn tai họa xảy đến đều do tiền bạc. Đức Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ nói rằng ngài sợ hăi, lánh xa tiền bạc…đó chính là biểu hiện của tâm thanh tịnh hay tâm Phật.

- Tiền của đàn na thí chủ, Phật tử cúng dường…chỉ dùng vào Phật sự, chu cấp cho kẻ nghèo khó, phát học bổng cho học sinh hiếu học…không giữ làm của riêng…đó chính là tu hạnh thanh tịnh và bố thí Ba-la-mật.

- Thấy sắc đẹp của nam-nữ phải thấy đó là ngục tù và tai họa.

- Nghe lời khen không động tâm, nghe lời chê không tức giận…là tâm đă đi vào Định.

- Chùa nghèo, dù trong hang động, nơi thâm sơn cùng cốc…không Phật tử cúng dường, không các bà giàu có đến thăm viếng, không cơm chay chục món…mà vẫn thong dong tự tại…đó chính là Bồ Tát ẩn tu.

- Thuyết pháp cả trăm ngàn người nghe mà tâm vẫn không cao ngạo… coi đó như “giấc mộng ngày hôm qua”, không coi thường Phật tử, không nghĩ ḿnh đă là Thánh, là Phật…đó là tâm địa của Bồ Tát. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát diệt độ được vô lượng vô biên chúng sinh, nhưng không có chúng sinh nào được diệt độ. Như thế mới gọi là Bồ Tát.”

- Chùa rộng biến thành quán trọ cho học sinh nghèo tá túc trong mùa thi. Rồi cơm chay miễn phí…đó là công hạnh từ bi.

- Xây nhà t́nh nghĩa, xây cầu, giếng nước cho các thôn bản, gia đ́nh nghèo khó…đó là huân tập hạnh “hằng thuận v́ lợi ích chúng sinh”.

- Phát áo ấm cho học sinh nghèo trong mùa lạnh, thăm hỏi cô nhi quả phụ, người già trong bệnh viện…là thể hiện tinh thần cứu khổ.

- Cùng các bạn trẻ, sinh viên xuống đường thu dọn rác, làm sạch môi trường chính là “làm trang nghiêm cơi Phật”. Cơi Phật không có uế trược, không có ô nhiễm, không có xả rác bừa băi.

- Mở mang trí tuệ cho mọi người, không mê mờ chúng sinh bằng những chuyện mê tín, huyễn hoặc như …xin xâm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt-xấu, tuổi nào hợp với tuổi nào, người chết phải chôn vào giờ nào. Phật tử và người tu hành chân chánh phải “Duy tuệ thị nghiệp”. Thiền Sư Bảo Giám đời Lư (1173) dạy rằng, “Muốn thành Phật cháng đẳng chánh giác phải nhờ trí tuệ”. Chúng sinh sống bằng t́nh cảm, mê tín và gom góp của cải. Các bậc đại sĩ, hiền thánh, Bồ Tát và Phật sống bằng trí tuệ (Bát Nhă). Tài sản của các ngài là ḷng Từ Bi.

- Tổ chức các khóa tu mùa hạ, xuất gia gieo duyên cho giới trẻ …là gieo trồng căn lành, gầy dựng hạt giống Phật cho ngày mai, là góp phần xây dựng xă hội. Đó là hạnh cứu thế. Đức Phật ra đời cũng chỉ v́ hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo của thời trang, kiểu cọ, h́nh thức bề ngoài. Đạo Phật không bao giờ dùng h́nh tướng hay nghi thức tế lễ huyền bí để ḷe mị chúng sinh. Như Tổ Đạt Ma đă nói, cốt tủy của đạo Phật là, “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” hay “Tức tâm tức Phật” hay “Ngoài tâm không Phật”. Ngày xưa, khi Đức Phật c̣n tại thế, các đệ tử của Phật kể cả hàng tục gia (cư sĩ) chỉ tu theo Bát Chánh Đạo và Thiền Định mà đắc quả. Không hề có chuyện Đức Phật cúng vong, cúng mông sơn thí thực, cầu siêu, làm lễ chôn cất người chết. Cũng không hề có chuyện Đức Phật làm lễ thành hôn (nay gọi là hằng thuận) cho ai. Các đệ tử của Phật cũng không hề cầu nguyện để được giải thoát mà chỉ nương theo lời chỉ dạy và công hạnh của chư Phật và các hàng Bồ Tát để tu tập. Khi du nhập vào Trung Hoa và Việt Nam, đạo Phật đă biến thể và đẻ ra rất nhiều nghi thức cầu nguyện và cúng tế không khác ǵ các pháp sư, thầy cúng, thầy bói.

Nhập thế và độ sinh không có nghĩa là chiều theo và dung dưỡng tinh thần mê tín, dị đoan của chúng sinh. Chúng ta phải coi lại và biết dừng lại và đánh giá xem đâu là chánh pháp và đâu là tà pháp. Cột trụ “Trí Tuệ”, “Tánh Không” và “Trí Tuệ Bát Nhă” của Phật Giáo sẽ gẫy đổ nếu chúng ta cứ sa đà vào các h́nh tướng cúng kiếng cầu nguyện đầy h́nh thức như thế này.


Bài liên quan

Cốt cách người tu hành: HT Thích Trí Tịnh

Đạo Phật nổi bật và hi hữu trên thế gian này là v́ nó không dựa và Thần Linh và những nghi thức cúng tế, cầu nguyện. Đạo Phật cũng nổi bật v́ lời dạy của Đức Phật “Tự thắp đuốc lên mà đi”. Điều đó có nghĩa là, nghe lời giảng dạy của Phật, của chư Tổ.. rồi như con chim đủ lông đủ cánh, ĺa tổ và tự lo cho cuộc đời ḿnh…tức không cần thầy nào, chùa nào độ cho ḿnh cả. Cầu nguyện chỉ là trợ lực, nhưng sẽ là vô ích nếu ḿnh không tự tu, tự chứng. Đă đến lúc chúng ta phải giảm bớt và thanh lọc bớt nhưng nghi thức, tế lễ, cúng kiếng trong tinh thần “độ sinh nhưng không xa ĺa trí tuệ”. Đó là công việc vô cùng nặng nề và bức thiết của Giáo Hội. Xin nhớ cho, mất Trí Tuệ th́ Đạo Phật cũng giống hệt như các tôn giáo khác.

Riêng đối với người Phật tử hay người xuất gia tu hành chân chính… phải soi rọi vào tâm ḿnh, nh́n thẳng vào tâm ḿnh và phải thấy trong tâm ḿnh có Phật. Khi đă nh́n thấy tâm ḿnh là tâm Phật (kiến tánh, thấy tánh) th́ quyết tâm tu hành để hiển lộ tâm ấy. Tâm Phật là tâm “bất nhị”, bản tế b́nh đẳng, thân tâm vắng lặng, viên măn mười phương cơi, tịch mịch chiếu soi mà hiện ra các Tịnh Độ (Kinh Viên Giác). Tâm Phật không huyền bí mà có thể hiển lộ ra ngoài bằng những ǵ nói ở phần trên. Do đó người Phật tử chân chánh phải xa ĺa lối tu tướng mà phải hướng về tu tâm. Tu theo chánh đạo là tu tâm. Tu theo tà đạo là tu tướng. Chính v́ thế mà trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.

florida80 10-13-2019 23:14

Lời Phật dạy về bát nạn không được tu hành phạm hạnh

Thứ ba, 27/08/2019 | 09:00










Là đệ tử Phật, được tu hành trong giáo pháp của Như Lai, đôi khi chúng ta nghĩ đó là b́nh thường nhưng kỳ thực, được nương tựa Tam bảo là có phước duyên lớn. V́ nếu thiếu duyên, chúng ta sẽ rơi vào tám trường hợp “không được nghe pháp, không biết tu hành”.


>>Những giáo lư Phật giáo nên đọc

8-kiep-nan-cua-Duc-Phat-khong-phai-ai-cung-du-kha-nang-vuot-qua

Bát nạn c̣n gọi là Bát nạn xứ hay Bát nạn giải pháp…Nó có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tựu trung cũng chỉ cho tám chỗ mà chúng sinh thọ khổ.

Bát nạn gồm có:

1. Nạn địa ngục: Chúng sinh do tạo nghiệp ác, nên phải chiêu cảm quả báo đọa vào địa ngục, chịu khổ không ngừng, không được thấy Phật nghe pháp.

2. Nạn ngạ quỷ: Tức là loài quỷ đói. Chúng sinh do tạo nghiệp tham lam bỏn xẻn nên chiêu cảm thọ sinh vào loài ngạ quỷ phải chịu đói khát khổ sở trăm bề.

3. Nạn súc sinh: Chúng sinh do si mê tối tăm, hành động phi pháp trái với luân thường đạo lư, nên phải chiêu cảm quả báo thọ sinh vào loài súc sinh này.

4. Nạn sinh lên cơi trời Trường thọ: Cơi trời này thọ mạng dài lâu, bị chướng ngại không được thấy Phật nghe pháp.

5. Nạn sinh ở Uất đan việt hay c̣n gọi là Bắc cu lô châu hoặc Thắng xứ: Người sinh về cơi này, họ măi mê tham đắm hưởng lạc, nên chưa gặp được Phật pháp tu hành.

6. Nạn đui điếc câm ngọng: Tuy sinh được làm người nhưng sáu căn của họ không được vẹn toàn, nên cũng không được thấy nghe học hỏi Phật pháp.

7. Nạn thế trí biện thông: Hạng người này, tuy họ rất thông minh lanh lợi, chuyên nghiên cứu học sách ngoại đạo, nên họ không tin chính pháp, không biết tu hành để được giải thoát sinh tử khổ đau.

8. Nạn sinh trước Phật và sau Phật: Chúng sinh do nghiệp chướng sâu dầy, nên sinh ra đời không được gặp Phật.

Đại khái trong Kinh nói bát nạn là như thế.

florida80 10-13-2019 23:15

Những lời Phật dạy bằng tiếng Anh ư nghĩa nhất

Thứ hai, 26/08/2019 | 09:27










Phật giáo là tôn giáo rất phổ biến ở Châu Á, ở phương Tây, Phật giáo vẫn c̣n là tôn giáo mới mẻ, lạ lẫm. Các nước phương Tây chỉ thực sự quan tâm, chú ư đến đạo Phật từ thế kỷ XIX và thời gian gần đây Phật giáo đă được biết đến rộng răi và phổ biến hơn ở các châu lục này.


>> Kiến thức


Bài liên quan

Tiếng Anh – Ngôn ngữ giúp Phật giáo tiến xa hơn, hội nhập sâu hơn

Dưới đây là bộ 14 lời Đức Phật dạy bằng tiếng Anh

1. The greatest enemy in life is the self

Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính bản thân ḿnh

2. The greatest ignorance in life is deceit

Ngu dốt lớn nhất của đời người là sự dối trá

3. The greatest failure in life is vanity

Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại

4. The greatest tragedy in life is jealousy

Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị

5. The greatest error in life is to lose oneself

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất ḿnh

6. The greatest crime in life is disloyalty to parents

Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu

7. The greatest pity in life is self-belittlement

Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti

8. The greatest pride in life is recovering from failures

Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngă

9. The greatest bankruptcy in life is hopelessness

Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng

10. The greatest wealth in life is health and wisdom

Tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ, trí tuệ

11. The greatest debt in life is affection and love

Món nợ lớn nhất của đời người là t́nh cảm

12.The greatest gift in life is acceptance and forgiveness

Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung

13.The greatest weakness in life is lack of awareness

Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết

14.The greatest consolation in life is charity

An ủi lớn nhất của đời người là bố thí

Các nước phương Tây chỉ thực sự quan tâm, chú ư đến đạo Phật từ thế kỷ XIX và thời gian gần đây Phật giáo đă được biết đến rộng răi và phổ biến hơn ở các châu lục này.

Các nước phương Tây chỉ thực sự quan tâm, chú ư đến đạo Phật từ thế kỷ XIX và thời gian gần đây Phật giáo đă được biết đến rộng răi và phổ biến hơn ở các châu lục này.

Every evil never doing

and in wholesomeness increasing

and one’s heart well-purifying:

this is the Buddhas’ Sasana!

(Không làm các điều ác

Gắng làm các việc lành

Luôn tu tâm, tịnh ư

Đó là lời Phật dạy!)

Minh Chính (TH)

florida80 10-14-2019 20:28

Nhớ lời Phật dạy để hóa giải những mâu thuẫn vợ chồng

Thứ ba, 03/09/2019 | 17:09










“Nhân vô thập toàn” là câu nói chuẩn xác để nói về bản tính của con người. Bởi lẽ, ai cũng không hẳn là người toàn thiện hoặc toàn ác. Vậy nên vợ chồng cũng có lúc mâu thuẫn với nhau. Để hóa giải mâu thuẫn và giúp gia đ́nh hạnh phúc quư Phật tử hăy cùng đọc những lời Phật dạy dưới đây.


>>Phật tử có thể đọc loạt bài về Lời Phật dạy

T́nh yêu đích thực là nền tảng của hạnh phúc bền vững. Nó có sức mạnh để chữa lành, biến đổi mọi t́nh huống xung quanh, và mang lại một ư nghĩa sâu sắc cho cuộc sống.

T́nh yêu là món quà tuyệt vời nhất mà mỗi người sinh ra đều đáng có được. Từ lâu, t́nh yêu đă là một thứ rất khó để có thể mường tượng và định nghĩa v́ nó hàm chứa cả hạnh phúc lẫn khổ đau, cả sự bắt đầu lẫn kết thúc, cả thất vọng lẫn hy vọng. Và t́nh yêu thương cũng là thứ duy nhất trên thế giới này có thể hàn gắn tất cả mọi vết thương. Để có được cuộc sống gia đ́nh hạnh phúc chúng ta cần: Học tha thứ; tự sám hối nhận lỗi khi sai; tập buông xả; dùng chất liệu yêu thương để hóa giảu mâu thuẫn.

Học tha thứ

T́nh yêu đích thực là nền tảng của hạnh phúc bền vững. Nó có sức mạnh để chữa lành, biến đổi mọi t́nh huống xung quanh, và mang lại một ư nghĩa sâu sắc cho cuộc sống.

T́nh yêu đích thực là nền tảng của hạnh phúc bền vững. Nó có sức mạnh để chữa lành, biến đổi mọi t́nh huống xung quanh, và mang lại một ư nghĩa sâu sắc cho cuộc sống.


Bài liên quan

Lời Phật dạy về sự chung thủy trong t́nh yêu

Trong cuộc sống hôn nhân, gia đ́nh cũng vậy, muốn chuyển đổi nỗi tức giận, oán ghét giữa bản thân với người khác, tự mỗi người phải hóa giải mọi vướng mắc xấu ác, thù hận trong suy nghĩ, lời nói, việc làm, sinh hoạt hàng ngày để ḿnh và người thoát khỏi sự khổ, luôn sống trong cảm giác an lạc; đó là mục tiêu mà Đức Phật đă thành tựu trọn vẹn. Tha thứ cho người khác là tha thứ cho chính bản thân ḿnh.

Cũng giống như Đức Phật từng tha thứ cho Bạt Đà Bà La Bồ tát trong nhiều kiếp quá khứ, đă từng mắng chửi, nói xấu, ném đá hại Phật, để rồi sau này Bạt Đà Bà La Bồ tát đứng đầu 500 vị Bồ tát hội Pháp Hoa hộ tŕ cùng Như Lai.Như vậy, sau khi tha thứ cho những lỗi lầm của người khác, để họ yêu quư và hết ḷng v́ chúng ta. Th́ lúc đó, ta mới hóa giải nỗi hận thù phát xuất từ mối nhân duyên ta nợ người khác, có lỗi với người đang oán trách ta. Với những ai đă hiểu và yêu thương chúng ta, họ sẽ là người giúp hóa giải hiềm khích, ân oán với người mà ta mắc nợ từ nhiều đời nhiều kiếp.

Tuy nhiên, căn bản của việc chuyển đổi hận thành yêu phải tự do bản thân hóa giải. Mỗi người nên hiểu rằng, Đức Phật dạy rằng tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… chính là ma quỷ trong ḷng ta. Ta đánh đuổi chúng bằng cách tu cho thành tựu các thiện pháp là tín, tàm, úy, vô tham, vô sân, vô si… Khi để những điều tốt đẹp này nảy nở trong ḷng th́ những người tốt trong xă hội sẽ tự t́m đến ta mà hợp tác, giúp đỡ.

Tự sám hối, nhận lỗi khi làm sai

Tha thứ cho người khác là tha thứ cho chính bản thân ḿnh.

Tha thứ cho người khác là tha thứ cho chính bản thân ḿnh.

Tự thân nhận lỗi, hổ thẹn với ḷng khi làm điều ǵ sai là một cách để hóa giải xung đột, hận thù giữa người với người. Bởi lẽ, khi làm sai mà ta càng cố chấp, cho rằng ḿnh có địa vị cao hơn, giàu có hơn, lớn tuổi hơn… mà không chịu thừa nhận cái sai, o ép người dưới ḿnh. Như vậy, họ sinh tâm tức giận mà từ đó, oán thù mới phát khởi. Nếu tự biết ḿnh sai mà thừa nhận, sám hối th́ người kia đâu có tức giận làm ǵ. Đó mới là cách hữu hiệu để hóa giải những ác nghiệp nhiều đời và không tạo thêm nghiệp xấu mới.

Tập buông xả

Phiền năo của con người thường xoay quanh 12 chữ:

Buông không đành

Nghĩ không thông

Nh́n không thấu

Quên không được


Bài liên quan

Tứ vô lượng tâm của t́nh yêu đích thực theo quan điểm Phật giáo

Không buông xả được có nghĩa là vẫn ôm mấy chục năm quá khứ, thậm chí vô số đời kiếp quá khứ, để dợm chân từ hiện tại bước vào tương lai. Nếu hiểu được chữ “buông” chắc chắn phiền năo trong ta sẽ chuyển biến và chấm dứt. Buông bỏ bản ngă sẽ giúp chúng ra hiểu được giá trị chân thật của cuộc sống. Cứ măi nhớ và ôm những đớn đau, những cố chấp, ch́m đắm trong thâm, sân, si chỉ làm ta lún sâu trong bể khổ mênh mông mà thôi. Học cách thả lỏng bản thân, lắng nghe trái tim và lặng nh́n cuộc sống th́ phiền năo sẽ không c̣n.

Sự tức giận trong tâm ta, đôi khi bản thân tự bào chữa rằng làm vậy v́ lẽ công bằng, để mọi người phải nh́n nhận ḿnh sai chỗ nào mà sửa đổi hoặc cho rằng không c̣n lựa chọn nào khác. Thế nhưng, vận mệnh cuộc đời con người lại không phải do chính bản thân mỗi người quyết định. Cái chết ập đến, khổ đau chầu chực, bất hạnh có thể diễn ra với ta bất cứ lúc nào. Nếu khi nhắm mắt mà tâm không buông xả, mang theo món nợ ân oán của kiếp này để rồi kiếp sau gặp lại, oán oán lại chất chồng. Nếu mạnh dạn xé đi giấy nợ, th́ tâm ta sẽ được thoải mái, an lạc. C̣n giữ tâm sân hận trong ḷng, chẳng khác nào như tự thiêu đốt chính ḿnh và người thân. Trong ngọn lửa của oán thù, kẻ thù chưa chắc đă bị đốt, trái lại, người ôm hận đang tự giết chính ḿnh.

Dùng chất liệu t́nh thương để hóa giải mâu thuẫn

Mỗi ngày, mỗi ngày, ta thầm nhắc ḿnh nhớ cuộc đời là vô thường, vậy nên sống để yêu thương c̣n không đủ chỗ cớ sao để oán thù chen vô

Mỗi ngày, mỗi ngày, ta thầm nhắc ḿnh nhớ cuộc đời là vô thường, vậy nên sống để yêu thương c̣n không đủ chỗ cớ sao để oán thù chen vô



Quả vậy, chỉ có t́nh thương, ḷng từ bi mới có thể chấm dứt những mâu thuẫn, nhưng hận thù một cách vĩnh viễn. Đây là quy luật của muôn đời, nó không chỉ có giá trị trong hiện tại mà măi măi về sau. Để tháo gỡ ḷng hận thù, và không gieo rắc khổ đau cho người khác, tốt nhất ta chuyển suy nghĩ tiêu cực sang tinh thần khoan dung, rộng mở. Có như thế ta mới bước vào và mở rộng bầu không gian an lạc vô cùng tận.


Bài liên quan

Nghĩ về t́nh yêu đích thực từ câu chuyện của cô gái bị ung thư

Cũng giống như Đề Bà Đạt Đa v́ tức giận, ghen ghét với Đức Phật ngay từ khi Ngài c̣n là Thái tử. Bởi trong cuộc thi nào, nhất là cuộc thi giành cưới công chúa Da Du Đà La th́ Đề Ba Đạt Đa vẫn thua. Ông đem ḷng oán hận Đức Phật từ khi đó. Thế nhưng, trái ngược với ngọn lửa sân si bùng cháy trong ông, Đức Phật lại tắm mát tâm hồn ấy bằng một t́nh thương vô điều kiện.

Trong xă hội này không ai đáng thương và thật sự đáng ghét cả. Thiện ác trong mỗi người là tương đối, ai cũng có hoa hồng và ai cũng có rác. V́ vậy, dùng tâm yêu thương là cách nhanh nhất để hóa giải hận thù, thu hẹp khoảng cách giữa người với người. Nếu trong cuộc đời này ta đem trái tim yêu thương với ngay cả người thù ghét ḿnh th́ người đó không thể thù ghét măi ta được.

Thật sự, không ai trên cuộc đời này muốn oán ghét nhau. Bởi v́, mỗi ngày sống trong sự ti hiềm, ganh đua, uất hận, thật sự rất mệt mỏi và đáng thương. Thế nhưng, làm thế nào để tháo gỡ nó lại không phải là một việc dễ dàng. Điều đó cần một quyết tâm và một quá tŕnh tu tập bền bỉ. Mỗi ngày, mỗi ngày, ta thầm nhắc ḿnh nhớ cuộc đời là vô thường, vậy nên sống để yêu thương c̣n không đủ chỗ cớ sao để oán thù chen vô. Có như vậy, tâm ta mới nhẹ nhàng, thảnh thơi, ung dung dạo bước trên đường đời, để cơi Ta Bà này chẳng khác ǵ Tịnh Độ trần gian.

florida80 10-14-2019 20:29

Chuyển hóa nỗi đau phản bội theo lời Phật dạy

Thứ hai, 14/10/2019 | 13:39










Khi chẳng may bị phản bội, mỗi Phật tử được ánh sáng tri thức Phật giáo soi sáng, dẫn đường phải luôn quán chiếu, thực hành để chuyển hóa nỗi đau thành niềm hoan hỷ, biến cái “không hẳn” thành cái “chắc hẳn” để có được cuộc sống hạnh phúc trong thời khắc hiện tại này.


>>Lời Phật dạy

Đức Phật cho rằng: “Nếu trên đời này có cái thứ hai giống như nghiệp t́nh ái, th́ thế gian này không ai tu được, may mà chỉ có một thứ mà đă làm điêu đứng loài người”.

Nhà khoa học vĩ đại Albert Einstein th́ cho rằng: “Định luật vạn vật hấp dẫn không thể chịu trách nhiệm cho việc con người ta yêu nhau”.

Thật thế, t́nh ái luôn gắn liền với cuộc sống con người và đă trở thành nguồn cảm hứng thăng hoa muôn thuở của bao thế hệ nghệ sĩ với đủ cung bậc cảm xúc. Thế nhưng bên cạnh trái ngọt yêu và được yêu, t́nh yêu c̣n có trái đắng đau khổ của nó khi t́nh yêu gặp ngang trái mà đỉnh cao của nó là cảm giác đau khổ tột cùng do bị phản bội. Đau khổ có thể nói là thuộc tính của t́nh yêu.

Đức Phật cho rằng: “Nếu trên đời này có cái thứ hai giống như nghiệp t́nh ái, th́ thế gian này không ai tu được, may mà chỉ có một thứ mà đă làm điêu đứng loài người”.

Đức Phật cho rằng: “Nếu trên đời này có cái thứ hai giống như nghiệp t́nh ái, th́ thế gian này không ai tu được, may mà chỉ có một thứ mà đă làm điêu đứng loài người”.

Cảm giác bị phản bội đối với mỗi người có lẽ khác nhau và cũng chẳng biết diễn tả chính xác ra làm sao để cho thấu đáo nỗi đau đó nhưng tác giả xin được dẫn rằng người ta ví cảm giác ấy như mũi dao đâm xuyên tim. Nhưng người ta cũng lại nói nỗi đau thể xác c̣n chữa lành được chứ nỗi đau tinh thần th́ biết làm sao cho lành. Có thể nói sự phản bội gây ra vết thương nghiêm trọng cho tâm hồn, khiến chủ thể day dứt măi về nó, có khi đến lúc chia ĺa cơi đời. Là người con Phật, chúng ta đă được dạy 4 yếu tố từ, bi, hỷ, xả để có được t́nh yêu cao đẹp, hướng thượng. Nếu chẳng may trong t́nh yêu bị bội bạc th́ hăy luôn biết làm chủ bản thân và vận dụng phương pháp để quên kẻ bội bạc, chuyển hóa nỗi đau, lấy lại cân bằng cuộc sống và đón nhận t́nh yêu mới tốt đẹp hơn bằng những cách sau đây:

Những phương pháp chuyển hóa nỗi đau phản bội theo lời Phật dạy

Hăy làm chủ để cứu bản thân ḿnh trước

Người ta nói thế gian có 4 hạng người:

“Hạng thứ 1 là kẻ si t́nh, hạng thứ 2 là kẻ tham vọng, hạng thứ 3 là kẻ do dự, hạng thứ 4 là kẻ ngu ngốc”

Trong 4 hạng người đó th́ kẻ si t́nh là kẻ ngu ngốc nhất. Thật vậy, kẻ ngu ngốc cho dù khờ khạo cỡ nào c̣n biết bảo vệ mạng sống quư báu của ḿnh c̣n người si t́nh đôi khi không màng đến h́nh hài cha mẹ ban tặng mà liều lĩnh t́m đến cái chết để kết thúc tất cả chỉ v́ t́nh yêu, v́ ảo vọng với một người xa lạ.


Bài liên quan

Có phải vô ngă, vô thường là vô cảm với nỗi đau của người khác?

Bản thân cái ư nghĩ tự tử để kết thúc sự tiếc thương, để chứng minh t́nh yêu, để trả thù người yêu… khi bị phản bội đều vô nghĩa lư chứ chưa nói hành động cụ thể tương ứng của nó. Đằng sau tất cả suy nghĩ, hành động dại dột ấy là sự thiệt tḥi oan uổng, nỗi đau khổ và biết bao hệ lụy mà chỉ có bản thân ḿnh và người thân ḿnh phải gánh chịu, trong đó đau đớn nhất là người cha, người mẹ đă sinh thành dưỡng dục, nuôi nấng chúng ta. C̣n kẻ phản bội, cứ cho là có chút day dứt đó nhưng rồi chả mấy chốc họ sẽ lại vui vẻ, bay nhảy bên người mới, sẽ tiếp tục thay người yêu như thay áo… và kết quả cuối cùng là chẳng bao giờ có được một t́nh yêu chân thành. V́ vậy, khi rơi vào hoàn cảnh tương tự, người Phật tử hơn ở chỗ biết rằng t́nh yêu cũng chỉ là một phần của cuộc sống và quán chiếu để nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời và tiếp tục sống tốt v́ thừa hiểu rằng khi một cánh cửa hạnh phúc đóng lại th́ sẽ có cánh cửa hạnh phúc mới đang chờ đón chúng ta. Cánh cửa sau này thể sẽ rộng mở, tràn ngập hương hoa dẫn lối vào ngôi nhà hạnh phúc mà ta mơ ước.

Người ta nói thế gian có 4 hạng người: “Hạng thứ 1 là kẻ si t́nh, hạng thứ 2 là kẻ tham vọng, hạng thứ 3 là kẻ do dự, hạng thứ 4 là kẻ ngu ngốc”. Trong 4 hạng người đó th́ kẻ si t́nh là kẻ ngu ngốc nhất. Thật vậy, kẻ ngu ngốc cho dù khờ khạo cỡ nào c̣n biết bảo vệ mạng sống quư báu của ḿnh c̣n người si t́nh đôi khi không màng đến h́nh hài cha mẹ ban tặng mà liều lĩnh t́m đến cái chết để kết thúc tất cả chỉ v́ t́nh yêu, v́ ảo vọng với một người xa lạ.

Người ta nói thế gian có 4 hạng người: “Hạng thứ 1 là kẻ si t́nh, hạng thứ 2 là kẻ tham vọng, hạng thứ 3 là kẻ do dự, hạng thứ 4 là kẻ ngu ngốc”. Trong 4 hạng người đó th́ kẻ si t́nh là kẻ ngu ngốc nhất. Thật vậy, kẻ ngu ngốc cho dù khờ khạo cỡ nào c̣n biết bảo vệ mạng sống quư báu của ḿnh c̣n người si t́nh đôi khi không màng đến h́nh hài cha mẹ ban tặng mà liều lĩnh t́m đến cái chết để kết thúc tất cả chỉ v́ t́nh yêu, v́ ảo vọng với một người xa lạ.

Tuyệt đối không bao giờ được có ư nghĩ trả thù t́nh địch hoặc người yêu

Tất nhiên không phải ủng hộ quan điểm thụ động cam chịu khi phát hiện ra người ḿnh yêu thương thay ḷng. Cho dù kẻ bội bạc là bạn đời của ḿnh hoặc mới là người yêu th́ chúng ta hoàn toàn có quyền được biết rơ nguyên do của sự phản bội đó để từ đó có cách giải quyết dứt điểm, rơ ràng. Thế nhưng xử lư như thế nào để sáng suốt và khéo léo lại không dễ dàng chút nào. Nhiều người trẻ tuổi cho đến những người từng trải trường đời khi rơi vào hoàn cảnh này đều không nh́n nhận căn nguyên sự bội bạc đó là do chính sự thay ḷng của người yêu, người bạn đời của ḿnh mà đổ lỗi hoàn toàn cho người thứ 3 rồi vạch kế hoạch “hoàn hảo” để trả thù với ư nghĩ “điên rồ” là trả được thù xong rồi có ngồi tù cũng cam ḷng. Hoặc có trường hợp nghĩ cách trả thù cả hai.

Tác giả Sharon Rivkin viết rằng: “Bị phản bội giống như cả thế giới đang sụp đổ dưới chân, v́ thế, có thể làm những ǵ bản năng của bạn cho là phải”.


Bài liên quan

Lời Phật dạy về t́nh yêu thương qua 6 điều cần khắc cốt ghi tâm

Thực tế xă hội hiện đại cho thấy nhiều người v́ ghen tuông mà dùng xăng thiêu chết chồng, dùng dao giết người yêu hoặc tạt a xít để hủy hoại nhan sắc của kẻ thứ 3 để người đó vĩnh viễn không thể đến được với ai. Nhưng sau tất cả thảm kịch đó, người lănh chịu hậu quả cuối cùng là bản thân ḿnh chứ chẳng phải ai khác. V́ thế mỗi Phật tử hăy luôn đặt câu hỏi căn vặn ḷng ḿnh rằng nếu dại dột làm vậy th́ ḿnh sẽ được lợi lộc ǵ? Ḿnh sẽ bị pháp luật xử phạt ra sao? Nếu ḿnh có chuyện ǵ th́ ai sẽ nuôi dạy con cái ḿnh? cha mẹ ḿnh sẽ đau khổ như thế nào?… để có được câu trả lời thỏa đáng cho việc khờ dại mà ḿnh có ư định làm. Chắc chắn nếu bản thân chúng ta biết trấn áp suy nghĩ dại dột th́ sẽ không bao giờ có hành động đáng tiếc xảy ra. Đó chính là ư nghĩa vô cùng quư giá từ lời dạy của Đức Phật rằng phàm làm một việc ǵ tất phải nghĩ đến hậu quả của nó.

Tập quên dần đối tượng

Mỗi người con Phật tử được nghe thuyết pháp, được truyền dạy tư tưởng của Đức Phật đều nhận thức được bản chất t́nh yêu cũng như mọi sự vật, sự việc trên đời là vô thường. Nghĩa là quy luật thời gian với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông sẽ không chỉ đem đến sự đổi thay cho mọi vật mà c̣n cho t́nh cảm, t́nh yêu của con người. Điều đó không có nghĩa là chúng ta cứ ngồi không mà tưởng nhớ, luyến tiếc về người đó để mặc vị thần thời gian làm nhiệm vụ chữa lành vết thương mà phải có phương cách riêng của ḿnh để những kỷ niệm, xúc cảm đối với người đó dần phai nhạt trong tâm trí. Nếu từng yêu ai đó thật ḷng th́ những ḍng tin nhắn, những h́nh ảnh trên trang mạng xă hội sẽ làm ta nhớ nhiều thêm, hoặc các đồ vật liên quan đến người đó sẽ luôn khơi gợi cho ta niềm tiếc thương kỷ niệm buồn. V́ vậy, chúng ta có thể tập quên dần đối tượng bằng cách cắt đứt mọi liên lạc: xóa hết tin nhắn, số điện thoại, fabook, zalo… và tất cả những kỷ vật hăy đem chôn cất vào kư ức. Khi cắt mọi liên lạc là ta đă triệt tiêu mọi điều kiện có thể khơi lại nỗi thương nhớ, luyến tiếc. Một điều rất đáng lưu tâm nữa là chúng ta không nên v́ quá cô đơn mà nhanh chóng t́m đối tượng khác lấp chỗ trống. Như vậy sẽ càng dẫn đến khổ đau cho ḿnh và cho đối phương khi t́nh yêu không có đủ sự hiểu và thương. Hăy tập quên dần đối tượng và khi có đủ duyên người mới sẽ xuất hiện như dân gian thường nói nôm na: “nồi nào vung ấy”.

Dù biết rằng nói lúc nào cũng dễ hơn làm thế nên khi chẳng may bị phản bội, mỗi Phật tử được ánh sáng tri thức Phật giáo soi sáng, dẫn đường phải luôn quán chiếu, thực hành để chuyển hóa nỗi đau thành niềm hoan hỷ, biến cái “không hẳn” thành cái “chắc hẳn” để có được cuộc sống hạnh phúc trong thời khắc hiện tại này.

Dù biết rằng nói lúc nào cũng dễ hơn làm thế nên khi chẳng may bị phản bội, mỗi Phật tử được ánh sáng tri thức Phật giáo soi sáng, dẫn đường phải luôn quán chiếu, thực hành để chuyển hóa nỗi đau thành niềm hoan hỷ, biến cái “không hẳn” thành cái “chắc hẳn” để có được cuộc sống hạnh phúc trong thời khắc hiện tại này.

Nhớ rằng t́nh yêu là vô thường


Bài liên quan

Cách chuyển hóa để cứu ḿnh ra khỏi nỗi đau bị phản bội

Như đă nói ở trên, bản chất của t́nh yêu vốn vô thường. Có thể ngày hôm nay chúng ta yêu say đắm thậm chí điên dại một người nhưng một thời gian sau cái yêu điên cuồng ấy cũng chẳng giống ban đầu măi. Hạnh phúc t́nh yêu của ngày hôm nay không giống y hệt hạnh phúc t́nh yêu của ngày hôm qua cũng như nỗi đau khổ quằn quại của đêm nay sẽ không thể nào “sao y bản chính” vào đêm mai. V́ thế t́nh cảm đối với người đă phụ ḿnh cũng sẽ dần phai mờ theo thời gian, theo quy luật vô thường mà thôi. Chúng ta hăy sống cho ḿnh, chăm sóc bản thân ḿnh bên cạnh sự quan tâm yêu thương từ phía gia đ́nh. Làm được điều đó chắc chắn cánh cửa hạnh phúc sẽ đang chờ đón chúng ta.

florida80 10-14-2019 20:29

Hăy làm công việc mà ḿnh yêu thích

Nhiều người chiều theo ư chồng và hi sinh tất cả cho gia đ́nh bằng cách chấp nhận ở nhà chăm con cái và từ bỏ công việc mà bản thân đă làm rất tốt trước khi lập gia đ́nh. Để đến khi bị chồng phản bội th́ không c̣n biết bấu víu vào niềm vui nào, không c̣n biết nương tựa vào nguồn tài chính nào để trang trải cho cuộc sống và chăm lo cho con. Một kẻ đă bội bạc với vợ thông thường sẽ chẳng có trách nhiệm chu cấp cho con cái. V́ vậy, có công việc mà ḿnh yêu thích sẽ tạo cho chúng ta nguồn tài chính để không phụ thuộc một ai; cho chúng ta niềm vui để mau chóng “tiễn” kẻ bội bạc ấy vào dĩ văng; công việc cũng giúp ta có những người bạn tâm giao để chia sẻ buồn vui và biết đâu đấy cũng chính công việc cho ta cơ hội gặp một nửa thật sự của đời ḿnh.

Dù biết rằng nói lúc nào cũng dễ hơn làm thế nên khi chẳng may bị phản bội, mỗi Phật tử được ánh sáng tri thức Phật giáo soi sáng, dẫn đường phải luôn quán chiếu, thực hành để chuyển hóa nỗi đau thành niềm hoan hỷ, biến cái “không hẳn” thành cái “chắc hẳn” để có được cuộc sống hạnh phúc trong thời khắc hiện tại này.

florida80 10-14-2019 20:30

Câu chuyện nhân quả của Tỳ kheo ni Kim Sắc

Thứ tư, 02/10/2019 | 16:35










“Cả đời con xuất gia tu hành phạm hạnh, tuy chẳng có được thành tựu ǵ to lớn lắm, song nhờ công đức xuất gia này, hi vọng được an trú trong giáo pháp của đức Như Lai, được Phật hoan hỉ, xuất gia tu hành chứng quả A-la-hán, và nguyện cho ác nghiệp mắng chửi người sẽ không thành thục.”


>>Những câu chuyện về nhân quả hay nên đọc


Bài liên quan

Nhân quả như h́nh với bóng

Lúc đức Như Lai ở thành Vương-xá, có người phụ nữ gia đ́nh nghèo sinh hạ một em bé gái có 18 tướng xấu. Cha mẹ của em đều hết sức buồn rầu. Cha em nói:

- Đứa con xấu như vậy, nhân lúc trời tối, hăy đem nhận nước cho chết đi.

Người mẹ đau buồn nói:

- Chàng không nên nói như vậy, giết người là hành động trời đất không thể dung thứ, huống ǵ nó lại là con của chúng ta. Ít ra hăy đợi nó lớn lên, có thể tự sinh sống, rồi hăy đuổi nó ra khỏi nhà cũng không muộn.

ssssss

Người chồng suy nghĩ, đồng ư.

Từ đó về sau, hai vợ chồng họ giấu kín em trong nhà, không để cho bất ḱ ai thấy mặt. Đến lúc em có thể tự nuôi sống lấy ḿnh, vợ chồng họ bèn đuổi em ra khỏi nhà.


Bài liên quan

Tu có chuyển được nhân quả không?

Em đi lang thang khắp đầu đường cuối xóm, xin ăn khắp nơi, nhưng ngày ngày đều cơm không đủ no, áo không đủ ấm. Em vốn dĩ tướng mạo đă xấu xí, bây giờ lại bị bệnh hủi, quả thật thống khổ không thể chịu nổi, luôn lăn lóc rên siết bên lề đường.

Thầy A-nan xem thấy t́nh cảnh thảm thương của em như vậy, bất chợt trong tâm cảm thấy thương xót vô cùng. Không chần chừ, thầy liền bước đến ôn ḥa hỏi thăm:

- Này em bé! Em tên ǵ? Nhà ở đâu? Sao lại ra nông nổi thế này?

Thần trí của em vẫn c̣n tỉnh táo, bèn cầu xin thầy một cách hết sức bi thương:

- Kính bạch Tôn giả! Nhất định là do chiêu cảm nghiệp xấu đời trước nên con mới bị t́nh cảnh như ngày hôm nay. Ngưỡng mong Tôn giả từ bi giúp con tiêu trừ nghiệp xấu này!

florida80 10-14-2019 20:31

Thầy A-nan thương xót an ủi em:

- Em không nên lo lắng, thầy sẽ dạy em tu thiện, dùng nghiệp lành để tiêu trừ nghiệp xấu.

Thế là thầy A-nan t́m một ít dầu vừng, hương hoa, đưa cho em rồi bảo em mang đến tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai để cúng dường...

Khi ấy, đúng lúc trưởng giả Cấp-cô-độc cũng vừa đến nơi đó, thấy chuyện như vậy bèn thưa hỏi thầy A-nan. Thầy liền kể lại ngọn ngành sự việc cho ông ta nghe. Trưởng giả Cấp-cô-độc thấy quần áo của em rách nát, ḷng từ bi sinh khởi, liền tặng em một bộ áo quần mới.

Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai quán xét biết rơ về em bé đáng thương này, bèn đích thân đến nơi tháp. Em bé xấu xí nh́n thấy kim thân đức Như Lai tam môn1 tịch tĩnh, tướng hảo trang nghiêm, viên măn nghiêm sức, liền sinh khởi tín tâm cực lớn, thầm nghĩ: “Công đức ḿnh cúng dường tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai đă rất lớn, nếu hôm nay có thể cúng dường kim thân của Ngài, công đức càng không thể nghĩ bàn”. Em suy nghĩ trong giây lát, liền dùng bộ áo quần trưởng giả vừa cho ḿnh để cúng dường đức Thế Tôn. Cúng dường xong, em chắp tay cầu nguyện một cách vui mừng khôn xiết. Ngay lúc đó em qua đời với tâm đầy hoan hỉ.


Bài liên quan

Câu chuyện nhân quả trong cuộc đời Đức Phật

Sau khi chết, em được đầu thai vào một gia đ́nh lái buôn giàu có. Lúc vừa chào đời em đă được thân thể hết sức đoan trang xinh đẹp, da màu vàng ṛng, do đó cha mẹ đặt tên là “Kim Sắc”.

Năm Kim Sắc vừa tṛn 7 tuổi đă sinh khởi niềm tin thanh tịnh vào Phật pháp. Khi được sự đồng ư của cha mẹ, em xuất gia sống đời tỉnh thức theo giáo pháp giải thoát của đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni. Sau khi xuất gia, em ngày đêm tinh tấn tu tập, không bao lâu đă dứt hết phiền năo, chứng đắc thánh quảA-la-hán, trở thành một vị A-la-hán đầy đủ thần thông.

Sau khi chứng quả, Kim Sắc dùng thần thông quán sát đời trước của ḿnh, biết được nhờ thầy A-nan cứu ḿnh thoát khỏi thân người bần tiện với 18 tướng xấu xí, cho nên hết sức cảm kích, ngày nào cũng cung kính cúng dường thầy.

Chúng tỳ-kheo thấy chuyện như vậy bèn đến thưa thỉnh đức Thế Tôn:

- Kính bạch đức Thế Tôn! A-la-hán Kim Sắc có nhân duyên ǵ mà được sinh vào gia đ́nh giàu sang phú quí, toàn thân có màu vàng ṛng? Lại v́ sao khi tuổi hăy c̣n nhỏ mà đă có niềm tin thanh tịnh vào giáo pháp giải thoát của đức Như Lai, xuất gia chứng quả? Xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con được rơ.

Đức Thế Tôn ôn tồn nói:

- Các con có c̣n nhớ cô gái với 18 tướng xấu ở thành Xá-vệ trước kia không?

- Kính bạch đức Thế Tôn! Chúng con c̣n nhớ! Cô ta thật hết sức xấu xí.

1111111

- Lúc cô gái ấy cúng dường tháp thờ tóc và móng tay của ta, ta đích thân đến thọ nhận. Khi vừa thấy ta, cô gái ấy liền sinh khởi tín tâm và vui mừng cực độ. Ngay trong lúc tràn đầy tín tâm và niềm vui đó, cô qua đời. Do đó, cô chuyển sinh vào gia đ́nh lái buôn giàu sang, vừa ra đời đă có được thân thể màu vàng ṛng.

Các vị tỳ-kheo lại cung kính bạch hỏi đức Như Lai:

- Kính bạch đức Thế Tôn! Thế th́ trước đây cô ta từng gây tạo nghiệp xấu ǵ mà phải chịu quả báo bần tiện, có 18 tướng xấu như vậy?

Đức Như Lai từ tốn đáp:


Bài liên quan

Nhân quả của hai anh em không chịu tu phước huệ song hành

- Đây là do nghiệp lực đời trước của cô ta đă thành thục. Vào thời đức Phật Ca-diếp c̣n tại thế, tuổi thọ con người tới 20.000 tuổi, tại vườn Lộc Dă ở Ấn Độ có người con gái của một thương gia, sinh khởi niềm tin thanh tịnh với đức Phật Ca-diếp, cũng xin cha mẹ cho cô được xuất gia sống đời tỉnh thức. Sau khi xuất gia, cô bộc lộ bản tính cứng đầu, cậy tài háo thắng, thường mắng nhiếc người khác là “người hèn”, “người xấu”... Sau đó, cả đời tu hành thanh tịnh Phạm hạnh, trước khi lâm chung cô phát nguyện:

“Cả đời con xuất gia tu hành phạm hạnh, tuy chẳng có được thành tựu ǵ to lớn lắm, song nhờ công đức xuất gia này, hi vọng được an trú trong giáo pháp của đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, được Phật hoan hỉ, xuất gia tu hành chứng quả A-la-hán, và nguyện cho ác nghiệp mắng chửi người sẽ không thành thục.”

Nhưng, nhân quả không hư dối, nghiệp ác mắng chửi người đó thành thục trước, khiến cô trở thành cô gái bần tiện có 18 tướng xấu. Sau đó, nguyện lành thành thục, được gặp Phật và sinh tâm tín ngưỡng, vui mừng đối với Như Lai, do đó được chuyển sinh thành cô gái có sắc thân màu vàng ṛng, cuối cùng được xuất gia chứng quả A-la-hán. Đây là nhân duyên đời trước của A-la-hán Kim Sắc.”

florida80 10-14-2019 20:32

Lời Phật dạy về chữ Nhẫn

Chủ nhật, 01/09/2019 | 09:58










Người xưa thường hay nói : một câu nhịn chín điều lành, hay “chữ nhẫn là chữ tương vàng, ai mà nhẫn được th́ càng sống lâu”. C̣n trong Phật giáo, chữ Nhẫn luôn được nhắc đến như đức tính cao quư nhất.


>>Kiến thức

Nhẫn là ǵ?

Đầu tiên, chúng ta cần hiểu định nghĩa: Nhẫn là nhẫn nhục, là nhịn, là chịu đựng phần kém về ḿnh, phần thiệt tḥi về ḿnh. Đây là pháp tu của Bồ Tát: bố thí tŕ giới…mà mục đích là tu và độ chúng sinh (lợi ḿnh lợi người).

Nếu không biết nhẫn th́ trong tâm hồn luôn có một ngọn lửa, chờ gió nhẹ thổi tới là bùng cháy. Nhiều người không hiểu nói nhẫn là nhục lắm…đó chỉ là sự đè nén, chịu đựng…nếu vậy chưa phải là nhẫn. Nhẫn nhục là giữ thái độ ḥa hiếu, hóa giải những phiền năo do sự sân giận đem lại, và khi sân giận mang lại hầu như không có kết quả tốt đẹp như câu ngạn ngữ “giận quá mất khôn” mà chúng ta từng nghe.

Trong Phật giáo, chữ Nhẫn luôn được nhắc đến như đức tính cao quư nhất.

Trong Phật giáo, chữ Nhẫn luôn được nhắc đến như đức tính cao quư nhất.

Những trường hợp nào chúng ta cần phải nhẫn nhục ?

Nhẫn nhịn khi bị người khác xúc phạm: Người nhỏ hơn, hay bằng ḿnh xúc phạm : vô lễ, hỗn, có thái độ chống đối…

Khi ở nhà chúng ta bị con cháu vô lễ nếu không biết nhẫn th́ ḿnh phải sao ? chửi cha nó chứ không thèm chửi nó, hoặc giận nữa th́ chữi ông nội nó... Đối với phật tử chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta không biết nhẫn th́ việc tu tập chưa đạt ư nguyện, có khi ḿnh là người quy y lâu, đến chùa tu học, công quả cũng lâu, nay gặp mấy đứa nhỏ hơn mới vô, ḿnh góp ư nó, nó nói bà lấy quyền ǵ mà nói tui, chùa này chỉ có trụ tŕ thôi…

Bị lớn hơn, có uy quyền hơn xúc phạm: chèn ép, tước đoạt hết quyền lợi, tại v́ thấy ḿnh nhỏ, nghĩ rằng không biết…nên dùng cái quyền người lớn để dọa nạt. Nên chúng ta là người lớn hơn phải dùng điều đúng để đối xử…

Người có uy quyền: Chúng ta đang sống trong một xă hội độc lập, tự do, hạnh phúc…mục tiêu của Đảng, Nhà nước đưa đất nước tiến tới một xă hội dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh… Tuy nhiên trong lộ tŕnh hướng tới đó, có khi chúng ta cũng gặp một vài trường hợp bị xúc phạm, nếu có xảy ra th́ chúng ta phải làm sao? Phải nhẫn, v́ đó chỉ là một vài trường hợp cá nhân thôi, chứ chúng ta không thể đổ lỗi hết cho cả xă hội .

12347599_10612425538 96280_43655979127922 94670_n

Nên chúng ta phải nhẫn để quán chiếu, để hóa giải, để t́m hướng giải quyết, chứ không thể có hành động tiêu cực dẫn đến hậu quả không tốt.

C̣n cả hàng trăm hàng ngàn trường hợp làm cho ta không được như ư: có những trường hợp từ trên trời rớt xuống, là thế nào, thiên tai băo lũ, thời tiết nóng lạnh, mưa gió bất thường, sụp đất, đá lỡ… chúng ta phải dùng chữ Nhẫn mà tu, nếu không tu nhẫn, gặp việc tức giận quá, không biết làm sao, ra đứng ngoài sân nh́n lên cao la làng lên, “ trời ơi ngó xuống mà coi, sao ông ăn ở ác quá…” thực chất có trời nào nghe ḿnh la không ? trời là ḷng ḿnh. Ở đời ai cũng muốn thuận lợi về ḿnh, nếu khi không được th́ phải cầu cạnh, mà người có khả năng giải quyết cho ḿnh, th́ c̣n biết bao nhiêu việc người khác nữa, nên nếu không được như ư của ḿnh th́ phải nhẫn.

C̣n có những trường hợp do ḿnh tạo ra, hay trong gia đ́nh nhỏ bé của ḿnh, chồng nói một tiếng, vợ không nhẫn căi lại...tức giận đánh nhau, người nào cũng không chịu phần lỗi, cho ḿnh là đúng. Trong trường này một trong hai người dùng chữ nhẫn có thể nhận trách nhiệm về ḿnh “ anh ơi…em biết lỗi rồi mà!” th́ mọi việc sẽ theo diễn tiến khác, có khi tốt đẹp hơn rất nhiều.

Nhưng không chịu nhẫn được thể hiện qua những lời nói xuất phát tự con tim, hay đáy ḷng, th́ dồn nén đó, tội nghiệp cho ai… cho con, cho đồ vật, cho vật nuôi…

nhan-voi-nguoi

Đối nghĩa với nhẫn nhục là nóng giận:

Chúng ta thấy thường ngày trong cuộc sống, một người nào đó, không thấy họ nhẫn nhịn, th́ điều ǵ ở họ cho chúng ta dễ nhận ra họ? “ sân” sân giận là một trong ba món độc của thế gian. "Một niệm sinh tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”. Hoặc chúng ta sống chung, hay hợp tác làm ăn với những người này th́ không thuận lợi cho mấy. Trong gia đ́nh vợ chồng sống với nhau một nhà, chồng nóng nảy quá, th́ làm khổ vợ con, hoặc có khi trong nhà chẳng may có đứa con nóng nảy th́ cũng vậy… nếu chống đối th́ mất hạnh phúc.

Có một dạng tương đương với sân, “phẫn” bên ngoài không thấy biểu hiện ǵ, nhưng trong ḷng họ đang dồn nén để t́m các trả thù, đạo Phật không chấp nhận cách nhẫn nhục này, mà nó là nóng giận đang biến tướng, dạng tâm lư này rất tai hại…

Nhẫn nhục cho chúng ta điều ǵ?

Thực hiện được sự nhẫn cũng là giữ sức khỏe cho ḿnh: tim, huyết áp..

Thực hiện được sự nhẫn cũng là giữ sức khỏe cho ḿnh: tim, huyết áp..

Nếu chúng ta thực hiện được sự nhẫn, th́ bản thân rất được nhiều người thương mến, dễ gần, gia đ́nh hạnh phúc, xă hội được tốt đẹp hơn. Xă hội Việt Nam chúng ta thường hay nói về mối quan hệ t́nh cảm giữa mẹ chồng và nàng dâu. Và sự việc đều không tốt đẹp bao giờ cũng đổ lỗi cho những bà mẹ chồng, mà nguyên nhân sâu xa nh́n chung là nghiêng về nàng dâu. V́ bởi cô dâu là người ngoài, họ có mặt tại nhà chồng để làm ǵ, và họ được ǵ ? Nên họ phải là người phải hội đủ tiêu chuẩn mà các bà mẹ chồng đưa ra. Nếu hiểu điều đó cô dâu cố gắng sống tốt, bên cạnh đó áp dụng chữ Nhẫn th́ mọi điều sẽ tốt đẹp:

“Học pháp nhẫn chẳng sanh oan trái

Giữ tâm không khỏi phải lụy phiền

Sống cơi đời thông thả b́nh yên

Hướng nẽo đạo diệu huyền trực chỉ”

Hơn nữa thực hiện được sự nhẫn cũng là giữ sức khỏe cho ḿnh: tim, huyết áp..

Để trả hết nghiệp: theo đạo Phật sở dĩ chúng ta có mặt trong thế giới này, là do chúng ta tạo nghiệp hoặc thiện hoặc chẳng thiện, nên chúng ta sống ở đây là để trả nghiệp, cho mau hết, cho dứt để có được an vui. Vừa trả nghiệp mà vừa làm sạch nghiệp, cũng giống như vừa tu mà chỉ người khác tu, để làm thay đổi Nghiệp. Vừa nhẫn mà vừa t́m phương tiện khéo léo để họ cũng nhẫn như ḿnh, cũng từ bi nhân từ như ḿnh, khi đă hiểu ra th́ sạch nghiệp với nhau, và sống an vui hạnh phúc đời này và đời sau.

Không cố chấp: coi như tŕnh độ nghiệp lực ngay cỡ đó th́ họ ăn nói, hành động cỡ đó, và ḿnh là người gặp phải nghiệp, chuyển sang từ thiện, tụng kinh, làm một việc ǵ đó, nhớ là đừng đi nhậu, hay tự vẫn...

Không cố chấp: coi như tŕnh độ nghiệp lực ngay cỡ đó th́ họ ăn nói, hành động cỡ đó, và ḿnh là người gặp phải nghiệp, chuyển sang từ thiện, tụng kinh, làm một việc ǵ đó, nhớ là đừng đi nhậu, hay tự vẫn...

florida80 10-14-2019 20:32

Phương pháp tu Nhẫn :

Chúng ta đưa ra nhiều về tác hại, và lợi ích, bây giờ là mấu chốt quan trọng trong buổi nói chuyện hôm nay, đó là phương pháp tu. Có thể nói có vô số cách mà đức Phật dạy để chúng ta hóa giải nó. Nhưng chúng ta có thể đưa ra một vài phương pháp sau:

Niệm Phật: luôn thường xuyên niệm Phật thường ngày, chúng ta tập niệm Phật, Bồ Tát, v́ lúc đó nhất tạm niệm Phật, sẽ mang đến sự tập trung vào chánh pháp, không thèm để ư đến những sự việc bên ngoài

Quán tưởng: trong đời sống cái ǵ cũng có mặt tốt và xấu của nó. Khi gặp cảnh chúng ta chia làm hai phần, phần xấu th́ ḿnh quán, đây là nghiệp của họ, không ngu ǵ mà phải hơn thua phần này. Bên cạnh đó c̣n có cái tốt th́ giữ cái tốt để giao lưu với họ. quán xem trong sự việc này có lỗi của ḿnh…không đời này cũng đời quá khứ. Và không th́ nghĩ đến cái đám tang (vô thường) vừa đi tiễn đưa hôm qua, hay vào nghĩa trang mà nh́n.

Không cố chấp: coi như tŕnh độ nghiệp lực ngay cỡ đó th́ họ ăn nói, hành động cỡ đó, và ḿnh là người gặp phải nghiệp, chuyển sang từ thiện, tụng kinh, làm một việc ǵ đó, nhớ là đừng đi nhậu, hay tự vẫn...

Nuôi dưỡng từ bi và quyết tâm hành tŕ: Khi một đứa trẻ khóc ré tức giận, th́ đâu thể mắng mỏ nó, mà thương nó, và t́m hiểu xem nó đang cần ǵ, để có thể đáp ứng cho nó. Và nếu không đáp ứng được th́ thương cho nó, nó khóc riết rồi sẽ không tốt cho sức khỏe hay bản tánh của nó. Cũng vậy khi ai đó hành động không tốt với ai đó, hay với chính ḿnh, th́ khởi ḷng thương họ v́ họ đang tạo nhân ác, và quả của họ sẽ khổ đau, và chết bị rơi vào địa ngục.

florida80 10-14-2019 20:36

Lời Phật dạy về “Ḷng tin”

Chủ nhật, 25/08/2019 | 07:46










Lời Đức Phật dạy về “ḷng tin” sẽ giúp chúng ta có những nhận định sáng suốt trước mỗi vấn đề trong cuộc sống để tránh những đau khổ, mất mát và thất vọng khi đặt sai niềm tin ở ai đó hay điều ǵ đó.


>> Lời phật dạy

Trong cuộc sống, ai cũng từng trải qua cảm giác thất vọng, đau khổ v́ lầm tin một ai đó hay điều ǵ đó. Mất mát tiền bạc v́ tin vào mối quan hệ bạn bè lâu năm, mất người yêu v́ nghe những lời đồn đại phiến diện, mất sự nghiệp v́ những lời gạ gẫm, vẽ vời…Đặc biệt là mất đi nhân cách khi tin vào những điều hoang tưởng mà ai đó đặt ra khi biết được những tham vọng của bạn.

duc-phat-3-0905-0848

Thời Đức Phật c̣n tại thế, anh chàng Vô Năo là tấm gương để ta học hỏi. V́ muốn đắc đạo mà Vô Năo đă nghe lời xúi dục của một người thầy tà đạo bảo rằng: Phải chặt một ngàn ngón tay, sau đó kết thành sợi chuỗi đeo vào cổ sẽ chứng được quả vị tối thượng. V́ ham muốn mà không suy xét nên anh chàng Vô Năo đă sát hại biết bao nhiêu người để chặt ngón tay của họ. Khi c̣n thiếu đúng một ngón tay, Đức Phật đă thị hiện để giáo hóa và ngăn chặn kịp thời tội ác của anh ta.


Bài liên quan

Lời Phật dạy sâu sắc về “Bạn”

Trong cuộc sống đời thường cũng vậy. Hiện nay có rất nhiều lời đồn đại về pháp tu này pháp tu kia siêu h́nh sẽ giúp người ta có thần thông, phép thuật, đắc đạo nhanh chóng. Đến những cách bói toán, lên đồng, gọi vong linh của người thân khiến nhiều người không khỏi hoang mang, lầm tin rồi mất cả tiền tài, sa sút tinh thần và tự mang bệnh tật vào thân, ảnh hưởng không nhỏ đến bản thân và người thân.Trước đây đă từng xuất hiện “ Quan Âm Bồ Tát” tái thếở Đồng Tháp chuyên chữa bệnh, ban phép. Người dân ùa theo hưởng ứng. Nhưng sau khi chính quyền địa phương bắt tay vào th́ phát hiện “ Quan Âm Bồ Tát” chỉ là một thiếu nữ 17 tuổi. Hay gần đây nhất là “Hội thánh đức chúa trời” kêu gọi người đi theo đập phá bàn thờ tổ tiên…

Vào ngày 22/12/2014 với tin đồn thế giới ch́m trong bóng tối. Một số người c̣n trích dẫn video clip về việc Pháp sư Tịnh Không - Trung Quốc cũng tuyên bố như vậy. Nhưng khi phỏng vấn trực tiếp vụ việc th́ sự thật là người làm clip đă cắt đi phần quan trọng trước đó nên lời nó của Pháp sư không trọn vẹn.

3-loai-hanh-phuc-2-0856


Bài liên quan

Nên đặt ḷng tin như thế nào?

C̣n rất, rất nhiều những trắng đen trong cuộc sống khiến chúng ta đảo lộn bởi lời đồn đại không đúng. Do đó, trong kinh Tăng Chi Bộ Đức Phật đă dạy rằng:“Này quư vị Kalama, đừng tin v́ nghe truyền khẩu, đừng tin v́ đó là truyền thống, đừng tin v́ nghe đồn đại, đừng tin v́ được ghi trong kinh điển, đừng tin v́ lư luận, đừng tin v́ suy diễn, đừng tin v́ đă tư duy trên mọi lư lẽ, đừng tin v́ dựa theo ư kiến đă được cân nhắc, đừng tin v́ vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin v́ nghĩ rằng vị ấy là thầy của ḿnh”.

Đoạn kinh này được Đức Phật dạy cho người dan Kalama, vốn được biết đến là tộc người có đạo đức và sống lương thiện dù họ không phải là tín đồ Phật giáo. Một lần, có một đoàn đạo sĩ của các tôn giáo khác đến pổ biến những giáo điều và lôi kéo học cải đạo. Người dân nơi đây rất hoang mang nên đă t́m đến Đức Phật để tham vấn. Người đă dạy họ những điều trên. Thôngqua bài Pháp này, Đức Phật đă chỉ dạy cho chúng ta biết được Mười điều về ḷng tin:

Lời dạy thứ nhất: Đừng tin v́ nghe theo lời truyền khẩu

Nghe thôi chưa đủ mà phải thấy rơ sự việc mới có thể tin.

Nghe thôi chưa đủ mà phải thấy rơ sự việc mới có thể tin.

Lời truyền khẩu không bao giờ phản ánh đúng sự thật nguyên bản của nó. Bởi mỗi người sau khi nghe một điều ǵ đó, họ sẽ kể lại sự việc có thêm vào sự nhận định, cảm xúc của ḿnh. Chưa kể một số chi tiết có thể họ quên hoặc dùng những từ ngữ diễn tả không rơ ràng, đúng nghĩa ban đầu. Lời truyền miệng đó từ người này qua người khác, từ vùng này qua vùng khác, từ năm này qua năm khác sẽ làm mất đi giá trị nguyên gốc của nó. V́ thế ông bà ta có câu “ Muốn tin điều ǵ phải tai nghe mắt thấy”. Nghe thôi chưa đủ mà phải thấy rơ sự việc mới có thể tin.

Lời dạy thứ 2: Đừng tin v́ đó là truyền thống


Bài liên quan

Lời Phật dạy sâu sắc về việc hóa giải hận thù

Truyền thống là những việc làm, hành động được truyền từ đời này sang đời khác của một quốc gia hay một đại phương được xă hội công nhận. Thế nhưng Đức Phật dạy rằng đừng tin theo truyền thống. Bởi không phải truyền thống nào cũng tốt đẹp, cũng có giá trị nhân văn và đúng chánh Pháp.

Nh́n lại lịch sử, ta thấy nhiều bộ tộc có truyền thống tế thần bằng cách dâng lên thần linh sinh mạng của loài vật, máu của chúng hay kể cả cuả con người. Điều này đúng hay sai? Đôi khi có những việc làm đă trở thành thói quen nên người ta mất dần đi sự nhận định, cho đó là lẽ thường t́nh nhưng vô t́nh đang lấn sâu trong tội nghiệp mà không hay biết.

Lễ hội Chém Lợn ở miền Bắc trong những ngày Tết v́ thiếu tính nhân văn đang có sự tranh căi lớn. Điều này gây ra phản cảm rất lớn trong mắt du khách nhưng dân địa phương lại nhất quyết giữ truyền thống ấy v́ cho rằng điều này giúp họ “may mắn” vào năm mới. V́ thế, hăy nhận định bằng trí thức, bằng lương tâm của ḿnh trước mọi vụ việc, đừng tin theo truyền thống để nối tiếp những điều xấu ác.

Lời dạy thứ ba: Đừng tin v́ nghe đồn đại

Lời đồn đại c̣n gọi là lời thêu dệt, được tạo ra từ những điều vô căn cứ rồi lan rộng mọi nơi. Lời đồn thường mang kịch tính, giật tít, hấp dẫn, bất ngờđể lôi cuốn người nghe, nhưng không có nguồn gốc rơ ràng.

Lời dạy thứ tư: Đừng tin v́ lư luận

Lư luận ở đây nghĩa là lư luận về điều ǵ đó siêu h́nh, không có căn cứ thực tế không ai thấy, không ai đă trải nghiệm th́ cho dùng có lư luận hay bằng lời lẽ hoa mỹ cũng không nên tin. Bởi điều đó chỉ đánh thức sự ṭ ṃ, ảo tưởng của bạn bởi nó chưa bao giờ xảy ra trong quá khứ và hiện tại.

Những ư kiến đă được cân nhắc kỹ chưa hẳn có tính dúng đắn và hợp t́nh hợp lư.Nó có thể mang đến lợi ích cho bản thân, tổ chức cá nhân nhưng vô t́nh gây hại cho người khác.

Những ư kiến đă được cân nhắc kỹ chưa hẳn có tính dúng đắn và hợp t́nh hợp lư.Nó có thể mang đến lợi ích cho bản thân, tổ chức cá nhân nhưng vô t́nh gây hại cho người khác.

Lời dạy thứ năm: Đừng tin v́ suy diễn

Suy diễn là một sự việc nhưng qua quá tŕnh tưởng thưởng, nhận định, đánh giá của một người h́nh thành nên một vụ việc lư kỳ, thú vị.

Lời dạy thứ sáu: Đừng tin v́ đă tư duy trên mọi lư lẽ


Bài liên quan

Lời Phật dạy sâu sắc về sự khiêm tốn

Tư duy trên mọi lư lẽ nghĩa là lập trường. Một người có lập trường là tốt nhưng mặt trái của nó là nếu khăng khăng bám víu vào lập trường, nhận định của ḿnh hoặc ai đó quá mức th́ rất dễ mắc phải sai lầm. Lập trường thường dựa trên những lư lẽ đă xác thực, có căn cứ khoa học. Nhưng vạn pháp đều là vô thường.

Có thể điều này đúng ở thời điểm này nhưng lại sai ở thời điểm khác. V́ thế, chúng ta cần phải có sự nhận định, suy xét thường xuyên để linh hoạt trong cách sống, cách suy nghĩ.

Lời dạy thứ bảy: Đừng tin v́ dựa theo ư kiến đă được cân nhắc

Những ư kiến đă được cân nhắc kỹ chưa hẳn có tính dúng đắn và hợp t́nh hợp lư. Nó có thể mang đến lợi ích cho bản thân, tổ chức cá nhân nhưng vô t́nh gây hại cho người khác. Hoặc những điều cân nhắc ấy lên lỏi những mưu tính ngầm mà đôi khi nghe qua, chúng ta tưởng đâu là chính xác. Cho dù đă cân nhắc nhưng đó chỉ là ư kiến cá nhân

florida80 10-14-2019 20:36

Kinh điển là lời kim khẩu của Đức Phật. Nhưng chúng ta đều biết, thời Đức Phật không có giấy viết hoặc bất kỳ vật ǵ để lưu lại lời Phật dạy. Các đệ tử của Ngài chỉ nghe, ghi nhớ và ôn lại mỗi ngày để nắm vững bài học và thực hành. Sau khi Phật nhập diệt, măi đến một trăm năm sau kinh điển mới được kết tập bởi 1200 vị đệ tử của Phật. Do đó, trong mỗi bài kinh đều có câu mở đầu rằng : Tôi nghe như vầy” chứ không phải là “ Đức Phật dạy…”.

Bởi qua thời gian, mọi thứ điều thay đổi theo quy luật tự nhiên của nó. Dù là Thánh đệ tử nhưng sự sai xót dù nhiều hay ít cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giáo Pháp. Hơn nữa quahơn 2500 năm, trải qua nhiều quốc gia, qua nhiều cách truyền đạo, qua nhiều pháp sư dịch thuật không ai dám chắc rằng những lời kinh điển được nguyên vẹn tuyệt đối lời Phật dạy thuở xưa.

Đó là lư do v́ sao có một số bài kinh ngoại đạo, không phải Phật thuyết nhưng vẫn tồn tại hiện nay, đưa ra những lập luận theo quan điểm cá nhân của họ. Điều này vô t́nh gây ra những tổn hại cho đạo Phật và đến bước đường tu hành của người Phật tử.

Lời dạy thứ chín: Đừng tin v́ vị ấy có vẻ có uy quyền

Chúng ta thường bị chi phối bởi những người có uy quyền. Người có uy quyền chưa hẳn họ có đạo đức và có cách nh́n đúng chánh Pháp. Điển h́nh là Hitle, một vị tướng nổi tiếng của phát – xít Đức. Ông là người rất tài giỏi, có uy quyền khi đă chiếm lĩnh nhiều thuộc địa của Châu Á Và Châu Âu, nhưng ông lại gây đau khổ cho nhân loại.

Nếu không có nhận định, chúng ta rất dễ bị người khác lợi dụng ḷng tin.

Nếu không có nhận định, chúng ta rất dễ bị người khác lợi dụng ḷng tin.

Đừng vịn vào uy quyền của ai đó mà tin theo những ǵ họ nói. Uy quyền được tạo nên từ nhiều yếu tố: tài năng, tiền bạc, thân thế,…nhưng không hoàn toàn dựa trên chánh Pháp.


Bài liên quan

Lời Phật dạy nguyên tắc sống chung an lạc

Lời dạy thứ mười: Đừng tin v́ nghĩ rằng vị ấy là thầy của ḿnhĐây là lời dạy rất quan trọng. Đa phần chúng ta thường rất tin vị thầy của ḿnh. Đó là lẽ thường t́nh nhưng Đức Phật khuyên rằng không nên tin. Chính Đức Phật c̣n khuyên chúng ta không nên tin vào Ngài nếu chưa thật sự hiểu về Ngài để tránh tội phỉ báng. C̣n với các vị thầy, họ cũng là những vị phàm tăng trên bước đường tu học để chuyển hóa thân tâm nên không thể nào tránh những sai lầm. Chúng ta không tin không có nghĩa là chê bai họ.

Nếu không có nhận định, chúng ta rất dễ bị người khác lợi dụng ḷng tin. Nhất là những vị thầy tu không đúng Chánh pháp, biến đạo Phật trở nên mê tín, bày biện vẽ vời những cách thức cúng kiến cầu xin thay v́ khuyến khích Phật tử tu học, làm việc thiện lành.

Vậy phải tin như thế nào?

loi-phat-day-1239

Phật giáo không kêu gọi, lôi kéo hay dụ dẫn tín đồ t́m đến, không áp đặt chúng ta phải tin theo, đưa ra những lời hăm dọa nếu mất đi ḷng tin gây hoang mang cho tín đồ.

Qua mười điều Đức Phật dạy về ḷng tin trên đây chắc chắn không ít người đặt nghi vấn: Vậy phải tin ai, tin điều ǵ và tin như thế nào?


Bài liên quan

Giáo dục đạo đức con cái theo lời Phật dạy

Đức Phật dạy: “Khi nào quư vị tự ḿnh biết rơ: Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị người trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau, quư vị hăy từ bỏ chúng. … Khi nào quư vị tự ḿnh biết rơ: Các pháp này là thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp này được người trí ca ngợi; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc, quư vị hăy đạt đến và an trú”.

Nghĩa là chúng ta hăy tin vào những pháp thiện, mà các pháp này được kiểm chứng bởi nhận định của người đời và chính ngay bản thân ḿnh. Nếu pháp thiện mang đến lợi lạc và an vu cho bản thân và người khác th́ hăy tin theo, c̣n ngược lại đừng tin nếu len lỏi sự ngờ vực.

Phật giáo tuyệt vời là như thế, Phật giáo không kêu gọi, lôi kéo hay dụ dẫn tín đồ t́m đến, không áp đặt chúng ta phải tin theo, đưa ra những lời hăm dọa nếu mất đi ḷng tin gây hoang mang cho tín đồ. Mà Đức Phật dạy rằng hăy: Hăy kiểm chứng rồi hăy tin, kiểm chứng bằng thực tại những ǵ trong đời sống để tránh tạo nên niềm tin mù quáng mà rơi vào mê tín.

Lời Đức Phật dạy về ḷng tin là kim chỉ nam cho chúng ta tu học, để tự ḿnh bảo vệ và đặt niềm tin đúng chỗ, đúng pháp. Ghi nhớ và thực hành lời dạy của Đức Phật, tự chúng ta sẽ cảm nhận được sự an lạc nơi tâm hồn, chính ngay trong đời sống thực tại.

florida80 10-14-2019 20:37

Nhân vật Phật giáo



Đức Phật có thể dùng phép lạ để cứu người chết sống lại không?

Thứ hai, 14/10/2019 | 15:07










Đức Phật có thể chữa lành người bệnh, nhưng Ngài không quan tâm đến việc làm cho người chết sống trở lại. Ngài quan tâm nhiều hơn đến tự do tuyệt đối không c̣n sự chi phối của chết và sử dụng thần thông chỉ để giáo hóa mà thôi. Mong tất cả chúng ta sống an lành và không c̣n phải chết nữa!


>>Phật tử có thể đọc thêm các bài về Đức Phật

Câu chuyện sau đây từ bài kinh ‘Tam Bảo’ mô tả rất kỹ rằng đức Phật thật sự có khả năng dùng thần thông để trị bệnh.

Dạo nọ, dân chúng trong thị trấn Vesali trù phú cùng một lúc gặp phải ba thiên tai - nạn chết đói, nạn bị ma quái quấy rầy và nạn dịch hạch. Thảm họa này đưa đến nhiều người chết. T́nh thế càng nguy khốn hơn khi ma quỷ, nương vào những xác chết này hoành hành người c̣n sống. Khắp phố phường tang tóc đau thương.


Bài liên quan

Những phép lạ và thần thông của Đức Phật trong kinh điển Phật giáo

Trước những tai ách vô cùng nguy hiểm này, hai vị quư tộc ḍng họ Licchavi và đoàn tùy tùng hùng hậu đến cung thỉnh đức Phật, lúc ấy đang lưu trú tại thành Rajagaha (Vương Xá) gần đó. Đức Phật khi nghe thuật lại sự t́nh tđau thương vô cùng tuyệt vọng đó, liền chấp nhận lời thỉnh cầu và cùng đông đảo chúng Tăng đệ tử, rời Rajagaha sang sông Ganges (Hằng). Tương truyền rằng tôn giả Ananda cũng có tháp tùng đức Phật trong chuyến đi này.

Sau khi qua sông Hằng, đức Phật và chư tăng đến thẳng nơi đang gặp nạn. Ngài và chư đệ tử làm một việc rất lạ. Với tâm từ, đức Phật tụng bài kinh Ratana Sutta (Kinh Tam Bảo) cho dân chúng thành phố Vesali nghe. Đức Phật giảng bài kinh này cho ngài Ananda và các trưởng lăo khác, rồi hướng dẫn Ananda cùng với chư Tăng vừa đi khắp các đường phố vừa đọc tụng Kinh này cho dân chúng nghe. Ngài Ananda ôm theo b́nh bát của chính đức Phật, bên trong có chứa nước , vừa đọc kinh vừa vẩy nước khi đi ṿng quanh thành phố. Lời kinh vang lên, ma quỷ t́m đường lánh chạy ra khỏi thành phố Vesali. Tai ương ở thành phố này nhờ đó mà không c̣n nữa.

Theo quan điểm của Ngài, đó chỉ là năng lực về chân lư một cách tự nhiên. Năng lực chân lư hộ tŕ người thực hành đúng chân lư. Với Ngài, nếu có phép lạ chăng th́ đó là phép lạ của nghệ thuật giáo dục. Ảnh minh họa

Theo quan điểm của Ngài, đó chỉ là năng lực về chân lư một cách tự nhiên. Năng lực chân lư hộ tŕ người thực hành đúng chân lư. Với Ngài, nếu có phép lạ chăng th́ đó là phép lạ của nghệ thuật giáo dục. Ảnh minh họa

Như vậy, đức Phật có khả năng chữa lành bệnh với năng lực trí tuệ và từ bi của Ngài. Ngài làm việc này không phải ở phương diện cá nhân (coi lại phần “Niềm an lạc tinh thần”) mà ở phương diện sức khỏe cộng đồng, hướng đến sự b́nh an của toàn bộ dân chúng thành phố Vesali. Thế nhưng đức Phật không gọi đó là phép lạ. Theo quan điểm của Ngài, đó chỉ là năng lực về chân lư một cách tự nhiên. Năng lực chân lư hộ tŕ người thực hành đúng chân lư. Với Ngài, nếu có phép lạ chăng th́ đó là phép lạ của nghệ thuật giáo dục. Làm thay đổi người xấu xa độc ác thành người tử tế, người keo kiệt bủn xỉn thành người rộng lượng, người ngu đần thành người có trí tuệ, người tội lỗi trở nên người thánh thiện, người xảo trá thành người chân thật, người lười biếng thành người siêng năng. Tất cả những điều này trở thành ‘phép lạ’ trong cái nh́n của đức Phật.

C̣n làm cho người chết sống lại th́ sao? Đức Phật có làm điều này không?

Theo kinh điển, đức Phật có thể kéo dài tuổi thọ đến bao nhiêu tùy theo sự chọn lựa của Ngài. Nhiều tài liệu c̣n nói rằng, những ai thực hành lời Phật dạy th́ cũng có khả năng kéo dài mạng sống. Thế nhưng, đức Phật không để tâm nhiều đến vấn đề sống lâu và làm cho người chết sống trở lại. Đức Phật có cái nh́n xa trông rộng hơn vậy nữa. Với Ngài chết chỉ là sự kết thúc tạm thời của một kiếp sống tạm mà thôi.

Sống một ngày mà thấy được chân lư tối thượng c̣n tốt hơn sống cả ngàn năm mà không thấy chân lư (Pháp cú, câu số 113).

Người chết rồi sẽ tái sinh trở lại. Sống-chết không quan trọng. Điều quan trọng hơn là trong lúc hấp hối, người đó cần được giúp đỡ để tái sanh về cảnh giới an lành và hướng đến ánh sáng giác ngộ. Chỉ khi nào giác ngộ hoàn toàn mới không c̣n chết, không c̣n tái sanh nữa mà thôi. Trên quan điểm này, chúng ta không bao giờ nghe đức Phật sử dụng thần thông để làm cho người chết sống lại. Ngay cả nếu làm việc đó, Ngài vẫn không xem đó là thần thông.

Đức Phật có thể chữa lành người bệnh, nhưng Ngài không quan tâm đến việc làm cho người chết sống trở lại. Ngài quan tâm nhiều hơn đến tự do tuyệt đối không c̣n sự chi phối của chết và sử dụng thần thông chỉ để giáo hóa mà thôi. Ảnh minh họa

Đức Phật có thể chữa lành người bệnh, nhưng Ngài không quan tâm đến việc làm cho người chết sống trở lại. Ngài quan tâm nhiều hơn đến tự do tuyệt đối không c̣n sự chi phối của chết và sử dụng thần thông chỉ để giáo hóa mà thôi. Ảnh minh họa

Câu chuyện sau đây là một ví dụ về cách đức Phật đưa người chết về cơi sống hoặc tôi có thể nói rằng Ngài đă đưa người từ địa ngục lên thiên đường.


Bài liên quan

Đức Phật thuyết pháp về câu chuyện 'Con rắn độc'

Vào thời Đức Phật, có một vị tăng tên là Tissa nhận được một bộ y phục rất đẹp và vị này lấy làm thích chí. Vị tăng ấy vắt bộ đồ lên dây treo áo quần, định bụng “ngày mai, ḿnh sẽ mặc bộ y phục này.” Thế nhưng tối đó, vị tăng ấy bị trúng gió chết đột ngột. Vị tăng này liền tái sanh làm con bọ chét chui vào trong chiếc y mới. Sau lễ hỏa thiêu, chư tăng cùng nhau chia tài sản của vị tăng ấy. Con bọ chét phẫn nộ chạy lung tung bên trong dọc theo đường biên của chiếc y mới, la hét “chư tăng đang mặc y phục của tôi mất rồi.” Bằng thiên nhăn, đức Phật nghe tiếng kêu của con bọ chét. Thế là Ngài bảo Ananda xuống nói chư tăng ngừng lại việc chia chiếc y đó trong ṿng 7 ngày. Đến ngày thứ tám, chiếc y đó mới được đem ra cắt chia. Chư tăng lấy làm ngạc nhiên với việc tŕ hoăn này. Đức Phật nhân đó mới nói, “v́ quyến luyến chiếc y mới này, Tissa đă tái sanh làm con bọ chét. Nếu chư tăng chia y sớm quá, sanh linh ấy sẽ càng căm phẫn hơn và lại tái sinh một kiếp khác ở địa ngục. Tuy nhiên, đến ngày thứ bảy, con bọ chét ấy đă thác sanh lên cơi trời Đâu Suất rồi. Do đó, ngày thứ tám, Thế Tôn mới cho phép chúng tăng chia chiếc y ấy.” Đó là cách đức Phật khéo dùng phương tiện và tâm từ bi để giúp người đă chết/đang chết tiến hóa hơn trong ṿng luân hồi sanh tử. Ở một trường hợp khác, đức Phật thậm chí c̣n có thể hướng dẫn một người sắp chết tiến dần đến giác ngộ.

Theo kinh Tương Ưng bộ kinh, phẩm Dự lưu, Đức Phật có khi đến thăm Dighayu, một người cư sĩ đang bệnh nặng hấp hối. Bậc Đạo sư đă hướng dẫn tinh thần cho người cư sĩ ấy và không bao lâu sau, Dighayu giă từ cơi sống một cách thanh thản. Sau đó, Đức Phật tuyên bố Dighyu chứng quả Bất hoàn (A-na-hàm, bậc thánh thứ ba). Sau khi chết, người ấy sanh về cơi trời Tịnh Cư, một cơi trời dành cho người chứng A-na-hàm. Ở đó, vị ấy tiếp tục tu tập đạt đến chứng ngộ A-la-hán và sống trọn đời tại đó.

Tóm lại, Đức Phật có thể chữa lành người bệnh, nhưng Ngài không quan tâm đến việc làm cho người chết sống trở lại. Ngài quan tâm nhiều hơn đến tự do tuyệt đối không c̣n sự chi phối của chết và sử dụng thần thông chỉ để giáo hóa mà thôi. Mong tất cả chúng ta sống an lành và không c̣n phải chết nữa!

florida80 10-15-2019 19:52

Bí ẩn của sự Giác Ngộ






Đây là một phần bản dich quyển The Mystique of Enlightenment của UG Krishnamurti, được thu thập và ghi lại bởi Rodney Arms (www.ugkrishnamurti), trong quyển sách này có những đoạn UG Krishnamurti tường thuật lại kinh nghiệm diễn biến tâm linh chứng ngộ kéo dài một thời gian 7 ngày của ông, mà ông goi đó là một vụ "bùng nổ" bên trong . Nhận thấy, kinh nghiệm chứng ngộ 7 ngày mà ông đă trải qua và kể lại là những thông tin bổ ích để tham khảo, xin chia sẻ với các bạn.Thông tin thêm Ông này là UG Krishnamurti khác với ông Jiddu Krishnamuri là ông thầy nỗi tiếng có rất nhiều sách nhiều người đă biết.

I. Sơ Lược tiểu sử U.G. Krishnamurti. Tên đầy đủ của UG là Uppalori Gopala Krishnamurti. Bạn bè và những người ngưỡng mộ ông thường gọi ông một cách thân thương là UG. Ông sanh ngày 9 tháng 7 năm 1918 trong một gia đ́nh ḍng dơi Bà la môn ở Masulipatam, một thị xă miền ven biển thuộc tỉnh Andhra Pradesh, Ấn Độ. Khi UG chỉ vừa chào đời được 7 ngày th́ mẹ của UG qua đời, và UG được nuôi dưỡng, dạy dỗ bởi ông ngoại. Ngoại của UG là một luật sư danh tiếng, giàu có, và là một thành viên nổi bật của hội Thông Thiên Học. UG trưởng thành trong môi trường đặc thù của Thông Thiên Học và lại có tín ngưỡng, thực hành theo Ấn độ giáo chính thống. Thậm chí khi c̣n là một cậu bé, UG là một kẻ hay nổi loạn, chống đối, lỗ măng nhưng thật thà đối với những ǵ anh ta đă làm.

UG hoàn tất tiểu học và trung học ở thị xă Gudivada và sau đó lấy bằng cử nhân danh dự về Tâm lư và Triết học tại Đại Học Madras. Nhưng, sự học hỏi nghiên cứu về các hệ thống triết lư đa dạng và tâm lư học tây phương chỉ gây chút ít ấn tượng đối với UG. “Cái tâm thức mà mấy cha nội này đang lư giải th́ nó nằm ở đâu vậy?”, có một lần UG đă hỏi vị giáo sư Tâm Lư học của ḿnh như thế. Có điều ǵ đó lạ thường nơi một sinh viên chỉ vừa mới 20 tuổi đầu, đặc biệt là học thuyết của Freud đă được xem như là thành tựu mới nhất nói về tâm thức nhân loại vào thời đó.

Khoảng thời gian từ 14 tuổi đến 21 tuổi, UG thỉnh thoảng đến học và thực hành thiền định và yoga với Swami Sivananda ở Rishikesh. UG có nhiều thể nghiệm và linh ảnh kỳ diệu khi tu tập ở đó, tuy nhiên UG đă đặt nghi vấn về tính chất thực hư của những kinh nghiệm tâm linh này, v́ UG nghĩ rằng anh có thể nhận thức ra được chúng chính là nền tảng kiến thức hiểu biết mà UG đă có trước đó rồi.

Năm 1939, khi được 21 tuổi, UG đến gặp gỡ vị đạo sư Sri Ramana Maharshi và hỏi ông, “ông có thể trao cho cho tôi cái gọi là “giải thoát” không?” Ramana đáp, “tôi có thể trao cho anh cái-đó, nhưng anh có khả năng nắm bắt cái-đó được không?” Câu trả lời của Ramana gây chấn động UG như “tiếng sét” và khiến cho UG quyết định bắt đầu cuộc hành tŕnh t́m kiếm chân lư không mệt mỏi, không nản ḷng, và cuối cùng không ngờ UG đă đạt được quả vị chứng ngộ giải thoát hoàn toàn vào năm UG 49 tuổi (năm 1967).Sau khi rời đại học, UG gia nhập hội Thông Thiên Học với vai tṛ diễn giả và ông đi ṿng quanh Ấn độ để thuyết giảng về Huyền bí học. Ngay cả sau khi lập gia đ́nh với bà Kusuma Kumari vào năm 1943, ông vẩn c̣n tiếp tục làm việc cho hội Thông Thiên Học và đă có nhiều buổi thuyết giảng ở các quốc gia Châu Âu. Măi đến năm 1953 ông nhận thức ra được rằng những chuyện ông đang làm là sai lầm đối với việc t́m kiếm chân ngă, nên ông đă phẫn nộ rời bỏ chức vụ. Sau đó ông gặp Jiddu Krishnamuri, là bậc đạo sư tâm linh khét tiếng về việc truyền bá tư tưởng phủ nhận mọi truyền thống giáo điều, tôn sùng thần tượng, và tập tục quy ước xă hội vào lúc bấy giờ. Trong ṿng 2 năm, UG thường hay có những cuộc hội thoại với J. Krishnamurti, và hai người đă có nhiều cuộc tranh luận dữ dội về những vấn đề tâm linh. Sau cùng UG đă từ chối đường lối của J. Krishnamurti, và gọi đó là “một chuyến hải tŕnh hư ảo..”

Trong suốt khoảng thời gian này, UG cũng có trải qua một thể nghiệm biến đổi thân tâm thần kỳ, mà ông gọi đó là “kinh nghiệm về Cái Chết”. Nhưng ông xem nhẹ kinh nghiệm đó và “quét sạch nó sang một bên”, và tiếp tục thăm ḍ, tra xét, kiểm nghiệm, hoài nghi mỗi một kinh nghiệm tâm linh cho đến khi nào ông đạt được giác ngộ thực sự.

Thời gian trước năm 1967 ( năm ông đạt được giác ngộ giải thoát) ông có rất nhiều kinh nghiệm tâm linh, ông có năng lực có thể nh́n thấy tiền kiếp, hiện tại và tương lai của người khác. Ông nói: “Cái khoảnh khắc mà tôi gặp một người, tôi có thể thấy được toàn bộ quá khứ, hiện tại, và vị lai của người đó. Nhưng tôi không sử dụng năng lực này. Tôi tự hỏi, ‘tại sao tôi lại có năng lực này?’. Thỉnh thoảng tôi nói những điều nào đó, và chúng xảy ra đúng như vậy. Tôi vẫn chưa thể thể hiểu rơ và nghĩ ra được căn nguyên hoạt động của năng lực đó? Tôi cũng không có hứng thú với nó. Làm thế nào mà tôi nói điều ǵ đó, và nó luôn xảy ra y như vậy? Tuy nhiên, nó đă mang lại vài hậu quả không vui ḷng, và gây nên sự buồn phiền cho một ít người.”

Năm 1955, UG đưa gia đ́nh sang Hoa Kỳ để chữa bệnh cho con trai của ông. Khi nguồn tài chánh của ông cạn kiệt, ông để gia đ́nh vợ con trở về Ấn Độ, c̣n ông th́ ở lại tiếp tục hành tŕnh tâm linh. Không tiền không bạc, ông sống lang thang, trôi nổi từ nơi này đến nơi khác, London, Paris... Sau cùng t́nh cờ ông quen biết với cô Valentine de Kerven, và tạm trú thân ở nhà cô Valentine ở Saanen, Thụy Sĩ. Vào khoảng thời gian trú ngụ tại nhà cô Valentine, những kinh nghiệm tâm linh lạ thường đă xảy đến cho ông, nó là sự khai mào cho “cái chết – thoát thai hoán cốt” vào ngày sinh nhật ông đúng 49 tuổi (1967), và là sự bắt đầu khó thể tin được về những thể nghiệm thay đổi chuyển hóa bên trong cơ thể ông đă khiến ông “nhảy một bước vào cái Tâm Thái (mảnh đất Như Lai – nói theo thiền tông), cái Tâm Thái mà cho đến nay vẫn c̣n khó hiểu trong khuôn khổ hiểu biết về truyền thống huyền bí và khai ngộ của chúng ta. Liên tục trong 7 ngày, sau bảy lần thay đổi xảy ra, ông đạt được trạng thái mà ông gọi là “Tánh Tự Nhiên” (Natural State). Nó là một sự biến đổi tế bào trong cơ thể, một con người được chuyển hóa, tái sinh, mới mẻ toàn diện.

UG rời khỏi thế giới này vào lúc 2:30 PM, ngày 22 tháng 3 năm 2007 tại Vallecrosia, nước Ư. Ông hưởng thọ 88 tuổi. Bạn bè và nhiều người ngưỡng mộ ông khắp nơi trên thế giới đă gởi lời bày tỏ thương tiếc sự ra đi của ông.II. Cơ duyên đưa UG đến giác ngộ rốt ráo (July 1967): Lời kể lại của U.G. Krishnamurti khi ông trú ngụ tại nhà cô Valentine.

Suốt trong khoảng thời gian đó (tôi gọi nó là thời kỳ thai nghén), đủ mọi thứ loại thể nghiệm tâm linh xảy đến bên trong cơ thể tôi – nhức đầu, những cơn đau đầu liên tục không ngừng nghỉ, những cơn đau khủng khiếp bên trong năo bộ. Tôi đă nuốt hàng ngàn viên thuốc Aspirin, nhưng thuốc men không giúp ích cho tôi bớt đau chút nào cả. Đó không phải là chứng “đau nhức nửa đầu” (migraine) hoặc những triệu chứng đau đầu mà y học đă biết, nhưng là những cơn nhức đầu như búa bổ. Trong thời gian bị cơn đau đầu hành hạ, ngày nào tôi cũng đều uống nhiều viên Aspirin và từ 15 cho đến 20 tách cà phê để mong giảm bớt cơn đau phần nào! Có một ngày Valentine than phiền “Anh làm cái ǵ vậy! Ngày nào anh cũng uống tới 15 tách cà phê. Anh có biết nó cũng là tiền bạc không? Từ 300 cho đến 400 francs mỗi tháng đó.” Dù thế nào đi nữa, nó cũng là một điều dễ sợ cho tôi.

Có nhiều chuyện buồn cười xảy đến cho tôi. Tôi c̣n nhớ là khi tôi chà sát trên thân thể tôi, th́ có đốm sáng lóe lên giống như chất lân tinh phát sáng lên vậy. Valentine đă từng có lần chạy ra khỏi pḥng ngủ của cô để xem xét – v́ cô cứ nghĩ là có chiếc xe nào đó chạy đến con đường trước nhà vào giữa đêm. Hể mỗi lần tổi trở ḿnh lăn trên gường th́ có ánh sáng lấp lánh phát ra, (UG cười ) thật ngộ nghĩnh – “Cái ǵ đây vậy?” Nó là điện – đó là tại sao tôi lại bảo nó là từ trường điện. Tôi cứ tưởng nguyên nhân do bởi chất ni-lon của áo quần tôi mặc có tích chứa tĩnh điện gây ra, rồi tôi tạm dừng sử dụng đồ vật có chất ni-lon. Tôi là người thuộc chủ nghĩa hoài nghi cực đoan, “từ đầu tới chân”, tôi không bao giờ tin tưởng bất cứ điều ǵ cả; thậm chí nếu tôi thấy phép lạ xảy xảy ra trước mặt tôi, tôi cũng không vội chấp nhận – chẳng hạn như sự cấu tạo, bản chất của tôi đây. Sự kiện trên hoặc điều nào tương tự như thế chưa bao giờ được tạo ra và xảy đến cho tôi trước đây...

Những sự thể rất lạ lùng xảy đến với tôi, nhưng tôi chưa bao giờ cho là chúng có liên quan đến những điều gọi là tự-do tự-tại hoặc giải thoát, bởi v́ vào thời gian đó toàn thể mọi sự biến mất khỏi cơ thể tôi. Tôi đă vươn tới cái điểm mà tôi tự nhủ “Tất cả các bậc minh sư và cứu thế đều là vớ vẩn – v́ vậy tôi không c̣n thích thú điều ǵ tương tự như vậy nữa,” v́ thế nó biến mất khỏi bản thân tôi hoàn toàn. Những điều kỳ dị khác thường vẫn tiếp tục diễn biến, nhưng tôi không bao tự nhủ là “Ô, (UG cười ) tôi đang đi đến nơi ĐÓ, tôi gần tới Đó.” Cái ĐÓ không có xa hay gần, cũng không có cận kề hay sát bên chỗ Đó. Không có ai tiến gần tới nơi Đó được, bởi v́ anh ta chuẩn bị, nên anh ta khác biệt với Nó. Không thể có sự sẵn sàng để đạt được cái Đó. Nó chỉ hích trúng vào bạn, giáng mạnh vào bạn như là sức nặng một tấn gạch vậy.Vào tháng 4 năm 1967, tôi t́nh cờ đến Paris trong khi Jiddu Krishnamurti cũng ngẫu nhiên có mặt ở đó. Một vài người bạn của tôi gợi ư “Tại sao tôi không đi lắng nghe bạn cũ (J.K) của tôi giảng thuyết? Anh ta có một buổi hội thảo ở Paris.” Tôi nói, “Được thôi, tôi đă không nghe anh ấy nói chuyện nhiều năm rồi – gần như đă 20 năm – để tôi đến đó nghe thử.”

Khi tôi đến hội trường, họ yêu cầu tôi trả hai đồng francs (tiền Pháp) để vào cửa. Tôi nói “Tôi không bằng ḷng trả hai đồng francs để nghe J. Krishnamutri giảng thuyết. Không, thôi chúng ta hăy đi nơi khác và làm chuyện ǵ vớ vẩn chơi. Hăy đến ṣng bạc xem vũ thoát y. Đi nào, chúng ta chỉ mất hai mươi đồng francs để đến đó.” V́ vậy, chúng tôi đến ṣng bạc “Casino de Paris” xem chương tŕnh khiêu vũ. Tôi có được một kinh nghiệm rất lạ lùng vào thời gian đó: Tôi không biết được rơ tôi chính là người vũ công hay là có một người vũ công nào khác đang khiêu vũ trên sàn nhảy. Một kinh nghiệm rất là kỳ quặc đến với tôi: có một loại chuyển động kỳ dị như thế nào đó bên trong người tôi. (Sự chuyển động kỳ dị này bây giờ đă trở thành quen thuộc tự nhiên đối với tôi rồi.) Không có sự phân cách lúc đó: không có người quan sát đang nh́n ngắm người vũ công. Vấn đề là tôi không biết có phải tôi chính là người vũ công trên sàn nhảy hay là một người vũ công nào khác trên sàn nhảy đă khiến tôi suy nghĩ nhức óc, làm phiền phức tôi lúc đó – sau đó chúng tôi rời khỏi ṣng bạc...


Câu hỏi “Cái trạng thái đó là ǵ?” đă tạo nên một cường độ mănh liệt trong tôi – không phải cường độ về cảm xúc – tôi càng cố gắng t́m câu trả lời cho câu hỏi th́ tôi càng thất bại, và cường độ của câu hỏi lại càng tăng lên mạnh mẽ thêm. Nó cũng giống như là (tôi luôn luôn dùng sự so sánh như vầy) vỏ hạt gạo (trấu): Nếu có một đống trấu bắt lửa, nó tiếp tục cháy ngầm âm ỉ bên trong; bạn không nh́n thấy lửa cháy ra phía ngoài, nhưng khi bạn chạm vào, dĩ nhiên, nó sẽ làm bạn bị phỏng. Giống y cách thức như thế, câu hỏi vẫn cứ tiếp tục diễn tiến: “Cái trạng thái đó là ǵ? Tôi muốn hiểu, đạt được nó. Chỉ thế thôi. J. Krishnamurti có lần nói rằng ‘Không có đường lối hay phương pháp nào để tôi có thể đạt đến được’, nhưng tôi vẫn cứ muốn biết cái trạng thái đó nó như thế nào, cái Tâm Thái mà Phật Thích Ca, Sankara, và các vị đạo sư khác đă hội nhập vào trong nó.”

Sau đó, một giai đoạn khác xảy ra vào tháng 7 năm 1967. Jiddu Krishnamurti lại đến Saneen thuyết giảng. Các bạn của tôi lôi kéo tôi đến đó và nói “buổi nói chuyện của J. Krishnamurti lần này miễn phí, tại sao tôi không đi nghe thử xem sao?” Tôi nói “Cũng được, tôi sẽ đi nghe J.Krishnamurti giảng thuyết.” Khi tôi lắng nghe J. Krishnamurti nói, th́ có cái ǵ đó là lạ, khôi hài xảy đến cho tôi – cái cảm giác kỳ lạ mà J. Krishnamurti đang diễn tả là trạng thái của tôi, chứ không phải của J. Krishnamurti. Tại sao tôi lại muốn biết tâm thái của J. Krishnamurti chứ? Anh ta đang diễn tả một trạng thái ǵ đó, vừa vận hành, vừa tỉnh thức, vừa tịch lặng – “Trong trạng thái tịch lặng đó, không có tâm ư; chỉ có hành-động mà thôi” – tất cả mọi thứ đại loại như vậy. Vậy là “Tôi hiện đang ở trong tâm thái đó. Thật là quái quỉ ǵ đâu, tại sao tôi lại phải tiêu phí hết ba bốn mươi năm để đi nghe những người khác thuyết giảng, và cố gắng cứ muốn đi t́m hiểu cái tâm thái của J. Krishnamurti hay là của một ai khác, như Phật Thích Ca, Chúa Giê-su? Tôi ở trong tâm thái, cảnh giới đó mà. Bây giờ tôi đang an trú trong tâm thái đó.” Thế nên, tôi bước ra khỏi hội trường và không bao giờ trở lại nữa.

florida80 10-15-2019 19:53

Kế đến – rất lạ kỳ là – câu hỏi “Cái tâm thái đó là ǵ?” tự chuyển biến thành câu hỏi khác: “Làm thế nào để tôi biết được là ḿnh đang an trú trong tâm thái đó, cái tâm thái của Phật, cái tâm thái mà tôi rất muốn biết và mong cầu từ mọi người? Nhưng mà làm thế nào tôi biết được là tôi hiện ở trong tâm thái đó đây? ”...Ngày kế tiếp (ngày sinh nhật năm 49 tuổi của UG - ngày 9 tháng 7 năm 1967 ) tôi đang ngồi trên một chiếc ghế dài dưới một cội cây ngắm nh́n một trong những địa điểm thắng cảnh tuyệt đẹp của thế giới, “bảy ngọn đồi và bảy thung lũng” của miền đất Saanen. Tôi đang ngồi yên vị nơi đó. Câu hỏi không c̣n trong trí nữa, mà toàn thể thân xác và tâm trí tôi chính là câu hỏi đó:

“Làm thế nào tôi biết được rằng tôi ở trong Tâm thái đó?"

Có một sự phân chia thật lạ kỳ bên trong bản thể tôi: có một kẻ nào đó biết được rằng hắn ta đang ở trong tâm thái đó. Kiến thức về tâm thái – cái mà tôi đă đọc qua sách vở, qua kinh nghiệm, qua việc nghe thiên hạ nói về nó – chính kiến thức này đang quan sát cái tâm-thái đó, v́ vậy tâm-thái đó chỉ là sự phóng chiếu (vọng tưởng) từ kiến thức này ra mà thôi.”

Nhận nhức được như thế tôi mới tự nhủ: “Nh́n đây ông thần, sau bốn mươi năm ông chẳng có tiến thêm được một bước nào hết; ông chỉ dậm chân tại chỗ thôi. Khi ông đặt câu hỏi trên, th́ cái kiến thức này phác họa và phóng tưởng lên tâm trí ông (kiến thức tạo ra cái tâm thái và kẻ đang quan sát hay đang ở trong tâm thái đó). Tương tự như thế, ông ở trong cái t́nh cảnh mà kiến thức tự nó đặt câu hỏi đối với chính nó, ‘Làm thế nào tôi biết (tâm thái chứng ngộ)?’ bởi v́ nó chính là kiến thức này mà, là sự diễn tả của mọi người về cái tâm-thái đó như thế nào đó đă tạo ra tâm-thái này bên trong ông. Ông đang đùa cợt với chính ḿnh. Ông đúng là một kẻ ngu xuẩn.” Thế th́ chẳng c̣n ǵ cả, mất sạch hết rồi. Tuy nhiên, vẫn c̣n có một loại cảm giác kỳ dị bên trong tôi, cái cảm giác lạ lùng là cái tâm-thái này...

Câu hỏi kế tiếp là “Làm thế nào tôi biết cái cảm giác kỳ lạ chính là tâm-thái này?” – Tôi không có bất cứ câu trả lời nào cho câu hỏi đó cả -- câu hỏi giống như là rơi vào trong vùng nước xoáy, câu hỏi đó lại hiện lên và xoáy nước cuốn mất, và t́nh trạng cứ diễn tiến tiếp tục lặp đi lặp lại như vậy .v.v…

Kế đến, th́nh ĺnh câu hỏi biến mất hoàn toàn. Không có ǵ xảy ra cả; câu hỏi chỉ đơn thuần biến mất hẳn thôi. Tôi cũng không tự bảo “Ồ, trời ơi! Bây giờ tôi đă t́m được câu trả lời rồi.” Thậm chí tâm-thái đó cũng biến mất luôn – tâm-thái mà tôi nghĩ là tôi đang ngộ nhập trong nó, cái Tâm Thái của Phật, Chúa Giê-su – nó cũng biến mất. Câu hỏi đă biến mất, toàn thể mọi sự vong bặt hoàn toàn trong tôi. Tất cả là như vậy, bạn thấy đó.

Kể từ lúc đó trở đi, tôi không bao giờ tự nói với chính ḿnh “Bây giờ ta đă t́m được giải đáp cho mọi vấn đề rồi.” Tâm-thái mà tôi đă từng nói “Chính là Tâm thái này đây” – tâm thái đó cũng biến mất luôn. Câu hỏi biến mất. Mọi sự vắng bặt. Cái c̣n lại, nó không phải là hư-không, không phải là trống-rỗng, cũng không phải là khoảng-không, nó không phải là những thứ vừa kể trên. Câu hỏi bất th́nh ĺnh biến mất hoàn toàn, chỉ thế thôi.....

( UG nói: Câu hỏi nền tảng biến mất, tôi phát hiện ra rằng nó không có câu trả lời, là một hiện tượng sinh học. Tiếp theo là “một sự bùng nổ” bất th́nh ĺnh xảy ra bên trong tôi, dường như chấn động vang dội đến mỗi tế bào, mỗi sợi thần kinh, và mỗi tuyến trong thân thể.” Cùng với sự “bùng nổ” đó đó, ảo tưởng có sự liên tục của tư tưởng, có một trung tâm mà cái “Tôi” liên kết với tư tưởng, không c̣n hiện hữu nữa.)

Sau sự bùng nổ, tư tưởng không thể liên kết được. T́nh trạng liên kết bị bẻ gẫy, và một khi nó bị gẫy vỡ, th́ sự liên kết này chấm dứt. Thế nhưng không phải là sự liên kết tư tưởng tương tục đó bùng vỡ một lần mà thôi đâu; mỗi lần có một ư tưởng, ư nghĩ, hay ư niệm nổi lên, là nó tự nổ tan ra. Kết cuộc là sự liên tục của tư tưởng đi đến chỗ chấm dứt, và tư tưởng bắt đầu vận hành theo “nhịp điệu tự nhiên” của nó.

Kể từ đó tôi không có bất cứ câu hỏi hay vấn đề nào hết, v́ những câu hỏi không thể lưu lại trong t́nh trạng đó nữa. Những câu hỏi hiện tại mà tôi có rất đơn giản (thí dụ như: “Làm thế nào tôi có thể đi tới Hyderabad?” – Hyderabad là một thành phố trung tâm ở miền nam Ấn Độ) để có thể sinh hoạt ở thế giới này. C̣n đối với những loại câu hỏi vấn đề tâm linh (tâm thái giác ngộ) th́ không có ai có thể trả lời được – v́ vậy chúng không c̣n nữa.

Mọi thứ trong đầu óc tôi bị nén chặt lại – không c̣n khoảng trống cho cho bất cứ điều ǵ len lỏi vào trong bộ năo tôi được cả. Lần đầu tiên tôi ư thức được là mọi thứ, mọi điều trong đầu óc tôi bị “siết chặt” lại. V́ vậy, những ấn tượng (ư nghĩ, cảm giác .v.v…) trong quá khứ hoặc bất cứ ǵ bạn có thể gọi tên về chúng – thỉnh thoảng chúng cố gắng ngoi lên để chứng tỏ sự hiện diện quan trọng của chúng – nhưng những tế bào năo bị “ép chặt” đến nỗi chúng không có cơ may nào giỡ tṛ vớ vẩn trong đó nữa. Sự phân chia không thể tồn tại trong trí năo nữa – về mặt cơ thể, điều nàu khó thể nào xảy ra được. Bạn không cần phải làm một điều ǵ với nó, bạn thấy đó, nó chỉ xảy ra thôi. Đó là lư do tôi nói khi sự “bùng nổ” này xảy ra (Tôi dùng chữ “bùng nổ” (explosion) bởi v́ nó giống như là một vụ nổ bom nguyên tử) nó để lại những phản ứng hạt nhân nổ dây chuyền tiếp theo sau đó. Mỗi tế bào trong cơ thể bạn, những tế bào ở ngay chính bên trong tủy xương của bạn, phải chịu đựng, trải qua sự “thay đổi” này – tôi không muốn sử dụng từ ngữ “thay đổi” – nó là một sự thay đổi bắt buộc phải xảy ra, không thể đảo ngược lại được. Không có cái chuyện bạn muốn trở lại t́nh trạng trước đây được nữa; cũng không có cái vấn đề bị “tiêu tùng” đối với người chân chính trải qua t́nh trạng này. Và không thể đảo ngược lại được: một hợp chất đă được chế luyện từ một vài loại kim loại nào đó.

Nó giống như một vụ nổ phản ứng hạt nhân nguyên tử, bạn thấy đó – nó tàn phá, đảo lộn toàn bộ cơ thể. Nó không phải là một điều dễ chịu thoải mái ǵ đâu; nó là sự chấm dứt sau cùng của kẻ chân chính (người t́m chân lư) – một sự càn quét mănh liệt như vậy, nó đánh phá từng tế bào, từng dây thần kinh trong cơ thể bạn. Cơ thể tôi đă trải qua sự đau đớn oằn oại khủng khiếp vào khoảng thời gian đó. Không phải là bạn kinh nghiệm sự “bùng nổ” đó, bạn không thể nào kinh nghiệm sự “bùng nổ” được – mà là hậu-quả, “chất phóng xạ nguyên tử” của nó thay đổi toàn bộ cơ cấu hóa học trong cơ thể bạn..

Người hỏi:

- Thưa ngài, ắt hẳn ngài đă có kinh nghiệm, tôi mạn phép dùng từ ngữ: những “giai tầng” cao hơn…

UG. Krishnamurti:

- Bạn nói về “giai tầng”? Không có giai tầng hay là đẳng cấp ǵ cả. Bạn nên hiểu là có một sự kiện rất kỳ lạ xảy đến như là hệ quả của vụ “bùng nổ”, hoặc bạn muốn gọi nó là ǵ cũng được: không có một sát na (kẻ hở) nào mà tư tưởng có thể trổi lên trong tâm thức này cho là tôi khác với bạn. Không bao giờ. Sau vụ bùng vỡ đó, tư tưởng không c̣n hiện lên trong ư thức tôi và bảo rằng bạn khác biệt với tôi, hoặc tôi khác nhau với bạn, bởi v́ không có bất cứ “điểm” nào hiện hữu ở đây, không c̣n có “trung tâm” (tự ngă, cái Tôi) ở trong đây nữa. Chỉ có sự liên hệ đến “trung tâm” này, bạn mới tạo tác nên những điểm, những vấn đề khác.

florida80 10-15-2019 19:53

Hỏi:

- Ở một vài khía cạnh nào đó, nhất định ngài hẳn phải khác với mọi người.

UG:

- Về mặt hoạt động trong thân thể, có lẽ thế.

Hỏi:

- Ngài nói rằng những sự biến đổi dữ dội đă xảy ra trong bản thân ngài. Làm thế nào ngài biết được điều này? Có ai đă khám sát, kiểm tra t́nh trạng này của ngài chưa, hoặc đây chỉ là sự suy luận mà thôi?

UG:

- Những tác động, ảnh hưởng từ hậu quả vụ “bùng nổ” đó, cái cách thức những giác quan đang hoạt động (độc lập) hiện giờ th́ không c̣n cần đến bất cứ một trung tâm hay tác nhân nào để kết hợp nữa – đó là tất cả những ǵ tôi có thể cho bạn biết. Thêm một điều khác: cơ cấu hóa học đă biến đổi – tôi có thể quả quyết rằng trừ phi có sự hoán chuyển hay thay đổi toàn thể cấu trúc hóa học xảy ra, nếu không th́ không có cách nào để các cơ quan thân thể giải thoát khỏi được sự điều khiển của tư tưởng, sự tương tục của tư tưởng. Cho nên, v́ sự liên tục của tư tưởng không c̣n nữa, bạn có thể dễ dàng nhận thấy rằng một điều ǵ đó mới lạ xuất sinh, nhưng cái-ǵ thật sự đă xuất sinh đây? Tôi không có phương cách nào để thể nghiệm truyền đạt nó cả.

Hỏi:

- Rất có thể là cái tâm trí đang giở tṛ vẽ vời rằng “tôi chỉ cần nghĩ tôi là “một kẻ bùng-nổ”? (tưởng tượng lâu dần th́ sự bùng nổ này sẽ xảy ra)

UG:

- Tôi không cố ư làm cái việc thương mại buôn bán, đổi chác bất cứ cái ǵ ở đây. Bạn không thể nào bắt chước sự bùng vỡ này được. Sự thể mà nó xảy ra th́ nằm vượt ngoài lĩnh vực, phạm vi mà tôi trông chờ, mơ ước, và mong muốn thay đổi trước đây. V́ vậy, tôi không gọi nó là một sự “thay đổi”; tôi thực sự không biết cái ǵ đă xảy đến cho tôi. Điều mà tôi có thể nói với bạn là cái cách thức mà tôi đang “hoạt động” (hành động và đáp ứng). Dường như có đôi chút khác biệt về cách thức bạn hoạt động và cách thức tôi hoạt động, nhưng căn bản th́ không có khác nhau chi cả. Làm thế nào lại có bất cứ sự khác nhau giữa bạn và tôi? Không thể nào. Nhưng mà từ cái cách thức, đường lối chúng ta cố gắng diễn đạt, bày tỏ một điều ǵ, dường như là có sự khác biệt. Tôi cảm nhận là có một ít khác biệt nào đó, và cái ǵ mà sự khác biệt đó hàm chứa th́ tôi đang cố gắng hiểu biết. V́ thế, đây là cách thức tôi “hoạt động.” UG để ư rằng những thay đổi căn nguyên, nền tảng của chức năng các giác quan diễn ra tuần tự trong suốt một tuần lễ tiếp theo sau ngay vụ “bùng nổ”. Vào ngày cuối cùng, ngày thứ 7, thân thể ông đă trải qua “một tiến tŕnh của cái Chết về thể xác – Nirvikalpa samadhi” (thiền tông có câu: Đại Tử Nhất Phiên – Một Phen Chết Lớn), và sau đó những sự thay đổi hay chuyển hóa này của cơ thể đă trở nên thường tồn vĩnh viễn.

Những biến đổi trong 7 ngày tiếp theo ngay sau sự “bùng nổ” UG kể: Những thay đổi bắt đầu. Kể từ ngày sau vụ bùng nổ trở đi, trong 7 ngày – mỗi ngày có một thay đổi diễn ra. Đầu tiên tôi phát hiện ra nét mềm mại của làn da trên toàn cơ thể; hiện tượng chớp (nháy) mắt dừng lại, chấm dứt hẳn; và sau đó là những thay đổi về vị giác, khứu giác, thính giác – tôi nhận biết được năm sự biến đổi này. Có thể, thậm chí chúng đă biến đổi trước đó rồi, và tôi chỉ vừa nhận ra lần đầu tiên...

NGÀY THỨ 1:

Tôi để ư thấy là làn da của tôi mềm như tơ lụa và phát ra ánh sáng kỳ dị, ánh sáng màu vàng kim. Trong khi tôi cạo râu, cứ mỗi lần tôi cố gắng cạo th́ lưỡi dao cạo bị trơn trợt đi. Tôi thay đổi lưỡi dao cạo râu khác, nhưng nó cũng vô dụng. Khi tôi chạm vào mặt tôi, xúc giác tôi đă khác biệt so với trước đây, bạn thấy đó, cách thức tôi cầm giữ dao để cạo râu cũng vậy. Đặc biệt là làn da của tôi – nó mềm như nhung lụa và phát ra ánh sáng màu vàng kim. Tôi chẳng có liên kết sự thay đổi này với bất cứ điều ǵ khác chút nào cả; tôi chỉ quán sát nó thôi.

NGÀY THỨ 2:

Lần đầu tiên tôi nhận thức được tâm trí ở trong t́nh trạng mà tôi gọi là “buông xả” thả lỏng hoàn toàn. Tôi đang ở trong nhà bếp của tầng lầu trên, và Valentine đang làm món xúp cà tô-mát. Tôi nh́n món xúp và không biết nó là món ǵ. Cô ấy bảo đó là món xúp cà tô-mát. Tôi nếm thử món xúp và mới nhận biết được “À, mùi vị của món xúp cà tô-mát là như thế này đây.”

Kế đến tôi nuốt món xúp, và sau đó tôi lại quay trở về cái khung tâm trí kỳ oặc – dùng chữ “khung tâm trí” cũng không đúng, mà phải nói rằng nó một cái “khung không có tâm trí (vô niệm)” – nên tôi lại quên khuấy mất đi tên món xúp. Tôi lại hỏi Valentine “Đó là món ǵ vậy?” Cô ta lặp lại, “đó là món xúp cà tô-mát.” Tôi nếm lại món xúp, rồi tôi nuốt nó và sau đó lại quên mất đi tên món xúp. Tôi đă chơi đùa với t́nh trạng này một lát. Nó đúng là một việc khôi hài với tôi khi đó, cái “trạng thái buông xả”.

Bây giờ trạng thái này đă trở nên b́nh thường rồi. Tôi hiện giờ không c̣n tiêu phí thời gian cho việc mơ màng mộng tưởng, lo lắng, quan niệm hóa và những suy nghĩ khác mà hầu hết mọi người làm khi họ cô độc. Tâm trí tôi giờ đây chỉ đáp ứng khi nó được cần đến, thí dụ khi bạn đặt câu hỏi, hoặc khi tôi phải sửa chữa hay lắp gắn cái máy thâu băng, hoặc một điều ǵ tương tự như thế.

Thời gian c̣n lại th́ tâm trí tôi ở trong t́nh trạng “buông xả”. Dĩ nhiên hiện giờ kư ức tôi hồi phục trở lại – đầu tiên tôi bị mất nó, nhưng bây giờ tôi đă có nó trở lại – nhưng trí nhớ hay kư ức tôi th́ nằm trong “nền, chỗ” của riêng nó và chỉ hiển hiện hoạt động khi nó được cần đến, một cách tự động. Khi nó không được cần đến, th́ không có tâm trí hiển hiện, không có tư tưởng (vô niệm), chỉ có cái Sống mà thôi...

florida80 10-15-2019 19:54

NGÀY THỨ 3:

Một vài người bạn muốn hỏi ư muốn đến dùng buổi ăn tối với chúng tôi, và tôi nói “Được mà, tôi sẽ nấu một vài món.” Nhưng, v́ một lư do nào đó, tôi đă không thể nêm nếm thức ăn một cách đúng mức, thích hợp được.

Tôi đă dần dần nhận thấy là vị giác và khứu giác đă được chuyển hóa rồi. Mỗi lần có mùi ǵ đó đi vào trong lỗ mũi tôi, nó gây kích thích khó chịu đến tận trung tâm khứu giác, trong cùng một t́nh trạng giống nhau – dù cho cái mùi đó là mùi hương thơm đắt tiền nhất hoặc là phân ḅ, sự gây kích thích đó cũng giống y nhau, không khác. Và khi đó, mỗi khi tôi nếm một món ǵ, tôi chỉ nếm được cái gia vị nào trội nhất mà thôi – và những thành phần gia vị khác của món đó th́ từ từ kế tiếp đó tôi mới cảm nhận.

Kể từ lúc đó, mùi hương nước hoa không c̣n nghĩa lư ǵ với tôi, và thức ăn nêm nếm gia vị thơm ngon cũng không c̣n hấp dẫn tôi nữa. Tôi có thể nếm đúng được thành phần gia vị trội nhất, ớt hay bất cứ gia vị nào đó.

NGÀY THỨ 4:

Có cái ǵ đó đă chuyển biến nơi đôi mắt. Chúng tôi đang ngồi trong nhà hàng “Rialto”, và tôi bắt đầu nhận thức được tầm nh́n to lớn kỳ lạ của đôi mắt, phóng nh́n cảnh vật từ xa theo một lối thu hẹp giống như nh́n qua ống kính có bề mặt gương lơm vậy. Cảnh vật di chuyển đến về phía tôi, đi vào bên trong tôi, và sau đó h́nh ảnh sự vật đi ra khỏi bản thân tôi, dường như nó xuất phát ra từ bên trong tôi. Hiện trạng cách nh́n của mắt thay đổi quả thật là một vấn đề nan giải cho tôi khi đó – mắt của tôi dường như giống một cái máy thu h́nh khổng lồ, nó tự thay đổi tiêu điểm hay tụ điểm mà tôi không cần phải làm ǵ cả.

Bây giờ th́ tôi quen với cách nh́n này của đôi mắt rồi và đó cũng là cách thức mà tôi nh́n xem mọi sự mọi vật. Khi bạn lái xe Mini Van đưa tôi đi dạo, tôi giống như là một thợ nhiếp ảnh, quay phim đang vác máy ảnh (đôi mắt) đi cùng chiếc xe. Những chiếc xe chạy từ hướng khác hay ngược chiều đi thẳng vào trong bản thân tôi, và khi những xe đó vượt qua xe chúng ta, th́ chúng di chuyển ra từ trong bản thân tôi.

Mỗi khi mắt tôi nh́n cố định lên một cảnh vật ǵ, th́ nó nh́n dính chặt vào sự vật đó với sự chú tâm trọn vẹn, giống như là chiếc máy ảnh vậy. Một sự kiện khác nữa về đôi mắt của tôi: khi chúng tôi rời nhà hàng trở về đến nhà, tôi nh́n vào trong gương để xem có điều ǵ kỳ lạ về đôi mắt tôi, và xem nó đă được biến đổi, “lắp đặt, ổn định” ra sao. Tôi nh́n vào trong gương một thời gian dài, và sau đó nhận thấy là mi mắt không c̣n chớp, nháy nữa. Tôi nh́n vào trong gương trong khoảng thời gian từ 30 phút đến 45 phút – đôi mắt vẫn bất động không chớp nháy ǵ cả. Bản năng chớp nháy của mi mắt đă biến mất, không c̣n tồn tại nữa, và bây giờ cũng vậy...

NGÀY THỨ 5:

Tôi nhận biết được sự thay đổi về thính giác. Khi tôi nghe tiếng chó sủa, âm thanh đó bắt nguồn phát ra từ bên trong tôi. Và cũng giống như vậy khi tôi nghe tiếng rống của con ḅ, tiếng kèn xe lửa – bất th́nh ĺnh, tất cả những âm thanh đó xuất phát ra từ bên trong nội tâm ḿnh, bắt nguồn từ nội giới chứ không phải ngoại giới – hiện giờ t́nh trạng vẫn như thế.

NGÀY THỨ 6:

Năm giác quan đă thay đổi trong 5 ngày, và ngày thứ 6 trong khi tôi đang nằm trên ghế xôfa – Valentine đang ở trong nhà bếp – và … bất chợt, thân thể tôi biến mất. Thể xác đă không c̣n hiện hữu. Tôi nh́n vào tay tôi (Chuyện vớ vẩn điên khùng phải không – bạn có thể muốn nhốt tôi vào nhà thương tâm thần lắm), tôi đă quan sát nó – “đây là tay tôi sao?” Tôi không có đặt câu hỏi vào lúc đó, nhưng toàn thể t́nh cảnh th́ tương tự như thế -- đó là tất cả mọi sự việc tôi hiện đang diễn tả lại cho bạn nghe.

V́ vậy, tôi đă thử chạm vào cơ thể tôi – không có ǵ hết – tôi cảm giác không có bất cứ cái ǵ thuộc thân thể hiện hữu khi đó ngoại trừ sự va chạm, điểm tiếp xúc mà thôi. Kế đến, tôi gọi Valentine và hỏi:

“Cô có thấy thể xác tôi đang nằm trên ghế xôfa hay không? Không có tín hiệu nào trong nội tâm cho biết rằng đây là thân thể tôi cả.”

Cô ấy đến và chạm vào thân thể tôi:

“Đây là thân thể của anh.”

Tuy nhiên sự xác định của Valentine không khiến tôi thoải mái và thỏa măn – “Cái ǵ mà khôi hài kỳ khôi như thế này đây? Thể xác tôi đang vắng mất.” Thân thể tôi đă ra đi rồi và không bao giờ trở lại. Chỉ có những điểm va chạm tiếp xúc mà tôi cảm giác được là c̣n tồn tại mà tôi – ngoài ra th́ không có ǵ khác nữa – bởi v́ sự nh́n, xem th́ độc lập, không lệ thuộc vào xúc giác. V́ vậy, thậm chí muốn tạo ra bức ảnh thân thể tôi, tôi không thể nào làm được, v́ nơi đâu mà không có xúc giác (điểm va chạm), th́ trong ư thức tôi không có những điểm tiếp xúc đó.

florida80 10-15-2019 19:54

NGÀY THỨ 7:

Tôi đang nằm cùng trên chiếc ghế xôfa như hôm qua, thư giăn và tận hưởng trạng thái “buông xả”. Valentine bước đến gần, tôi nhận ra được cô là Valentine; rồi cô đi ra khỏi pḥng – vong bặt, trống rỗng, không có Valentine hiện hữu – “Đây là cái ǵ vậy? Thậm chí tôi không thể tưởng tượng ra được Valentine trông có vẻ như thế nào. Tôi lắng nghe được những âm thanh xuất phát ra từ bên trong nội tâm.” Nhưng, tôi không thể liên hợp nối kết được mọi sự việc lại. Tôi phát hiện là tất cả các giác quan hoạt động mà không cần sự phối hợp của bất cứ tác nhân nào bên trong nội giới cả: tác nhân liên kết, phối hợp đă vắng bặt.

Tôi cảm giác t́nh trạng ǵ đó đang xảy ra bên trong bản thân ḿnh: sinh lực từ khắp các phần khác nhau của cơ thể đang bị thu rút hội tụ về một tâm điểm nào đó. Tôi tự nói với chính ḿnh “Bây giờ nhà ngươi đang tiến gần đến sự kết liễu mạng sống rồi. Ngươi sẽ chết.” Thế nên tôi gọi Valentine và nói “Valentine, tôi sắp chết đến nơi rồi, cô sẽ phải làm ǵ đó với thể xác này. Chuyển thể xác này đến cho các bác sĩ, có thể họ sẽ có chỗ nào dùng đến nó. Tôi không tin ba cái chuyện hỏa táng hay chôn cất ǵ cả, hoặc ǵ ǵ tương tự vây. Để tốt cho cô, cô phải vứt bỏ cái thể xác này đi – qua vài ngày nó sẽ bốc mùi – v́ vậy, sao lại không liệng bỏ nó đi chứ? ” Cô nói “Anh là người ngoại quốc. Chính phủ Thụy Sĩ sẽ không tiếp nhận thể xác của anh đâu. Bỏ qua chuyện này đi,” rồi cô bỏ đi.

Và tiếp theo đó, toàn bộ lực lượng kinh khiếp này trong cơ thể di chuyển về một điểm, có thể nói là như vậy. Tôi đang nằm trên xôfa. Chiếc gường của Valentine th́ trống, v́ vậy tôi đi qua nằm trên gường đó và nằm duỗi thẳng ḿnh ra, sẵn sàng chờ cái chết đến. Valentine bỏ mặc tôi nằm đó và đi ra. Cô nói:

“Một hôm anh nói là cái này đă biến đổi, ngày kế đến cái kia thay đổi, ngày thứ ba th́ cái nọ đă thay đổi. Toàn bộ sự thể là ǵ vậy chứ?”

Valentine th́ chẳng thích thú đến những điều đó – cô không bao giờ quan tâm đến những vấn đề tâm linh hay tôn giáo – cô chưa bao giờ nghe biết được những điều đó.

Cô nói tiếp:

“Anh nói là anh sắp chết đến nơi rồi. Anh sẽ không chết. Anh không sao cả, anh vẫn khỏe mạnh và tráng kiện kia mà.”

Nói xong, cô bỏ đi.

Sau đó, tôi nới giăn cơ thể, duỗi ḿnh nằm yên vị … Toàn bộ năng lực trong thân thể đang di chuyển quy về một tụ điểm nào đó – tụ điểm này nằm ở đâu th́ tôi không biết được. Kế tiếp, điểm này tiến đến nơi chỗ – diễn tiến sự việc xảy ra cũng giống như là lỗ (cửa, nắp) ống kính máy ảnh đang tự đóng lại chính nó. (Đây là sự so sánh duy nhất mà tôi có thể dùng để diễn tả. Sự diễn tả này th́ khác xa với sự kiện đă xảy ra vào thời gian đó, bởi v́ vào lúc đó th́ không có chủ thể để suy nghĩ những lời lẽ như vậy. Toàn bộ sự kiện này là một phần trong kinh nghiệm của tôi, nếu không tôi sẽ không có thể nào nói được về nó.) Trong khi cửa ống kính máy ảnh đang cố gắng tự đóng kín lại chính nó, th́ có một tác nhân nào khác ở tại đó đang cố kềm giữ duy tŕ cánh cửa mở ra (điểm sáng). Một lúc sau, không c̣n ư chí nào để làm bất kỳ ǵ nữa hết, thậm chí cũng không c̣n ư muốn ngăn cản cái cửa đang tự đóng lại chính nó… Và bất th́nh ĺnh, có thể cho là như thế, nó đóng sập lại. Tôi không biết được điều ǵ đă xảy ra sau đó.

Tiến tŕnh này kéo dài 45 phút – tiến tŕnh của cái Chết. Nó là sự chết về cơ thể, bạn thấy đó. Thậm chí hiện tại nó cũng hay xảy đến với tôi: bàn tay, bàn chân trở nên rất lạnh, thân thể trở nên cứng, nhịp tim đập chậm lại, hơi thở chậm xuống dần dần, và từ từ chỉ c̣n hớp được một hơi thở sau cùng. Vươn tới một điểm đích, bạn hít một hơi thở sau cùng của bạn, có thể nói như thế, và tiếp đến bạn chấm dứt cuộc sống ḿnh. Điều ǵ xảy ra sau đó, không có ai biết được.

Khi tôi tỉnh lại, ai đó nói rằng có người gọi điện thoại cho tôi. Tôi rời khỏi gường và đi xuống thang lầu để trả lời điện thoại. Tôi vẫn c̣n ở trong t́nh cảnh mê mê màng màng. Tôi không biết điều ǵ đă xảy ra. Nó là cái Chết của cơ thể. Cái ǵ đă mang tôi trở về cuộc sống. Tôi không biết. Tiến tŕnh cái Chết đă kéo dài bao lâu, tôi cũng không biết. Tôi không thể nói được ǵ về tiến tŕnh sự chết trong lúc đó, bởi v́ kẻ kinh nghiệm đă vong bặt, đă chết: không có kẻ nào hiện hữu để kinh nghiệm sự Chết cả… V́ vậy, đó là sự chấm dứt, tận cùng của cái Chết. Và tôi đă phục sinh!.....

Tôi không cảm thấy ḿnh là một em bé vừa mới được sinh ra – cũng không có đặt vấn đề giác ngộ ǵ ở đây cả -- tuy nhiên, những sự kiện làm tôi kinh ngạc suốt trong một tuần lễ đó, những thay đổi vị giác, thị giác .v.v… đă trở nên cố định vĩnh viễn. Tôi gọi những sự kiện này là “thảm họa”. Tôi gọi nó là “thảm họa” bởi v́ theo quan điểm của một người nào đó nghĩ rằng nó th́ kỳ tuyệt, tràn đầy ân phúc, hỷ lạc, t́nh yêu, ngây ngất và những trạng thái tương tự như vậy. Nh́n theo chiều hướng khác th́ nó lại là một sự tra tấn, cực h́nh về thể xác. Nó không là thảm họa đối với tôi, nhưng là thảm họa đối với ai tưởng tượng rằng có cái ǵ đó kỳ diệu, phi thường sẽ xảy đến. Giống như là: bạn tưởng tượng về thành phố Nữu Ước, bạn mơ mộng về nó, và muốn đến đó. Khi bạn thực sự ở đó, những ǵ bạn mơ tưởng không tồn tại ở đó; nó là một nơi chốn tầm thường, tiêu điều, và thậm chí những kẻ khốn cùng cũng có thể muốn từ bỏ chốn đó mà đi. Nó không phải là cái điều mà bạn truy t́m và đặt hết kỳ vọng vào, trái lại nó hoàn toàn khác hẳn. Cái ǵ ở đó, bạn thực sự không biết – bạn không có cách thức nào để biết bất cứ ǵ về điều đó – không có bất kỳ h́nh ảnh ǵ về nó cả. Theo ư nghĩa đó, tôi không bao giờ bảo chính tôi hay một ai khác “ Tôi là một người giác ngộ, một người tự do tự tại, một người giải thoát; tôi sẽ giúp nhân loại được tự do, giải thoát.” Giải thoát khỏi cái ǵ? Làm thế nào tôi có thể giải thoát một ai khác. Không có vấn đề giải thoát bất cứ ai hết. V́ thế cho nên, tôi buộc phải có một h́nh ảnh rằng tôi là một người giải thoát, bạn có hiểu không?

Ngày Thứ 8 trở về sau:

Tôi đang ngồi trên ghế xôfa và th́nh ĺnh có một năng lực mạnh mẽ kinh hồn bộc phát – năng lực khủng khiếp này làm rung chuyển, lay động toàn bộ thân thể tôi, và cùng với thân thể, có thể nói như thế, cả ghế xôfa, ngôi nhà, và toàn thể vũ trụ cũng đều rung rinh, chấn động, lung lay theo. Bạn không thể nào tạo tác ra được sự chuyển động đó cả. Nó chỉ đến đột nhiên thôi. Nó đến từ ngoại giới hay nội giới, từ ở phía dưới hay bên trên, tôi không biết – tôi không thể xác định được nơi chốn đó; tất cả đă qua rồi. Cơn bùng phát năng lực to lớn, hăi hùng đó đă kéo dài từ giờ này qua giờ khác. Tôi không thể chịu đựng nó được, nhưng không có cách nào để tôi có thể chặn đứng nó lại; tôi hoàn toàn bó tay bất lực. T́nh trạng này diễn tiến liên tục, ngày này qua ngày khác, ngày nọ kế tiếp ngày kia… Hể mỗi khi tôi ngồi xuống là năng lực kinh khiếp đó bắt đầu khởi động – sự chấn động này giống như là cơn động kinh (bệnh kinh phong) hoặc một t́nh trạng ǵ đó. Thậm chí cũng không giống hẳn cơn động kinh, v́ nó tiếp tục xảy ra hết ngày này đến ngày khác.

( UG nằm trên gường trong 3 ngày, thân thể ông vặn vẹo, co quắp lại bởi cơn đau đớn hành hạ - ông nói, ông cảm thấy sự đau đớn như thế ở trong mỗi tế bào trong cơ thể ông, hết tế bào này đến tế bào khác. Tương tự như vậy, hể mỗi khi ông nằm xuống hoặc nghỉ ngơi thư giăn th́ những cơn bùng dậy của năng lực kinh hồn đó xảy ra từng hồi, từng chập xuyên suốt trong 6 tháng kế tiếp sau đó.)

Thân thể không có khả năng... Thân thể cảm giác cơn đau. Đó là một tiến tŕnh rất đau đớn. Rất là đau đớn khổ sở. Nó là sự đau đớn của cơ thể, bởi v́ cơ thể th́ chịu đựng có hạn định nào đó thôi – thể chất có vóc dáng, h́nh hài của chính nó, v́ vậy khi cơn bộc phát của năng lực xảy đến, không phải là năng lực của bạn, của tôi, hoặc năng lực của Thượng Đế (bạn có thể gọi bất cứ tên ǵ bạn thích), năng lực này giống như con sông đang trong mùa nước lũ lụt dâng tràn lên. Năng lực này khi đang hoạt động, nó không cảm biết được những giới hạn của thân thể; nó không quan tâm để ư đến; nó có năng lượng (động lượng) riêng của nó. Đó là một sự đau đớn tột cùng. T́nh cảnh đau đớn này không có ngây ngất lâng lâng, sung sướng, phúc lạc và tất cả mọi điều được diễn tả vớ vẩn tương tự như thế đâu – nhảm nhí và vô nghĩa! – nó thực sự đau đớn vô cùng. Ồ, tôi đă chịu đựng cơn đau hết tháng này đến tháng khác sau đó, trước đó cũng vậy. Mỗi người đều phải trải qua t́nh trạng này. Thậm chí đạo sư Ramana Maharshi cũng đă chịu đựng sự đau đớn sau đó (sau khi chứng ngộ).

Năng lực này giống như một thác nước to lớn – không phải chỉ một thác nước thôi đâu, nhưng mà hàng ngàn thác nước – nó tuôn đổ xuống cùng lúc liên tục trong nhiều tháng trời. Đó là một kinh nghiệm đau đớn khổ sở tột cùng – đau đớn theo cách nh́n là cái năng lực này có sự vận hành hoạt động kỳ dị của chính nó. Hùmm, chắc bạn biết tấm bảng quảng cáo thuốc lá Wills ở phi trường. Có h́nh mẫu nguyên tử trên đó: những đường, lằn được vẽ uốn lượn như thế này (UG dùng tay phác họa), theo chiều kim đồng hồ, ngược chiều kim đồng hồ, và theo hướng này, hướng nọ, rồi hướng kia. Giống như nguyên tử di chuyển bên trong thân thể – không chỉ ở trong một phần của cơ thể bạn, mà là toàn bộ cơ thể bạn. Cũng y như cái khăn tắm bị ướt sũng đang bị vặn siết, vắt chặt lại cho khô – năng lực đó cũng tác động tương tự như thế đối với toàn thân thể bạn – hết sức đau đớn. Nó vẫn tiếp tục, thậm chí ngay bây giờ (thời điểm UG kể lại). Bạn không thể mời gọi nó được đâu; bạn không thể yêu cầu nó đến; bạn không thể làm được bất kỳ điều ǵ với nó được cả. Nó khiến cho bạn có cảm giác là nó đang bao bọc bạn lại, nó đang hạ xuống, rơi xuống trên bạn. Rơi xuống từ đâu? Nó từ đâu đến? Nó đến như thế nào? Mỗi lần nó hiển hiện là mỗi lần mới mẻ -- nó rất lạ lùng – mỗi lần nó đến bằng những đường lối, h́nh thức khác nhau, v́ vậy bạn không biết cái ǵ đang xảy ra. Bạn nằm thả ḿnh trên gường, và đột nhiên nó bắt đầu phát động – nó bắt đầu di động chầm chậm như là kiến ḅ. Tôi cứ nghĩ là có rận rệp trên gường nên tôi nhảy ra khỏi gường – không có rận rệp ǵ cả - rồi tôi trở lại gường nằm – nó bắt đầu phát khởi trở lại… Lông tóc bị nhiễm điện, và rồi năng lực đó từ từ di động.

Khắp cả ḿnh mẩy cơ thể đều bị đau nhức. Tư tưởng đă kiềm chế thân thể đến một chừng mực tối đa nào đó, và đến khi tư tưởng lơi ra th́ toàn thể sự trao đổi chất của các cơ quan trong thân thể bắt đầu bừng dậy và hoạt động mănh liệt cao độ. Toàn bộ sự thể đang tự thay đổi theo phương cách riêng của nó mà tôi không cần phải làm ǵ cả. Và rồi sự chuyển động của bàn tay tôi đă thay đổi. Thông thường bàn tay của bạn xoay theo chiều hướng này. (UG đưa bàn tay ra để biểu lộ…). Đây, khớp xương cổ tay này đă bị đau khủng khiếp trong sáu tháng cho đến khi nó tự xoay chuyển được, và bây giờ tất cả những sự chuyển động giống như thế này đây. Đó là lư do mọi người nói rằng sự vận động, xoay trở của tay tôi giống như là những cử chỉ phác họa dấu hiệu huyền bí. Sự chuyển động của bàn tay tôi bây giờ hoàn toàn khác hẳn trước đây. Rồi tiếp theo là những cơn đau bên trong tủy xương. Mỗi tế bào bắt đầu thay đổi, và tiến tŕnh này kéo dài liên tục trong sáu tháng.

Và sau đó những chất hoocmon giới tính bắt đầu thay đổi, tôi không biết tôi là đàn ông hay là đàn bà lúc đó – “Chuyện ǵ đây?” – đột nhiên có một cái vú nổi lên phía bên trái. Tất cả mọi thứ mọi điều… – tôi không muốn đi sâu vào chi tiết – v́ đă có hồ sơ ghi chép lại đầy đủ những sự việc đă xảy ra. Tiến t́nh thay đổi cứ diễn biến tiếp tục và tiếp tục. Phải mất hết ba năm trời để thể chất tôi bắt đầu hoạt động theo nhịp điệu sống mới lạ, tinh khôi của riêng chính nó.

florida80 10-15-2019 19:55

Hỏi:

- Chúng tôi có thể hiểu biết được “cách thức” Nó xảy ra thế nào với ông không?

UG:

- Rất tiếc là không được.

Hỏi:

- Chúng tôi có thể hiểu biết được “cái ǵ” đă xảy ra với ông chứ?

UG:

- Bạn có thể đọc những sự kiện diễn tả về cuộc đời của tôi, chỉ có vậy thôi. Một ngày nọ vào khoảng sinh nhật 49 tuổi của tôi, điều ǵ đó xảy ra; ngày kế tiếp th́ có một giác quan đă thay đổi; ngày thứ ba th́ giác quan khác thay đổi… Tiến tŕnh mọi sự đă xảy đến cho tôi đă được ghi chép lưu trữ lại. Điều đó có giá trị ǵ đối với bạn? Tuyệt đối là không có giá trị chút nào cả. Mặt khác nó rất nguy hiểm bởi v́ bạn cố gắng bắt chước những biểu lộ h́nh tướng bên ngoài. Người ta thường hay bắt chước những điều này và tin rằng điều ǵ đó sẽ xảy đến với họ -- đó là cái điều mà những người này thường hay làm. Tôi đă hành xử một cách b́nh thường, tự nhiên. Tôi cũng không biết cái ǵ đang xảy ra. Nó là một t́nh cảnh lạ lùng. Nó không để lại, lưu lại bất cứ dấu vết ǵ hết – mọi người sẽ chỉ bắt chước những h́nh tướng bên ngoài mà thôi. Tâm thái đó là một t́nh trạng hoàn toàn tự nhiên.

Từ trên đi xuống phần thân trên của UG, đầu và cổ, có những vị trí mà những người Ấn Độ sùng đạo gọi là “luân xa”, bạn của UG quan sát th́ thấy có những chỗ phồng lên với những h́nh nét và màu sắc đa dạng. Những chỗ ph́nh lên này lúc th́ ẩn lúc th́ hiện theo từng khoảng thời gian. Ở vùng bụng dưới của ông nổi lên một đường có h́nh dáng cỡ điếu thuốc x́-gà vắt ngang qua. Phía trên rún một chút th́ có một chỗ nổi u lên, rắn cứng, có h́nh nét giống như quả hạnh (almond). Ở giữa ngực th́ nổi phồng lên một dấu hiệu h́nh nét như tấm huy chương lớn, cứng rắn và có màu xanh. Một h́nh nét tương tự như thế, nhưng nhỏ hơn có màu đỏ nâu nổi phủ lên ở chỗ lơm cổ họng. Hai cái h́nh “huy chương” này dường như thể là hai khoen tṛn ph́nh lên treo lơ lững xung quanh cổ của ông, màu sắc biến đổi đa dạng – xanh dương, nâu và vàng lợt, y như là trong các bức tranh thượng đế của Ấn giáo (xem h́nh 1 - 2).

Hơn nữa có sự tương đồng giữa những chỗ nổi lồi lên này với những bức họa mô tả của nghệ thuật tôn giáo Ấn Độ: cổ họng của ông nổi phồng lên khối u mà khi nh́n vào th́ trông giống như là cằm của ông đang tựa nghỉ trên đầu của con rắn mang bành, như trong những h́nh ảnh cổ truyền về thần Shiva. Ở ngay phía trên chót sống mũi ông có một h́nh hoa sen màu trắng nổi đụn lên. Trải khắp ở trên đầu ông, những mạch máu nhỏ trương phồng lên bện lại, kết thành mẫu h́nh giống như trên đầu của những tượng Phật. Và cũng trên đầu có hai chỗ sưng u lên, lớn và cứng rắn, khi ẩn khi hiện, h́nh dáng giống như hai chiếc sừng của Môi-sen hay biểu tượng huyền nhiệm phần âm phần dương của đồ h́nh thái cực (xem h́nh 3 - 4 - 5). Những động mạch trên cổ ông trương phù lên, màu xanh dương và có h́nh dáng giống như con rắn đi thẳng lên trên đầu của ông.)

Tôi không phải là kẻ thích phô trương, nhưng bạn là bác sĩ; có những h́nh nét so với ư thức hệ biểu tượng ở Ấn Độ - h́nh tượng con rắn mang bành. Bạn có thấy những chỗ sưng phồng lên này không? Chúng nó có h́nh dáng của con rắn mang bành. Hôm qua là ngày trăng non (những ngày đầu tháng âm lịch). Thân thể bị ảnh hưởng bởi mọi sự đang xảy ra xung quanh bạn; nó không tách rời khỏi sự thể đang xảy ra chung quanh bạn. Bất cứ sự thể ǵ xảy đến ở đó th́ cũng xảy ra ở đây, chỉ là sự đáp ứng của cơ thể. Đây là sự tác động. Thân thể bạn bị ảnh hưởng bởi mọi sự đang xảy ra xung quanh bạn; và bạn không thể ngăn chận sự kiện này được. Lư do đơn giản là chiếc áo giáp (ư nghĩ, ư tưởng) mà bạn tạo nên bao bọc xung quanh bạn sẽ bị vô hiệu hóa đi, v́ thế nó dễ dàng bị xâm nhập bởi mọi điều đang xảy ra ở đó. Với những chu kỳ của mặt trăng – trăng tṛn, trăng khuyết – những chỗ nổi ph́nh lên này đây sẽ có h́nh tượng của rắn mang bành. Có thể đây là lư do tại sao một số người đă sáng tạo nên tất cả những h́nh ảnh này – thần Shiva và những h́nh ảnh tương tự như thế. Tại sao nó có h́nh dáng con rắn? Tôi đă hỏi nhiều bác sĩ tại sao nổi sưng lên ở đây, nhưng không có bác sĩ nào cho tôi câu trả lời thỏa măn cả. Tôi không biết là có những tuyến hoặc cái ǵ đó ở đây chăng.

Có những tuyến nhất định nào đó… Tôi đă thảo luận vấn đề này nhiều lần với các bác sĩ đang nghiên cứu về tuyến nội tiết. Những người Ấn giáo gọi những tuyến đó là những “luân xa”. Vị trí của những tuyến nội tiết này được định rơ một cách chính xác giốngnhư những vị trí mà người Ấn giáo suy đoán là những “luân xa”. Có một tuyến ở cổ được gọi là “ cơ quan tuyến nội tiết” (thymus gland). Tuyến này rất năng động khi bạn c̣n là một đứa bé – rất là năng động – nó có cảm xúc, nhạy cảm đặc biệt lạ thường. Khi bạn đến tuổi dậy th́ tuyến này trở nên thụ động, đó là những ǵ các bác sĩ, nhà nghiên cứu nói. Khi bạn có được thể nghiệm chứng ngộ, khi bạn được phục sinh, tuyến đó sẽ tự động hoạt động trở lại. V́ vậy tất cả cảm giác đều nằm ở đó. Sự mẫn cảm không phải là tư tưởng, không phải là t́nh cảm ủy mị; bạn cảm thông cho một ai, chẳng hạn vậy. Nếu một người khiến anh ta bị thương tích đau nơi nào đó, bạn cảm được nỗi đau ngay nơi chốn đó trên chính bạn – không giống như là cơn đau đớn, nhưng mà là cảm giác, bạn hiểu chứ -- bạn tự động cảm nhận ra và nói “Ah!”

Điều này quả thật đă xảy ra khi tôi lưu trú ở trong đồn điền cà phê: người mẹ đánh đứa con, đứa trẻ c̣n nhỏ. Bà ấy đang nổi khùng, cơn giận dữ chết người, và bà ấy đánh đứa trẻ rất nặng tay, đứa bé hầu như sợ hăi xanh mặt. Có một người hỏi tôi “tại sao tôi không ngăn can bà ấy lại?” Tôi đang đứng đó, hết sức bối rối, bạn hiểu chứ. Tôi mới trả lời người hỏi: “Tôi nên thương xót ai đây, người mẹ hay đứa con?” “Ai chịu trách nhiệm?” Cả hai bọn họ ở trong t́nh cảnh kỳ cục: người mẹ không thể kiềm chế cơn nóng giận, và đứa bé th́ bất lực và vô tội. T́nh trạng đó diễn biến tiếp tục – nó di chuyển từ người mẹ đến người con – và sau đó tôi phát hiện những dấu vết này trên lưng của tôi. Thế nên tôi cũng là một phần của họ. (Không phải tôi nói những điều này để yêu sách điều ǵ.) Sự việc đó có thể là vậy lắm bởi v́ tâm thức th́ không thể tách rời ra được. Bất cứ điều ǵ đang xảy ra ở đó sẽ tác động lên bạn, đây là ảnh hưởng, bạn hiểu không? Đừng có ngồi đó mà phán đoán, xét xử ai. Hoàn cảnh t́nh cờ xảy ra thế đó, v́ vậy bạn bị ảnh hưởng bởi nó. Bạn bị ảnh hưởng bởi mọi sự đang xảy nơi đó.

Hỏi:

- Trong toàn thể vũ trụ chăng?

UG:

- Điều đó th́ quá to tát, bạn hiểu chứ. Bất cứ sự việc ǵ đang xảy ra trong phạm vi tâm thức của bạn. Tâm thức, dĩ nhiên là không có giới hạn rồi. Nếu đứa bé bị đau ở đó, bạn cũng sẽ bị đau ở đây. Nếu bạn bị đau ở đây, th́ lập tức có sự đáp ứng ở đó. Tôi không thể nói về vũ trụ, toàn thể vũ trụ vạn vật. Nhưng tôi có thể nói về tầm ảnh hưởng trong phạm vi tâm thức của bạn, trong phạm vi giới hạn mà bạn đang hoạt động trong một khoảnh khắc riêng biệt nào đó, bạn đang đáp ứng – chứ không phải là bạn đang phản ứng.

Và có nhiều tuyến khác cũng ở tại đây… Rất nhiều tuyến. Thí dụ “tuyến yên” – “mắt thứ ba” (Ajna chakra), họ nói thế. Khi mà sự quấy nhiễu của tư tưởng không c̣n nữa, luân xa này được điều khiển bởi tuyến yên. Chính tuyến yên này đưa ra chỉ thị hay mệnh lệnh cho cơ thể; tư tưởng không c̣n ra chỉ thị nữa, tư tưởng không thể xen vào quấy nhiễu được. (Có thể đó là lư do tại sao họ gọi nó là Ajna – mệnh lệnh. Tôi không muốn dịch giải nó hoặc bất cứ sự việc ǵ như vậy; có thể qua điều diễn giải này bạn có một ư tưởng về nó.) Tuy nhiên ư tưởng này đă tạo tác nên chiếc áo giáp vô h́nh bao phủ quanh bạn, và chính nó không cho bạn bị ảnh hưởng bởi mọi sự vật xung quanh. ..

Tháng giêng 2007, U.G. Krishnamurti bị ngă, tuy không găy xương nhưng cũng làm UG phải nằm liệt giường . V́ không muốn làm phiền các bạn bè phải chăm sóc cho ḿnh nên UG đă nhịn ăn uống cho tới lúc từ giă cơi thế!

florida80 10-15-2019 19:58

Hiểu đúng về vô ngă (anatta)
trong Phật giáo



Cái mà người ta thường gọi là linh hồn, ngă hay cái tôi, là để ám chỉ một thực thể tuyệt đối, trường cửu trong con người, bản thể bất biến đằng sau thế giới hiện tượng hằng biến. Theo một vài tôn giáo, mỗi người có một linh hồn tách biệt như thế do Chúa tạo dựng, và linh hồn ấy sau khi chết sẽ vĩnh viễn sống trong địa ngục hay thiên đường. Số phận nó tùy thuộc vào sự phán xét của đấng sáng tạo ra nó. Theo một vài tôn giáo khác, linh hồn ấy trải qua nhiều đời sống, cho đến khi nó hoàn toàn trong sạch và cuối cùng trở thành đồng nhất với Thượng đế hay Phạm thiên Brahman, Linh hồn phổ quát hay Àtman từ đấy nó phát xuất. Linh hồn hay ngă trong con người là cái suy nghĩ, cảm giác, và nhận thưởng phạt về tất cả mọi hành vi thiện ác của nó. Một quan niệm như thế gọi là Ngă kiến.
.
Phật giáo là tôn giáo độc nhất trong lịch sử tôn giáo nhân loại phủ nhận hiện hữu của một linh hồn, Ngă hay Àtman như thế. Theo giáo lư Phật, ngă kiến là một niềm tin sai lạc, không tương ứng với thực tại, và nó phát sinh những tư tưởng tai hại về "tôi" và "của tôi", dục vọng ích kỷ không biết chán, sự chấp thủ, sân hận, ác độc, kiêu căng ngă mạn, và những cấu uế ô nhiễm khác cùng nhiều rắc rối. Nó là nguồn gốc của mọi rối ren trên đời, từ những tranh chấp cá nhân cho đến chiến tranh giữa các dân tộc. Tóm lại, tất cả mọi sự tác quái trên thế gian đều bắt nguồn từ quan niệm sai lạc này.
.
Có hai ư tưởng thâm căn cố đế trong tâm lư con người: tự vệ và tự tồn. V́ muốn tự vệ con người đă dựng nên Thượng đế để nương tựa, để được che chở, được an ninh bảo đảm, như một đứa trẻ nương tựa vào cha mẹ. V́ muốn tự tồn người ta đă sáng tạo ra ư tưởng về một linh hồn bất tử hay Àtman sẽ sống măi đến bất tận. Trong ngu si, yếu đuối, sợ hăi, khát khao, người ta cần hai điều ấy để tự trấn an, tự vỗ về; v́ lư do đó họ bám vào đấy một cách cuồng tín và hăng say.

Giáo lư Phật không dung dưỡng sự ngu si, yếu đuối, sợ hăi, khát khao ấy, mà cốt làm con người sáng mắt ra bằng cách trừ khử, tiêu diệt, nhổ tận gốc những thói này. Theo Phật giáo, những ư tưởng của chúng ta về thượng đế và linh hồn là sai lạc, trống rỗng. Mặc dù những ư tưởng ấy được phát triển sâu đậm, dệt thành những chủ thuyết, tất cả đều là những dự phóng tinh vi của óc tưởng tượng được gói ghém trong một mớ danh từ triết lư và siêu h́nh phức tạp. Những ư tưởng này đă ăn sâu gốc rễ trong tâm lư con người, gần gũi thân thiết với họ đến nỗi họ không mong nghe, cũng không muốn hiểu một đạo lư nào ngược lại.

Đức Phật biết rơ điều ấy, ngài dạy rằng giáo lư của ngài "đi ngược ḍng" (patisotagàmi), trái ngược với những dục vọng ích kỷ của con người. Bốn tuần lễ sau khi giác ngộ, ngồi dưới một gốc cổ thụ, ngài tự nhủ:

"Ta đă thực chứng một sự thực sâu xa, khó thấy, khó hiểu... chỉ những bậc trí mới hiểu thấu. Những người bị đam mê chế ngự, bị vô minh vây phủ không thể nào thấy chân lư này, v́ nó ngược ḍng, nó cao siêu, sâu kín, tế nhị và khó nghĩ bàn."

Nghĩ thế, đức Phật đă do dự một lúc:

"Có phải vô ích không nếu ta cố giảng giải cho thế gian Chân lư mà ta đă chứng nhập?"

Rồi ngài so sánh thế gian như một ao sen: trong ấy có nhiều hoa c̣n ở dưới mặt nước, có những hoa khác chỉ vừa ló lên trên mặt nước, nhưng cũng có những bông hoa đă vươn lên khỏi mặt hồ và không c̣n động chạm với nước. Cũng thế trong thế gian này, tŕnh độ phát triển của con người khác nhau. Có một số người sẽ hiểu được Chân lư. V́ thế đức Phật quyết định giảng dạy chân lư ấy[1].




.

Lư Vô ngă là kết quả tự nhiên, là hệ luận của phân tích Ngũ uẩn và Duyên khởi (hay duyên sinh, paticca-samuppàda)[2].
.
Trong phần thảo luận về Diệu đế thứ nhất (Khổ đế, dukkha), chúng ta đă thấy cái mà ta gọi linh hồn hay cá thể được cấu tạo bởi năm uẩn, và khi phân tích kỹ năm uẩn ta không thấy có ǵ đằng sau chúng có thể gọi được là Tôi, Àtman hay Ngă, hay bất cứ bản thể trường tồn bất biến nào. Đấy là phương pháp phân tích. Ta cũng có kết quả tương tự khi xét kỹ luật duyên khởi, phương pháp tổng hợp, và theo luật này th́ không có ǵ trên thế gian là tuyệt đối. Mọi sự vật (pháp) đều giới hạn, tương đối, và phụ thuộc lẫn nhau. Đây là thuyết tương đối của Phật giáo.
.
Trước khi thực sự đi vào vấn đề Vô ngă, ta nên có một ư niệm sơ qua về luật duyên khởi. Nguyên tắc của lư thuyết này được tóm tắt trong một công thức gồm 4 ḍng:

Cái này có, th́ cái kia có (imasmim sati idamhoti).
Cái này sinh, th́ cái kia sinh (imassuppàda idam uppajjati).
Cái này không, th́ cái kia không (imasmim asati idam na hoti).
Cái này diệt, th́ cái kia diệt (imassa nirodhà idam airujjhata) [3].
.
Theo nguyên tắc điều kiện tính, tương đối tính và tính hỗ tương tùy thuộc ấy, sự tiếp tục của đời sống và sự chấm dứt của nó được giải thích trong một công thức chi tiết gọi là duyên khởi, (nghĩa là sự sinh khởi có điều kiện hay duyên) gồm 12 yếu tố:


1- Vô minh (làm) duyên (cho) hành (những hoạt động cố ư hay nghiệp) (avijjàpaccayà samkhàvà).

2- Hành (làm) duyên (cho) thức (samkhàrapaccayà vinnànam).

3- Thức (làm) duyên (cho) danh sắc (những hiện tượng tâm lư và vật lư) (Vinnànapaccayà nàmarùpam).

4- Danh sắc (làm) duyên (cho) lục nhập (5 giác quan và ư thức) (Nàmarùpapaccayà salàyatanam).

5- Lục nhập (làm) duyên (cho) xúc (động chạm, tiếp xúc) (salàyatanapaccayà phasso).

6- Xúc (làm) duyên (cho) thọ (cảm giác) (phassapaccayà vedanà).

7- Thọ (làm) duyên (cho) ái (khao khát ham muốn) (vedanàpaccayàtanhà) .

8- Ái (làm) duyên (cho) thủ (bám víu, giữ lấy) (Tanhapaccayà upàdànam).

9- Thủ (làm) duyên (cho) hũu (quá tŕnh sinh ra và trở thành) (upàdànapaccayà bhavo).

10- Hữu (làm) duyên (cho) sinh (sự sống, sinh ra) (Bhavapaccayà jàti).

11- Sinh (làm) duyên (cho)

12- Lăo (già) tử (chết) ưu bi khổ năo (buồn lo đau đớn) (Jàtipaccayà jaràm maranam).
.
Đây là quá tŕnh theo đó sự sống đă phát sinh, tồn tại và tiếp diễn. Nếu ta đảo ngược công thức lại, ta sẽ đi đến sự chấm dứt của quá tŕnh:
.
Vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt, thức diệt th́ danh sắc diệt, danh sắc diệt th́ lục nhập diệt v.v.. cho đến khi sinh lăo, tử, ưu bi khổ năo... diệt.

Cần nhớ rơ một điều rằng mỗi yếu tố trên đây đều vừa là nhân vừa là quả, nó vừa bị định đoạt bởi (paticcasamuppanna), và vừa làm điều kiện cho (paticcasamuppàda)[4]. Bởi thế chúng đều là tương đối, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan với nhau, không có cái ǵ là tuyệt đối hay biệt lập, do đó mà Phật giáo không công nhận có "nguyên nhân đầu tiên" như ta đă thấy trước kia[5]. Duyên khởi nên xem như một ṿng tṛn, chứ không nên xem là một sợi xích[6].
.
Vấn đề ư chí tự do chiếm một địa vị quan trọng trong tư tưởng và triết học Tây phương. Nhưng theo luật duyên khởi, vấn đề này không phát sinh và không thể phát sinh trong triết học Phật giáo. Nếu toàn thể hiện hữu đều là tương đối, giới hạn và phụ thuộc nhau, làm sao một ḿnh ư chí có thể được tự do? ư muốn cũng bị giới hạn như bất cứ tư tưởng nào khác. Cái ta gọi là "tự do"chính nó cũng giới hạn và tương đối. Không thể có cái ǵ vật lư hay tâm lư có thể tuyệt đối tự do, v́ mọi sự đều tương quan và tương đối. "ư chí tự do" bao hàm ư nghĩa một ư muốn không phụ thuộc vào những điều kiện, biệt lập với nhân quả. Làm sao một ư muốn hay bất cứ cái ǵ thuộc về ư chí, có thể phát sinh mà không có những điều kiện, tách rời nhân và quả - khi toàn thể hiện hữu đều giới hạn và tương đối, nằm trong luật nhân quả? Lại nữa ở đây, ư niệm về ư chí tự do cũng liên quan mật thiết đến những ư tưởng về Thượng đế, linh hồn, công bằng, thưởng phạt. Không những cái gọi là tự do đă không tự do, mà ngay cả chính ư niệm về ư chí tự do cũng không thoát khỏi những điều kiện.
.
Theo luật duyên khởi, cũng như theo sự phân tích con người thành năm uẩn, ư tưởng về một bản thể trường cửu bất diệt ở trong hay ngoài con người, dù gọi là Àtman, Tôi, Linh hồn, Ngă, hay cái Ta, chỉ được coi như một niềm tin sai lạc (tà tín), một bóng dáng của tâm thức. Đây là lư thuyết Phật giáo về Vô ngă (anatta).

Để tránh một sự lầm lẫn, ở đây ta nên nhắc rằng có hai loại sự thật: sự thật ước lệ, Tục đế (sammutisacca), và sự thật tuyệt đối hay Thắng nghĩa đế (paramatthasaca)[7].
.
Khi ta dùng thường ngày những từ ngữ như "tôi", "anh", "linh hồn", "cá nhân" v.v.. không phải chúng ta nói dối, mà nói một sự thật thuận theo quy ước của thế gian. Nhưng sự thật tối hậu là không có "tôi" hay "linh hồn". Như kinh Mahàyànasùtràlankàra (Đại thừa nhập Lăng già) dạy:

"Một con người (pudagala) nên được xem là chỉ có trong sự giả lập (prajnapati) (nghĩa là theo quy ước th́ có một cá thể hay con người), chứ không phải trong thực tại (dravya)[8].

"Sự phủ nhận một linh hồn bất tử là đặc tính chung cho mọi hệ thống giáo lư Tiểu thừa cũng như Đại thừa, và như vậy không có lư do ǵ để quả quyết rằng truyền thống Đại thừa, một truyền thống hoàn toàn đồng quan điểm với Tiểu thừa trên vấn đề này, đă đi xa với giáo lư nguyên thủy của đức Phật." [9]

florida80 10-15-2019 20:01

Bởi thế, thật lạ lùng khi gần đây vài học giả (như bà Rhys Davids và những người khác)[10] đă cố - một cách vô vọng - xen ư tưởng về ngă vào trong giáo lư Phật, một điều hoàn toàn trái ngược với Phật giáo. Những vị học giả này kính trọng, ngưỡng mộ và sùng thượng đức Phật và giáo lư Ngài. Họ ngưỡng mộ Phật giáo. Nhưng họ không thể tưởng tượng được rằng đức Phật, người họ xem là tư tưởng gia sâu sắc và minh bạch nhất, lại có thể phủ nhận hiện hữu của Àtman, linh hồn hay ngă mà họ rất cần đến. Họ không biết rằng họ đang t́m sự ủng hộ của Phật cho nhu cầu này, nhu cầu một hiện hữu bất diệt - dĩ nhiên không phải trong một cái ngă nhỏ nhen cá biệt với một chữ n thường, mà trong cái Ngă với một chữ N hoa.
.
Tốt hơn, người ta nên nói thật rằng họ tin vào Àtman hay Ngă, hoặc người ta có thể nói ngay rằng Phật hoàn toàn sai lầm khi phủ nhận hiện hữu của một cái Ngă. Nhưng chắc chắn không ai nên đưa vào trong đạo Phật một ư tưởng mà Phật không bao giờ chấp nhận, như chúng ta có thể thấy từ những nguyên bản Pàli c̣n lại.
.
Những tôn giáo tin có Thượng đế và linh hồn không giấu diếm hai khái niệm ấy, trái lại c̣n tuyên bố chúng ra, lặp đi lặp lại nhiều lần bằng những từ ngữ hùng hồn nhất. Nếu quả t́nh Phật cũng chấp nhận hai ư tưởng ấy, hai ư tưởng tối quan trọng trong mọi tôn giáo, th́ chắc chắn Ngài đă công khai tuyên bố chúng như Ngài đă tuyên bố những điều khác, chứ không để cho chúng bị ẩn khuất để chỉ được khám phá ra 25 thế kỷ sau khi Ngài mất.
.
Người ta đâm ra nóng nảy khi nghĩ rằng qua giáo lư Vô ngă của Phật, cái Tôi mà họ tưởng tượng ḿnh có, sẽ bị phá hủy. Đức Phật không phải là không biết đến điều này.
.
Một hôm, một vị Tỳ kheo hỏi Ngài:

"Bạch đức Thế Tôn, có khi nào người ta bị dày ṿ bối rối v́ không t́m thấy được trong ḿnh một cái ǵ trường cửu?"

Đức Phật trả lời:

- Quả có như vậy, này Tỳ kheo. Khi một người có ư nghĩ "Vũ trụ là Àtman, sau khi chết ta sẽ là cái ấy, trường cửu, c̣n măi, kéo dài, bất biến, ta sẽ tồn tại như thế cho đến vô cùng", mà được nghe Như Lai hay một đệ tử của Như Lai giảng lư thuyết đưa đến sự phá hủy hoàn toàn mọi quan điểm tư duy... đưa đến sự dập tắt khát ái, đưa đến giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn; người ấy sẽ nghĩ: "Thế là ta sẽ trở thành hư vô, ta sẽ bị hủy diệt, ta sẽ không c̣n nữa." Do vậy nó rên rỉ, lo lắng, đấm ngực than khóc, và đâm ra hoảng hốt. Như thế, này Tỳ kheo, quả có trường hợp người ta bị dày ṿ khi không t́m thấy được trong nó một cái ǵ trường cửu [11].
.
Ở một đoạn khác, đức Phật dạy:

"Hỡi các Tỳ kheo, ư nghĩ "ta sẽ không c̣n tồn tại, không có ǵ nữa" làm cho những người ngu sợ hăi."[12]

Những người muốn t́m một cái "Ngă" trong Phật giáo lư luận như sau: Quả thật đức Phật đă phân tích con người ra sắc, thọ, tưởng, hành, thức (Ngũ uẩn), và bảo rằng không có ǵ trong những thứ ấy là Ngă. Nhưng Ngài không bảo tuyệt đối không có Ngă, nơi con người hay nơi nào khác ngoài năm uẩn.

Lập trường này không đứng vững được v́ hai lẽ:
.
- Lẽ thứ nhất là theo giáo lư Phật, con người chỉ là năm uẩn kết hợp không là ǵ khác. Không có chỗ nào Phật bảo c̣n có cái ǵ khác ở trong con người, ngoài năm uẩn.
.
- Lẽ thứ hai là nhiều lần Phật đă bác bỏ, bằng những lời lẽ minh bạch, hiện hữu của Àtman, linh hồn hay Ngă trong hay ngoài con người, hay bất cứ ở đâu trong vũ trụ. Đây là vài ví dụ:
.
Trong kinh Pháp cú (Dhammapada) có ba bài kệ vô cùng quan trọng và cốt yếu trong giáo lư Phật : bài 5, 6, 7 chương 20 (hay những câu thơ số 277, 278, 279).

Hai câu thơ đầu nói:

"Tất cả hành là vô thường" (sabbe samkhàrà aniccà) và
"Tất cả hành là khổ" (sabbe samkhàrà dukkhà).

[hành hay hữu vi, là những ǵ có sinh, trú và diệt; được kết hợp do các điều kiện - Dịch giả]
.
Câu thứ ba là:

"Tất cả pháp vô ngă" (sabbe dhammà anattà)[13].
.
Cần chú ư đặc biệt ở đây rằng trong hai câu đầu, chữ samkhàrà - "những sự vật có điều kiện" - đă được dùng. Nhưng trong câu thứ ba thay v́ chữ samkhàra, chữ dhammà đă được dùng. V́ sao câu thơ thứ ba đă không dùng chữ hành, samkhàrà, "sự vật có điều kiện", như hai câu trước, mà lại dùng danh từ pháp, dhammà thay vào? Chính đấy là điểm quan trọng nhất của vấn đề.
.
Danh từ hành, samkhàra[14] ám chỉ Ngũ uẩn, mọi sự vật và trạng thái bị giới hạn, phụ thuộc lẫn nhau, tương đối, mọi "pháp" vật lư cũng như tâm lư (sắc pháp và tâm pháp). Nếu câu thơ thứ ba nói: "Mọi hành (sự vật bị giới hạn) là vô ngă" th́ người ta có thể nghĩ sự vật bị giới hạn là vô ngă, tuy nhiên có thể có một cái Ngă ở ngoài những sự vật bị giới hạn đó, ở ngoài Ngũ uẩn. Chính để tránh sự hiểu lầm mà danh từ pháp (dhammà) đă được dùng trong câu thơ thứ ba.
.
Danh từ pháp có phạm vi rộng lớn hơn hành rất nhiều. Không có danh từ nào trong thuật ngữ Phật học lại có phạm vi rộng hơn chữ pháp. Nó bao gồm không những những sự vật và trạng thái có điều kiện, mà c̣n cả cái vô điều kiện, cái tuyệt đối, Niết-bàn; không có ǵ ở trong hay ở ngoài vũ trụ, tốt hay xấu, hữu vi (có điều kiện) hay vô vi (không điều kiện), tương đối hay tuyệt đối..., mà không được bao gồm trong danh từ này. Bởi vậy, thật quá rơ ràng, theo câu "tất cả pháp vô ngă" th́ không có Ngă, không có linh hồn, không những chỉ ở trong Ngũ uẩn, mà c̣n bất cứ ở đâu ngoài ngũ uẩn hay tách biệt với ngũ uẩn[15].
.
Theo giáo lư nguyên thủy, điều này có nghĩa rằng không có ngă ở trong con người (puggala) hay trong các pháp. Triết lư đại thừa cũng có một lập trường y hệt, không có một dị biệt nào về điểm đó, nhấn mạnh trên sự vô ngă của các pháp cũng như vô ngă của con người (pháp vô ngă, dhammanairàtmya và nhân vô ngă, pudgalanairàtmya).
.
Trong kinh Xà dụ Alagadddùpamasutta (Trung bộ I), Phật dạy môn đệ:

"Hỏi các Tỳ kheo, các ông có thể bám lấy một ngă luận (thuyết về ngă) nếu điều ấy không phát sinh sầu, bi khổ, ưu, năo. Nhưng này các Tỳ kheo, các ông có thấy một ngă luận nào như thế hay không, một ngă luận mà khi chấp nhận nó, sẽ không phát sinh sầu, bi, khổ, ưu, năo?

- Bạch đức Thế Tôn, nhất định là không.

- Chính thế, hỏi các Tỳ kheo, Như Lai cũng vậy. Này các Tỳ kheo, Như Lai không thấy một ngă luận nào mà nếu chấp nhận, sẽ không phát sinh sầu, bi, khổ, ưu, năo."[16]
.
Nếu Phật đă chấp nhận một ngă luận nào, th́ chắc chắn ngài đă giảng ra đây, v́ ngài bảo các Tỳ kheo hăy chấp nhận một ngă luận nếu luận thuyết đó không phát sinh đau khổ. Nhưng theo ngài, không có một thuyết nào như thế, và bất cứ một ngă luận nào, dù tinh tế và cao siêu đến đâu cũng chỉ là giả danh và tưởng tượng, sinh ra mọi vấn đề rắc rối, kéo theo những sầu, bi, khổ, ưu năo.
.


All times are GMT. The time now is 23:59.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.17661 seconds with 9 queries