![]() |
HẬU QUẢ CỦA SỰ TỨC GIẬN
Hậu quả cơn nóng giận bao giờ cũng nghiêm trọng hơn nguyên nhân. Sự tức giận không những làm tổn hại đến sức khỏe thể chất mà c̣n ảnh hưởng đến tinh thần chúng ta. Câu chuyện về cách hành xử của chàng trai sau đây sẽ giúp bạn b́nh tâm hơn để kiểm soát cơn nóng giận của ḿnh: Tức giận làm tổn hại sức khỏe thể chất và tinh thần. Tranh minh họa. Nguồn: wordpress.com Có người ngồi trên thuyền câu cá, bỗng thấy từ xa có chiếc thuyền to hơn đang tiến thẳng tới phía ḿnh. Anh vội vă ngừng câu, đứng lên khua tay khua chân, la hét cho chiếc thuyền kia thấy để tránh đừng đâm vào thuyền của anh. Mặc cho anh la hét và ra dấu, chiếc thuyền kia vẫn từ từ rẽ nước đâm thẳng tới. May là nó không đi nhanh nên chỉ đụng nhẹ làm anh té nhào xuống sàn. Quá giận, anh leo qua thuyền bên kia định đánh cho tên lái thuyền một trận. Bộ nó say rượu hay sao mà không thấy anh ra dấu? Sau khi t́m kiếm, lục soát một hồi, không thấy ai, anh mới vỡ lẽ ra thuyền này vô chủ, không có người lái, chắc nó tuột neo, trôi lang thang trên sông và đâm vào thuyền ḿnh. Liền khi đó cơn giận của anh biến mất v́ đâu có ai cố ư đâm vào thuyền của anh! Đâu có ai là thủ phạm đứng đó để anh chửi bới, đánh đập? Trong cuộc đời, nhiều khi chúng ta có cảm giác là người khác cố ư hăm hại, chửi bới, nói xấu ḿnh nhưng nh́n kỹ th́ họ là người máy vô chủ, điều khiển bởi chương tŕnh tham, sân, si, ganh tị, ích kỷ. Hiểu được như vậy th́ cơn giận của ḿnh tan biến mau chóng giống như anh câu cá trên. (Sưu tầm) |
19 ĐIỀU CẦN LÀM NGAY
19 việc làm dưới đây tưởng chừng như rất đơn giản trong cuộc sống hằng ngày nhưng lại khiến bạn trở nên khỏe mạnh hơn, cả về thể chất lẫn tinh thần. 1. Uống nhiều nước và trà xanh 2. Ăn nhiều trái cây, rau củ và thức ăn tự nhiên 3. Đi bộ, đi bơi hoặc chạy xe đạp 4. Đọc một quyển sách 5. Đi ngủ sớm 6. Ngừng ngay những suy nghĩ tiêu cực mà hăy nghĩ về bản thân bạn 7. Đừng quá hoài niệm quá khứ 8. Tận hưởng những điều nhỏ trong cuộc sống 9. Đừng phán xét hay so sánh người khác 10. Có thể tập Yoga hoặc thiền H́nh minh họa. Nguồn: Huffingtonpost.com 11. Đừng bao giờ bỏ cuộc 12. Tránh ăn đồ đóng hộp quá nhiều 13. Sắp xếp thời gian cho linh hoạt 14. Nghe một bản nhạc êm dịu 15. Sống gọn gàng 16. Mặc những bộ quần áo mà bạn thích 17. Bỏ đi những thứ không cần thiết 18. Nhớ rằng mọi cố gắng hôm nay sẽ được báo đáp trong tương lai 19. Đứng dậy, bước ra ngoài và hít thở khí trời. Sưu tầm |
NHỮNG BÀI HỌC TỪ ĐẠO KHỔNG TỬ
Những chân lư giản dị của Khổng Tử đi vào ḷng người tự nhiên nhất như đó chính là tiếng gọi từ bên trong tâm tưởng mỗi chúng ta. Dù thời gian trôi qua và thế giới có đổi thay thế nào đi nữa th́ những giá trị tinh túy nhất của Khổng Tử luôn măi sống với thời gian… 1. Thế Đạo Dù đối với bạn bè hay gia đ́nh, chúng ta đều phải biết các giới hạn của chúng ta nằm ở đâu. Trung dung (một trong những đạo của Khổng Tử) là tốt nhất. Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp các t́nh huống gây bối rối. Cha mẹ quá yêu thương con, nhưng điều ấy lại chỉ đẩy họ xa đứa con ḿnh. Bạn bè thân cận, gần gũi hết mức, nhưng lại thường kết thúc bằng việc làm tổn thương lẫn nhau. Có người t́m mọi cách cố gắng cải thiện mối quan hệ gần gũi hơn với cấp trên và các đồng nghiệp của ḿnh, nhưng kết quả thường hoàn toàn ngược lại. Khổng Tử khuyên rằng chúng ta phải giữ một khoảng cách nhất định với bạn bè hoặc với người trên của ta, và phải biết đâu là ranh giới nằm giữa sự thân cận và xa lạ. Sự độc lập và một khoảng cách tôn trọng là thiết yếu đối với phẩm giá của một cá nhân. Nó phải được duy tŕ, cho dù là giữa những người thân thiết với nhau. Đối với cả bạn bè lẫn gia đ́nh chúng ta cũng vậy. Bằng cách cho họ “khoảng không” cần thiết, chúng ta sẽ nhận ra những chân trời mới vốn luôn mở ra trước mắt ḿnh. “Những điều ḿnh nghe được rơ ràng, ḿnh nên nói một cách dè dặt” có nghĩa là phải cẩn thận khi bàn luận về những ǵ ḿnh đă nghe, kể cả những phần mà ḿnh nghĩ là đă hiểu rơ. “Nên thấy cho nhiều. Những điều ḿnh thấy chẳng rơ, có thể nguy hại th́ để qua một bên, đừng có làm” nghĩa là hăy nh́n xung quanh ḿnh và để qua một bên những ǵ ḿnh c̣n chưa chắc chắn. Sự lẫn lộn cũng như hầu hết những sai lầm con người gặp phải là kết quả của một tầm nh́n bị giới hạn: “Làm thế nào một con ếch ngồi đáy giếng có thể hiểu được sự bao la của đại dương hay sự cao rộng của bầu trời?” Tượng Khổng Tử đặt tại Quebec, Canada. Nguồn: Wikipedia. 2. Đạo Bằng hữu Nếu muốn hiểu ai đó th́ chỉ cần nh́n vào bạn bè của họ, bạn sẽ biết các giá trị và ưu tiên của họ. Khổng Tử nói rằng: “Có ba loại bạn có ích và có ba loại bạn có hại. Bạn ngay thẳng, bạn tín nghĩa, bạn nghe nhiều học rộng. Đó là ba loại bạn có ích cho ḿnh. Bạn giả dối, bạn khéo chiều chuộng, bạn hay xảo mị. Đó là ba loại bạn có hại cho ḿnh.” Người ta kết giao với những người bạn khác nhau trong mỗi giai đoạn của cuộc đời. Thay v́ đấu tranh với những người khác, tốt hơn là nên tranh đấu với chính ḿnh và cố gắng t́m những hướng đi mới để hoàn thiện bản thân. Hăy kết giao với những người bạn biết sống hạnh phúc và vui vẻ trong cuộc đời của họ như họ đang sống lúc này. 3. Đạo của Chí hướng Thành công trong nghề nghiệp chuyên môn của chúng ta không hẳn là ư hướng thực sự của tâm hồn ta. Khi Khổng Tử bàn về “Chí” với các học tṛ của ḿnh, ngài không có ư nói rằng chí càng cao th́ càng tốt. Mà điều ngài thực sự muốn nói là chúng ta phải kiên định trong mục đích và giữ thái độ kiên tŕ đối với sự xác tín nội tâm của ḿnh. Dù các mục tiêu của ta vĩ đại hay nhỏ bé th́ cơ sở để thực hiện hóa chúng vẫn nằm ở việc t́m ra những điều gần gũi nhất với tâm hồn ḿnh. Việc để tâm hồn ta dẫn đường quan trọng hơn việc theo đuổi những thành tích bên ngoài. Đạo “Chí hướng” sẽ mang lại cho ta một xuất phát điểm cố định và có thể tiếp cận được, một suối nguồn và kho chứa niềm hạnh phúc bên trong. 4. Đạo Nhân sinh “Tri thiên mệnh” là thái độ kiên định theo đuổi một mục đích mà chúng ta có thể dùng để ứng đối với thế giới bên ngoài. “Hiểu thông, thấu đáo những ǵ nghe được” là một sự cảm thông với thế giới và với mọi người trong thế giới ấy, tức là thái độ thấu hiểu và khoan dung. Dù chúng ta ở đâu, chúng ta cũng có thể để sức mạnh tinh thần của các bài học kinh điển xưa ḥa quyện với những luật lệ và các quy tắc đương đại, để nó trở thành một thành tố không thể thiếu trong cuộc sống của ḿnh, để mỗi người có thể xây dựng cho ḿnh một cuộc sống có giá trị. Đây chắc chắn là ư nghĩa tối hậu mà tư tưởng của Khổng Tử mang đến cho chúng ta trong cuộc sống hôm nay… Khổng Tử Tinh Hoa CHIA SẺ LỰA CHỌN LÀ MẶT TRĂNG HAY MẶT TRỜI? CHÂN THÀNH NHỮNG CÂU NÓI GÂY CHẤN ĐỘNG L̉NG NGƯỜI HỌC CÁCH 'TU KHẨU' NHỮNG ĐIỀU GIÚP CUỘC SỐNG TỐT ĐẸP TÂM HỒN CAO THƯỢNG BÊN TRONG MỘT ĐỨA TRẺ NGHÈO CUỘC SỐNG KHÔNG TỆ NHƯ BẠN NGHĨ 15 CÂU THIỀN NGỮ THỨC TỈNH TÂM HỒN VỚI T̀NH YÊU, TA CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC MỌI THỨ 9 ĐIỀU ĐEM ĐẾN CUỘC SỐNG TUYỆT VỜI 5 ĐIỀU TUYỆT VỜI VỀ BỐ SỐNG ĐƠN GIẢN CHO ĐỜI THANH THẢN SỰ HOÀN HẢO CỦA CHÚA 19 ĐIỀU CẦN LÀM NGAY NHỮNG BÀI HỌC TỪ ĐẠO KHỔNG TỬ ĐỪNG MONG... 5 ĐIỀU CẦN GHI NHỚ TIẾNG CHIÊNG ĐỒNG (*) HẬU QUẢ CỦA SỰ TỨC GIẬN PHÁT HIỆN ĐÁNG KINH NGẠC » Xem thêm Xem rơ hơn Bản đồ Thăm Viếng - Virtual Tours Social Media |
Con rái cá bị lột da
khiến thợ săn xuất gia nguoiphattu.com - Đây là một câu chuyện có thật, do một vị ḥa thượng đích thân kể lại. Ông nói rằng khi chưa xuất gia, ông từng là một người chuyên đi săn rái cá. Một ngày nọ, ông vừa ra ngoài đă săn được một con rái cá cái. Sau khi đă lột bộ da quư của nó, ông đặt con rái cá c̣n thoi thóp lên một băi cỏ. Sẩm tối, ông quay về chỗ cũ, nhưng không thấy con rái cá đâu cả. Ông quan sát kĩ, phát hiện trong đám cỏ có dính một chút máu, vết máu dẫn đến một cái hang nhỏ gần đó. Khi đến hang, nh́n vào trong, ông ngỡ ngàng giật ḿnh: Th́ ra con rái cá chịu nỗi đau đớn bị lột da, cố lết về hang của ḿnh. Tại sao nó lại phải làm như thế? Khi ông ta lôi con rái cá đă tắt thở ra, liền phát hiện có hai con rái cá con vẫn c̣n chưa mở mắt, chúng đang ngậm chặt đầu vú khô của rái cá mẹ đă chết. Nh́n cảnh tượng ấy, ông bàng hoàng sửng sốt, ớn lạnh cả sống lưng. Từ xưa đến nay, ông chưa từng nghĩ đến việc động vật lại có t́nh cảm mẹ con thiêng liêng đến mức ngay cả con người cũng không thể làm được. Trước lúc chết vẫn c̣n nghĩ đến cho đứa con sơ sinh bú sữa, v́ sợ con ḿnh đói. Nghĩ tới đó, bất giác người thợ săn thấy cay cay cánh mũi, nước mắt tuôn rơi, cảm thấy tội lỗi, xấu hổ vô cùng v́ hành động không thể dung thứ của ḿnh. Thế là, ông gác bỏ đồ đao, giă từ nghề săn rái cá, xuất gia tu hành. Mỗi lần vị ḥa thượng ấy nghĩ lại chuyện quá khứ của ḿnh, trong mắt lại ngấn lệ, chỉ trực trào ra... Mục đích thấp nhất của ăn uống là để chống đói bụng, nhằm đảm bảo sinh mệnh, mục đích cao nhất là v́ khoái khẩu. Mà giữa chống đói và khoái khẩu, khoảng cách của chúng đâu chỉ có trăm ngàn dặm, nhưng vị giác của chúng ta từ miệng cho đến yết hầu chỉ có hơn 10 cen-ti-mét, nuốt qua họng là chẳng c̣n cảm nhận được ǵ nữa. Chúng ta v́ sao không nhịn đi cảm giác kéo dài 10 cen-ti-mét mà lại đi tàn sát biết bao nhiêu sinh linh vô tội? Theo buzzhand.com |
Lời vàng Phật chỉ về sự nguy hiểm của tâm sắc dục đối với đời người
Thứ năm, 17/10/2019 | 15:51 Khi con người đam mê thích thú trên sắc dục th́ cũng giống như hai cục nam châm vậy, khi để gần nhau sẽ hút lấy nhau không bao giờ gỡ ra được. V́ do sự vô minh con người không nhận chân được sự thật của khổ đau, cho nên hằng cứ chạy theo cái ṿng lẩn quẩn đó. >>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về lời Phật dạy Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, rừng Jetavana, tại khu vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo! - Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: - Ta không thấy một sắc, nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông. - Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông. - Ta không thấy một hương….một vị... một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương... vị... xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông. - Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà như sắc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà. - Ta không thấy một tiếng... một hương... một vị... một xúc nào khác. Này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như tiếng... hương... vị... xúc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà. ( kinh Tăng Chi tập 1) Suy ngẫm lời Phật dạy: Đức Phật đă nh́n thấy được và hiểu biết một cách đúng đắn khi dùng chánh tri kiến (chỉ cho ư thức) suy tư về nội tâm sắc dục và về ngoại tâm sắc dục. Nên Ngài đă dạy cho hàng đệ tử xuất gia và hàng đệ tử tại gia vể sự nguy hiểm của tâm ái luyến sắc dục để tránh xa nó. Ảnh minh họa Đức Phật đă nh́n thấy được và hiểu biết một cách đúng đắn khi dùng chánh tri kiến (chỉ cho ư thức) suy tư về nội tâm sắc dục và về ngoại tâm sắc dục. Nên Ngài đă dạy cho hàng đệ tử xuất gia và hàng đệ tử tại gia vể sự nguy hiểm của tâm ái luyến sắc dục để tránh xa nó. Ảnh minh họa Bài liên quan Cảm xúc tiêu cực của tham ái dục vọng Thật vậy, đức Phật đă nh́n thấy được và hiểu biết một cách đúng đắn khi dùng chánh tri kiến (chỉ cho ư thức) suy tư về nội tâm sắc dục và về ngoại tâm sắc dục. Nên Ngài đă dạy cho hàng đệ tử xuất gia và hàng đệ tử tại gia vể sự nguy hiểm của tâm ái luyến sắc dục để tránh xa nó. Chính v́ vậy, Phật đă chỉ rơ sự ham thích về dục lạc là do khi sáu căn (mắt, tai, mũi, miệng, thân, ư) nó tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) rồi nó nhận biết trên sáu thức (sắc thức, thanh thức, hương thức, vị thức, xúc thức, và ư thức). Ngoại tâm sắc dục là khi 6 căn (mắt, tai, mũi, miệng, thân, ư) nó tiếp xúc với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), khi giao tiếp tiếp xúc với người khác phái th́ trên 6 căn này của mỗi người sẽ chạy theo tâm tư ham thích dục lạc, chỉ cho sự thích thú đam mê về sắc dục: Cũng như khi mắt nh́n thấy h́nh tướng (thấy thân thể, quần áo, đồ dùng) của người khác phái th́ nó sẽ đam mê theo, khi tai nghe tiếng nói của người khác phái th́ nó cũng đam mê theo, khi lỗ mũi ngửi hương thơm của người khác phái th́ tâm ham thích liền… Đó là chỉ cho sự ham thích trên ngoại tâm sắc dục. Cho nên đức Phật dạy trong một bài kệ sau: “Với mắt cúi nh́n xuống, Chân đi không lưu luyến, Sáu căn khéo hộ tŕ, Tâm ư khéo chế ngự, Không đầy ứ rỉ chảy, Không cháy đỏ bừng lên” Ngày ngày, chúng ta phải khéo léo giữ ǵn pḥng hộ sáu căn. Nếu như không khéo pḥng hộ th́ tâm ư dễ dàng buông lung, phóng túng theo sáu trần. Khi đă phóng tâm chạy theo rồi th́ muôn ngàn thứ đau khổ đau, hệ lụy, triền phược. C̣n trên nội tâm sắc dục th́ tâm tư ư nghĩ nó luôn hướng về, nghĩ đến những điều ham muốn về sắc dục rồi nó sẽ thể hiện qua hành động và qua ngôn ngữ đối với người khác phái. Hoặc nó luôn nhớ h́nh bóng của người khác phái, từ đó nó sinh tâm thương nhớ chờ mong da diết. Cho nên có một nhạc sĩ đă thốt lên rằng: “Người đi một nữa hồn tôi mất. Một nữa hồn tôi bỗng dại khờ” Đức Phật dạy ai c̣n ham thích về sắc dục th́ không thể nào tu hành giải thoát được. Chính v́ ham thích về sắc dục mà con người đă tạo ra hành động biết bao nhiêu điều ác để phục vụ cho nó. Ảnh minh họa Đức Phật dạy ai c̣n ham thích về sắc dục th́ không thể nào tu hành giải thoát được. Chính v́ ham thích về sắc dục mà con người đă tạo ra hành động biết bao nhiêu điều ác để phục vụ cho nó. Ảnh minh họa Từ đó đức Phật mới nói lên là tâm sắc dục có một sức mạnh cuốn hút mănh liệt như vậy. Cho nên Ngài mới lên rằng “ Ta không thấy một sắc, một hương, một vị, một xúc, một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như sắc,thanh, hương, vị, xúc, pháp người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông. Hoặc “. Ta không thấy một sắc, một hương, một vị, một xúc, nào khác. Này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như tiếng... hương... vị... xúc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà”. Bài liên quan Tâm tham và chuyển hóa tâm tham Đức Phật dạy chính tâm ham muốn về sắc dục này mà con người chịu muôn ngàn thứ khổ đau. V́ chính nó đă xâm chiếm và ngự trị trên thân tâm này, làm cho thân lẫn tâm lúc nào cũng khổ đau, huệ lụy. Chính nó là con đường mà con người phải gánh chịu bị quả khổ v́ phải trôi lăn trong sanh tử, chỉ cho tâm thức của chúng ta luôn luôn phải chịu đau khổ trên sáu trạng thái luân hồi, đó là sáu trạng thái (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, trời và atula), chỉ cho muôn ngàn thứ đau khổ, đó là Tập đế, tập đế là tập hợp muôn ngàn sự đau khổ. Khi con người đam mê thích thú trên sắc dục th́ cũng giống như hai cục nam châm vậy, khi để gần nhau sẽ hút lấy nhau không bao giờ gỡ ra được. V́ do sự vô minh con người không nhận chân được sự thật của khổ đau, cho nên hằng cứ chạy theo cái ṿng lẩn quẩn đó. Ai cũng biết rằng tâm ham muốn sắc dục (chỉ cho sự ham thích về dâm dục) là điều khổ đau, bệnh tật, nguy hiểm. Như thế mà ai cũng chạy theo đắm say theo nó. Khi trai lớn lên th́ có vợ c̣n gái lớn th́ phải có chồng, tuy điều đó là quy luật tự nhiên của con người. Nhưng nếu con người không chịu hiểu biết, nhận chân về cái quy luật này th́ con người sẽ bị ch́m trong khổ đau, hệ lụy. Cái hạnh phúc đó chỉ là thứ hạnh phúc giả tạm, mong manh. Cái hạnh phúc bị ràng buộc, bị chấp thủ, bị chi phối bởi đối phương của ḿnh. Cái hạnh phúc đó là cưới nhau về vài ngày đầu c̣n vui hạnh phúc, chưa căi lộn với nhau, c̣n trôn trọng nhau, nhưng qua một thời gian sống chung với nhau th́ không c̣n tôn tri trật tự với nhau nữa, không c̣n trôn trọng với nhau nữa, vợ chồng căi vă la lối um sùm cả làng cả xóm đều nghe hết. Có những người cưới nhau về cũng có hạnh phúc thật sự, vợ chồng thương yêu, chăm sóc quan tâm cho nhau, nhưng thứ hạnh phúc đó chỉ được hạnh phúc một trăm năm là cùng th́ ai cũng phải đến lúc chết, v́ định luật vô thường thân này cũng phải già chết…đó là sự sanh ly tử biệt. Như vậy mà con Người cho đó là thứ hạnh phúc vĩnh cửu, trường tồn, trường cửu. Đức Phật dạy chính tâm ham muốn về sắc dục này mà con người chịu muôn ngàn thứ khổ đau. V́ chính nó đă xâm chiếm và ngự trị trên thân tâm này, làm cho thân lẫn tâm lúc nào cũng khổ đau, huệ lụy. Ảnh minh họa Đức Phật dạy chính tâm ham muốn về sắc dục này mà con người chịu muôn ngàn thứ khổ đau. V́ chính nó đă xâm chiếm và ngự trị trên thân tâm này, làm cho thân lẫn tâm lúc nào cũng khổ đau, huệ lụy. Ảnh minh họa Đức Phật dạy ai c̣n ham thích về sắc dục th́ không thể nào tu hành giải thoát được. Chính v́ ham thích về sắc dục mà con người đă tạo ra hành động biết bao nhiêu điều ác để phục vụ cho nó. Hiểu được điều này mọi người đừng chạy theo tâm sắc dục, đừng có phục vụ nó. Nếu ai đă có vợ có chồng th́ phải biết sống chung thủy yêu thương đừng v́ nhu cầu ham thích sắc dục mà hành động theo nó, đánh mất hạnh phúc gia đ́nh, làm khổ ḿnh khổ người và làm khổ cả hai. Bài liên quan Tham sắc dục tạo nghiệp ǵ? Khi xưa, đức Phật c̣n đang là Thái tử. Ngài có một cuộc sống sung sướng giàu sang là con nhà quyền quư vua chúa. Ngài là một Thái tử có vợ đẹp, giữa Thái tử và công chưa Da Du Đà La không bao giờ tranh cải hay bất đồng quan điểm với nhau, Thái tử và công chúa sống yêu thương nhau hiểu nhau thông cảm nhau. Hai người đồng thời là vợ chồng, nhưng cũng chính là đôi bạn tri âm tri kỹ với nhau. Nhưng không v́ đó mà Thái tử đam mê đắm say theo nó. Mà Ngài c̣n suy tư, ưu tư đến những vấn đề khác, Ngài luôn thao thức suy tư về cái hạnh phúc tạm bợ của năm thứ dục lạc : danh (công danh, sự nghiệp), lợi (lợi dưỡng, cung kính), sắc (sắc dục), thực (thực phẩm), thùy (ngủ nghỉ). Chính năm món dục nó chi phối, nó tác động trên thân tâm của mỗi người. Ngài suy tư đến sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, ưu, năo là khổ… khi Phật ưu tư về bốn điều: sanh, già, bệnh, chết là khổ, là nguy hiểm th́ Ngài đă dũng cảm rời hoàng cung, rời vợ đẹp, rời con thơ để vào rừng sâu đi t́m chân lư. Đức Phật là một con người có trí nên nhận rơ, hiểu biết, giác ngộ được điều này là khổ nên Ngài từ bỏ tất cả sự giàu sang quư phái để xuất gia làm chủ được những thói hư, tật xấu, nguy hiểm đó. Đạo Phật trong khi thừa nhận cuộc đời có vị ngọt đó là thứ hạnh phúc mong manh. Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) và những ǵ con người cảm nhận được (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) những pháp này đều do duyên sinh, vô thường, khổ, chịu sự biến hoại. Nói khác đi, tất cả mọi thứ trên cuộc đời này, dù tốt hay xấu, hạnh phúc hay bất hạnh, đều phải thay đổi và không có tính cách trường cửu. Như vậy, sự nguy hiểm ở đây được hiểu theo nghĩa một quy luật tự nhiên, có sinh tức có diệt. Mặt khác, sự nguy hiểm của cuộc đời cũng được thấy rơ bởi ḷng tham lam ích kỉ của con người, tức là do khao khát muốn chiếm hữu và thỏa măn các vị ngọt hay lạc thú ở đời mà con người bất chấp đạo lư, rơi vào các hành vi ác, bất thiện như tranh chấp, chiến tranh, xâm lăng, mưu hại lẫn nhau, khiến gây khổ đau cho ḿnh và cho người khác. Đây là những ǵ đang diễn ra xung quang và hầu như khắp nơi trên thế giới. Thấy sự nguy hiểm của tâm sắc dục và hiểu rơ thân bất tịnh này. Con người muốn không c̣n khổ đau th́ nên suy tư đến nó để hiểu thấu đúng đắn, nhận chân được cuộc sống này để sống đúng đạo đức đừng làm ḿnh khổ, người khác khổ…Đó là một sự giải thoát. Ảnh minh họa Thấy sự nguy hiểm của tâm sắc dục và hiểu rơ thân bất tịnh này. Con người muốn không c̣n khổ đau th́ nên suy tư đến nó để hiểu thấu đúng đắn, nhận chân được cuộc sống này để sống đúng đạo đức đừng làm ḿnh khổ, người khác khổ…Đó là một sự giải thoát. Ảnh minh họa Đức Phật dạy muốn hiểu nó, không làm theo ch́u theo cái tâm sắc dục này nữa th́ phải quán thân này Bất tịnh, nó rất hôi thúi...Thật vậy, trong thân ta chứa đầy những đồ bất tịnh: đàm, mật, máu, mủ, mồ hôi, nước tiểu, phân, lông, da,...những đồ bất tịnh trên cái thân ngũ uẩn này được bao bọc bởi một lớp da. Cho nên Phât dạy thân này làm bằng xương, quét tô bằng thịt máu…Tuy vậy, Đức Phật c̣n quán chiếu: “Chẳng bao lâu thân này, sẽ nằm dài trên đất, bị vứt bỏ vô thức, như khúc cây vô dụng”. Bài liên quan Cảm xúc tiêu cực của tham ái dục vọng Đức Phật dạy thân này không phải là ta, là của ta, hay là tự ngă của ta. Mà thân này do vô minh (nghiệp) tạo thành thân tứ đại (đất, nước, lửa, gió). Thân tứ đại là thế, không có thực, do nhân duyên tứ đại hợp lại mà thành cái thân ngũ uẩn này. Bây giờ, con người có yêu thương đắm say theo nó, sẽ rất bị nguy hiểm trên cái thân này, có yêu thương, trân quư, bảo vệ, chăm sóc… trên cái thân này th́ nó cũng bị già, bị bệnh, bị chết. Cho dù có giàu có, tài sản nhiều cũng không thể nào mua được cái thân già làm cho trẻ lại, hoặc lấy tiền làm cho hết bệnh được, hoặc dùng tiền để đổi lại không bị chết được. Thấy sự nguy hiểm của tâm sắc dục và hiểu rơ thân bất tịnh này. Con người muốn không c̣n khổ đau th́ nên suy tư đến nó để hiểu thấu đúng đắn, nhận chân được cuộc sống này để sống đúng đạo đức đừng làm ḿnh khổ, người khác khổ…Đó là một sự giải thoát. |
Chuyển hóa nỗi đau phản bội theo lời Phật dạy
Thứ hai, 14/10/2019 | 13:39 Khi chẳng may bị phản bội, mỗi Phật tử được ánh sáng tri thức Phật giáo soi sáng, dẫn đường phải luôn quán chiếu, thực hành để chuyển hóa nỗi đau thành niềm hoan hỷ, biến cái “không hẳn” thành cái “chắc hẳn” để có được cuộc sống hạnh phúc trong thời khắc hiện tại này. >>Lời Phật dạy Đức Phật cho rằng: “Nếu trên đời này có cái thứ hai giống như nghiệp t́nh ái, th́ thế gian này không ai tu được, may mà chỉ có một thứ mà đă làm điêu đứng loài người”. Nhà khoa học vĩ đại Albert Einstein th́ cho rằng: “Định luật vạn vật hấp dẫn không thể chịu trách nhiệm cho việc con người ta yêu nhau”. Thật thế, t́nh ái luôn gắn liền với cuộc sống con người và đă trở thành nguồn cảm hứng thăng hoa muôn thuở của bao thế hệ nghệ sĩ với đủ cung bậc cảm xúc. Thế nhưng bên cạnh trái ngọt yêu và được yêu, t́nh yêu c̣n có trái đắng đau khổ của nó khi t́nh yêu gặp ngang trái mà đỉnh cao của nó là cảm giác đau khổ tột cùng do bị phản bội. Đau khổ có thể nói là thuộc tính của t́nh yêu. Đức Phật cho rằng: “Nếu trên đời này có cái thứ hai giống như nghiệp t́nh ái, th́ thế gian này không ai tu được, may mà chỉ có một thứ mà đă làm điêu đứng loài người”. Đức Phật cho rằng: “Nếu trên đời này có cái thứ hai giống như nghiệp t́nh ái, th́ thế gian này không ai tu được, may mà chỉ có một thứ mà đă làm điêu đứng loài người”. Cảm giác bị phản bội đối với mỗi người có lẽ khác nhau và cũng chẳng biết diễn tả chính xác ra làm sao để cho thấu đáo nỗi đau đó nhưng tác giả xin được dẫn rằng người ta ví cảm giác ấy như mũi dao đâm xuyên tim. Nhưng người ta cũng lại nói nỗi đau thể xác c̣n chữa lành được chứ nỗi đau tinh thần th́ biết làm sao cho lành. Có thể nói sự phản bội gây ra vết thương nghiêm trọng cho tâm hồn, khiến chủ thể day dứt măi về nó, có khi đến lúc chia ĺa cơi đời. Là người con Phật, chúng ta đă được dạy 4 yếu tố từ, bi, hỷ, xả để có được t́nh yêu cao đẹp, hướng thượng. Nếu chẳng may trong t́nh yêu bị bội bạc th́ hăy luôn biết làm chủ bản thân và vận dụng phương pháp để quên kẻ bội bạc, chuyển hóa nỗi đau, lấy lại cân bằng cuộc sống và đón nhận t́nh yêu mới tốt đẹp hơn bằng những cách sau đây: Những phương pháp chuyển hóa nỗi đau phản bội theo lời Phật dạy Hăy làm chủ để cứu bản thân ḿnh trước Người ta nói thế gian có 4 hạng người: “Hạng thứ 1 là kẻ si t́nh, hạng thứ 2 là kẻ tham vọng, hạng thứ 3 là kẻ do dự, hạng thứ 4 là kẻ ngu ngốc” Trong 4 hạng người đó th́ kẻ si t́nh là kẻ ngu ngốc nhất. Thật vậy, kẻ ngu ngốc cho dù khờ khạo cỡ nào c̣n biết bảo vệ mạng sống quư báu của ḿnh c̣n người si t́nh đôi khi không màng đến h́nh hài cha mẹ ban tặng mà liều lĩnh t́m đến cái chết để kết thúc tất cả chỉ v́ t́nh yêu, v́ ảo vọng với một người xa lạ. Bài liên quan Có phải vô ngă, vô thường là vô cảm với nỗi đau của người khác? Bản thân cái ư nghĩ tự tử để kết thúc sự tiếc thương, để chứng minh t́nh yêu, để trả thù người yêu… khi bị phản bội đều vô nghĩa lư chứ chưa nói hành động cụ thể tương ứng của nó. Đằng sau tất cả suy nghĩ, hành động dại dột ấy là sự thiệt tḥi oan uổng, nỗi đau khổ và biết bao hệ lụy mà chỉ có bản thân ḿnh và người thân ḿnh phải gánh chịu, trong đó đau đớn nhất là người cha, người mẹ đă sinh thành dưỡng dục, nuôi nấng chúng ta. C̣n kẻ phản bội, cứ cho là có chút day dứt đó nhưng rồi chả mấy chốc họ sẽ lại vui vẻ, bay nhảy bên người mới, sẽ tiếp tục thay người yêu như thay áo… và kết quả cuối cùng là chẳng bao giờ có được một t́nh yêu chân thành. V́ vậy, khi rơi vào hoàn cảnh tương tự, người Phật tử hơn ở chỗ biết rằng t́nh yêu cũng chỉ là một phần của cuộc sống và quán chiếu để nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời và tiếp tục sống tốt v́ thừa hiểu rằng khi một cánh cửa hạnh phúc đóng lại th́ sẽ có cánh cửa hạnh phúc mới đang chờ đón chúng ta. Cánh cửa sau này thể sẽ rộng mở, tràn ngập hương hoa dẫn lối vào ngôi nhà hạnh phúc mà ta mơ ước. Người ta nói thế gian có 4 hạng người: “Hạng thứ 1 là kẻ si t́nh, hạng thứ 2 là kẻ tham vọng, hạng thứ 3 là kẻ do dự, hạng thứ 4 là kẻ ngu ngốc”. Trong 4 hạng người đó th́ kẻ si t́nh là kẻ ngu ngốc nhất. Thật vậy, kẻ ngu ngốc cho dù khờ khạo cỡ nào c̣n biết bảo vệ mạng sống quư báu của ḿnh c̣n người si t́nh đôi khi không màng đến h́nh hài cha mẹ ban tặng mà liều lĩnh t́m đến cái chết để kết thúc tất cả chỉ v́ t́nh yêu, v́ ảo vọng với một người xa lạ. Người ta nói thế gian có 4 hạng người: “Hạng thứ 1 là kẻ si t́nh, hạng thứ 2 là kẻ tham vọng, hạng thứ 3 là kẻ do dự, hạng thứ 4 là kẻ ngu ngốc”. Trong 4 hạng người đó th́ kẻ si t́nh là kẻ ngu ngốc nhất. Thật vậy, kẻ ngu ngốc cho dù khờ khạo cỡ nào c̣n biết bảo vệ mạng sống quư báu của ḿnh c̣n người si t́nh đôi khi không màng đến h́nh hài cha mẹ ban tặng mà liều lĩnh t́m đến cái chết để kết thúc tất cả chỉ v́ t́nh yêu, v́ ảo vọng với một người xa lạ. Tuyệt đối không bao giờ được có ư nghĩ trả thù t́nh địch hoặc người yêu Tất nhiên không phải ủng hộ quan điểm thụ động cam chịu khi phát hiện ra người ḿnh yêu thương thay ḷng. Cho dù kẻ bội bạc là bạn đời của ḿnh hoặc mới là người yêu th́ chúng ta hoàn toàn có quyền được biết rơ nguyên do của sự phản bội đó để từ đó có cách giải quyết dứt điểm, rơ ràng. Thế nhưng xử lư như thế nào để sáng suốt và khéo léo lại không dễ dàng chút nào. Nhiều người trẻ tuổi cho đến những người từng trải trường đời khi rơi vào hoàn cảnh này đều không nh́n nhận căn nguyên sự bội bạc đó là do chính sự thay ḷng của người yêu, người bạn đời của ḿnh mà đổ lỗi hoàn toàn cho người thứ 3 rồi vạch kế hoạch “hoàn hảo” để trả thù với ư nghĩ “điên rồ” là trả được thù xong rồi có ngồi tù cũng cam ḷng. Hoặc có trường hợp nghĩ cách trả thù cả hai. Tác giả Sharon Rivkin viết rằng: “Bị phản bội giống như cả thế giới đang sụp đổ dưới chân, v́ thế, có thể làm những ǵ bản năng của bạn cho là phải”. Bài liên quan Lời Phật dạy về t́nh yêu thương qua 6 điều cần khắc cốt ghi tâm Thực tế xă hội hiện đại cho thấy nhiều người v́ ghen tuông mà dùng xăng thiêu chết chồng, dùng dao giết người yêu hoặc tạt a xít để hủy hoại nhan sắc của kẻ thứ 3 để người đó vĩnh viễn không thể đến được với ai. Nhưng sau tất cả thảm kịch đó, người lănh chịu hậu quả cuối cùng là bản thân ḿnh chứ chẳng phải ai khác. V́ thế mỗi Phật tử hăy luôn đặt câu hỏi căn vặn ḷng ḿnh rằng nếu dại dột làm vậy th́ ḿnh sẽ được lợi lộc ǵ? Ḿnh sẽ bị pháp luật xử phạt ra sao? Nếu ḿnh có chuyện ǵ th́ ai sẽ nuôi dạy con cái ḿnh? cha mẹ ḿnh sẽ đau khổ như thế nào?… để có được câu trả lời thỏa đáng cho việc khờ dại mà ḿnh có ư định làm. Chắc chắn nếu bản thân chúng ta biết trấn áp suy nghĩ dại dột th́ sẽ không bao giờ có hành động đáng tiếc xảy ra. Đó chính là ư nghĩa vô cùng quư giá từ lời dạy của Đức Phật rằng phàm làm một việc ǵ tất phải nghĩ đến hậu quả của nó. Tập quên dần đối tượng Mỗi người con Phật tử được nghe thuyết pháp, được truyền dạy tư tưởng của Đức Phật đều nhận thức được bản chất t́nh yêu cũng như mọi sự vật, sự việc trên đời là vô thường. Nghĩa là quy luật thời gian với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông sẽ không chỉ đem đến sự đổi thay cho mọi vật mà c̣n cho t́nh cảm, t́nh yêu của con người. Điều đó không có nghĩa là chúng ta cứ ngồi không mà tưởng nhớ, luyến tiếc về người đó để mặc vị thần thời gian làm nhiệm vụ chữa lành vết thương mà phải có phương cách riêng của ḿnh để những kỷ niệm, xúc cảm đối với người đó dần phai nhạt trong tâm trí. Nếu từng yêu ai đó thật ḷng th́ những ḍng tin nhắn, những h́nh ảnh trên trang mạng xă hội sẽ làm ta nhớ nhiều thêm, hoặc các đồ vật liên quan đến người đó sẽ luôn khơi gợi cho ta niềm tiếc thương kỷ niệm buồn. V́ vậy, chúng ta có thể tập quên dần đối tượng bằng cách cắt đứt mọi liên lạc: xóa hết tin nhắn, số điện thoại, fabook, zalo… và tất cả những kỷ vật hăy đem chôn cất vào kư ức. Khi cắt mọi liên lạc là ta đă triệt tiêu mọi điều kiện có thể khơi lại nỗi thương nhớ, luyến tiếc. Một điều rất đáng lưu tâm nữa là chúng ta không nên v́ quá cô đơn mà nhanh chóng t́m đối tượng khác lấp chỗ trống. Như vậy sẽ càng dẫn đến khổ đau cho ḿnh và cho đối phương khi t́nh yêu không có đủ sự hiểu và thương. Hăy tập quên dần đối tượng và khi có đủ duyên người mới sẽ xuất hiện như dân gian thường nói nôm na: “nồi nào vung ấy”. Dù biết rằng nói lúc nào cũng dễ hơn làm thế nên khi chẳng may bị phản bội, mỗi Phật tử được ánh sáng tri thức Phật giáo soi sáng, dẫn đường phải luôn quán chiếu, thực hành để chuyển hóa nỗi đau thành niềm hoan hỷ, biến cái “không hẳn” thành cái “chắc hẳn” để có được cuộc sống hạnh phúc trong thời khắc hiện tại này. Dù biết rằng nói lúc nào cũng dễ hơn làm thế nên khi chẳng may bị phản bội, mỗi Phật tử được ánh sáng tri thức Phật giáo soi sáng, dẫn đường phải luôn quán chiếu, thực hành để chuyển hóa nỗi đau thành niềm hoan hỷ, biến cái “không hẳn” thành cái “chắc hẳn” để có được cuộc sống hạnh phúc trong thời khắc hiện tại này. Nhớ rằng t́nh yêu là vô thường Bài liên quan Cách chuyển hóa để cứu ḿnh ra khỏi nỗi đau bị phản bội Như đă nói ở trên, bản chất của t́nh yêu vốn vô thường. Có thể ngày hôm nay chúng ta yêu say đắm thậm chí điên dại một người nhưng một thời gian sau cái yêu điên cuồng ấy cũng chẳng giống ban đầu măi. Hạnh phúc t́nh yêu của ngày hôm nay không giống y hệt hạnh phúc t́nh yêu của ngày hôm qua cũng như nỗi đau khổ quằn quại của đêm nay sẽ không thể nào “sao y bản chính” vào đêm mai. V́ thế t́nh cảm đối với người đă phụ ḿnh cũng sẽ dần phai mờ theo thời gian, theo quy luật vô thường mà thôi. Chúng ta hăy sống cho ḿnh, chăm sóc bản thân ḿnh bên cạnh sự quan tâm yêu thương từ phía gia đ́nh. Làm được điều đó chắc chắn cánh cửa hạnh phúc sẽ đang chờ đón chúng ta. Hăy làm công việc mà ḿnh yêu thích Nhiều người chiều theo ư chồng và hi sinh tất cả cho gia đ́nh bằng cách chấp nhận ở nhà chăm con cái và từ bỏ công việc mà bản thân đă làm rất tốt trước khi lập gia đ́nh. Để đến khi bị chồng phản bội th́ không c̣n biết bấu víu vào niềm vui nào, không c̣n biết nương tựa vào nguồn tài chính nào để trang trải cho cuộc sống và chăm lo cho con. Một kẻ đă bội bạc với vợ thông thường sẽ chẳng có trách nhiệm chu cấp cho con cái. V́ vậy, có công việc mà ḿnh yêu thích sẽ tạo cho chúng ta nguồn tài chính để không phụ thuộc một ai; cho chúng ta niềm vui để mau chóng “tiễn” kẻ bội bạc ấy vào dĩ văng; công việc cũng giúp ta có những người bạn tâm giao để chia sẻ buồn vui và biết đâu đấy cũng chính công việc cho ta cơ hội gặp một nửa thật sự của đời ḿnh. Dù biết rằng nói lúc nào cũng dễ hơn làm thế nên khi chẳng may bị phản bội, mỗi Phật tử được ánh sáng tri thức Phật giáo soi sáng, dẫn đường phải luôn quán chiếu, thực hành để chuyển hóa nỗi đau thành niềm hoan hỷ, biến cái “không hẳn” thành cái “chắc hẳn” để có được cuộc sống hạnh phúc trong thời khắc hiện tại này. |
Lời Phật dạy về t́nh yêu và t́nh dục
Thứ bảy, 21/09/2019 | 07:55 Qua những ǵ đă chứng nghiệm về t́nh yêu và t́nh dục mà người nam và người nữ dành cho nhau, Đức Phật dạy rằng Ngài chưa bao giờ thấy bất cứ đối tượng nào trong thế gian này lại thu hút sự chú ư của người nam hơn là h́nh ảnh người nữ. >>Phật tử có thể đọc loạt bài về Lời Phật dạy Có nhiều khuôn mẫu t́nh yêu khác nhau, và chúng được thể hiện khác biệt nhau như t́nh mẫu tử, t́nh phụ tử, t́nh huynh đệ, t́nh cảm, t́nh dục, t́nh yêu vị kỷ, và t́nh yêu vô lượng. Có nhiều khuôn mẫu t́nh yêu khác nhau, và chúng được thể hiện khác biệt nhau như t́nh mẫu tử, t́nh phụ tử, t́nh huynh đệ, t́nh cảm, t́nh dục, t́nh yêu vị kỷ, và t́nh yêu vô lượng. Phát khởi t́nh yêu chân thật Bài liên quan Đức Phật dạy về cách xa ĺa ái dục, xử lư năng lượng t́nh dục Có nhiều khuôn mẫu t́nh yêu khác nhau, và chúng được thể hiện khác biệt nhau như t́nh mẫu tử, t́nh phụ tử, t́nh huynh đệ, t́nh cảm, t́nh dục, t́nh yêu vị kỷ, và t́nh yêu vô lượng. Nếu người ta chỉ phát huy tính nhục dục hoặc t́nh yêu ích kỷ đem lại cho người khác th́ loại t́nh yêu này không thể bền vững. Trong mối quan hệ thương yêu chân thật, một người chồng chỉ quan tâm tới những khía cạnh t́nh yêu xác thịt, luôn nghĩ đến một người phụ nữ trẻ đẹp hơn. Loại t́nh yêu đó là t́nh yêu thú vật hoặc ḷng dâm dục. T́nh yêu cần được phát khởi một cách chân thành Nếu một người đàn ông thật sự phát huy t́nh yêu như là một sự biểu hiện mối quan tâm của con người với một con người, người này sẽ không đặt nặng vẻ đẹp bên ngoài và sự thu hút về thể xác của người phối ngẫu của ḿnh. Vẻ đẹp và sự hấp dẫn của người phối ngẫu sẽ ở trong trái tim và tâm (hồn) của anh ta. Người vợ theo giáo pháp Đức Phật th́ cô ta sẽ không bao giờ bỏ bê người chồng của ḿnh thậm chí khi anh ta già cả, nghèo khó hoặc bệnh tật. MĂ´ tả ảnh.Ảnh minh họa "Tôi có một nỗi lo sợ rằng một cô gái tân thời muốn trở thành nàng Juliet để có một tá chàng Romeo. Cô ta thích phiêu lưu trong t́nh yêu ... Người con gái tân thời mặc quần áo không phải để bảo vệ thân thể khỏi nắng mưa, gió rét, nhưng để thu hút sự chú ư. Cô ta nâng cao bản chất bằng cách tô điểm thân xác và trong có vẻ khác thường." - (Gandhi) T́nh yêu và T́nh dục - T́nh dục là một biểu hiện của t́nh yêu Bản thân t́nh dục không phải là Bản thân t́nh dục không phải là "Xấu xa". Nhưng sự cám dỗ và tham ái của nó đă quấy rầy sự an lạc của tâm, và như thế không dẫn đến sự phát triển tâm linh. Bản thân t́nh dục không phải là "Xấu xa". Nhưng sự cám dỗ và tham ái của nó đă quấy rầy sự an lạc của tâm, và như thế không dẫn đến sự phát triển tâm linh. Trong t́nh huống lư tưởng, t́nh dục là kết quả của một mối quan hệ t́nh cảm sâu sắc, ở đây cả hai bên cho và nhận b́nh đẳng. Bài liên quan Những lời Phật dạy sâu sắc về t́nh yêu đôi lứa Sự mô tả về t́nh yêu bởi những tập đoàn thương măi qua hệ thống thông tin đại chúng theo chúng ta cho rằng "Văn hóa phương Tây không phải là t́nh yêu thật sự". Khi một con thú hoang muốn t́nh dục, nó tỏ "T́nh yêu" của nó, nhưng sau khi thỏa măn t́nh dục, nó liền quên đi cái "Chữ t́nh". Đối với loài thú, t́nh dục chỉ là bản năng cần thiết đưa đến sự sinh sản. Nhưng con người có nhiều hơn để dâng hiến trong khái niệm của t́nh yêu. Bổn phận và trách nhiệm là những thành phần quan trọng để duy tŕ sự hài hợp, đoàn kết , và hiểu biết trong một mối quan hệ giữa nhân loại. T́nh dục không phải là thành phần quan trọng nhất đối với hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân. Những người đă trở thành những kẻ nô lệ cho t́nh dục chỉ làm tan mất t́nh yêu và ḷng nhân đạo trong hôn nhân. Ngoài điều đó ra, người phụ nữ phải ngừng ngay ư nghĩ xem ḿnh như là một món đồ vật của ḷng ham muốn của người đàn ông. Biện pháp khắc phục này nằm trong tay của phụ nữ hơn của người đàn ông. Cô ta phải từ chối việc trang điểm bản thân chỉ để làm hài ḷng người đàn ông, ngay cả người chồng ḿnh. Nếu cô ta muốn trở thành một người b́nh đẳng với một người đàn ông. Cô ta phải ăn mặc để chân giá trị của ḿnh được nâng cao, và không bị trở thành một biểu tượng t́nh dục. "Hôn nhân luôn chỉ cốt để thỏa măn ḷng ham muốn th́ không phải hôn nhân. Nó là tính dâm đăng." - (Gandhi) Thật sự t́nh yêu là sản phẩm của t́nh dục, nhưng điều trái ngược tương tự đúng như vậy: T́nh dục là một biểu hiện của t́nh yêu. Trong cuộc sống hôn nhân hạnh phúc lư tưởng, cả t́nh yêu lẫn t́nh dục không thể tách rời nhau. Lắng nghe lời dạy của Đức Phật Nếu chúng ta cố gắng kiểm soát và đè nén những cảm xúc của ḿnh bằng cách bắt chước những phương sách xa rời thực tế th́ chúng ta chỉ tạo nên những băng hoại trong thâm tâm của ḿnh. Nếu chúng ta cố gắng kiểm soát và đè nén những cảm xúc của ḿnh bằng cách bắt chước những phương sách xa rời thực tế th́ chúng ta chỉ tạo nên những băng hoại trong thâm tâm của ḿnh. "Qua những ǵ đă chứng nghiệm về những t́nh cảm mà người nam và người nữ dành cho nhau, Đức Phật dạy rằng ngài chưa bao giờ thấy bất cứ đối tượng nào trong thế gian này lại thu hút sự chú ư của người nam hơn là h́nh ảnh người nữ. Cùng lúc ấy sự thu hút chính đối với người phụ nữ là h́nh ảnh người nam. Theo tự nhiên có nghĩa là, người nam và người nữ đem lại cho nhau lạc thú trần tục. Họ không thể đạt được hạnh phúc này ở những đối tượng khác. Khi chúng ta quan sát cẩn thận, chúng ta nhận thấy rằng trong tất những sự việc đem lại khoái lạc, không có đối tượng nào khác có thể làm thỏa măn ngũ căn cùng một lúc ngoài h́nh ảnh của người nam, và người nữ." Người Hy Lạp cổ đă biết được điều này khi họ nói rằng, khởi thủy của người nam và người nữ là một, họ bị tách rời và hai phần được chia sẻ ra đó liên tục t́m kiếm để tái hợp lại. Theo tự nhiên, những người trẻ tuổi thích được hưởng thụ những niềm lạc thú trần tục mà chúng có thể là những điều tốt lẫn xấu. Những điều tốt như là sự thưởng thức âm nhạc, thi ca, khiêu vũ múa hát, thức ăn ngon, mặc đẹp và những theo đuổi tương tự thật sự không gây nguy hại cho cơ thể. Chúng chỉ làm cho chúng ta xao lăng không thấy được bản chất mong manh và bấp bênh của sự hiện hữu và do đó làm cho con người chúng ta không thể cảm nhận được bản chất thật của bản Ngă. Bài liên quan Cảm xúc tiêu cực của tham ái dục vọng Ngũ quan và những cảm giác của người trẻ tuổi hết sức nhạy bén và tinh anh, họ rất thích được thỏa măn ngũ căn. Hầu như mỗi ngày, họ dự tính và suy nghĩ về những phương cách để thỏa măn dục lạc. Bởi chính ngay bản chất của cuộc sống, người ta chẳng bao giờ hoàn toàn thỏa măn với bất cứ những khoái lạc mà chúng ta đă trải qua và kết quả bởi ham muốn đă liên tục chỉ tạo nên những sự khắc khoải và lo âu. Khi một người không c̣n khát khao dục lạc và không t́m kiếm sự thoải mái xác thân cùng với người khác phái. Nhu cầu lập gia đ́nh không c̣n phát sinh. Khổ và lạc thú trần tục cả hai là kết quả của ḷng ham muốn, chấp thủ và cảm xúc. Nếu chúng ta cố gắng kiểm soát và đè nén những cảm xúc của ḿnh bằng cách bắt chước những phương sách xa rời thực tế th́ chúng ta chỉ tạo nên những băng hoại trong thâm tâm của ḿnh. Do đó, chúng ta phải biết làm cách nào để điều khiển và kiểm soát sự đam mê của con người chúng ta. Không cư xử tệ bạc hoặc sử dụng sai trái sự đam mê này, chúng ta có thể huấn luyện những nỗi khát khao của chúng ta nhờ vào sự hiểu biết đúng đắn. |
Câu chuyện về vị Ḥa thượng ngày ngày đi mua thịt cá nhưng vẫn được vua Tự Đức khen thưởng
Thứ sáu, 16/08/2019 | 12:00 Khi nhắc đến Huế, chúng ta không thể không nhắc đến những ngôi chùa cổ trong đó có chùa Từ Hiếu. Từ Hiếu là một ngôi chùa được xếp vào hàng "danh lam cổ tự" nổi tiếng của xứ Huế. Gắn liền với ngôi chùa là câu chuyện hiếu nghĩa rất cảm động của vị Ḥa thượng đă khai mở ngôi chùa. >>Chân dung từ bi Cổng Tam quan chùa Từ Hiếu. Nguồn ảnh: Internet Cổng Tam quan chùa Từ Hiếu. Nguồn ảnh: Internet Chùa Từ Hiếu tọa lạc trên vùng đất rộng chừng 8 mẫu, xung quanh là những đồi thông tĩnh mịch bao bọc; bên chùa c̣n có khe nước chảy tạo thêm cảnh thơ mộng, tươi mát. Được biết ban đầu chùa chỉ là một am nhỏ thờ Phật được Ḥa thượng Nhất Định cho xây dựng. Ḥa thượng Nhất Định tên là Nguyễn Văn Nội, quê ở tổ Bích La, huyện Đăng Xuyên, tỉnh Quảng Trị (nay là xă Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), xuất gia tu hành từ thuở nhỏ tại chùa Linh Quang, tôn Ḥa thượng Phổ Tĩnh làm thầy và được đặt pháp tự là Nhất Định. Năm lên 7 tuổi, ngài từ giă song thân, vào đất Thần Kinh t́m đến ngài Đạo Minh – Phổ Tịnh, trú tŕ chùa Huệ Lâm – Huế để tu đạo. Năm lên 20 tuổi, ngài được bổn sư thế độ, ban cho pháp danh Tánh Thiên, pháp tự là Nhất Địnhvà được hội đồng thập sư đặt cách cho thọ tam đàn cụ túc tại chùa Quốc Ân – Huế với ngài Mật Hoằng. Sau mười năm ṛng ră theo thầy học đạo, vào ngày 14 tháng 11 năm Giáp Tuất, tức Gia Long thứ 13, ngài được bổn sư truyền đăng với bài kệ: Nhất định chiếu quang minh Hư không măn nguyệt viên Tổ tổ truyền phó chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên Việt dịch: Nhất Định chiếu sáng tinh Hư không trăng tṛn xinh Tổ tổ trao lời chúc Tánh Thiên từ Đạo Minh (TT. Thái Ḥa dịch) Vào tháng 11 năm Bính Tư, tức Gia Long thứ 15 (1816), bổn sư của ngài viên tịch. Ngài cư tang thầy và cũng chính năm này, ngài đă được tông môn cung thỉnh trú tŕ chùa Thiên Thọ, tức chùa Báo Quốc ngày nay. Với đức độ, ngài không những được tông môn thương kính, mà ngay cả vua quan trong triều cũng kính phục. Do vậy, vào ngày 1 tháng 8 Canh Dần, tức Minh Mạng thứ 11 (1830), vua Minh Mạng đă trao giới đao, độ điệp để ḥa thượng có cơ hội duy tŕ phật pháp và làm nơi nương tựa cho tăng tín đồ. Năm năm sau, khi được vua tặng giới đao, độ điệp, vào ngày mồng 1 tháng 10 năm Ất Mùi, tức Minh Mạng thứ 16 (1835), Ḥa thượng được bộ lễ dâng lên một lá thư cung thỉnh ngài giữ chức tăng cang Linh Hựu Quán (nay là nhà thờ Tây Linh). Năm 1839, vua Minh Mạng cho xây chùa Giác Hoàng trong thành nội. Chùa được xây dựng để kỷ niệm nơi phủ xưa khi vua c̣n là thái tử. Đặc biệt chùa này chỉ dành riêng cho nội cung. Và cũng trong năm này, ngài Nhất Định được vua Minh Mạng sắc phong làm tăng cang chùa Giác Hoàng. Những năm trước khi ngài Nhất Định chưa làm tăng cang Linh Hựu Quán và chùa Giác Hoàng, trai đàn chẩn tế hằng năm đều được vua chọn tổ chức tại chùa Thiên Mụ. Nhưng kể từ năm 1835, điểm chẩn tế để cầu nguyện quốc thái dân an được dời về Linh Hựu Quán và chùa Giác Hoàng. Điều ấy cho thấy, ngài được vua quan triều đ́nh kính trọng như thế nào. Hoà thượng Nhất Định nổi tiếng là người con có hiếu. Ảnh minh họa Hoà thượng Nhất Định nổi tiếng là người con có hiếu. Ảnh minh họa Năm 1843, sau khi từ chức Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự và trao quyền điều hành chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, Hoà thượng Nhất Định đă đến đây khai sơn, dựng Thảo Am An Dưỡng để tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ già. Hoà thượng Nhất Định nổi tiếng là người con có hiếu. Tương truyền có lần mẹ già bị bệnh rất nặng, hàng ngày ông lo thuốc thang nhưng bà vẫn không khỏi. Có người ái ngại khuyên ông nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, có làm được điều đó mới mong bà chóng hồi sức. Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, cứ chiều chiều người ta thấy Ḥa thượng chống gậy đi bộ t́m xuống chợ Bến Ngự mua được cá, treo trên đầu gậy trúc, đem về am nấu cháo hầu thân mẫu, nhờ đó mà mẹ Ngài mới qua được cơn hiểm nghèo, lần hồi bệnh thuyên giảm... Cũng v́ thường xuyên xuống chợ mua cá mà Ḥa thượng bị người đời x́ xào bàn tán dị nghị thành mang tiếng này nọ, chê cười đă đi tu mà c̣n phạm giới. Không giải thích, không thanh minh, Ḥa thượng cứ cứ mặc t́nh để họ mai mỉa, chấp nhận tai tiếng mà vẫn chẳng lưu tâm, một ḷng chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ cho đến khi b́nh phục. Nơi chôn cất của Ḥa thượng Nhất Định, người gắn liền với câu chuyện về tấm ḷng hiếu đạo. Nguồn ảnh: Internet Nơi chôn cất của Ḥa thượng Nhất Định, người gắn liền với câu chuyện về tấm ḷng hiếu đạo. Nguồn ảnh: Internet Câu chuyện vang đến tai Tự Đức. Vốn là vị vua rất hiếu thảo với mẹ, vua lên tận chùa để biết thực hư, rất cảm phục trước tấm ḷng của sư Nhất Định nên ban cho Sắc tứ Từ Hiếu tự. Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. Trong tấm bia ghi lại quá tŕnh xây dựng chùa giải thích: Từ: là đức lớn của Phật, nếu không từ th́ lấy ǵ tiếp độ tứ sanh cứu giúp vạn loại; Hiếu: là đầu hạnh của Phật, nếu không hiếu th́ lấy ǵ để đạt thông cơi nhiệm bao phủ đất trời. Sở dĩ vua Tự Đức đặt tên chùa là Từ Hiếu v́ muốn con cháu nhớ lại công hạnh tu hành của ngài Nhất Định và gương hiếu thảo của ngài. Và cái tên ấy cũng gợi lên được ḷng hiếu thảo của chính nhà vua. Từ và Hiếu đă trở thành hai chất liệu không thể thiếu trong một con người xuất gia. Điều đó có nghĩa là sáng đem niềm vui cho người, chiều giúp người bớt khổ. Đó là kim chỉ nam của người con Phật. Mỗi ngày, ta nguyện tu tập để chuyển hóa khổ đau, chế tác hạnh phúc, an lạc nơi bản thân, rồi giúp đỡ gia đ́nh, ḍng họ và những người xung quanh thực tập theo đúng chánh pháp, để họ biết sống vui, sống hạnh phúc. Đó là cách thể hiện ḷng hiếu, ḷng từ đúng nghĩa nhất. Chánh điện chùa Từ HIếu. Ảnh: PĐ. Chánh điện chùa Từ HIếu. Ảnh: PĐ. Chùa Từ Hiếu từ đó đă đi sâu vào ḷng người không phải bằng bề dày lịch sử hay công tŕnh tráng lệ mà nhẹ nhàng với trường ca hiếu nghĩa và độ sinh. Với câu chuyện cảm động về ḷng hiếu nghĩa của Ḥa thượng Nhất Định, chùa Từ Hiếu đă trở thành một biểu tượng của chốn thiền môn về đạo hiếu trong suốt nhiều thế kỷ qua. Và cũng không biết từ bao giờ ngôi chùa trở thành biểu tượng cho ḷng hiếu thảo của con cái đối với những bậc sinh thành. Điều đó đă thấm sâu vào đời sống văn hóa của người dân nơi đây như một nét đẹp. Cứ mỗi dịp Vu Lan về, các Phật tử lại đến chùa làm lễ và cài lên áo những đóa hoa màu hồng hoặc màu trắng để thể hiện tấm ḷng hiếu thảo của ḿnh. |
Ḥa thượng Cua và t́nh mẫu tử
Thứ bảy, 08/06/2019 | 16:30 Lịch sử Phật giáo có truyện Mục Kiền Liên cứu mẹ nhưng ít ai biết ngay ở Việt Nam cũng có câu chuyện cảm động về t́nh mẫu tử của một vị Ḥa thượng. Câu chuyện được nhắc tới là sự tích về việc Thiền sư Tông Diễn và mẹ ruột của ông. >>Chân dung từ bi “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với tinh thần đó, đọc lại lịch sử Phật giáo Việt Nam, nhất là qua gương sống của chư vị thiền sư, các bậc xuất gia, ngoài công hạnh tu tập, hành đạo, chúng ta c̣n gặp nhiều câu chuyện hiếu đạo hết sức đặc biệt. Trong số đó, phải kể đến Thiền sư Tông Diễn. Cách báo đáp thâm ân cha mẹ của Thiền sư Tông Diễn đă lưu măi trong ḷng người, vượt cả thời gian. Ảnh: Nhuận Thường Cách báo đáp thâm ân cha mẹ của Thiền sư Tông Diễn đă lưu măi trong ḷng người, vượt cả thời gian. Ảnh: Nhuận Thường Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chơn Dung (1640-1711), một cao tăng Việt Nam đă cứu Phật pháp thoát khỏi ách nạn vào đời Hậu Lê, mà suưt chút nữa vua Lê Hy Tông đă làm cho mai một. Và v́ thế, Sư đă trở thành bậc tôn sư của triều đ́nh đương thời. Tầm vóc là vậy, nhưng Sư vẫn là "Ḥa thượng cua" trong ḷng nhân gian, luôn sống măi với cái khoảnh khắc chóng vánh thuở thiếu thời. Thuở trước ở miền Bắc nước ta, có một chú bé mồ côi cha sống với mẹ tại một miền quê hẻo lánh nọ. Năm chú bé được 12 tuổi, bà mẹ vẫn c̣n buôn bán tảo tần nuôi con. Một hôm, trước khi mang hàng ra chợ bán, bà mẹ trao cho con một giỏ cua đồng, bảo giă ra nấu canh làm cơm trưa. Chú bé y lời mẹ dặn mang giỏ cua ra làm. Bất ngờ, vừa giáng chày đập con cua đầu tiên, thấy con vật quưnh quáng, quờ quạng tay chân t́m đường sống, chú bé chợt động ḷng bi mẫn, không nỡ tiếp tục, liền đem giỏ cua ra trút xuống ruộng. Tan chợ, bà mẹ mang hàng về. Nh́n mâm cơm đạm bạc, bà ngạc nhiên hỏi: - Thế, món canh cua đâu? Chú bé ấp úng: - Khi sáng con mang cua ra làm, thấy chúng nó khóc, con thương quá, nên. . . thả hết rồi mẹ ạ! Vừa đói, vừa giận, bà mẹ vơ lấy cây đũa bếp, gơ cho con một cái, chú bé hoảng sợ co gị chạy ra kỏi nhà. Chú đi, đi măi và xa mẹ từ đó. Bài liên quan Thiền sư Tông Diễn và câu chuyện cảm hóa nhà vua Ba muơi năm đă qua, Bà mẹ đă già nua, vẫn bán hàng từng buổi chợ để mưu sinh. Một hôm đang buổi chợ, bà gặp một vị Tăng trung niên, ghé qua hàng hỏi thăm qua gia thế và đề nghị giúp đỡ bà bằng cách đem về chùa nuôi dưỡng. Bà cụ nhận lời và vào chùa làm công quả từ dạo đó. Ngày tháng dần qua, đă đến lúc bà cụ từ giă cơi đời. Ḥa thượng trụ tŕ, tức vị Tăng đă đề nghị mang bà vào chùa dạo trước, có việc phải đi bố giáo phương xa. Trước khi đi, Ngài dặn các môn đệ rằng nếu bà cụ mất th́ chư Tăng cứ tẩn liệm nhưng đừng mai táng mà phải đợi Ngài về. Mọi người đều y lời. Bà lăo mất được một hôm th́ Ḥa thượng trở về. Đứng trước quan tài mẹ Ḥa thượng thắp hương khấn vái rằng: Trong kinh Phật có dạy, một người con tu hành đạt đạo, cha mẹ sẽ được sinh thiên. Nếu lời nói ấy không ngoa th́ xin cho chiếc quan tài này bay bổng lên và vỡ làm ba mảnh. Ḥa thượng vừa dứt lời, chiếc quan tài đựng thân xác bà cụ từ từ bay lên, bỗng hạ xuống vỡ làm ba mảnh. Trước sự kinh ngạc của toàn thể hội chúng, Hoà thượng bèn thuật lại thân thế của ḿnh, chẳng ai đâu xa lạ mà chính là chú bé thả cua dạo nọ. Từ đó, người ta gọi Ngài là Ḥa Thượng Cua, và cũng theo lời người ta kể ba mảnh vỡ của chiếc quan tài hiện vẫn c̣n tồi tại ở một ngôi chùa Bắc Việt để mọi người ghi nhớ câu chuyện lạ lùng và cảm động về Hoà Thượng Cua và vị thân mẫu sinh ra Ngài. Đó là một trong nhiều câu chuyện trong hành trạng của vị thiền sư Việt Nam đạo phong, liên quan tới hiếu đạo của người xuất gia. Ngài cũng là người sống gần dân, được người dân yêu quư gọi bằng tên mộc mạc là Ḥa thượng Cua. Cách báo đáp thâm ân cha mẹ của Thiền sư Tông Diễn đă lưu măi trong ḷng người, vượt cả thời gian. H́nh tượng và hạnh hiếu đó không chỉ lưu truyền trong dân gian mà đă được xây dựng thành h́nh tượng nghệ thuật, được chuyển thể qua các loại h́nh sân khấu, làm rung động ḷng người nhiều thế hệ. |
Ni sư Diệu Nhân: Tổ Sư Ni tiêu biểu nhất của Phật giáo Việt Nam
Thứ sáu, 18/10/2019 | 12:41 Ni sư Diệu Nhân là đệ tử của Thiền sư Chân Không nối pháp đời thứ 17 ḍng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi; là người tu hành đắc đạo, tài đức vang dội triều dă, công đức sánh ngang với hàng Tăng chúng; xứng danh là vị Tổ Sư Ni tiêu biểu nhất của Phật giáo Việt Nam. >>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Chân dung từ bi Ni sư Diệu Nhân là ai? Ảnh minh họa Ảnh minh họa Ni sư Diệu Nhân thế danh Lư Ngọc Kiều, sinh năm 1042, là trưởng nữ của Phụng Càn Vương - Lư Nhật Trung (con trai vua Lư Thái Tông). Bà thiên tư thuần hậu, ngôn hạnh đoan trang, được vua Lư Thánh Tông (1054 - 1072) nhận làm con nuôi, nuôi dạy trong cung từ nhỏ. Bài liên quan Ni sư sống tốt đời, đẹp đạo Đến tuổi trưởng thành, vua đem gả cho người họ Lê làm châu mục châu Chân Đăng. Chồng chết, bà không chịu tái giá, bèn xuất gia tu Phật. Được Thiền sư Chân Không (1046 - 1100) ở hương Phù Đổng nhận làm đệ tử, đặt pháp danh, thụ Bồ tát giới, trao truyền tâm ấn, trở thành người nối pháp đời thứ 17 ḍng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sau khi xuất gia bà dốc hết tư trang, gia sản bố thí cho dân chúng, chuyên chú học hỏi những điều tâm yếu của Phật pháp. Được Thiền sư Chân Không đưa đến trụ tŕ Ni viện Hương Hải thuộc hương Phù Đổng, huyện Tiên Du, nay là xă Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, trở thành bậc mẫu mực trong hàng Ni giới đương thời. Ngày 01 tháng 06 năm Quư Tỵ, niên hiệu Hội Tướng Đại Thánh thứ tư (tức ngày 15 tháng 7 năm 1113), thị tịch, thọ 72 tuổi để lại một bài kệ 7 câu 28 chữ có ư nghĩa nhân sinh và tư tưởng Phật học sâu sắc. Ni sư Diệu Nhân và Nguyên Phi Ỷ Lan là hai vị Ni - Nữ Phật tử nổi tiếng thời Lư, góp phần tích cực cho Phật giáo thời Lư phát triển rực rỡ và làm nền tảng cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam. Ni sư Diệu Nhân cùng bài kệ Thị tịch Ảnh minh họa Ảnh minh họa Bài liên quan Sư bà Diệu Không: Một nhân vật đặc biệt của Phật giáo Việt Nam thế kỷ 20 Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, vị thiền sư ni đầu tiên, người trưởng lăo ni tuyệt vời, c̣n lưu lại bài kệ thị tịch, những lời nói sau cùng, những lời nhắn bảo cuối cùng, những lời nói thật, gây chấn động mănh liệt nơi nội tâm, thức tỉnh chúng ta trên ḍng sinh tử, để lại dấu ấn đậm sâu, thắm đượm măi trong ḷng người đến tận hôm nay và mai sau. Ni Sư Diệu Nhân, và cũng là vị nữ sĩ ban đầu trong nền Văn Học Việt Nam. Dù chỉ một bài thi kệ, nhưng với một bài thôi, một lời thôi, những lời nói như nhiên, tự nhiên, những xác quyết rơ ràng về nguyên lư chân thật của kiếp người. Chừng đó, chỉ chừng đó, với chừng đó, cũng đủ bặt ngôn trọn ư, phủ trùm lên cơi tử sinh vô tận, đong đầy kín lối nẽo nhân gian, đưa đường dẫn lối chúng ta, từ sông mê bể khổ, t́m về bờ giác. Ngôn hạnh đoan trang, thuần hậu, bà được vua gả cho người họ Lê, không rơ tên, làm quan Châu Mục ở Chân Đăng, chồng mất bà thủ tiết không chịu tái giá. Một hôm bà nói: “Ta xem tất cả các pháp trong thế gian đều như mộng ảo, huống ǵ những thứ vinh hoa phù phiếm mà có thể trông cậy được hay sao?” Từ đó bà đi xuất gia, thọ giới với thiền sư Chân Không ở làng Phù Đổng, được thiền sư ban cho pháp danh Diệu Nhân, một bậc mẫu mực đức độ trong Ni chúng thời ấy. Vào ngày mồng một tháng sáu năm Hội Trường Đại Khánh thứ 4 (1113) đời vua Lư Nhân Tông, một hôm sư lâm bệnh gọi Tăng chúng đến đọc bài kệ thị tịch, sau đó sư tắm gội sạch sẽ, rồi ngồi kiết già viên tịch, thọ bảy mươi hai tuổi. Dưới đây là bài kệ: “Sinh, lăo, bệnh, tử Tự cổ thường nhiên Dục cầu xuất ly Giải phọc thiêm triền Mê chi cầu Phật Hoặc chi cầu thiền Thiền, Phật bất câu Uổng khẩu vô ngôn.” Dịch: Sinh, lăo, bệnh, tử Lẽ thường tự nhiên Muốn cầu thoát ly Càng thêm trói buộc Mê, mới cầu Phật Hoặc, mới cầu Thiền Chẳng cầu Thiền, Phật Mím miệng ngồi yên. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch, Thiền Uyển Tập Anh, trang 235. Trong sách Thiền Sư Việt Nam, Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch bài kệ thị tịch, trang 163 như sau: Sanh già bệnh chết Xưa nay lẽ thường Muốn cầu thoát ra Mở trói thêm ràng Mê đó t́m Phật Lầm đó cầu thiền Phật, thiền chẳng cầu Uổng miệng không lời. Bài liên quan Ni sư chùa Mía giật thót khi được gọi Mẹ ơi... Từ cô công chúa đến Thiền sư, từ nữ nhi cao sang quyền quư đến bậc xuất trần, một bước nhảy tâm linh cao tột, như đường tơ kẽ tóc, như nhát kiếm chém phăng vào ḍng nước không để lại dấu, cánh nhạn vượt trời không, lặng thinh phổ cập, một sự đến đi trong vô cùng không tận, không nghĩ chẳng bàn. Đọc bài thơ trên, chiêm nghiệm từng lời từng chữ, mỗi câu mỗi chữ là cả một sự đánh động vào tâm thức, thấm sâu lắng đọng, một sự đập thẳng dội mạnh vào tâm ư, sự khẳng định xác quyết về chân lư như thật, sự có mặt của tướng trạng, sự biến đổi của vô thường, chặng đường sanh lăo bệnh tử của kiếp nhân sinh, là sự hẳn nhiên, điều tự nhiên, là lẽ thường. Nh́n từ b́nh diện tỷ giảo, thước đo tâm thức, so sánh đối thoại, th́ thấy như vậy, có cảnh có người, có sinh có tử, có khổ có đau, và cũng vậy có sanh nên mới có tử, có thân ắt có bệnh, có già đương nhiên phải có chết, không ǵ khác hơn. Ở khía cạnh tâm linh giác ngộ, nhận biết bản thể như thật của các pháp, th́ không có tướng trạng, năng sở, đến đi, sanh diệt, c̣n mất, già chết, một sự thường hằng phổ cập, bất sinh trong sự sinh diệt, chân thường trong cơi vô thường, an b́nh trong sự biến động. Sinh, lăo, bệnh, tử, là danh từ trong nhà Phật, không phải sản phẩm của Đạo Phật. Đó là nguyên lư tự nhiên, lẽ thường, vốn như thế, sẵn như vậy, có như vậy, và như vậy, không ǵ có thể làm thay đổi, không ai có thể mặc cả trả giá, v́ là như vậy, chỉ có vậy, nên phải như vậy, chỉ vậy mà thôi. Bài thơ ấy, lời thơ ấy, thi kệ ấy, khiến ta nh́n thẳng, trực nhận thẳng vào thực tại, sáng tỏ trên ḍng nhân sinh, ḥa nhập với quy luật tự nhiên, hẳn nhiên của kiếp người, đất trời thi nhau phổ nhịp, thuận theo duyên theo, những nổi trôi đẩy đưa, vươn lên thoát khỏi thân phận mong manh, thong dong về miền xa thẳm, cuốn hút ở trời không, phổ giai điệu lên từng cung bậc, mở ra phương trời lắng đọng, một cơi thênh thang rộng mở. |
Ni sư Diệu Nhân: Tổ Sư Ni tiêu biểu nhất của Phật giáo Việt Nam
Ni sư Diệu Nhân là đệ tử của Thiền sư Chân Không nối pháp đời thứ 17 ḍng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi; là người tu hành đắc đạo, tài đức vang dội triều dă, công đức sánh ngang với hàng Tăng chúng; xứng danh là vị Tổ Sư Ni tiêu biểu nhất của Phật giáo Việt Nam. 18/10/2019 |
Trùng tang liên táng có thật không? Làm thế nào để hóa giải?
Thứ năm, 17/10/2019 | 14:20 Làm Phật tử quy y Tam Bảo, nhất nhất tin tưởng Phật pháp, tin Thầy Tổ hướng dẫn đạo, không tin vào những học phái không phải của Phật. Chúng ta có quyền nghiên cứu sâu, học hỏi các tín ngưỡng dân gian khác, nhưng không nghe theo, sẽ làm rối rắm thêm cho gia đình và tâm tư Phật tử. >>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về những Lời Phật dạy Hỏi: Không biết tại sao gần đây ở quê con rất nhiều người qua đời, nhất là tang trùng. Gia đ́nh con vừa xảy ra chuyện như vậy, ông nội vừa mất th́ tuần sau đến chú và chị họ con. Gia đ́nh và họ hàng con rất hoảng loạn, đi xem bói bảo là tang trùng, phải dùng bùa ếm và cúng giải hạn mới thoát nghiệp. Xin thầy cho con biết có tang trùng thật không và nguyên nhân v́ sao? Gia đ́nh chúng con nên làm như thế nào để giải nghiệp này. Đáp: Hiện tượng trùng tang liên táng Tại gia, khi có người thân qua đời chúng ta cũng không cần phải giở lịch ra xem coi “người ra đi” tốt hay xấu, chỉ lo niệm Phật trợ duyên cho người thân, nên chẳng có gì phải lo nghĩ phiền muộn, sợ sệt. Ảnh minh họa Tại gia, khi có người thân qua đời chúng ta cũng không cần phải giở lịch ra xem coi “người ra đi” tốt hay xấu, chỉ lo niệm Phật trợ duyên cho người thân, nên chẳng có gì phải lo nghĩ phiền muộn, sợ sệt. Ảnh minh họa Ông mất, Chú qua đời, Chị họ chết, đó là hiện tượng tử sanh, thân người là vô thường, khổ không và vô ngã, người qua đời như người thay áo cũ mặc vào áo mới, tiếp tục một hành trình khác và đi trong vô tận của cuộc đời, chẳng có gì phải nao núng, làm cho bàng quan thiên hạ động lòng trắc ẩn, nói ra, nói vào rốt rồi cũng bàn đến chuyện có hay không bị “trùng tang”, thật là khổ đau khi gia đình có người thân qua đời? Áp đặt việc “trùng tang liên táng”, được xem như là một “bản án” vô tình kết tội người mới qua đời! Bài liên quan Bùa ngải là ǵ? Quan điểm của Phật giáo về bùa ngải? Trùng tang liên táng là một hiện tượng ngẫu nhiên trong cuộc sống, có sống có chết của con người, nói cho đủ là: “Trùng nhựt, trùng thời, trùng tang, liên táng” thuộc tín ngưỡng dân gian có từ xưa, nhất là ở miền Bắc Việt Nam, nhưng ít có tài liệu lưu bản. Theo nhà Phật là hiện tượng thì không có thật, vì không có thật nên Phật tử không phải lo âu. Xưa nay không có nhiều tư liệu viết về hiện tương này, nhưng trong dân gian vẫn truyền miệng với nhau những trường hợp chết phạm vào “trùng tang liên táng” hết sức đau thương, thậm chí có nhà người đông đúc, thế mà chỉ vài ba năm phải chịu cảnh tuyệt tự? Trùng nhựt, trùng thời là người cùng huyết thống qua đời bất kỳ năm tháng nào, nhưng đến ngày người trực hệ trước qua đời thì có người trực hệ khác tiếp tục qua đời cùng thời gian đó. Trùng tang có nghĩa là người thân trong họ tộc trực hệ, có cùng huyết thống qua đời, gia đình đang thọ tang 03 năm (thực chất có 24 tháng), trong thời gian còn tang chế lại có người trực hệ cùng huyết thống kế tiếp qua đời, gia đình tiếp tục thọ tang… Liên táng là gia đình có người thân qua đời vừa chôn cất xong, lại tiếp tục có người qua đời… và như thế! Những cái chết xảy ra liên tục, làm cho gia đình hoảng hốt đi coi Thầy, Thầy nói có thần trùng lai vãng trong nhà? Cách hóa giải trùng tang liên táng Theo Phật giáo thì con người sau khi qua đời, thân ngũ uẩn đều được trả về với đất nước lửa gió, thức đại, không đại, không có gì tồn tại trong thế gian, mà chỉ còn lại nghiệp thức, khi sanh tiền tạo nhân nào, lâm chung tái sanh vào thế giới đó. Ảnh minh họa Theo Phật giáo thì con người sau khi qua đời, thân ngũ uẩn đều được trả về với đất nước lửa gió, thức đại, không đại, không có gì tồn tại trong thế gian, mà chỉ còn lại nghiệp thức, khi sanh tiền tạo nhân nào, lâm chung tái sanh vào thế giới đó. Ảnh minh họa Bài liên quan Trùng tang là ǵ dưới phân tích của nhà khoa học Theo Phật giáo thì con người sau khi qua đời, thân ngũ uẩn đều được trả về với đất nước lửa gió, thức đại, không đại, không có gì tồn tại trong thế gian, mà chỉ còn lại nghiệp thức, khi sanh tiền tạo nhân nào, lâm chung tái sanh vào thế giới đó. Ví dụ: sanh tiền người biết tu nhơn phóng sanh, làm phước, bố thí thì tái sanh vào nhà hiền đức quý phái, trường thọ; ngược lại tái sanh vào thế giới khổ đau, nghèo nàn; làm đồ tể tái sanh vào loài thượng cầm hạ thú, hay loài người nhưng phải gặp những khổ đau, luôn gặp nhiều cảnh khổ đau đớn, sống giở chết giở… Do vậy theo Phật giáo th́ không kiêng cử ngày giờ, nếu người thân qua đời là người tu hay Phật tử thì chỉ lo tang chay, thỉnh chư Tăng tụng kinh niệm Phật, hoặc gia đình tự tụng kinh niệm Phật thật nhiều và có tâm quyết, làm phước, phóng sanh, bố thí giúp cho hương linh người thân nghe kinh mau siêu thoát, siêu thoát thì không còn bị nhân quả xấu, trả vay vay trả trong 6 nẽo luân hồi sanh tử nữa, làm gì có những hiện tượng xấu đến với người còn sanh tiền. Theo tín ngưỡng dân gian: “Trùng tang” là chết trùng vào năm tháng ngày giờ, do mấy Thầy xem phong thủy, hay nhờ Thầy xem trong lịch số, thông báo cho tang chủ biết là người thân chết ngày trùng mà thôi, chứ không do người qua đời chết vào “ngày trùng”. Tại gia, khi có người thân qua đời chúng ta cũng không cần phải giở lịch ra xem coi “người ra đi” tốt hay xấu, chỉ lo niệm Phật trợ duyên cho người thân, nên chẳng có gì phải lo nghĩ phiền muộn, sợ sệt. Lại còn một điều này nữa, khi hữu sự nếu chúng ta mãi dựa vào lịch số phát hành ngày nay e sẽ không còn chuẩn mực, lý do sách xưa vẫn một mực, một bài vỡ, không thay đổi lý số vận mệnh, nhưng môi trường vũ trụ như: Hiệu ứng nhà kính, chiến tranh, núi lữa, động đất, sóng thần… làm cho không gian luôn thay đổi, nội dung sách tính theo thời gian, xem ngày giờ không còn chuẩn mực nữa! |
Theo Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương: Khi gia đình có người thân trực hệ qua đời, đi coi Thầy báo người qua đời nhằm vào ngày “trùng”, thì gia đình nên rước chư Tăng đến tụng kinh, niệm Phật, sau khi chôn cất xong, đem vong linh vào chùa phụng thờ, giúp cho vong linh gần Phật pháp, nghe kinh mà siêu thoát.
Thầy xin nhắc lại lần nữa: “Chúng ta không nên quan trọng quá về ngày “trùng tang liên táng”, áp đặt cho người thân qua đời, vì như thế tức là “lên án kết tội” người chết. Chẳng lẽ chúng ta “kết tội lên án” người thân của mình hay sau? Rất là phản lại những tình cảm thiêng liêng đối với người chết…” Làm Phật tử quy y Tam Bảo, nhất nhất tin tưởng Phật pháp, tin Thầy Tổ hướng dẫn đạo, không tin vào những học phái không phải của Phật. Chúng ta có quyền nghiên cứu sâu, học hỏi các tín ngưỡng dân gian khác, nhưng không nghe theo, sẽ làm rối rắm thêm cho gia đình và tâm tư Phật tử. |
Làm thế nào để hóa giải nghiệp chướng, mê tín dị đoan trong gia đ́nh?
Thứ ba, 15/10/2019 | 15:08 Giáo pháp Đức Phật dựa vào luật nhân quả để hướng dẫn con người thoát khỏi những tai ương, tự chúng sanh có thể tu tập làm lành lánh dữ, phát tâm ăn chay, giữ giới và giữ cho tâm tánh thật tĩnh táo, tránh luyến ái nhiều mà đọa lạc tử sanh. >>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Đức Phật Hỏi: Con rất đau khổ và không biết hóa giải như thế nào về chuyện giữa con và gia đ́nh. Con sinh ra trong một gia đ́nh không quá khó khăn nhưng khi nh́n nhiều việc xảy ra giữa gia đ́nh nội ngoại và chính ḍng họ ḿnh, con không cầm được nước mắt. Họ hàng con đều ít nhiều theo Phật giáo nhưng rất là mê tín dị đoan, toàn hay đi cúng bái, dùng bùa ngăi theo những người tà đạo, thầy bói để rồi tổ chức nhiều lễ cúng bái theo họ để đổi đời. Nhiều người học hành và có địa vị rất cao nhưng ḷng tham vô đáy. Từ nhỏ, con hay suy tư và buồn nên tâm rất bấn loạn, thể xác gầy yếu bệnh liên miên. Điều làm con khổ nhất là mẹ của con. Mẹ con rất là nóng nảy, bảo thủ, chỉ muốn mọi thứ theo ư mẹ, bắt mọi người phải phục tùng ḿnh nên con cũng phải sống theo con đường do mẹ con định ra. Bài liên quan Để không mê tín Thời gian gần đây, con biết được một chút về Phật pháp, được một số bạn trên mạng khuyên bảo, chỉ dạy tu hành, con mừng lắm th́ lại buồn hơn nh́n nghiệp quả gia đ́nh. Con không c̣n có thể nghe lời mẹ con bắt làm như xưa với những điều con cho là không đúng, trái với đạo lư hoặc ép người khác theo ḿnh. Nhiều lúc con rất là uất giận, buồn, không thể nào ngồi nghe mẹ nói măi nên bỏ đi th́ bị mẹ mắng chửi là con bất hiếu, dùng rất nhiều từ ngữ nặng nề. Con đă cố gắng nghe chỉ dạy ráng niệm Phật hồi hướng cho mẹ nhưng cũng chẳng hiệu quả ǵ. Con ngày càng chán nản và nhiều khi đă nghĩ đến việc không muốn sống dù biết theo Phật giáo là sẽ bị đọa. Xin thầy cho con lời khuyên làm cách nào để con hóa giải được chuyện này để con c̣n có niềm tin tiếp tục sống theo lời dạy của Đức Phật. Giáo pháp Đức Phật dựa vào luật nhân quả để hướng dẫn con người thoát khỏi những tai ươn, tự chúng sanh có thể tu tập làm lành lánh dữ, phát tâm ăn chay, giữ giới và giữ cho tâm tánh thật tĩnh táo, tránh luyến ái nhiều mà đọa lạc tử sanh. Ảnh minh họa Giáo pháp Đức Phật dựa vào luật nhân quả để hướng dẫn con người thoát khỏi những tai ươn, tự chúng sanh có thể tu tập làm lành lánh dữ, phát tâm ăn chay, giữ giới và giữ cho tâm tánh thật tĩnh táo, tránh luyến ái nhiều mà đọa lạc tử sanh. Ảnh minh họa Đáp: Việc gia đ́nh là mối tương quan ruột thịt, phải có tinh thần trên thuận dưới ḥa, sống có thứ lớp. Tuy nhiên về mặt tín ngưỡng, mỗi người có sự lựa chọn, chúng ta cũng không nên áp đặt buộc ai phải theo ai, Bạn không nên khổ tâm vấn đề nầy. Việc theo Phật cần có thời gian, nhơn duyên và sự tĩnh thức, khi nào họ thấy Đạo Phật là nguồn hạnh phúc cho gia đ́nh, có lợi ích cho các thành viên trong gia đ́nh th́ họ phát tâm đến với Đức Phật cũng không muộn. Bài liên quan Lại chuyện mê tín và chính tín Giáo pháp Đức Phật dựa vào luật nhân quả để hướng dẫn con người thoát khỏi những tai ươn, tự chúng sanh có thể tu tập làm lành lánh dữ, phát tâm ăn chay, giữ giới và giữ cho tâm tánh thật tĩnh táo, tránh luyến ái nhiều mà đọa lạc tử sanh. Sau đây thầy sẽ dẫn giải về ư nghĩa của niềm tin chân chánh để tự mọi người nhận định. |
Ban đầu theo Phật cần có niềm tin chánh tín: “Chánh” có nghĩa là sự đúng đắn, ngay thẳng, liêm khiết; “tín” là niềm tin. Hai từ “chánh” và “tín” ghép lại có thể được hiểu là niềm tin chân chánh. Phản nghĩa “chánh tín” là “mê tín”.
Ảnh minh họa Ảnh minh họa “Mê tín” là một dạng tin tưởng thiếu cơ sở, mơ hồ, hoang tưởng, ích kỷ, thiếu sự nhận định sáng suốt... không đem đến lợi ích cho cuộc sống cá nhân, gia đ́nh hay xă hội, thậm chí c̣n đem lại sự tổn hại cho gia đ́nh, như: Mất hạnh phúc, chia rẻ yêu thương, nghi kỵ lẫn nhau, cáu ghét đối phương, tạo nên môi trường nóng bức, phong ba băo táp cho những người thân yêu ruột thịt… Người mê tín đị đoan, ham thích “bùa ngăi, đồng bóng, thích cô cậu ông lên bà xuống” nên họ chỉ phụng sự cho bùa ngăi, cho mê tín dị đoan, cho ích kỷ, chứ không có thời gian rỗi rảnh lo cho ḿnh, cho gia đ́nh, một ít hạnh phúc cho thân tâm cũng không có, do bùa ngăi, đồng bóng xen vào giữa gia đ́nh rồi. Muốn gội rữa cho tâm hồn trong sạch, gạn đục lắng trong, làm cho thân tâm thanh thản, mọi người cần có sự tín tâm. Sự tín tâm trong Đạo Phật, trước nhất phải không do ai gợi ư, mà phải xuất phát từ một ư thức mới “vô duyên từ”, tự ta phát tâm t́m đến giáo pháp Đức Phật, t́m hiểu học hỏi, nghiên cứu thật sâu sắc về giáo lư Phật đà, như: cuộc đời của Đức Phật, vấn đề tam quy ngũ giới, những phương pháp cứu người khổ đau, oằn oại trong cuộc đời, học những hạnh lành của Phật, Bồ tát về các gương hiếu hạnh với mẹ cha, các pháp nầy xuất hiện th́ ư tưởng mê tín dị đoan tự nhiên rơi rụng và chấm dứt. Bài liên quan Không đưa mê tín vào ngôi nhà Như Lai Một số Phật tử hiện nay, t́m hiểu Đạo Phật thực dụng nhiều hơn là nghiên cứu tu học. Thực dụng là khi gặp những khổ đau th́ đến cầu Phật để được an lạc, song khi an lạc th́ không tín ngưỡng nữa. Các vị ít được giáo hóa tự ḿnh làm cho ḿnh an lạc. Ví dụ: Khuyến tấn tín đồ không làm ác là nhân, mọi việc lành đến là quả, đấy là tự ta cầu an cho ta đó. Giai đoạn hai phát tâm quy y thọ giới, khi đă có giới trong ḿnh, do giữ giới nên điều xấu ít đến và lần lượt không c̣n. Giai đoạn ba làm cho thân khẩu ư không c̣n nóng vội…nên các nghiệp chướng tự nhiên rơi rụng, thân tâm nhẹ nhàng, nhân cách khiêm cung, đáng mến, mọi người xung quanh nh́n thấy muốn làm theo, không cần khuyến thiện ai cả. Sở dĩ bạn khổ tâm là v́ tư tưởng của bạn và gia đ́nh c̣n “so le”, bạn muốn cho cha mẹ, anh em, mọi người đi theo ư hướng tu hành của bạn, nhưng v́ họ không làm theo, mà c̣n khuyên ngược lại bạn, trường hợp nầy v́ họ chưa đủ duyên lành để theo Phật, nên bạn khổ tâm đó thôi. Thầy có lời khuyên nên chấm dứt tư tưởng đó th́ an lạc. Khi nào các thành viên trong gia đ́nh đủ duyên lành th́ họ đến với Phật. Ảnh minh họa Ảnh minh họa Hằng ngày ngoài công tác xă hội và gia đ́nh, đêm đến rỗi rănh, 19 giờ nên niệm Phật, niệm danh hiệu: “Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát” 3 lần rồi tiếp đọc bài: Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau biết tất cả pháp. Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm được mắt trí huệ. Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau độ các chúng sanh, Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm được phương tiện khéo. Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau lên thuyền bát nhă. Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm được qua biển khổ, Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau được đạo giới định. Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm lên non Niết Bàn. Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau về nhà vô vi. Nam mô đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh. Nếu con hướng về nơi non đao, Non đao tức thời liền sụp đổ. Nếu con hướng về lửa, nước sôi, Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt. Nếu con hướng về cơi địa ngục, Địa ngục liền mau tự tiêu diệt, Nếu con hướng về loài ngạ quỷ. Ngạ quỷ liền được tự no đủ, Nếu con hướng về chúng Tu La, Tu la tâm ác tự điều phục, Nếu con hướng về các súc sanh, Súc sanh tự được trí huệ lớn. Mỗi đêm niệm chừng 20 phút, niệm xong rồi hồi hướng nghỉ ngơi cho thanh thản; Bạn sẽ an lạc |
Làm thế nào để biết được vong nhi đă được siêu độ? Ai phải chịu nghiệp báo phá thai?
Thứ tư, 16/10/2019 | 14:35 Các bạn Phật tử chúng ta, là những người con Phật đã thọ quy giới: thứ nhất không sát sanh - thứ hai không trộm đạo - thứ ba không tà dâm - thứ tư không nói dối - thứ năm không uống rượu. >>Những giáo lư Phật giáo nên đọc Ảnh minh họa Ảnh minh họa Hỏi: Vừa qua, con có xem một số bài viết về vấn đề nạo phá thai, nhân quả nghiệp báo của vấn đề này cũng như cách siêu thoát cho các vong nhi làm con rất xúc động. Tuy nhiên, con vẫn chưa hiểu rơ lắm là con nên làm như thế nào để cho vong nhi siêu thoát khi nơi con ở không gần chùa chiền, con lại không biết một quư sư thầy sư cô nào và quả thật là con không biết nên làm như thế nào hết. Làm cách nào con biết được vong nhi ấy đă siêu thoát và con có nên cầu nguyện cho vong nhi măi theo bên con hoặc là theo ông bà của con để khỏi bị bơ vơ không? Có phải việc nạo phá thai xảy ra th́ nghiệp tội đều do người phụ nữ gánh chịu cả nên nếu vong nhi trở lại quấy phá chỉ có người mẹ phải chịu quả báo hay cha của đứa bé có bị nghiệp báo không? Nếu con sinh ra một đứa con mà không thể nuôi nổi cho nó tốt khi điều kiện không có thể th́ việc nạo phá thai như thế tại sao có tội v́ như thế là con đă giúp cho vong nhi không phải bị đau khổ khi sinh ra trên cuộc đời. Xin thầy khai ngộ cho con được biết. Đáp: Theo quan niệm người xưa: “Trong một gia đình phải có đầy đủ hào con hào của…” mới gọi là gia đình hạnh phúc, gia đình có phước đức. Gia đình có phước đức sanh con, con sống vui khỏe, gia đình thiếu phước sanh con chết non, hoặc gia đình thiếu phước không sanh được con, dù người đó có tài sản thật nhiều, thật giàu sang phú quý, cũng gọi là gia đình “Thiếu phước” hay “Ác nhân” nên không sanh được con. Khi sanh con thì phải sanh con trai, sanh con gái thì bị xui xẻo, sanh con trai thì vui mừng đãi tiệc mừng tưng bừng, sanh con gái thì buồn rũ rượi như hoàng hôn phủ trên đường vế không lối. Tất cả các hiện tượng trên không là nguyên nhân để phá bỏ thai nhi, nhưng ngày nay lại trở thành “Việc thật” trên một vài xứ sở phá bỏ thai nhi nếu đó là “Nữ”. Quan niệm lạc hậu về sanh con trai con gái Ảnh minh họa Ảnh minh họa Bài liên quan Có nên lập bàn thờ, đốt vàng mă, cúng áo quần cho vong nhi không? Trong lịch sử nhân loại phương Đông, niềm ước mong có con trai hoặc gái đă xuất hiện từ thuở xa xưa. Đă biết bao nhiêu triều đại vua chúa v́ không có hoàng nam nối ngôi mà xáo trộn, bao nhiêu hoàng hậu bị bạc đăi v́ không sanh được hoàng tử mà đức vua cũng như thần dân mong muốn. Ngoài thứ dân th́ cũng đă nhiều xào xáo trong gia đ́nh v́ đứa con sanh ra không phải giới mà cặp vợ chồng mong đợi. Và người đàn bà vẫn là nạn nhân của niềm ước mong rất cá nhân này. Các cụ ta khi xưa th́ vẫn “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô ”. Một phần v́ cần con trai để nối dơi ḍng họ, phần khác v́ quan niệm “Con gái là con người ta”. Ngoài ra, c̣n nhu cầu nhân lực cũng như bảo vệ an ninh nên con trai vẫn được ưa thích hơn, nhất là với đứa con đầu ḷng. Khi được thăm ḍ ư kiến th́ đa số đàn ông, ngay cả các bà me, v́ đều muốn có con trai. Các nhà kinh tế lại c̣n nói rằng nuôi con gái cũng tốn kém hơn là nuôi con trai vậy. Nói gì thì nói, đối với loài người tiến bộ thì trai hay gái cũng là con, nam hay nữ cũng ngang tài ngang sức, cũng đấu tranh dành quyền lợi, cũng trí tuệ tuyệt vời như nhau, thậm chí còn tuyệt vời thông minh hơn. Con đường phụng sự cho gia đình và xã hội cũng chỉ do đôi bàn tay và trí tuệ, mà trí tuệ thì không phân biệt nam hay nữ. Việc phá bỏ thai nhi Một số quốc gia đông dân ngày nay có quan niệm khi biết thai nhi là nữ thì làm tổn hại thai nhi trước khi sanh, hoặc do việc hạn chế việc sanh con, hoặc chưa có gia đình mà có con, hoặc vì nghèo mà phá thai giúp cho con không sanh ra khỏi phải chịu cảnh nghèo khổ trong tương lai... nên việc nạo phá thai ngày càng phổ biến! Đó là những nguyên nhân thật khắc nghiệt của con người trên hành tinh. Siêu độ thai nhi Bài liên quan Bài văn phát nguyện sám hối, cầu siêu cho sản nạn, thai nhi Tại các chùa ở Việt Nam, nhất là Quan Âm tu viện tiếp nhận các “Bà Mẹ” đến xin đặt tên và đặt pháp danh quy y vong, thờ vong linh thai nhi thật nhiều, có “Bà Mẹ” làm tổn hại thai nhi đến 6 lần, cho đến khi biết đó là “Trọng tội” thì hoảng hốt sợ sệt, đi coi “Thầy bói” phán là có thai nhi đeo bám, thai nhi nhập, nếu muốn “Không bị đeo bám” thì thờ cúng! Bày vẻ cúng kiến linh đình thật hao tốn vô ích. Tai hại vô cùng, khổ tâm cho các “Bà Mẹ bất đắc dĩ”, hằng ngày phải tự nghi nghi ngờ ngờ, chẳng biết đi đường nào để thoát hiểm, nhất là bị dư luận ghép vào trọng tội “Giết con”, “Sát sanh”, “Giết người”… ôi thôi dù không điên cũng phải điên bạn ạ! Thêm một nổi khổ “Vong nhập, nói tiếng ú ớ như trẻ con”, có người cứ tin vào việc có vong nhập, mà phải cho vong nhập hành hạ để trả quả báo. Có “Bà Mẹ” quyết định có vong nhập và phải cho vong nhập, hằng ngày không có vong nhập, không hoan hỷ, hết vong nâày tới vong khác, nhất là làm cho có vong nhập giùm cho thiên hạ! “Áp vong” đấy, thật khổ đế lắm bạn ơi! Việc siêu độ thai nhi là việc làm bất đắc dĩ, vong thai nhi là một hiện tượng siêu hình, tin có là có, nói không là không bạn ạ! Bạn đừng quan tâm chú ý đến thì chẳng có gì cả, khi bạn quan niệm là có thai nhi nhập, thì chắc chắn bạn sẽ vướng bận thôi, thậm chí bạn sẽ điên đấy! Theo giáo lý nhà Phật Ảnh minh họa Ảnh minh họa Mọi việc đều không thật, việc trên chỉ là diễn giả độ chơn đó thôi! Sở dĩ nhà Chùa đặt tên, pháp danh và thờ vong nhi là để khuyến thiện người hiện tiền không nên sống phóng túng trong dục lạc, không có tâm sát sanh, hiểm độc, không làm việc ác nhân, thất đức. Bài liên quan Nạo phá thai tạo nghiệp ǵ? Các bạn Phật tử chúng ta, là những người con Phật đã thọ quy giới: thứ nhất không sát sanh - thứ hai không trộm đạo - thứ ba không tà dâm - thứ tư không nói dối - thứ năm không uống rượu. Các bạn phải giữ giới không sát sanh, tức là không làm tổn hại thai nhi, không sát sanh thì bạn chẳng còn lo âu gì nữa bạn ạ! Không uống rượu thì không sanh dục lạc, không dục lạc nhiều thì không có “Con”, không có “Con” thì làm gì có việc làm hại thai nhi. Các bạn giữ giới không tà dâm, tức là hạn chế sanh con, bạn không phóng túng trong việc sống chung giữa vợ và chồng, chắc chắn bạn không bao giờ làm tổn hại thai nhi đó Bạn ạ, vì không phóng túng tức không vướng bận việc con cái nhiều, không vướng bận thì không có việc sát sanh, không làm tổn hai thai nhi. Chỉ có thế thôi bạn ạ! Chúc các bạn hạnh phúc, an lạc trong ánh hào quang Đức Phật |
Niệm Phật, cầu nguyện hạnh phúc b́nh an có phải đi ngược với quy luật nhân quả?
Thứ năm, 17/10/2019 | 09:31 Năm 523 (trước Công nguyên), Bồ tát Sĩ Đạt Ta ra đời, giác ngộ đi tu thành Phật là bức thông điệp phá tan giấc ngủ trong đêm dài của loài người, cảnh giác những ai tin vào số phận và cúi đầu chấp nhận khổ đau rơi lệ trước thần linh. >>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Lời Phật dạy Hỏi: Giảng sư có nói không nên coi đức Phật là bậc thần linh có quyền ban phước giáng họa cho chúng sinh mà đức Phật chỉ là bậc giác ngộ trước, là người đi trước chỉ dẫn cho chúng sinh con đường giải thoát. Mọi khổ đau, hạnh phúc đều do nghiệp báo thiện ác sai biệt của mỗi chúng sinh mà đến. Vậy khi ta niệm Phật cầu b́nh an cầu sự nghiệp ... và một số kinh dẫn giải việc đọc kinh đó bao nhiêu lần th́ mọi cầu nguyện sẽ đạt được, điều này có vẻ mâu thuẫn với ư trên. Vấn đề này cần hiểu như thế nào cho đúng, thưa thầy? duc-phat-toa-thien-duoi-goc-bo-de-chaymoc Đáp: Tín ngưỡng của ngoại đạo (Bà-la-môn giáo, Ấn Độ giáo) là tín ngưỡng thần quyền; quan niệm thần thánh có quyền năng ban phước giáng họa cho chúng sanh và con người, do đó con người phải bị đầu hàng số phận và bị cầm tù trong thế giới khổ đau, sanh tử luân hồi không lúc nào thoát khỏi. Bài liên quan Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín? Năm 523 (trước Công nguyên), Bồ tát Sĩ Đạt Ta ra đời, giác ngộ đi tu thành Phật là bức thông điệp phá tan giấc ngủ trong đêm dài của loài người, cảnh giác những ai tin vào số phận và cúi đầu chấp nhận khổ đau rơi lệ trước thần linh (ư tưởng xă hội Ấn Độ trước khi đức Phật ra đời - Việt Nam Phật giáo Sử luận của Nguyễn Lang; Đạo Phật Việt Nam của HT. Thích Đức Nghiệp) Xă hội Việt Nam, trải suốt mấy ngh́n năm cũng có sự tín ngưỡng về tâm linh, tín ngưỡng các thần, như thần sông, thần núi, thần đất, thần lúa mạ, trời cha đất mẹ, trời cao đất dày...(Tín ngưỡng và Tôn giáo Việt Nam của HT. Thích Giác Quang & Hồ Trường Giang) không phải là họ không đúng đâu các bạn ạ! Ở một thời điểm làn sóng khoa học chưa phát sinh, đời sống kinh tế, cấu trúc xă hội c̣n dựa vào thần linh: Các hiện tượng sông, núi, mưa gió, trời che, đất chở giúp cho con người an lạc trong cuộc sống, th́ họ xem các hiện tượng ấy là thần linh, ban bố phước lành cho họ có cơm ăn áo mặc, rồi thờ cúng. Năm nào có băo lụt, mưa gió không điều ḥa là do nhân gian không biết làm phước nên bị thần mưa băo giáng họa; năm nào bị hạn hán là do con người không làm lành lánh dữ nên bị trời phạt không có nước làm nông; năm nào trúng mùa là do con người biết phục thiện, thờ cúng thần linh nên được thần linh ban phước lành cho được no ấm hạnh phúc... Duc-Phat-Thich-Ca-Mau-Ni-e1511422738180 Các tín ngưỡng này ngày nay gọi là tín ngưỡng dân gian, có loại lỗi thời lạc hậu, có loại vẫn c̣n phù hợp được tín ngưỡng thờ cúng. Đạo Phật du nhập Việt Nam ngay từ đầu lập quốc, ư tưởng của Đạo Phật rất phóng khoáng, bức thông điệp của Đức Phật Thích Ca giáo hóa: “...mọi khổ đau, giàu nghèo sang hèn, ngu dốt, thông minh, an lạc, hạnh phúc, khổ đau đều do chúng sanh và con người tự định đoạt cho chính ḿnh, không ai có quyền năng tối thượng ban phước giáng họa cho ai cả...”. Tuy nhiên do ảnh hưởng những cuộc chiến đấu, tranh giành lấn áp giang sơn thủy thổ, tranh đấu cho môi sinh, không có thời gian tiếp cận những ư tưởng mới, tŕnh độ dân trí chưa phát triển đồng bộ theo thời điểm, nên người Việt Nam ta khi tiếp nhận đạo Phật vẫn tín ngưỡng Đức Phật là vị thần linh tối cao ban phước giáng họa như các thần linh khác. Họ tâm niệm như thế, nếu không tín ngưỡng cúng bái van xin, bị Đức Phật quở phạt? Quy luật nhân quả Bài liên quan Câu chuyện nhân quả của Tỳ kheo ni Kim Sắc Tất cả những khổ đau trong cuộc đời đều có cái giá phải trả. Tất cả đều đi theo một quy luật: “Luật nhân quả”. Con người sở dĩ có khổ đau, như bị cầm tù, bị đánh đập, nghèo khổ...là v́ người ấy cướp của giết người; bàn tay của trẻ con bị có vết máu đau đớn, do trẻ sử dụng con dao không cẩn thận, gia đ́nh kia bị sạch túi không c̣n tiền của nuôi thân v́ đi buôn lậu, đánh bài, người bị tật phế bẩm sinh là do cha mẹ sống chung nhưng ít tu nhân làm lành lánh dữ...tất cả đều có nguyên nhân và thành quả nhất định. Nói về nhân quả có nhiều loại h́nh: - Chúng sanh đă tạo nhân ác hay thiện trong quá khứ hôm nay hưởng quả. - Tạo nhân ác hay thiện hôm nay, được thọ hưởng ngay trong hiện tại. - Tạo nhân ác hay thiện hôm nay, ngày sau mới được thọ hưởng. Tất cả đều có cái giá phải trả, chỉ có thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai gần hay xa mà thôi, như: Tiết kiệm th́ giàu sang, chăm học th́ thi đậu, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Cầu nguyện Đức Phật gia hộ sẽ được Phật hộ b́nh an? tam vo thuong 2 Bài liên quan Nhân quả như h́nh với bóng Câu này nói chung chung quá, mênh mông không định hướng làm sao có việc Phật hộ b́nh an. Mọi người có thể không hiểu, nhưng tin v́ lư do có nhiều người tin. Đức Phật đă dạy: “Đừng tin tưởng một điều ǵ v́ văn phong. Đừng tin tưởng một điều ǵ v́ vịn vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều ǵ v́ có được nhiều người nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều ǵ dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều ǵ dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều ǵ do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đă khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều ǵ chỉ vịn vào chỉ có một uy tín của các thầy dạy các người. Nhưng chỉ tin tưởng những ǵ mà chính các người đă từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho ḿnh và kẻ khác. Chỉ có cái đó mới là mục đích tối hậu, thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hăy lấy đó làm chuẩn mực..”.(trích kinh Anguttara Nikaya). Khuyến giáo: - Vấn đề cầu Phật hộ b́nh an thuộc về đức tin: Tín - Chắp tay khấn nguyện Phật hộ: Nguyện. - Nhưng người nguyện c̣n thiếu hành: Hạnh. Hạnh là hành, hành là làm, tức là lạy Phật phải thực hiện (hành) theo lời dạy của Phật, làm lành lánh dữ, lành nhỏ không bỏ, dữ nhỏ không làm, tu nhơn tích đức là nhân, hưởng được quả lành hạnh phúc an lạc phú quư vinh hoa là quả. Ví dụ: Tinh chuyên học ngành y (nguyện), quyết tâm (tin), nhất quán với ư tưởng ḿnh đă đi (hành), tất sẽ thành bác sĩ thôi. Ư nghĩa Phật hộ là như vậy! Tin lư nhân quả mà cầu nguyện Phật gia hộ có kết quả. |
Con khỉ sắp bị giết được chuộc mạng nhờ biết lạy Phật
Thứ năm, 17/10/2019 | 14:51 Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đăi, th́ có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất c̣n cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. >>Những câu chuyện Phật giáo hay nên đọc Vào một ngày hôm trước tiết Đông chí sáu năm trước, cô Chơn đang ở bên chợ, nh́n thấy một đám người đông vây quanh, trong đó có người lớn tiếng rao: “Thịt khỉ là món ăn bổ nhất cho tối nay, mời tất cả nhanh chóng đến mua, thịt mới làm, rất tươi ngon đây!”, những người bên ngoài nh́n xem nhiều người nói “tội nghiệp”. Ḷng từ bi của cô Chơn tự nhiên phát khởi, nh́n vào chỉ thấy ở trong lồng dây kẽm có bốn con khỉ, ba con đă bị chế nước sôi lên trên ḿnh, tự nó vừa vuột lông vừa kêu khóc, kêu khóc đến rất là thê thảm! Lông nó bị tự nó vuột ra hết rồi vẫn c̣n chưa chết, người bán thịt khỉ kia bèn dùng con dao nhọn bén đâm vào cổ con khỉ, máu tươi phún ra, trong chớp mắt anh ta chặt ra từng miếng, từng miếng, mọi người tranh nhau mua. Ảnh minh họa Ảnh minh họa Bài liên quan Nước rút, người và vật đều b́nh an nhờ niệm Phật Nh́n lại lần nữa con khỉ chưa chịu tội kia, chính mắt nh́n thấy đồng bọn chết thê thảm như thế, nó hăi sợ đến nỗi hai tay ôm đầu, “chít chít” kêu thảm, bộ dạng như đang cầu người giải cứu. Cô Chơn mắt nh́n thấy cảnh này, cảm thấy tàn nhẫn thái quá, liền hỏi người chủ con khỉ: “Cái con c̣n sống kia cần bán bao nhiêu tiền? Tôi muốn mua để phóng sinh”, người kia nói: “Một trăm đồng, do v́ cô muốn mua để phóng sinh, tính rẻ một chút, nửa giá tiền, 50 đồng bán cho cô được rồi”. Cô Chơn liền móc ra 50 đồng đưa cho anh ta, dùng một sợi dây bện bằng cỏ cột nó lại, bỏ lên phía sau xe đạp của ḿnh để chở nó về nhà. Người bán khỉ kia liền nói “Con khỉ này hung dữ lắm, vừa mạnh vừa dữ, cô phải dùng một sợi dây xích, chớ dùng dây cỏ bện này nó sẽ chạy mất”. Không ngờ con khỉ này không c̣n sợ hăi ǵ hết, nó ngồi trên baga phía sau xe rất là ngoan. Cô Chơn nói với khỉ rằng: “Khỉ à, mày kiếp trước không có tu, mới đọa lạc vào loài súc sanh, súc sanh th́ khó tránh khỏi cái chết thảm máu rơi thịt nát! Mục đích tao cứu mày là muốn mày ĺa khổ được vui, mày phải ngoan ngoăn theo tao lên núi, để quy y Tam Bảo”. Cô Phụng là một sư phụ xuất gia giới hạnh trang nghiêm, nghe nói chị giải cứu một con khỉ, rất là hoan hỉ. Lập tức đốt đèn thắp hương lên, quy y Tam Bảo cho nó, đặt tên là Ngộ Không, mở dây ra cho nó và dạy nó cách lạy năm vóc sát đất, để cho nó được tự do tự tại, chạy đi cũng được, không chạy th́ nuôi cũng được. Ai ngờ khỉ dầu súc sanh, lại biết ân báo ân, không có chạy vào rừng sâu sống nữa, mỗi ngày lúc thời khóa sớm tối đều đi theo chủ nhân, lạy Phật năm vóc sát đất, khi người ta niệm Phật trong miệng nó cũng lẩm bẩm như có nói và niệm theo “Phật, Phật, Phật…” không ngừng. Khóa tụng xong, nó đều nhất định đến vườn trái cây, leo lên một cây cao nhất, nh́n khắp bốn phía coi có ai đến trộm trái cây không? Nếu như bị nó nh́n thấy, nó liền chạy đến nắm chặt, làm dữ không có buông, măi đến khi ăn trộm bỏ trái cây xuống nó mới buông ra. Ngộ Không hằng ngày đều đi canh gác như vậy mấy lần. Chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đăi, th́ có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất c̣n cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. Chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đăi, th́ có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất c̣n cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. Bài liên quan Niệm Phật tiêu trừ nghiệp chướng chẳng thể nghĩ bàn Có một hôm ba mẹ con (cô Chơn, mẹ và em gái) đi làm cỏ trong vườn, bỗng nhiên nghe tiếng khánh tiếng mơ vang lên không ngớt, ba người cảm thấy rất kỳ lạ, cho là có khách từ xa lại, cho nên đánh mơ đánh khánh lên để gọi người về nhà, ba người liền nhanh chóng về nhà để xem, không ngờ là Ngộ Không đang ngồi ngay ngắn trên bàn Phật, một tay cầm dùi khánh, một tay cầm dùi mỏ, đánh qua đánh lại, đang đánh rất hăng, chủ nhân vừa giận vừa mắc cười kêu lên một tiếng “Ngộ Không xuống đây quỳ hương”. Ngộ Không lập tức nhảy xuống quỳ trên đất. Cô Chơn đốt một cây nhang, bảo Ngộ Không cầm lấy nói với nó: “Ngộâ Không, bây giờ phạt mày quỳ hương, do v́ mày ngồi trên bàn Phật, vậy là vô lễ với Phật, nhất định phải sám hối với Phật, từ đây về sau không được ngồi trên bàn Phật, đánh những pháp khí lung tung. Chờ cây nhang này cháy hết mới được đứng dậy”. Ngộ Không nghe lời, quỳ măi đến cây nhang cháy hết mới đứng dậy. Nhưng chưa được mấy ngày, lúc các chủ nhơn đến làm cỏ trong vườn lại nghe tiếng đánh chuông, mọi người vừa nghe liền biết là Ngộ Không lại nghịch phá, về nhà xem th́ thấy Ngộ Không đứng trên ghế, một tay đánh chuông, một tay đánh trống. Lần này chủ nhơn kêu cũng không xuống, trong miệng của Ngộ Không kêu khẹt khẹt bày tỏ cái dáng bộ rất bất măn, ư muốn nói: tôi lần trước ngồi trên bàn Phật đánh mơ đánh khánh, mấy người nói là không được, không có cung kính đối với Phật, bây giờ tôi ngồi trên ghế đánh chuông trống, lẽ nào cũng không được? Cô Chơn hiểu tâm lư của nó, liền lại nói với nó rằng: “Ngộ Không, mày hôm nay vẫn là phạm tội bất kính, đây là những pháp khí ở trước Phật là những thứ không thể đánh lung tung bậy bạ được, về sau không cho mày đánh một thứ pháp khí nào nữa. Lại đây! Lại đây quỳ hương tiếp!”. Nhưng lần này quỳ không bao lâu, nó liền bẻ găy cây nhang rồi đứng dậy bỏ đi. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh Bài liên quan Niệm Phật, cầu nguyện hạnh phúc b́nh an có phải đi ngược với quy luật nhân quả? Chúng sanh từ vô lượng kiếp lại đây, điều khó tiêu trừ nhất là tập khí tham muốn, Ngộ Không cũng thế, mắt nh́n thấy những trái bắp trên ruộng của nhà hàng xóm (tục gọi là lúa nước phiên), từng cây từng cây lúc chín quằn xuống ba thước (thước Tàu), đợi buổi trưa lúc người ta nghỉ, qua hái bắp của người ta lặt ra từng hột từng hột, có trái chín rồi, có trái chưa chín, rải đầy đất khiến cho người ta cười dở khóc dở, nhưng mà bắp Ngộ Không hái đi cũng chỉ có hai trái. Cô Chơn v́ việc này phải xin lỗi nhà hàng xóm và bồi thường tổn thất cho người ta. Cô Chơn rất là thông cảm cho Ngộ Không, nhưng cũng phải lên lớp dạy bảo cho nó một trận đàng hoàng. Lại có một lần Ngộ Không nghịch phá đến mức quá lớn làm cho người ta ai nấy thấp thỏm không yên, sợ đến mức toát mồ hôi lạnh cả người! Nguyên là nhà của cô Chơn và của hàng xóm đều là nhà tranh, có một hôm Ngộ Không lấy được một cái hộp quẹt cây, nó phóc lên trên giữa nóc nhà, mở hộp quẹt ra, quẹt lên một cây, nh́n thấy ngọn lửa, dùng miệng thổi lửa nó rất là khoái, quẹt từng cây, từng cây như thế rồi dùng miệng thổi, nó chơi rất là thích thú, nhưng lại khiến cho người ta nh́n thấy ai nấy đều thót tim hết, cô Chơn và cô Phụng kêu thế nào nó cũng không xuống, măi đến khi nó quẹt hết hộp quẹt mới thôi. Nhưng hành vi nghịch lửa lần này của Ngộ Không do v́ cái tính nguy hiểm quá lớn, khiến cho bà con hàng xóm rất là bất măn, không trừ nó đi không được, việc này khiến cho chủ nhơn rất là mệt óc, không biết như thế nào mới tốt (?) Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đăi, th́ có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất c̣n cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đăi, th́ có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất c̣n cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. Bài liên quan Lợi ích tụng Kinh niệm Phật Chị em cô Chơn nghĩ tới nghĩ lui: muốn thả nó vào rừng sâu, nhưng mà nghĩ nhớ nó đă trồng sâu căn lành, biết lạy Phật với năm vóc sát đất, c̣n biết kêu sư phụ, lại ăn chay, có một lần người ta cầm đồ ăn mặn đưa cho nó ăn, nó cầm lấy dùng mũi ngửi ngửi, liền quăng đi không ăn. Do những việc này nên không nỡ đuổi nó vào rừng sâu, bèn nhớ đến sư phụ ở Vụ Phong, chi bằng dẫn nó đi gởi cho sư phụ, hay là tặng cho sư phụ luôn cũng được. Thế là liền mua một sợi dây xích dài, đưa Ngộ Không đi đến đó, cột nó dưới cây trước cửa. Nào ngờ Ngộ Không không chịu như thế, trọn dùng tuyệt thực để bày tỏ phản kháng, ngày ba bữa không ăn bất cứ thứ ǵ, suốt ngày chỉ kêu khóc không nghỉ. Cô Chơn đă rời Ngộ Không bảy, tám ngày, cho là Ngô Không đă thay đổi được hoàn cảnh mới, chắc đă quen rồi, liền nhín chút thời gian rảnh đi thăm nó, Ngộ Không vừa nh́n thấy chủ nhơn, liền nắm chặt không buông, chết cũng không chịu rời, cô Chơn mắt nh́n thấy Ngộ Không ốm đói quá như thế, cuối cùng không nỡ ḷng để Ngộ Không tiếp tục ở lại đó, lúc sắp dắt nó về núi, cô Chơn bèn nói với nó rằng: “Mày ở đây làm huyên náo các thầy, bây giờ sắp về nhà, mày phải đến đảnh lễ các thầy cám ơn”. Nói cũng kỳ lạ! Ngộ Không thật là có linh tánh, và biết phân biệt ai là trụ tŕ, ai là đương gia, nó tự chạy đến trước thầy trụ tŕ, trước hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ ba lạy, rồi chạy đến trước thầy đương gia cũng hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ một lạy, c̣n các thầy khác th́ nó chỉ bắt tay, không có lạy năm vóc sát đất nữa. Ngộ Không rốt cuộc lại do cô Chơn dùng xe đạp chở về nhà, đi được nửa đường, tự nó nhảy phóc xuống, chạy về nhà. Cô Chơn về đến nhà th́ thấy Ngộ Không đă bưng nồi cơm đặt xuống đất rồi, và nó đang ngồi đó bốc cơm dư trong nồi của buổi trưa ăn sắp hết rồi. Ngộ Không trải qua bài học lần này, dù cho lúc chủ nhơn đi ra ngoài không có ở nhà, cũng không c̣n nghịch phá tổn hại đến người khác, càng không dám nghịch lửa nữa!… |
Niệm Phật, cầu nguyện hạnh phúc b́nh an có phải đi ngược với quy luật nhân quả?
Thứ năm, 17/10/2019 | 09:31 Năm 523 (trước Công nguyên), Bồ tát Sĩ Đạt Ta ra đời, giác ngộ đi tu thành Phật là bức thông điệp phá tan giấc ngủ trong đêm dài của loài người, cảnh giác những ai tin vào số phận và cúi đầu chấp nhận khổ đau rơi lệ trước thần linh. >>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Lời Phật dạy Hỏi: Giảng sư có nói không nên coi đức Phật là bậc thần linh có quyền ban phước giáng họa cho chúng sinh mà đức Phật chỉ là bậc giác ngộ trước, là người đi trước chỉ dẫn cho chúng sinh con đường giải thoát. Mọi khổ đau, hạnh phúc đều do nghiệp báo thiện ác sai biệt của mỗi chúng sinh mà đến. Vậy khi ta niệm Phật cầu b́nh an cầu sự nghiệp ... và một số kinh dẫn giải việc đọc kinh đó bao nhiêu lần th́ mọi cầu nguyện sẽ đạt được, điều này có vẻ mâu thuẫn với ư trên. Vấn đề này cần hiểu như thế nào cho đúng, thưa thầy? duc-phat-toa-thien-duoi-goc-bo-de-chaymoc Đáp: Tín ngưỡng của ngoại đạo (Bà-la-môn giáo, Ấn Độ giáo) là tín ngưỡng thần quyền; quan niệm thần thánh có quyền năng ban phước giáng họa cho chúng sanh và con người, do đó con người phải bị đầu hàng số phận và bị cầm tù trong thế giới khổ đau, sanh tử luân hồi không lúc nào thoát khỏi. Bài liên quan Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín? Năm 523 (trước Công nguyên), Bồ tát Sĩ Đạt Ta ra đời, giác ngộ đi tu thành Phật là bức thông điệp phá tan giấc ngủ trong đêm dài của loài người, cảnh giác những ai tin vào số phận và cúi đầu chấp nhận khổ đau rơi lệ trước thần linh (ư tưởng xă hội Ấn Độ trước khi đức Phật ra đời - Việt Nam Phật giáo Sử luận của Nguyễn Lang; Đạo Phật Việt Nam của HT. Thích Đức Nghiệp) Xă hội Việt Nam, trải suốt mấy ngh́n năm cũng có sự tín ngưỡng về tâm linh, tín ngưỡng các thần, như thần sông, thần núi, thần đất, thần lúa mạ, trời cha đất mẹ, trời cao đất dày...(Tín ngưỡng và Tôn giáo Việt Nam của HT. Thích Giác Quang & Hồ Trường Giang) không phải là họ không đúng đâu các bạn ạ! Ở một thời điểm làn sóng khoa học chưa phát sinh, đời sống kinh tế, cấu trúc xă hội c̣n dựa vào thần linh: Các hiện tượng sông, núi, mưa gió, trời che, đất chở giúp cho con người an lạc trong cuộc sống, th́ họ xem các hiện tượng ấy là thần linh, ban bố phước lành cho họ có cơm ăn áo mặc, rồi thờ cúng. Năm nào có băo lụt, mưa gió không điều ḥa là do nhân gian không biết làm phước nên bị thần mưa băo giáng họa; năm nào bị hạn hán là do con người không làm lành lánh dữ nên bị trời phạt không có nước làm nông; năm nào trúng mùa là do con người biết phục thiện, thờ cúng thần linh nên được thần linh ban phước lành cho được no ấm hạnh phúc... Duc-Phat-Thich-Ca-Mau-Ni-e1511422738180 Các tín ngưỡng này ngày nay gọi là tín ngưỡng dân gian, có loại lỗi thời lạc hậu, có loại vẫn c̣n phù hợp được tín ngưỡng thờ cúng. Đạo Phật du nhập Việt Nam ngay từ đầu lập quốc, ư tưởng của Đạo Phật rất phóng khoáng, bức thông điệp của Đức Phật Thích Ca giáo hóa: “...mọi khổ đau, giàu nghèo sang hèn, ngu dốt, thông minh, an lạc, hạnh phúc, khổ đau đều do chúng sanh và con người tự định đoạt cho chính ḿnh, không ai có quyền năng tối thượng ban phước giáng họa cho ai cả...”. Tuy nhiên do ảnh hưởng những cuộc chiến đấu, tranh giành lấn áp giang sơn thủy thổ, tranh đấu cho môi sinh, không có thời gian tiếp cận những ư tưởng mới, tŕnh độ dân trí chưa phát triển đồng bộ theo thời điểm, nên người Việt Nam ta khi tiếp nhận đạo Phật vẫn tín ngưỡng Đức Phật là vị thần linh tối cao ban phước giáng họa như các thần linh khác. Họ tâm niệm như thế, nếu không tín ngưỡng cúng bái van xin, bị Đức Phật quở phạt? Quy luật nhân quả Bài liên quan Câu chuyện nhân quả của Tỳ kheo ni Kim Sắc Tất cả những khổ đau trong cuộc đời đều có cái giá phải trả. Tất cả đều đi theo một quy luật: “Luật nhân quả”. Con người sở dĩ có khổ đau, như bị cầm tù, bị đánh đập, nghèo khổ...là v́ người ấy cướp của giết người; bàn tay của trẻ con bị có vết máu đau đớn, do trẻ sử dụng con dao không cẩn thận, gia đ́nh kia bị sạch túi không c̣n tiền của nuôi thân v́ đi buôn lậu, đánh bài, người bị tật phế bẩm sinh là do cha mẹ sống chung nhưng ít tu nhân làm lành lánh dữ...tất cả đều có nguyên nhân và thành quả nhất định. Nói về nhân quả có nhiều loại h́nh: - Chúng sanh đă tạo nhân ác hay thiện trong quá khứ hôm nay hưởng quả. - Tạo nhân ác hay thiện hôm nay, được thọ hưởng ngay trong hiện tại. - Tạo nhân ác hay thiện hôm nay, ngày sau mới được thọ hưởng. Tất cả đều có cái giá phải trả, chỉ có thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai gần hay xa mà thôi, như: Tiết kiệm th́ giàu sang, chăm học th́ thi đậu, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Cầu nguyện Đức Phật gia hộ sẽ được Phật hộ b́nh an? tam vo thuong 2 Bài liên quan Nhân quả như h́nh với bóng Câu này nói chung chung quá, mênh mông không định hướng làm sao có việc Phật hộ b́nh an. Mọi người có thể không hiểu, nhưng tin v́ lư do có nhiều người tin. Đức Phật đă dạy: “Đừng tin tưởng một điều ǵ v́ văn phong. Đừng tin tưởng một điều ǵ v́ vịn vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều ǵ v́ có được nhiều người nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều ǵ dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều ǵ dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều ǵ do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đă khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều ǵ chỉ vịn vào chỉ có một uy tín của các thầy dạy các người. Nhưng chỉ tin tưởng những ǵ mà chính các người đă từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho ḿnh và kẻ khác. Chỉ có cái đó mới là mục đích tối hậu, thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hăy lấy đó làm chuẩn mực..”.(trích kinh Anguttara Nikaya). Khuyến giáo: - Vấn đề cầu Phật hộ b́nh an thuộc về đức tin: Tín - Chắp tay khấn nguyện Phật hộ: Nguyện. - Nhưng người nguyện c̣n thiếu hành: Hạnh. Hạnh là hành, hành là làm, tức là lạy Phật phải thực hiện (hành) theo lời dạy của Phật, làm lành lánh dữ, lành nhỏ không bỏ, dữ nhỏ không làm, tu nhơn tích đức là nhân, hưởng được quả lành hạnh phúc an lạc phú quư vinh hoa là quả. Ví dụ: Tinh chuyên học ngành y (nguyện), quyết tâm (tin), nhất quán với ư tưởng ḿnh đă đi (hành), tất sẽ thành bác sĩ thôi. Ư nghĩa Phật hộ là như vậy! |
Trẻ Con Nhớ Về Tiền Kiếp
10 câu chuyện trẻ con nhớ về Tiền Kiếp Nhiều đứa trẻ có vẻ khôn ngoan trước tuổi hay là “già trước tuổi”, nhưng một số chúng đă kể những điều mà thực sự thuộc về cuộc sống trong những kiếp sống trước. Gần đây những ông bố bà mẹ đă chia sẻ những câu chuyện của họ thông qua các phương tiện truyền thông xă hội; nhiều người nói rằng con cái họ nói về cái chết bi thảm xảy ra trước cuộc sống hạnh phúc hiện tại. 1. Khi con trai tôi 3 tuổi, cậu bé nói với tôi rằng cậu thực sự thích người bố mới của ḿnh, ông thực sự tốt. Chồng tôi là bố đẻ và là người bố duy nhất của con trai tôi. Vậy nên tôi đă hỏi: “Tại sao lại thế?” Con tôi trả lời: “Người bố trước của con thực sự xấu xa. Ông ta đă đâm vào lưng con và con đă chết. Nhưng con thực sự thích người bố mới, ông sẽ không bao giờ làm thế với con”. 2. Khi tôi c̣n là một cô bé, tôi đă mất b́nh tĩnh khi nh́n thấy một người thanh niên ở cửa hàng tạp hóa. Điều đó là không b́nh thường bởi v́ tôi thường giữ trật tự và ngoan ngoăn. Tôi chưa bao giờ phải bị đưa ra khỏi nơi nào đó v́ cư xử tệ, nhưng chúng tôi đă buộc phải rời khỏi cửa hàng đó. Khi đă vào trong ô tô, mẹ tôi hỏi đă xảy ra vấn đề ǵ, tôi kể với bà về việc người thanh niên đă bắt cóc tôi khỏi người mẹ đầu tiên của tôi, giấu tôi dưới sàn nhà và làm cho tôi ngủ một giấc thật dài cho đến khi tôi tỉnh dậy với người mẹ mới. Sau đó trên đường về, tôi không ngồi trên ghế mà cứ rúm ró trốn xuống phía dưới vô lăng ô tô để anh ta không thể mang tôi đi lần nữa. Điều đó khiến mẹ tôi bối rối, bởi bà chắc chắn là mẹ đẻ của tôi, và rơ ràng là người mẹ “đầu tiên” của tôi. 3. Bế cô con gái 2 tuổi rưỡi ra khỏi bồn tắm vào một đêm, tôi và vợ đă trao đổi với con gái tầm quan trọng của việc con gái chúng tôi giữ ǵn sạch sẽ cá nhân. Cô bé bất chợt trả lời: “Ồ, không có ai săn đuổi con ở đây. Có một đêm họ đă cố làm vậy. Họ đá vào cửa và cố phá nó, nhưng con đă đánh lại. Con đă chết và giờ con ở đây”. Cô con gái nói thản nhiên như không. 4. “Trước khi tôi được sinh ra ở đây, tôi có một người chị, phải không? Cô ấy và người mẹ trước đây của tôi giờ đă rất già rồi. Họ đă không sao khi chiếc ô tô bốc cháy, nhưng tôi th́ chắc chắn không được như vậy!” Cậu bé có lẽ 5 hoặc 6 tuổi. Thật là đáng buồn. 5. Khi em gái tôi c̣n nhỏ, cô bé thường đi quanh nhà với một khung ảnh trong đó có bức h́nh của ông tôi, cô bé khóc và nói, “Em nhớ anh, Harvey”. Ông nội Harvey đă mất thậm chí trước cả khi tôi được sinh ra. Hơn nữa điều này cũng thường diễn ra, mẹ tôi nói rằng cô bé thường nói những thứ mà bà nội Lucy của tôi thường nói. 6. Khi em gái tôi bắt đầu tập nói, cô bé đă từng nói một vài điều thực sự lạ lùng. Cô bé từng kể với chúng tôi về việc gia đ́nh trước đây của cô bé đă ép cô bé ăn và làm cô bé khóc, nhưng bố cô cuối cùng đă làm cô bị bỏng đến mức cô đă có thể t́m thấy chúng tôi, gia đ́nh mới của cô bé. Cô bé kể về những điều như thế trong độ tuổi 2-4 tuổi. Cô bé c̣n quá nhỏ để có thể tiếp xúc với điều mà trẻ con hay một ai đó có thể đă từng trải qua những điều tương tự, v́ vậy gia đ́nh tôi luôn nghĩ rằng cô bé đă lưu giữ những kư ức về một kiếp sống trước đây. 7. Trong độ tuổi từ 2 đến 6 tuổi, con trai tôi kể măi một câu chuyện về việc cháu đă chọn tôi làm mẹ như thế nào. Cháu kể ǵ đó về việc ở cùng với một người đàn ông trong bộ comple và chọn một người mẹ mà sẽ giúp cháu hoàn thành sứ mệnh của những linh hồn của cháu… Chúng tôi đă không thảo luận về vấn đề tâm linh… cũng như cháu không được nuôi dạy trong bất kỳ môi trường tôn giáo nào. Cháu mô tả nó tựa như mua sắm hàng tạp hóa, đó là cháu ở trong một căn pḥng sáng với những người được xếp thành hàng giống như búp bê và cậu bé đă chọn tôi. Người đàn ông trong bộ comple hỏi là cháu có chắc chắn không, cháu trả lời là chắc chắn và sau đó cháu được sinh ra. Con trai tôi từ bé cũng đă say mê máy bay trong thế chiến thứ II. Cậu có thể xác định được loại máy bay, các bộ phận, nơi chúng đă được sử dụng… Tôi vẫn không biết là cháu thu thập được những thông tin đó ở đâu. Tôi là một nhà Khoa học, c̣n bố cháu là một nhà toán học. Chúng tôi vẫn luôn gọi cháu là “ông nội” bởi thái độ ôn ḥa và thận trọng của cháu. Đứa trẻ này thực sự có một tâm hồn già dặn. 8. Cháu trai của tôi khi lần đầu tiên bắt đầu biết nói đă nói với em gái tôi và chồng cô ấy rằng nó “rất hạnh phúc là nó đă chọn họ”. Và sau đó nó tiếp tục kể rằng trước khi là một đứa trẻ như bây giờ, nó ở trong một căn pḥng sáng và nh́n thấy rất nhiều người và nó đă “chọn người mẹ này bởi bà có khuôn mặt hiền hậu”. 9. Chị gái tôi được sinh ra năm bà nội tôi qua đời. Theo như bố tôi kể, ngay khi chị gái tôi biết nói, chị đă nói “Ta là mẹ con”. 10. Theo như mẹ tôi kể, khi tôi c̣n nhỏ, tôi thường nói với mẹ tôi về việc tôi đă chết như thế nào, đó là trong một trận cháy từ rất lâu trước đó. Tôi không nhớ chuyện đó, nhưng một trong những nỗi sợ lớn nhất của tôi đó là ngôi nhà bị bốc cháy. Khi đứng xa đám lửa thôi cũng làm tôi sợ. |
Cẩn Trọng
Người xưa thường nói, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Khi đói muốn ră ruột mà bỗng nhiên có ai cho hay t́m được chút thức ăn th́ bạn có thể thốt lên rằng, “Thật không có hạnh phúc nào bằng!”. Bạn sẽ ăn miếng thức ăn ấy một cách cẩn trọng, chân thành, cảm nhận rơ rệt hương vị và giá trị của nó, và chỉ có bạn và nó trong giây phút đó. Không thể đem sự hấp dẫn của tiền bạc, quyền lực, hay t́nh yêu ra so sánh với cảm giác ấy được, v́ mỗi thứ trên đời này chỉ có giá trị hữu dụng trong từng hoàn cảnh. Cũng như khi no bụng th́ một mâm cỗ đầy ắp những món cao lương mỹ vị sẽ không mang lại ư nghĩa ǵ cả, nếu có, nó chỉ làm thỏa măn các giác quan hay ḷng tham, chứ nó không đem lại cái cảm giác tuyệt trần như khi đang đói thực sự. Người xưa so sánh hai cảm giác ấy ngang bằng nhau là để nhắc nhở chúng ta phải biết trân quư những điều kiện ít ỏi mà ḿnh đang có, nhưng nếu xét về mặt hưởng thụ đúng nghĩa th́ khi thiếu thốn mà có được chút ít vẫn làm cho con người hạnh phúc sâu sắc hơn là khi đủ đầy mà có thêm. Như vậy bí quyết ăn ngon chính là để bụng đói rồi mới ăn, và đây cũng chính là bí quyết sống hạnh phúc. Thay v́ tích góp thật nhiều tiện nghi theo mốt chung của xă hội “càng nhiều càng tốt” th́ bạn phải luôn đặt ḿnh vào t́nh trạng “thiếu thốn một chút”. Thí dụ bạn chỉ có năm bảy bộ quần áo thôi th́ chắc chắn khi mặc bộ nào là bạn sẽ nâng niu bộ đó, xem quần áo như là người bạn thân thiết của ḿnh, thay v́ có tới năm bảy chục bộ mà bạn chẳng nhớ nổi mặt mũi và xuất xứ của chúng. T́nh cảm cũng vậy. Nếu người kia không biết cách tiết chế cảm xúc yêu thích mà bạn cũng không đủ can đảm giới hạn sự đón nhận, th́ chắc chắn sự nhàm chán và khinh lờn trong bạn sẽ xảy ra. Bạn vẫn c̣n “nướng” thời gian trong những việc làm hết sức vô bổ là tại v́ bạn có suy nghĩ rằng đời bạn c̣n dài lắm. Có lẽ là bạn tưởng ḿnh sẽ sống tới hai ba trăm năm lận, nên giờ này bạn vẫn c̣n ham chơi, tha hồ tàn phá tuổi trẻ, tha hồ giận hờn, tha hồ hơn thua nhau, tha hồ đuổi theo những giấc mộng xa vời... Chắc là phải đợi đến khi bác sĩ “tuyên án” là bạn chỉ c̣n có vài tháng hay vài tuần nữa để sống thôi, th́ may ra bạn mới chịu quay về nắm lấy sự sống. Như vậy là vẫn c̣n may, chứ có rất nhiều người chẳng c̣n kịp thở hay nh́n thấy mặt người thương trước phút từ biệt cơi này nữa ḱa. Bạn nói rằng bạn đang làm tất cả là để có được cuộc sống sung túc và an ổn? Nh́n kỹ lại xem. Có lẽ “sung túc” không bao giờ đi chung với “an ổn”, và dường như càng “sung túc” là càng mất “an ổn”. Nhưng, có được một cuộc sống sung túc th́ sao, đó có phải là giá trị cao đẹp nhất của đời người không? Bạn cũng biết cái cảm giác khi sắm được món đồ yêu thích, khi mua được chiếc xe đời mới, hay khi sở hữu được căn hộ đắt tiền rồi đó: sung sướng đến rơi nước mắt, đến quên ăn bỏ ngủ. Thế mà bây giờ bạn chẳng có cảm giác ǵ đối với những thứ đó nữa hết. Thấy cũng b́nh thường. Vậy dựa vào đâu mà bạn tin rằng khi có được một cuộc sống sung túc hơn là bạn sẽ có hạnh phúc? Thực ra ư niệm về sự sung túc cũng mơ hồ lắm, cứ chạy đua theo kẻ khác măi th́ chẳng biết thế nào mới gọi là sung túc. Và khi sung túc rồi bạn có chắc là sẽ ngồi yên đó để tận hưởng không? Bạn chỉ biết làm, chỉ có tài đem về đủ thứ tiện nghi, nhưng bạn lại không biết hưởng, không có khả năng thưởng thức những ǵ ḿnh đă tạo ra. Bạn bỏ ra hai ba giờ đồng hồ để nấu một món ăn cầu kỳ, hấp dẫn, vậy mà bạn lại không thể bỏ ra nửa giờ để đem hết sự chú tâm vào việc thưởng thức món ăn. Bạn bỏ ra năm bảy năm trời để chinh phục một người, vậy mà bạn lại than không có thời gian để ăn cơm chung hay chia sẻ những niềm vui sâu sắc của người ấy. Bạn đang bị cái ǵ vậy? Bạn có đang thực sự sống không? Bây giờ mà bạn vẫn chưa biết được thế nào là hạnh phúc, th́ cố gắng thêm mười năm hay vài chục năm nữa cũng vậy thôi. Bạn có thể có thêm điều kiện của hạnh phúc, nhưng bạn lại không thể nhận ra và không thể tận hưởng chúng. Cho nên vấn đề là ở nơi bạn, nơi nhận thức và thái độ sống của bạn, chứ không phải là phải chờ đợi thêm cái ǵ nữa ở bên ngoài. Chỉ khi nào bạn tỉnh ngộ rằng, hạnh phúc là khi tâm hồn b́nh yên, không c̣n lo lắng hay bị áp lực v́ sự mong cầu, chấp nhận hết những ǵ đang xảy ra trong hiện tại - trong bạn và xung quanh bạn, th́ bạn mới có đủ năng lực và ư chí để nâng niu sự sống. Khi nào mới chịu tỉnh ngộ, hở bạn? Hay là cứ để cho bạn thỏa măn với bản năng ham muốn chứng tỏ này nọ của tuổi trẻ, để cho bạn nếm trải thêm những cú thăng trầm nghiệt ngă trong trường đời, để cho bạn chạm trán đôi lần với lằn ranh của c̣n - mất hay sống - chết, nói như cụ Nguyễn Du “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, th́ tự động bạn sẽ quay về t́m lẽ sống chân thật cho đời ḿnh? Nhưng, liệu c̣n kịp nữa không? Suy ngẫm thêm đi bạn. Trước khi t́m ra được quyết định đúng đắn cho khúc quanh lớn của cuộc đời, bạn hăy thử đặt ḿnh vào t́nh trạng “chỉ c̣n một ngày để sống” để dồn hết năng lượng vào việc nắm bắt từng phút giây của sự sống, để bạn cảm nhận thế giới mà bạn đang sống đích thực là ǵ khi bạn đă lấy hết những lo lắng muộn phiền của ḿnh ra. Hoặc, bạn hăy tưởng tượng ḿnh là du khách từ hành tinh khác đến viếng thăm xứ sở này, nên bạn sẽ nh́n mọi thứ bằng con mắt tinh khôi, khám phá, và đầy thưởng thức. |
Tại Sao Nên Ăn Chay?
Bạn có biết nhà khoa học vĩ đại – Albert Einsten, ông hoàng nhạc pop huyền thoại – Michael Jachson, vị cựu tổng thống danh tiếng của Hoa Kỳ – Bill Clinton, cựu CEO của hăng hoạt h́nh trứ danh Walt Disney – Michael Eisner và nhiều bậc hiền triết kiệt xuất khác đều là những người trường chay. Tại sao vậy? Rơ ràng, với sự đa dạng của các loài động vật, con người đang được hưởng thụ rất nhiều vị ngon và hấp dẫn của các món ăn từ thịt. Thế nhưng, hiện nay đang có nhiều người từ bỏ những lạc vị đó để chọn cách ăn uống thanh tịnh và không động vật. Thế ăn chay có những lợi ích ǵ? Albert Einstein: “Không ǵ có lợi cho sức khỏe và tăng tuổi thọ con người trên trái đất này bằng việc trường chay” 1. Ăn chay là phù hợp theo cấu tạo cơ thể Trước hết,răng của loài người được cấu tạo một cách đặc biệt giống như răng của các loài động vật ăn thảo mộc, được Tạo Hóa sáng chế một cách khéo léo để nghiền và nhai nát thức ăn. Cấu tạo răng hàm và xương quai hàm giúp nhai theo cử động chiều ngang và qua lại. Ngược lại loài động vật ăn thịt có răng nanh rất bén nhưng không có răng hàm và xương quai hàm. Do đó khi ăn thịt, chúng chỉ xé và nuốt trọng luôn chứ không hề nhai. Hơn nữa, bàn tay của loài người không có móng vuốt sắc bén nên chỉ dùng để lặt rau và hái quả, trong khi loài động vật ăn thịt có móng vuốt rất bén và rất mạnh để vồ mồi và xé thịt. Ngoài ra, trong bộ phận tiêu hóa của loài động vật ăn rau quả và loài người so với loài động vật ăn thịt có điểm khác biệt là đường ruột. Tạo Hóa đă ban đặc ân cho động vật ăn thịt có đường tiêu hóa chỉ dài gấp khoảng 3 lần chiều dài cơ thể. Trong khi đó đường tiêu hóa của loài người và loài động vật ăn rau quả th́ dài gấp khoảng 10 lần. V́ thế chất cặn bă ở trong ruột của loài thú ăn thịt sẽ được bài tiết ra ngoài nhanh chóng hơn. Trong khi đó chúng sẽ ở lại trong ruột của loài người và loài động vật ăn thảo mộc lâu hơn. Chính v́ thế mà có cơ hội sinh ra độc tố nhiều hơn trong quá tŕnh tiêu hóa ở những người ăn thịt. 2. Ăn chay để có sức khỏe và tăng tuổi thọ Một số thành kiến cho rằng thức ăn chay sẽ không thể nào bù đắp vào chỗ thiếu sót chất Protein cần thiết trong cơ thể của con người. Một số người khác th́ cho rằng chất Protein thực vật không có tính cách tương đồng để thay thế chất Protein động vật. Vậy th́ loài trâu, ḅ, ngựa, voi…đâu có ăn thịt mà vẫn có đầy đủ chất Protein và luôn khỏe mạnh b́nh thường, thậm chí cơ thể c̣n to lớn hơn các động vật khác. Ảnh: wikipedia.org Thực ra chất Protein gồm có 22 amino acids. Trong số đó chỉ có 8 loại là cần thiết cho nhu cầu của cơ thể con người và đều đă hàm chứa đầy đủ trong các loại ngũ cốc và rau đậu. Đôi khi số lượng c̣n nhiều hơn các thực phẩm bằng thịt đă chế biếnnữa. Chúng ta có thể so sánh: 100g thịt ḅ chứa 20g chất Protein, 100g phó mát chứa 25g và 100g đậu nành chứa đến 34g chất Protein. Một cuộc nghiên cứu của tiến sĩ Fred Stare -Viện Đại học Harvard và tiến sĩ Marvyn Hardinge – Đại học Loma Linda bằng cách so sánh giữa hai nhóm người ăn chay và ăn thịt. Kết quả cho thấy rằng nếu được ăn uống đầy đủ th́ chất lượng Amino acids trong cơ thể của họ đều gấp đôi nhu cầu cần thiết. Ông T.Colin Campbell, nhà sinh hóa học, hiện là giám đốc cơ quan nghiên cứu của Cornell-China-Oxford đă tiết lộ rằng “Ăn ít chất béo theo như sự hướng dẫn của Cơ Quan Sức Khỏe và Dinh Dưỡng Hoa Kỳ cũng chưa chắc có thể pḥng ngừa được các bệnh nan y. Điều cần yếu là chúng ta phải ăn chay với những thức ăn thanh đạm nhưng không kém phần bổ dưỡng”. 3. Ăn chay để tâm tính hiền ḥa, an vui Rơ ràng, ngựa, voi, trâu ḅ và các động vật ăn rau quả khác đều hiền ḥa và gần gũi hơn so với cọp, gấu, sói … Thậm chí loài chó nhà được nhiều người yêu mến đôi khi cũng cắn lại chủ nó. Quá tŕnh sát sinh hoặc săn bắt cũng khiến con người và loài ăn thịt trở nên tàn bạo, hung tợn hơn. Thịt và máu động vật cũng chứa nhiều chất kích thích hơn thảo mộc nên làm loài người và thú ăn thịt dễ bị kích động. Ảnh: vegsoc.org Ngược lại, người ăn chay với thức ăn chính là rau quả, ngũ cốc và trái cây thường có tâm tính hiền ḥa hơn. Việc tiêu thụ các thực phẩm từ thiên nhiên cũng khiến người trường chay có cảm giác thanh b́nh, an nhiên. Hơn nữa, các loài động vật cũng như con người, đều biết đau, biết sợ cái chết. Chúng cảm giác được giây phút sắp bị tàn sát nên có con la hét thất thanh, con th́ khăng khăng không chịu bước đi, con th́ bất lực mà rơi nước mắt. Chúng ta đều cảm giác đau khi đứt tay, chảy máu, thế th́ nỗi đau sẽ cùng cực như thế nào nếu bị cắt cổ, thọc tiết … Do đó việc ăn chay giúp con người thể hiện t́nh thương yêu muôn loài, gia tăng ḷng bát át và vị tha. Từ đó tâm được yên vui và thoải mái. Cựu tay đấm của Mỹ Mike Tyson, một trong những nhân vật thể thao nổi tiếng nhất mọi thời đại, vừa tiết lộ trong một chương tŕnh truyền h́nh rằng nhờ chế độ ăn chay trường mà anh giảm được “cái điên” trong tính khí và trở thành người sống có trách nhiệm với gia đ́nh và xă hội hơn. 4. Ăn chay để thế giới tốt đẹp hơn Trong giai đoạn 2011-2013 ước tính số người bị đói trên thế giới là 842 triệu người. Thật ra có phải thế giới đang thiếu lương thực nên mới có t́nh trạng đó? Tiến sĩ Aarol Altshul, trong quyển Protein: Their Chemistry and Politics (Protein: Hóa Học và Chính Trị) đă viết: “Nếu chúng ta sử dụng diện tích đất một mẫu Anh (4046m2) để trồng hoa màu cung cấp lương thực cho người ăn chay, ta sẽ được một sản lượng gấp 20 lần nếu dùng đất ấy để chăn nuôi súc vật lấy thịt. Hiện nay tại Hoa Kỳ, phân nửa diện tích đất để trồng trọt được dùng để sản xuất thực phẩm gia súc. Tôi nghĩ rằng nếu toàn thể đất đai canh tác trên quả địa cầu này đều được dùng để sản xuất nông phẩm cho loài người th́ chúng ta sẽ có khả năng cung ứng đầy đủ lương thực cho 20 tỷ dân số trên thế giới một cách dễ dàng”. Ngày nay, ăn chay không c̣n là thói quen ăn uống đạm bạc của những bậc tu hành nữa. Ăn chay đủ chất, khoa học đă trở thành một phong trào sống khỏe, an vui và đang được khuyến khích mạnh mẽ tại khắp nơi trên thế giới. |
Các danh nhân ăn chay
nổi tiếng trên thế giới "Tôi khẳng định rằng thịt không phải là thức ăn thích hợp với con người. Chúng ta không nên sai lầm chạy theo lối sống của các loài cầm thú, nếu chúng ta tự coi ḿnh cao thượng hơn các loài cầm thú đó" 01. Peter Burwash Một hôm nọ, nhà vô địch quần vợt Peter Burwash đến viếng một ḷ sát sanh. Khi ra về ông đă bất nhẫn mà viết những cảm nghĩ của ḿnh trong một quyển sách nhan đề là A Vegetarian Primer (Sách dạy ăn chay). Có đoạn ông viết: "Tôi không nỡ bóp nát một cánh hoa mong manh. Tôi đă chơi hockey với hết sức b́nh sanh của ḿnh. Tôi cũng đă từng vùng vẫy và dọc ngang trên các sân quần vợt trong những trận thư hùng. Tôi không phải là loại người yếu đuối. Nhưng trước cảnh tượng mà tôi đă chứng kiến tại ḷ sát sanh, tôi thấy ḿnh kinh khiếp và ḷng ḿnh mềm yếu v́ thương hại". "Khi tôi rời khỏi ḷ sát sanh, sự tội nghiệp đă dày ṿ lương tâm tôi. Tôi thầm nhủ sẽ không bao giờ có đủ can đảm đi sát hại một con vật dù lớn dù nhỏ. Tôi hiểu rằng có những nhân vật lỗi lạc trên thế giới họp nhau để bàn căi về các vấn đề vật lư, kinh tế và môi sinh. Cũng có một số người có quan điểm tán đồng với chủ thuyết ăn chay. Song điều làm cho tôi chọn lấy con đường chay lạt không phải chạy theo chủ thuyết này hay chủ thuyết nọ mà chính v́ những cảnh dă man mà con người đă đối xử một cách tồi tệ với các loài vật không phương tự vệ mà tôi đă tận mắt chứng kiến". Trong thời kỳ cổ Hy Lạp và cổ La Mă, ḷng từ bi và những quan niệm về sự đối xử đạo đức luôn luôn là những nguyên động lực chủ yếu khiến một số danh nhân khép minh trong việc thọ tŕ trai giới. 02. Pythagore Ông Pythagore, nhà toán học lừng danh trên thế giới đă từng khuyên nhủ: "Này bạn, xin đừng làm nhơ nhớp thân thể của ḿnh bằng những thức ăn tội lỗi. Chúng ta đă có bắp, bôm, lê, rau trái thừa thải, sữa và mật ong ngọt lịm. Quả đất này đă cung ứng cho chúng ta những thức ăn vô tội một cách dồi dào, đă khoản đăi chúng ta bằng những bữa tiệc không can dự vào máu. Chỉ có loài thú này mới ăn thịt loài thú khác v́ bản năng tự nhiên và v́ đói. Nhưng không phải tất cả loài thú nào cũng vậy. Bởi v́ trong số đó cũng có các loài như ḅ, ngựa và trừu... đều ăn cỏ". Sử học gia Diogenes kể rằng, ông Pythagore dùng điểm tâm buổi sáng bằng bánh ḿ và mật ong và dùng bữa ăn chiều với nhiều loại rau quả. Ngài cũng đă thể hiện ḷng từ bi bác ái qua những hành động thực tiễn bằng cách nhiều lần trả tiền cho một số ngư phủ để phóng sanh những con cá mà họ đă bắt được trở về ḷng biển cả. Ông Plutarch, triết gia người Hy Lạp nhận xét về ông Pythagore như sau: "Theo tôi sự từ tâm là lư do chính khiến ông Pythagore kiêng thịt. Ông không nỡ nh́n cảnh dẫy dụa và kêu rống thất thanh của những con vật khi bị người ta phanh thây xẻ thịt. Người ta giết những con vật đó không phải v́ lư do chúng là thú dữ có khả năng nhiễu hại loài người, mà chính v́ mục đích để thỏa măn khẩu vị của họ mà thôi. Người ta bức tử những con vật ngây thơ không móng vuốt để tự vệ mà đáng lư ra theo luật Tạo Hóa, chúng cũng có quyền sinh tồn, b́nh đẳng và hiện diện để làm đẹp quả địa cầu này như tất cả mọi loài". Ông c̣n nhấn mạnh: "Nếu bảo rằng bản tính tự nhiên của loài người là ăn thịt các loài thú, th́ thử hỏi chỉ với hai bàn tay trắng do Tạo Hóa sinh ra, mà không cần đến sự trợ lực của dao, mác, hèo, gậy, con người đă làm được ǵ các loài thú đó?" 03. Leonard Da Vinci Ông Léonard Da Vinci (1452 - 1519), nhà danh họa và điêu khắc gia người Ư, đồng thời cũng là một thi sĩ nổi tiếng trên thế giới quan niệm ăn chay là đạo đức của con người. Sự ăn chay sẽ tránh được những tội ác về sát sinh. Ông c̣n nhấn mạnh rằng những ai không biết quư trọng sự sống của những sinh vật khác là những kẻ không đáng sống. Cơ thể của những người ăn mặn không khác ǵ những băi tha ma để chôn vùi xác chết các thú vật mà họ đă ăn vào. Trong các quyển vỡ nhật kư, ông thường viết đầy những câu danh ngôn về ḷng từ bi bác ái và luôn luôn có những hành động qúy thương các loài sinh vật khác. 04. Jean Jacques Roussean Ông Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), triết gia và là một văn hào người Pháp đă có những tác phẩm giá trị về mặt tư tưởng đă ảnh hưởng sâu xa đến nền văn học và cuộc cách mạng lịch sử tại quốc gia này. Ông là người chủ trương bênh vực sự hiện hữu của thiên nhiên và cổ xúy sự ăn chay. Ông nhận xét rằng phần đông những loài thú ăn thịt có bản tính hung tợn hơn những loài thú ăn cỏ. Và dĩ nhiên những người ăn chay trường sẽ hiền từ hơn những người ăn mặn. Ông c̣n đề nghị những người hành nghề đồ tể không được mời vào làm bồi thẩm đoàn tại các ṭa án. 05. Adam Smith Kinh tế gia Adam Smith (1723 - 1790), trong quyển The Wealth of Nations xuất bản vào năm 1776 đă khuyến khích loài người ăn chay và đă thuyết minh về sự lợi ích của việc thọ tŕ trai giới. Ông bảo rằng việc ăn mặn xét ra không cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của con người. Chúng ta đă có ngũ cốc, rau quả, phó mát, dưa và dầu thực vật. Đó là những thức ăn cung cấp cho chúng ta những chất dinh dưỡng dồi dào. Thịt đối với chúng ta sẽ không nghĩa lư ǵ nếu chúng ta ăn chay đầy đủ và đúng cách. 06. Benjamin Franklin Cùng một quan niệm trên, ông Benjamin Franklin (1706 - 1790), một khoa học gia và là một chính trị gia nổi tiếng của Hoa Kỳ, người đă bắt đầu ăn chay từ năm 16 tuổi đă bảo rằng nhờ ăn chay mà cơ thể của ông được trong sạch, tinh thần của ông được minh mẫn, trí óc của ông được tiến bộ và sự hiểu biết của ông được nhanh chóng hơn. Trong một bài tự thuật, ông có b́nh phẩm những người ăn mặn là những kẻ cố sát. 07. Percy Bysshe Selley Thi sĩ Percy Bysshe Shelley (1792 - 1822) cũng là người ăn chay trường. Ông chủ trương chống báng việc sát hại súc vật để cung cấp thịt cho dân chúng tiêu thụ. Ông đă có ḷng vị tha và bắt đầu ăn chay trường từ hồi c̣n là một sinh viên tại trường Đại học Oxford. Sau này ông thành hôn với bà Harriet. Cả hai vợ chồng đều chấp nhận một cuộc sống chay lạt thanh khiết. Trong một bức thư đề ngày 14-3-1812, bà Harriet đă tâm sự với một người bạn: "Vợ chồng chúng tôi đă kiêng thịt và ăn chay trường như ông Pythagore vậy". Một số thi phẩm của ông Shelley thường mang tính chất vị tha bác ái, khuyên nhủ mọi người tránh việc sát sanh, nên ăn chay và sống một cuộc đời thanh cao tốt đẹp. 08. Leon Tolstoi Văn hào nước Nga Léon Tolstoi (1828 - 1910) đă thọ trường chay từ năm 1885. Ông chống đối thú săn bắn của một số giai cấp quư tộc và trưởng giả. Ông cũng chủ trương không sát sanh, chủ trương chủ thuyết ḥa b́nh và ăn chay, tôn trọng sự sống của các loài sinh vật khác kể cả con ong và loài kiến. Ông tiên đoán những bạo động xảy ra triền miên trên thế giới chỉ v́ loài người không biết tự chế tham vọng của ḿnh. Sự kiện càng ngày càng tệ hại hơn và có thể xảy ra những cuộc chiến tranh khốc liệt làm xáo trộn cuộc sống an b́nh của nhân loại. Trong bài tham luận The First Step (Bước đầu tiên), Léon Tolstoi bảo rằng những người ăn thịt là những kẻ phản đạo đức và "phạm tội sát sinh". Ông nói thêm: "Sự sát sinh đă làm cho những người vốn có một tâm hồn cao thượng, có ḷng vị tha đối với mọi người như đối với chính bản thân ḿnh, trở thành những kẻ hung bạo". 09. Richard Wagner Nhà soạn nhạc Richard Wagner tin tưởng mạnh mẽ rằng sự sống của mọi loài đều có tính cách bất khả xâm phạm. Ông bảo: "Ăn chay là một sự dinh dưỡng thuần hợp với bản chất thiên nhiên, cứu vớt con người xa lánh những tâm địa và hành động tội lỗi, đồng thời ông cũng mong ước sau này sẽ được hóa sinh về nơi an lạc đời đời". 10. Henry David Thoeau Ông Henry David Thoreau (1817 - 1862), văn hào Hoa Kỳ có khuynh hướng chống áp bức nô lệ, chủ trương một cuộc sống thanh b́nh và thuận lư thiên nhiên. Ông là người ăn chay định kỳ từ thuở nhỏ, đă bảo rằng: "Chúng ta không có trách cứ những người ăn mặn. Thực ra v́ sự sinh tồn, loài người có thể sát sinh trên một b́nh diện nào đó. Nhưng đây là một biện pháp bất khả kháng và rất đáng thương tâm. Những người ăn mặn cần phải được hướng dẫn để cải thiện dần đường lối mưu sinh của ḿnh, để họ tự ư thức và tự chọn lựa cho ḿnh những thức ăn chay thanh đạm và cao khiết hơn. Theo sự suy nghiệm của bản thân tôi th́ những sự kiện đó can dự một cách quan trọng vào vấn đề vận số của con người. Tôi tin rằng điều kiện ăn uống có thể cải thiện được. Xuyên qua tiến tŕnh lịch sử của nhân loại, chúng ta há chẳng thấy những bộ lạc ăn thịt người từ thuở xa xưa, ngày nay họ không c̣n ăn thịt lẫn nhau v́ đời sống càng ngày càng văn minh hơn và con người trong những bộ lạc đó đă có ư thức hơn". 11. Mohanda Gandhi Trong lịch sử Ấn Độ vào thập niên 1940 và 50, nhà cách mạng bất bạo động Mohanda Gandhi đă dành lại chủ quyền cho đất nước từ trong tay thực dân Anh Quốc. Ông đă từng vào tù ra khám và được nhân dân nước Ấn tôn thờ là bậc Thánh nhân, cũng là người đă ăn chay từ thuở nhỏ. Thân sinh của ngài vốn theo đạo Hindus nên gia đ́nh của ngài là một gia đ́nh đạo đức và tất cả đều ăn chay theo giáo lư tốt lành của tôn giáo đó. Song dưới sự cai trị của Anh Quốc, những tư tưởng tân tiến Tây phương đă ảnh hưởng mạnh mẽ và dần dần đánh bạt một số phong tục cổ truyền của nước Ấn. Một số thanh niên thời bấy giờ đă chê bai việc ăn chay trường và thờ đạo bản xứ là hủ lậu nên họ học đ̣i theo lối sống Tây phương trong đó có việc ăn thịt được họ hăm hở chấp nhận hơn cả. Số người này c̣n khuyến dụ ông Gandhi theo trào lưu mới như bọn họ, nhưng đă bị ông từ chối. Do đó ông đă trở thành nạn nhân của sự chê bai gièm xiễm. Họ bảo rằng ăn thịt sẽ tăng cường sức khỏe, nghị lực và ḷng can đảm. Nhưng ông Gandhi vẫn khăng khăng giữ vững lập trường của ḿnh không hề xao xuyến. Không những thế ông c̣n viết tất cả 5 quyển sách chuyên về đề tài ăn chay và khuyên mọi người tŕ giới. Ông bảo: "Đă đến lúc chúng ta cần phải sửa sai một số tư tưởng lầm lẫn cho rằng ăn chay sẽ làm cho tinh thần chúng ta bị bạc nhược, thụ động và nhụt chí phấn đấu. Dù trong t́nh huống nào, tôi vẫn không xem việc ăn thịt là cần thiết". Hàng ngày ông Gandhi thường dùng giá lúa mạch, bột hạnh nhân, rau xanh, chanh và mật ong trong những bữa ăn thanh đạm. Chính ngài bảo đă t́m thấy những nguyên lư và giá trị đạo đức của sự ăn chay qua các tác phẩm của nhà văn Tolstoi. Trong quyển Moral Basis of Vegetarianism (Căn bản đạo đức của chủ thuyết ăn chay), ngài viết: "Tôi khẳng định rằng thịt không phải là thức ăn thích hợp với con người. Chúng ta không nên sai lầm chạy theo lối sống của các loài cầm thú, nếu chúng ta tự coi ḿnh cao thượng hơn các loài cầm thú đó". Ngài cũng bảo chính ḷng từ bi là nguyên động lực khiến người ta ăn chay và tránh sát sinh hơn là v́ lư do sức khỏe Ngài bảo sự tiến bộ về tâm linh đến một mức nào đó, con người sẽ tự ư thức và thương hại mà không giết chóc những sinh vật bạn bè của chúng ta để thỏa măn nhu cầu của khẩu vị. 12. Bernard Shaw Kịch tác gia nổi tiếng Bernard Shaw (1856 - 1950) đă được giải thưởng về văn học nghệ thuật Nobel năm 1925. Ông cũng ăn chay trường từ năm 25 tuổi. Ông bảo chính những thi phẩm của Shelley đă làm cho ông thức tĩnh và thấy được sự đạo đức trong vấn đề chay lạt. Ông bảo có lần ông bị bịnh. Bác sĩ khuyến cáo ông hăy bỏ "cái tật xấu ăn chay" đó đi. Nếu không ông sẽ toi mạng v́ kiệt sức. Nhưng ông vẫn bất chấp. Ông cũng mặc kệ trước những mỉa mai của bàng dân thiên hạ, vô công rổi nghề. Ông bảo chúng ta không nên quan tâm về sự dèm pha của số người chuyên ăn các thây ma của thú vật ấy. Ông thường trước tác những kịch bản và những văn phẩm liên hệ tới hành vi đạo đức của con người, tới sự sát sanh và những bạo động trên thế giới. |
13. Albert Einstein
Albert Einstein (1879 - 1955), nhà bác học nổi danh của thế kỷ thứ 20. Người đă phát minh ra thuyết tương đối và được tặng giải Nobel về vật lư học năm 1921 cũng là một người ăn chay trường. Tuy ông chánh thức không theo tín ngưỡng nào nhưng là một người rất sùng đạo. Ông tin có Thượng Đế và vũ trụ này được điều khiển bởi một cơ Trời huyền diệu. Nếu không th́ mọi sự vận hành trong vũ trụ sẽ loạn lên và không theo một quy luật nhất định. Ông là một người yêu chuộng ḥa b́nh, tôn trọng sự sống của muôn loài và đă từng phát biểu: "Không ǵ ích lợi cho sức khỏe của con người để có cơ hội sống lâu trên quả địa cầu này bằng cách ăn chay". 14. Isaac Bashivis Văn hào Isaac Bashivis Singer (sinh năm 1904), từng đoạt giải thưởng văn học nghệ thuật Nobel năm 1978 đă thọ chay trường từ năm 1962. Lúc đó ông vừa đúng 58 tuổi. Ông bảo ông rất lấy làm hối tiếc v́ đă kéo dài thời gian ăn mặn quá lâu. Nhưng thà muộn c̣n hơn chẳng bao giờ ăn chay cả. Ông nghĩ rằng thuyết ăn chay để tránh sát sanh cũng cũng cùng ḥa hợp với sự uyển chuyển huyền vi của Do Thái giáo. Ông bảo: "Chúng ta đều là con cái của Thượng Đế. Trong khi chúng ta cầu xin Thượng Đế tha tội cho chúng ta, th́ ngược lại chúng ta cứ tiếp tục phạm tội sát hại sinh mạng của những động vật khác". Đề cập tới t́nh trạng sức khỏe có thể bị ảnh hưởng bởi sự ăn chay, ông bảo rằng dó là hoàn toàn dựa trên ư thức của loài người. Ông cương quyết bảo: "Ngay cả việc ăn mặn có tốt cho cơ thể như thế nào chăng nữa, tôi sẽ không bao giờ chấp nhận. Rất nhiều triết gia và các nhà truyền giáo trên thế giới đă rao giảng với tín đồ của họ rằng loài thú chẳng qua chỉ là những cái máy không linh hồn và không cảm giác. Những lời rao giảng như vậy là một sự nói láo, là sáng kiến và chủ trương của bọn ma vương và tà đạo mà thôi" |
Câu chuyện có thật về luân hồi: T́m Phật Pháp trên cao nguyên Mông Cổ
Đây là một câu chuyện có thật bắt đầu ở Tô Châu, một thành phố nổi tiếng ở phía Nam Trung Quốc, nó diễn ra vào khoảng thời hậu Minh. Do triều đ́nh vô cùng hủ bại, dân chúng Trung Quốc thời đó đă lâm vào cảnh đói nghèo. T́nh h́nh c̣n tồi tệ hơn, khi thái giám trong triều, dẫn đầu là một thái giam có tên là Ngụy Trung Hiền thâu tóm quyền lực trong triều chính khiến đời sống bá tánh càng thêm lầm than. Thời gian đó, một đảng có tên là Đảng Đông Lâm đă chống đối lại Ngụy Trung Hiền và ban thái giám đông và tây cơ mật của ông ta. Ban cơ mật của họ Ngụy bắt đầu bắt giữ thành viên đảng Đông Lâm ở Tô Châu, khiến cho người dân toàn thành nổi giận và khiến máu chảy khắp thành Tô Châu. Câu chuyện luân hồi có thật của tôi trong kiếp đó bắt đầu ở đó. Ở phủ Thường Châu không xa thành Tô Châu có một góa phụ họ Trương. Chồng chết sớm để lại bà và một nam tử lên 10 tuổi tên là Lạc Thiên. Bà gần như không c̣n ǵ để sinh nhai v́ người em chồng đă hoang phí tất cả số tiền chồng bà dành dụm. Cả gia sản c̣n lại của bà là một túp lều tranh và một con lừa què. May thay, bà Trương là người giỏi thêu thùa nên có thể kiếm sống nhờ nghề thêu ở một xưởng thêu tại phủ Thường Châu. Một hôm, có một thương gia sở hữu một xưởng thêu nổi tiếng ở Tô Châu đến Thường Châu. Nhận thấy bà là người có tài nghệ, ông bèn mời bà đến xưởng ḿnh làm việc. Ái ngại trước hoàn cảnh người góa phụ, nên ông giúp bà và cậu con trai Lạc Thiên chuyển đến Tô Châu. Vào thời hậu Minh, Tô Châu đă trở nên nổi tiếng khắp Trung Thổ về nghề thêu. Nó đă tiến cống cho triều đ́nh một lượng lớn hàng thêu cùng với một lượng lớn thuế lượng. Vào thời ấy, Trung Thổ không thịnh vượng cho lắm, nông nghiệp là nguồn thu nhập chủ yếu để duy tŕ triều đại nhà Minh. Những thành trấn thịnh vượng chủ yếu dựa vào nghề thủ công như Tô Châu rất hiếm hoi. Do thái giám thâu tóm quyền lực, đặc vụ của đảng Yêm lê la khắp Trung Quốc, đặc biệt ở dọc hai bên bờ sông Trường Giang. Những đặc vụ này tống tiền của những xưởng thủ công lớn ở Tô Châu. Nếu ai đó buông lời phàn nàn, người đó sẽ bị tố cáo với đặc vụ để rồi phải chịu án tù hay bị thiệt mạng. Ông chủ xưởng thủ công nổi tiếng đă giúp đỡ mẹ con cậu bé cũng trở thành nạn nhân của bọn đặc vụ. Một hôm, đặc vụ nhất định đ̣i cướp lấy chiếc b́nh trà tím rất quư giá đă được thừa kế qua nhiều thế hệ. Mới chỉ vừa có vài lời đôi co với đặc vụ mà ông đă bị tống vào nhà lao. Sau đó đặc vụ thậm chí c̣n gia tăng việc tống tiền các xưởng thủ công ở Tô Châu. Cuối cùng dân chúng toàn thành Tô Châu trở nên rất tức giận với bọn đặc vụ. Dân chúng nổi giận đă bắt tất cả bọn đặc vụ trong thành lại, rồi treo chúng lên ở phía nam thành và đánh chúng một trận nên thân. Triều đ́nh gửi quân lính tới trấn áp đám người nổi loạn, máu chảy khắp nơi. Sau khi ông chủ xưởng thêu bị tống giam, mẹ Lạc Thiên tự nhiên mất chỗ kiếm cơm. Bà mang Lạc Thiên rời Tô Châu và bắt đầu phiêu bạt tứ xứ. Cuối cùng họ định cư lại một nơi mà ngày nay chính là Hoài Bắc và Từ Châu. Ở đó cậu bé Lạc Thiên gặp một người họ Lư là người có học thức phi thường. Được Lư tiên sinh chỉ dạy, cậu bé Lạc Thiên đă đọc rất nhiều sách và đỗ tú tài. Tuy nhiên, sự hủ bại của triều đ́nh đă lan cả đến hệ thống thi cử. Mặc dù chăm học, Lạc Thiên vẫn không đỗ được cử nhân bởi v́ cậu không cố đút lót giám khảo và không chịu đi cửa sau. Khi Lạc Thiên tṛn 20 tuổi, cậu tham dự khoa cử lần cuối cùng. Một thí sinh nói với cậu “Tôi nghe nói rằng có một cao nhân Phật giáo tinh thông Phật Pháp sống ở vùng phía bắc Trương Gia Khẩu của Nội Mông. Nhân thế vô thường. Sinh, lăo, bệnh tử là lẽ thường t́nh. Ngày nay, chuẩn mực đạo đức xă hội đă suy đồi. Do vậy, đối với tôi bây giờ cuộc sống thật thập phần khó khăn. Sao huynh không gắng đi t́m vị cao nhân và t́m đạo giúp thoát khỏi ṿng luân hồi? Sao huynh lại phải lao tâm tham dự khoa cử để truy cầu danh lợi làm chi?” Sau khi trở về nhà, Lạc Thiên mơ thấy ḿnh đang đi t́m Phật Pháp trên cao nguyên Mông Cổ. Giống như Đường Tam Tạng (vị cao tăng của nhà Đường trên hành tŕnh sang Tây Thiên), cậu đă phải chịu muôn vàn đau khổ và cuối cùng cũng thoát khỏi Tam Giới. Sau khi tỉnh mộng, Lạc Thiên kể với mẹ và Lư tiên sinh về giấc mộng. Họ đều bảo cậu “Giấc mộng này quả là điềm rất lành. Nếu con thực sự có tiền duyên với vị cao tăng Phật giáo đại đức đó, th́ nhất định sẽ gặp. Nhưng chúng ta cách Mông Cổ những hơn 10 ngh́n dặm. Hơn nữa, ta nghe nói rằng con người ở đó rất man rợ và tàn bạo. Ở đó không có ǵ ngoài khác ngoài một thảo nguyên mênh mông nơi sói, hổ, và sư tử gầm rú. Con đi một ḿnh có an toàn không?” Lạc Thiên trả lời “Trời sẽ giúp người đại căn khí. Với cả, hài nhi tới Mông Cổ để cầu Phật Pháp. Khi Đường Tam Tạng ở triều đại nhà Đường sang Tây Trúc thỉnh kinh, ngài cũng phải chịu biết bao khổ nạn nhưng cuối cùng vẫn lấy được kinh và quay trở về Trung Hoa an toàn. Mạnh Tử đă từng nói “Khi thiên thượng giao sứ mệnh trọng đại cho người nào, tất sẽ khiến người đó phải mệt cái gân cốt, khổ cái tâm chí”. Mẫu thân cậu cắt ngang lời cậu và nói “Con hăy giữ cái đạo lư đó cho riêng ḿnh đi. Lời đó ta nghe không hiểu. Hăy nhanh chóng lên đường đi thôi” Lạc Thiên bèn nói với mẫu thân “Mẫu thân, sao người không đi cùng hài nhi? Nếu không, người sẽ luôn lo lắng cho hài nhi”. “Được” Vậy là hai mẹ con từ biệt Lư tiên sinh rồi lên đường. Họ vượt sông Trường Giang rồi đi qua An Dương, H́nh Đài và cuối cùng đặt chân tới Trương Gia Khẩu. Dọc đường, họ đă phải chịu đói, chịu lạnh và vô vàn khổ nạn. Buồn thay, mẫu thân của Lạc Thiên mắc chứng phong hàn ở Trương Gia Khẩu rồi qua đời. Trước lúc lâm chung, bà nhắn nhủ Lạc Thiên phải t́m được Phật Pháp và tinh tấn tu luyện. Lạc Thiên khóc thống thiết. Sau khi mẫu thân tạ thế, Lạc Thiên đă ngộ ra rằng thế nhân vốn vô thường. Thời gian như nước chảy mây trôi nơi cơi người. Cậu nghĩ về ba người quan trọng nhất trong cuộc đời cậu: vị ân nhân đáng kính người sở hữu xưởng thủ công, Lư tiên sinh người đă dạy dỗ cậu và người mẹ đă một ḿnh nuôi dạy cậu. Bọn họ đều đă phải chịu những dạng khổ nạn khác nhau. Những tên vô lại đă tống giam vị ân nhân và cậu phải chia tay với Lư tiên sinh. Giờ đây, mẹ cậu lại qua đời. Chỉ khi cậu t́m được Phật Pháp, cậu mới có cơ hội siêu thoát khỏi Tam Giới. Lạc Thiên lại càng thêm quyết tâm tu theo Phật Pháp nếu cậu có thể t́m được. Sau khi làm tang lễ đơn sơ cho mẹ, Lạc Thiên gói ghém hành lư rồi rời Trương Gia Khẩu và tiến đến vùng thảo nguyên Mông Cổ mênh mông. Lạc Thiên là một người gầy g̣ ẻo lả. Cậu không thông thuộc đường ở Mông Cổ nên cậu phải hỏi tất cả những người cậu gặp về nơi ở của vị cao tăng Phật giáo đại đức. Càng ngày cậu càng hoang mang v́ không ai từng nghe nói đến người như vậy. Thỉnh thoảng cậu phải lang thang cả vài tháng trời trên một thảo nguyên mênh mông rồi mới có thể vượt qua đó. Đôi lúc cậu gặp dă thú như sói nhưng v́ lư do kỳ lạ nào đó, mà chúng không hề hại cậu. Khi cơn đói lên đến cực điểm, cậu lại t́nh cờ t́m được những chiếc bánh hấp ở trên mặt đất. Khi cơn khát tới, lại xuất hiện một con suối trước mặt. Khi trời mưa hay tuyết, một mái lều tranh hay vài ngôi nhà lại chợt xuất hiện. Những người sống trong những túp lều và những ngôi nhà này luôn luôn nhiệt t́nh và hiếu khách. Họ không chút nào man rợ như người ta vẫn thường đồn đại. Sau khi đăi Lạc Thiên thức ăn và nước uống, và cho cậu một chỗ để trú mưa hay tuyết, họ lại đột ngột biến mất. Lúc đầu, Lạc Thiên c̣n sững sờ trước những sự việc kỳ lạ này nhưng rồi sau đó cậu hiểu ra rằng Thần Phật đang khích lệ cậu đi t́m Phật Pháp. Lạc Thiên càng quyết tâm tu Phật hơn. Hai rồi ba năm trôi qua. Lạc Thiên giờ đây đă 26, 27 tuổi. Cậu đă trở thành một lữ hành dày dạn kinh nghiệm trên thảo nguyên rộng lớn. Cậu cũng đă trở nên khỏe mạnh, kiện tráng chứ không c̣n là một cậu bé gầy g̣, ốm yếu nữa. Nhưng có một điều vẫn không thay đổi. Lạc Thiên vẫn có hứng thú làm thơ. Những trải nghiệm cuộc sống trong vài năm qua gợi cho cậu rất nhiều cảm hứng và khiến thơ cậu mang nội hàm ngày một sâu sắc. Cậu không định chia sẻ thơ của ḿnh với người khác. Cậu thường làm thơ và quay mặt vào núi non hùng vĩ hay thảo nguyên bao la mà ngâm như một thú tiêu sầu. Một hôm khi đang một ḿnh lang thang trên thảo nguyên như thường lệ, cậu bắt gặp vài đám mây ngũ sắc sà xuống đỉnh núi liền bên. Cảnh đó ngay lập tức khiến cậu cao hứng xuất ra bài thơ: “Mây vờn bay, núi cao sừng sững, Ta là ai, bể khổ mênh mang Muốn tu Chân, tầm Sư t́m Đạo Chẳng đắc Pháp, thật quá bi ai” |
Sau khi làm xong bài thơ, Lạc Thiên cảm giác như có ai đó đang ở đằng sau cậu. Cậu quay đầu lại và thấy một hồng y cô nương. Cô đang cố giấu ḿnh không cho cậu thấy. Quá ṭ ṃ, cậu hỏi: “Tiểu cô nương, tại sao cô lại đi theo tại hạ vậy?” Cô nương trả lời: “Thực ra tôi đă đi theo anh nhiều ngày rồi. Tôi là con gái của một trưởng bộ lạc. Anh trai tôi cũng là trưởng bộ lạc. Vài ngày trước đây, khi ra ngoài đi dạo, tôi đă trông thấy anh. Tôi rất ṭ ṃ về anh bởi v́ trông anh giống như một người Hán. Sao anh lại tới chốn thảo nguyên Mông Cổ hoang vắng này?” “Tiểu cô nương, để tôi kể cho tôi về bản thân ḿnh…”
Rồi Lạc Thiên kể cho cô nghe về cậu đặc biệt là phần cậu đă tới đây để t́m Phật Pháp. Vị cô nương liền nói với cậu, “Xin đừng gọi tôi là tiểu cô nương nữa. Anh chưa đủ tuổi làm anh tôi đâu.” Vị cô nương có vẻ hơi bị xúc phạm. Lạc Thiên nói “Có vẻ như ḿnh đă gặp một cô nương rắc rối đây. Ḿnh phải t́m cách thoát khỏi cô ta mới được.” Lạc Thiên nói với cô gái “V́ cô không muốn bị gọi là tiểu cô nương, tôi sẽ gọi cô là tiểu muội. Tiểu muội, sao muội không về nhà ngay đi? Nếu không, phụ thân muội lại lo lắng cho muội đấy”. Vị tiểu cô nương bèn thẳng thắn nói với cậu: “Tôi cần phải sớm về với phụ thân tôi nhưng tôi cũng rất muốn t́m được vị cao tăng Phật gia đại đức v́ tôi cũng muốn tu Phật. Anh có biết là rất nhiều người Mông Cổ tin vào Phật Pháp không? Chúng tôi tin rằng có luân hồi. Anh không phải là người duy nhất sợ luân hồi đâu. Tôi cũng sợ. Tôi cũng muốn tu Phật để thoát khỏi Tam Giới. Tại sao tôi không quay về gặp cha tôi rồi nói với ông ấy rằng tôi sẽ cùng đi t́m Phật Pháp với anh nhỉ? Rồi chúng ta sẽ cùng nhau đi t́m Phật Pháp. Anh nghĩ sao? Chúng ta sẽ lo cho nhau” Cuối cùng Lạc Thiên cũng đồng ư với kế hoạch của cô. Nói cho cùng đi t́m Phật Pháp một ḿnh rất khó khăn và cả cô đơn nữa. Cậu bèn nói với cô gái “Muội phải nhanh lên. Ta sẽ đợi muội ở đây. Sau 10 ngày nữa, muội hăy quay lại đây”. “Ta hứa là ta sẽ trở lại”. Hồng y cô nương vận bèn rời đi. Khoảng 8 ngày sau, hồng y nữ đă quay lại thổn thức. Lạc Thiên hỏi cô điều ǵ đă xảy ra và cô kể lại cho cậu mọi chuyện. Khi cô về gặp lại phụ thân, ông đă cho cô biết tin dữ. Bộ tộc của anh trai cô đă bị san bằng trong một trận giao chiến với một bộ tộc khác. Anh cô đă bị giết và thân thể bị xé tan thành từng mảnh. Trước khi kẻ thù đốt xác anh, một người đàn ông tốt bụng đă cất đi một phần xương cẳng chân của anh ấy. Ông đă liều mạng mà mang miếng xương về cho phụ thân cô. Ông cũng nói với phụ thân cô rằng bộ tộc đă giết con trai ông đang chuẩn bị tấn công bộ tộc của ông và khuyên họ nên đi trốn. Sau khi hồng y nữ kể với phụ thân về Lạc Thiên, phụ thân đă nghiêm nghị nói với cô rằng: “Nha đầu, có lẽ gia tộc chúng ta được phúc phận rồi. Toàn gia chúng ta sẽ được phúc phận nếu con t́m được Phật Pháp, nhất là khi cả gia tộc chúng ta đang gặp nạn sinh tử này. Nhân thế khó lường. Nha đầu, từ nay trở đi, con phải học cách tự chăm lo cho bản thân đi thôi. Bên ngoài không như ở nhà đâu. Con không thể măi ngoan cố như vậy đâu!” Tiểu cô nương liền đáp lại: “Phụ thân, người thật xem nhẹ con. Nếu giờ con ra đi, không biết lúc nào chúng ta mới có ngày tái ngộ nhất là khi những tên vô lại kia đang săn đuổi người. Con rất lo lắng cho người”. “Nha đầu, có phải ta thường nói với con rằng ‘Phật sẽ bảo hộ người đại đức sao’ Đừng lo lắng ǵ cả. Hăy lo cho bản thân ḿnh thôi!”. Người cha gạt nước mắt rồi an ủi cô. Sau đó, vị cô nương quay lại chỗ Lạc Thiên. Sau khi nghe hết câu chuyện thê thảm, Lạc Thiên thở dài rồi ngâm câu thơ: “Huyết lệ gươm đao bao giờ dứt Nhân thế oán cừu, lỗi từ đâu Danh lợi vô thường nay bỏ hết Chỉ đường chính Pháp, sạch khổ đau!” Từ đó trở đi, cả hai rong ruổi khắp nơi trên vùng cao nguyên Mông Cổ. Họ đồng cam cộng khổ trong suốt hành tŕnh. Họ nâng đỡ và khích lệ nhau. Họ đă vượt qua vô số khổ nạn. Mỗi lần tới một thị trấn lớn hơn, họ lại cố gắng hỏi thăm tin tức về phụ thân của cô. Lúc đầu, người ta nói với họ rằng bộ lạc của phụ thân cô đă bị tiêu diệt và không t́m thấy phụ thân cô đâu. Khoảng một năm sau, cô có mang. Nhưng họ vẫn không tài nào t́m được vị cao tăng Phật giáo đại đức mà Lạc Thiên đă cố công t́m kiếm trong suốt những năm qua. Một hôm, họ tới một thị trấn lớn và hỏi thăm tin tức về phụ thân. Hóa ra phụ thân cô vẫn c̣n mạnh khỏe. Bộ lạc đă tiêu diệt bộ lạc của phụ thân và anh trai cô có mâu thuẫn nội bộ gay gắt và rồi họ tự đánh giết lẫn nhau. Cuối cùng, một bộ lạc nữa tới và tiêu diệt bộ lạc đó. V́ phụ thân cô là một người đáng kính và có đức, ông được bầu làm người đứng đầu của tập hợp tất cả các bộ lạc. Phụ thân cô cũng đang đi t́m hai người. Họ lập tức nhờ người nhắn tin cho phụ thân cô để ông khỏi lo lắng. Vài ngày sau, phụ thân của ông mang xe ngựa tới đón họ. Khi thấy người con gái yêu mà ông đă không được gặp trong nhiều năm và người con rể ông chưa từng biết mặt, ông vỡ ̣a trong cảm giác buồn vui lẫn lộn. Ông nói với họ trong nước mắt: “Các con, những khổ nạn đă qua rồi. Mọi thảm họa đă qua qua rồi. Giờ chúng ta đă có thể sống yên ổn rồi.” Cả ba người cảm thấy như thế cuối cùng họ đă có thể tự do tung hoành trên vùng thảo nguyên mênh mông. Khi họ đang tṛ chuyện, trên mặt đất hiện ra ḍng chữ lớn bằng tiếng Trung: “Lưu đắc trung trung tồn”. Điều đó có nghĩa là họ sẽ đắc Chính Pháp ở Trung Thổ. Tôi viết bài này năm 2002 nhưng không đăng v́ những nguyên do khác nhau. Tôi đă viết một bản súc tích năm ngoái khi trang Minh Huệ kêu gọi viết bài cho “Pháp hội tâm đắc thể hội trên mạng internet của Trung hoa lục địa lần thứ nhất”. Giờ đây, tôi quyết định viết ra toàn bộ câu chuyện với các đồng tu và những người có tiền duyên với Pháp Luân Công. Chia sẻ bài viết này, tôi muốn phản ánh những khổ nạn và khó khăn vô biên mà chúng ta đă phải trải qua trong nhiều kiếp trước để kiếm t́m Pháp. Chúng ta không thể t́m thấy Phật Pháp trong một đời! nhưng v́ chúng ta có thể từ bỏ được chấp trước vào bản thân, vào danh, lợi, t́nh, chúng ta mới có được cơ hội quư báu đích thân nghe vị Phật chủ từ bi vĩ đại giảng Pháp trong đời này. Không có mối tiền duyên nào thiêng liêng hơn thế! Khi chúng ta không tinh tấn tu luyện, sao chúng ta không nghĩ rằng: để đắc được Chính Pháp, chúng ta đă mạo hiểm cả cuộc đời đi t́m kiếm trong suốt những kiếp trước của ḿnh. Chúng ta phải tu luyện tinh tấn và đưa chúng sinh trở về nhà bởi v́ đó là đại nguyện của chúng ta. Để các đồng tu không phát triển chấp trước, tôi sẽ ngừng không chỉ ra đồng tu nào chung quanh tôi là hiện thân của những nhân vật trong những câu chuyện thật về tiền kiếp của tôi. Những duyên nghiệp trong tiền kiếp của chúng ta không c̣n quan trọng nữa. Tôi chỉ có ư định khích lệ mọi người hăy trân quư tiền duyên đối với Pháp. Đối với duyên nghiệp của chúng ta trong đời trước, giờ đây chúng không c̣n quan trọng nữa. Đối với chúng ta điều quan trọng hơn là hăy trân quư quan hệ của chúng ta trong ngày hôm nay và trở thành “đệ tử Đại Pháp” đích thực. Đó là điều mà chúng ta không bao giờ nên quên. |
Câu chuyện có thật về luân hồi: Thiên nhai hành giả
Trong kiếp sống hiện tại của tôi, tôi vui sướng khi ḥa ḿnh với non nước thiên nhiên. Sở thích này dường như đă h́nh thành từ khi tôi sinh ra. Dù bận rộn đến đâu, tôi vẫn luôn có một cảm giác thanh tĩnh trong nội tâm. Tâm thái này càng trở nên rơ ràng hơn sau khi tôi bắt đầu tu luyện. Dường như trái đất này là non nước của đại lục Trung Quốc, đi tới đâu tôi cũng có cảm giác thân quen! Khi đọc các tài liệu về phong cảnh, núi non, tôi có thể cảm nhận chúng và cả tâm hồn của chúng ngay trong tâm tôi, như thể tôi cảm nhận chính da thịt của ḿnh vậy. Chỉ gần đây, tôi mới hiểu được lư do v́ sao tôi cảm thấy như vậy. Không phải v́ tôi đă tu luyện nhiều lần trong các kiếp trước, hay tôi đă có hoàn cảnh trên quả Địa cầu khi c̣n ở trên thiên thượng. Đó là bởi v́ bằng chính đôi chân của ḿnh,tôi đă từng chạm vào những tinh thần cổ xưa này. Hăy cùng theo tôi đến núi Trường Bạch ở vùng Đông Bắc Trung Quốc vào cuối thời nhà Nguyên (1271–1368 sau công nguyên). Tại đó, gần hồ Thiên Tŕ có 1 gia đ́nh nhà họ Lục! Nhà họ có 1 đôi vợ chồng và 1 ông lăo bị liệt! Ông lăo không phải là cha của đôi vợ chồng. Trên đường trở về nhà sau 1 chuyến đi dài, ông Lục gặp ông lăo bên đường. Ông Lục cảm thấy ông lăo này thật đáng thương và đă cơng ông lăo về nhà.Vừa đi ông Lục vừa nghĩ: “Liệu phu nhân của ta có vui không khi ta đưa về nhà một người lạ? Nhưng ta không thể thấy chết mà không cứu v́ mạng người là trân quư nhất. Phụ thân của ta luôn nói làm điều tốt không cầu báo đáp và khi ấy cuộc đời của ta mới có một kết cục tốt đẹp.” Khi họ về đến nhà, Lục phu nhân đang giặt giũ quần áo trong sân. Bà ngay lập tức bước tới giúp khi trông thấy chồng và ông lăo. Rồi bà đi nấu cơm. Đến đêm, ông Lục kể lại sự t́nh cho vợ nghe. Lục phu nhân cười và nói: “Tướng công, xin đừng lo lắng. Trước khi thiếp xuất giá, mẫu thân thiếp đă nói rằng phải luôn lấy thiện đăi người. Bà nói rằng hăy đối xử tốt với người khác như đối xử với chính bản thân ḿnh và rồi con cháu sẽ được phúc đức.” Từ đó ông lăo sống cùng đôi vợ chồng này. Hai người họ đối xử với ông lăo như thể cha ruột của ḿnh. Nhưng không những ông lăo không tỏ ra biết ơn mà lại thường gây khó khăn cho đôi vợ chồng nhà ông Lục. Dẫu vậy, họ vẫn không hề phàn nàn điều ǵ! Thời gian cứ thế trôi qua. Hai hay ba năm sau, Lục phu nhân có mang. Ông lăo vẫn gây khó khăn cho họ như mọi khi. Một ngày nọ, ông Lục không c̣n cách nào khác ngoài việc nói với ông lăo: “Thưa cụ, chúng tôi đối xử tốt với cụ. Tại sao cụ cứ làm khó chúng tôi như thế? Bây giờ vợ tôi đă có mang, cụ có thể đối xử với chúng tôi tốt hơn một chút được không?”. Ông lăo ra hiệu rồi đọc một bài thơ: “Tích đức hành thiện thuyết vô cầu, Vạn sự du du hữu nhân do, Vật luận đối phương chẩm dạng tố, Thiện tâm thường tại tâm trung lưu!” Diễn nghĩa: “Tích đức hành thiện mà không truy cầu, Mọi sự việc đều có nguyên do của nó, Đừng để ư người khác hành xử ra sao, Ḷng tốt vẫn luôn ở trong tâm.” Rồi cụ nói: “Tuy các con vẫn chưa hành xử đúng như những ǵ đă nói nhưng các con vẫn c̣n đủ thiện tâm”. Ông Lục cảm thấy rằng ông lăo không phải là một người b́nh thường sau khi nghe những lời này. Rồi ông đối xử với ông lăo ḥa hảo thân thiết hơn nữa. Ông lăo cảm thấy vô cùng phấn khởi. Đứa bé chào đời không lâu sau đó. Đó là một bé trai. Ông lăo đặt cho đứa bé một cái tên: “Lục Tu Tĩnh”. Đây là một cái tên mang đậm sắc thái tu luyện. Ông lăo thường chơi đùa với Tu Tĩnh và kể cho nó nghe rất nhiều câu chuyện. Một lần nọ, Tu Tĩnh nằm ngủ cùng phụ mẫu và hỏi: “Tại sao có nhiều ngựa đẹp và tiên nữ bay lượn trên thiên thượng thế ạ? Tại sao chúng mỹ diệu thế ạ?” Đôi vợ chồng vô cùng ngạc nhiên. Họ biết rằng ông lăo rơ ràng có lai lịch không phải tầm thường. Đến khi Tu Tĩnh chập chững biết đi, ông lăo nằm liệt giường bỗng nhiên bước tới và nói với đôi vợ chồng: “Đă đến lúc ta nói cho các con biết sự thật. Ta không có bệnh tật ǵ cả. Ta cố ư giả vờ bị liệt để khảo nghiệm tâm tính của các con. Ta muốn dạy Tu Tĩnh công phu tu luyện bắt đầu từ ngày hôm nay. Ta cũng muốn nói với các con điều này: Ta đă 103 tuổi. Ta đă tu luyện đắc Đạo và đạt viên măn vào tuổi 40. Ta đă đi t́m một đồ đệ tốt từ lâu lắm rồi. Ta muốn truyền cấp phương pháp tu luyện trong pháp môn của ta cho nó. Như các con biết, rất khó để t́m được một đồ đệ tài đức song toàn. Nhiều năm trước, ta đă được một vị Thần tiên điểm hóa trước khi gặp Lục tiên sinh. Các con đă đạt tiêu chuẩn trong phương pháp tu luyện của ta. Tuy nhiên, đồ đệ của ta phải là đồng tử. V́ vậy ta đă đợi để đứa trẻ được sinh ra. Bây giờ Tu Tĩnh đă biết đi. Ta biết rằng nó có một căn cơ tốt và tâm tính cũng tốt như các con. Ta phải nói với các con tất cả điều này.” Ngay lúc ấy, Tu Tĩnh bước vào pḥng rồi quỳ gối xuống và nói: “Hôm qua, trong giấc mộng, một vị Thần tiên đă nói với con rằng nếu con tu luyện với sư phụ, con sẽ có thể trở về thiên thượng. Con đă hỏi rằng sư phụ của con là ai. Vị Thần tiên nói rằng ông lăo trong nhà chính là sư phụ. Bây giờ con đă rơ tất cả. Thỉnh cầu ân sư thu nhận con làm đồ đệ!”. Kể từ đó, Tu Tĩnh bắt đầu tu luyện trong pháp môn của ông lăo. Khi Tu Tĩnh khoảng hai mươi tuổi, ông lăo rời đi. Trước khi ra đi, ông lăo đưa cho Tu Tĩnh một cái b́nh quư. Cái b́nh này có thể tùy ư biến hóa thành bất cứ thứ ǵ theo ư muốn của chủ nhân. Ông lăo yêu cầu Tu Tĩnh đi vân du năm châu bốn biển, đặc biệt phải đến bốn nơi sau: Sa mạc ở vùng ḷng chảo Tarim thuộc Tân Cương, hồ Điền Tŕ thuộc tỉnh Vân Nam, núi Ngũ Chỉ thuộc đảo Hải Nam và đảo Bồng Lai thuộc tỉnh Sơn Đông. Sau cùng, ông lăo nói: “Đi ngay đi! Ta sẽ đợi con trên đỉnh núi Lư Sơn!”. Tu Tĩnh bắt đầu cuộc hành tŕnh với hành trang đơn giản, chiếc b́nh quư và ḷng kiên tín vào sư phụ. Cậu phải ngủ ngoài trời và chịu đựng rất nhiều gian nan. Nguy hiểm và khó nạn luôn ŕnh rập khắp mọi nơi. Lúc ấy, khởi nghĩa loạn lạc nổ ra ở nhiều địa phương. Tu Tĩnh bị coi là gian tế và đă bị bắt một lần. Lần khác, cậu thực sự đă bị đem ra tử h́nh. Ngạc nhiên thay, cậu đă sống lại ngay khi những tên đao phủ rời đi. Nhiều lần khi bị hết nước nơi hoang mạc, cậu mở chiếc b́nh ra. Cậu thấy rằng không những có một chút nước ở bên trong b́nh mà đó c̣n là một thế giới rộng lớn. Thế giới này vô cùng mỹ diệu và thần thánh. Cậu không c̣n cảm thấy khát chút nào nữa. Khi thể hiện quyết tâm vào tu luyện và và tín niệm vào phản bổn quy chân, cậu đă thoát được mối đe dọa sinh tử. Cứ như vậy, cậu đă đi khắp núi nam bể bắc trên đôi chân của ḿnh. Chuyến hành tŕnh đă làm phong phú tâm hồn cậu và giúp cậu hiểu được ư nghĩa của cuộc sống. Hiện nay, người ta nghĩ rằng người xưa du sơn ngoạn thủy chỉ để giải trí, thật ra không phải vậy. Trên đường đi vân du, Tu Tĩnh đă thiết lập được sự trân quư đối với các sinh mệnh. Chuyến hành tŕnh đă giúp cậu trở về với bản nguyên của tự nhiên và vũ trụ. Đây là sự phản ánh trạng thái tu luyện của cậu. Cậu đă hoàn toàn siêu thoát khỏi cảnh giới của người thường. Cậu không hề cố gắng chạy trốn khỏi thế giới trần tục này. Chân chính giúp cậu giải thoát, tắm ḿnh trong mưa gió để ḥa ḿnh với thiên nhiên. Trong con mắt của Tu Tĩnh, mỗi ngọn núi, mỗi ḍng sông đều có sinh mệnh riêng của chúng. Chúng cũng có mừng vui, giận hờn, yêu thương như con người. Chúng được các vị Thần tiên trên thiên thượng phái xuống đây để giúp ích cho con người. Cậu đối xử với chúng như tri kỷ. Cậu kể cho chúng nghe về kinh nghiệm tu luyện và cuộc hành tŕnh của ḿnh. |
Tu Tĩnh hoàn thành chuyến hành tŕnh của ḿnh trong ṿng 20 năm. Cuối cùng, cậu đă leo lên được đỉnh núi Lư Sơn. Tuy nhiên, cậu không thấy bóng dáng một ai trên đó cả. Hai ngày sau, sư phụ vẫn không xuất hiện. Tu Tĩnh nghĩ rằng có thể sư phụ đang bận việc ǵ đó và ông sẽ không đến trong vài ngày nữa. Cậu muốn đợi sư phụ ở phía giữa của ngọn núi này. Do vậy, cậu bắt đầu trèo xuống. Trên đường đi xuống, cậu đi ngang qua một lăo bà. Lăo bà là một người c̣ng lưng. Bà la lên khi gặp Tu Tĩnh: “Cậu ơi, cậu đă từng gặp ai không giữ lời hứa chưa? Con trai lăo hứa là sẽ đợi lăo, nhưng nó đă không giữ lời hứa. Nó đă đi rồi. Làm sao nó có thể làm như vậy chứ?” Tu Tĩnh cảm thấy chấn động: ‘Lẽ nào đây là sư phụ…” Nghĩ lại, cậu thấy sư phụ đă từng biến thành một ông lăo bị liệt. Hôm nay, sư phụ cũng có thể biến thành một lăo bà để điểm hóa cho cậu. V́ vậy cậu nói: “Là một người con, cậu ấy nên giữ lời hứa. Nếu không, cậu ấy có đáng tin hay không? Cậu ấy có c̣n là một chính nhân quân tử hay không?” Rồi cậu lại leo ngược trở lên đỉnh núi. Cậu đă qua đêm trên đỉnh núi đó. Sáng sớm hôm sau, mặt trời mọc lên từ phương Đông. Ngay lúc ấy, cậu đột nhiên trông thấy rất nhiều vị Thần tiên bay lượn trên không trung. Sư phụ của cậu xuất hiện đầu tiên trong số những vị Thần tiên ấy. Tu Tĩnh khấu đầu măi không thôi. Vị Thần nói: “Con đă công thành viên măn rồi. Hăy đi đi!” Tu Tĩnh đứng dậy rồi bay lên không trung. Cậu đă bay đi cùng sư phụ của cậu.
“Tẩu biến thiên nhai, Tứ hải vi gia, Phản bổn quy chân, Vô khiên vô quải, Xả tận danh lợi, Tâm vô sở cầu, Tŕ chi dĩ hằng, Cước thừa liên hoa.” Diễn nghĩa: “Đi khắp mọi nơi, Bốn biển là nhà, Phản bổn quy chân, Không c̣n chấp trước, Xả bỏ danh lợi, Tâm chẳng truy cầu, Nỗ lực kiên định, Bước lên đài sen.” Lời kết:Đây là một bài viết khác mà đă giúp tôi giải quyết được vấn đề trong tâm ḿnh. Sau hàng ngàn năm luân hồi, các chủng nhân tố khác nhau vẫn c̣n lưu tồn rất nhiều ở bên trong tôi. Những chủng nhân tố này, dẫu là chính diện hay phụ diện, vẫn đang khởi tác dụng trong quá tŕnh tu luyện ngày hôm nay của tôi. Chỉ sau khi lư giải được những khúc mắc trong tâm, chúng ta mới có thể loại trừ đi những nhân tố bất thuần để tiến nhập vào vũ trụ mới. Rất quan trọng khi chúng ta có nhận thức đúng đắn về những vấn đề này. |
Câu chuyện có thật về luân hồi: Đạo tặc cũng phải có ‘đạo’
Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Hôm nay, tôi muốn chia sẻ một câu chuyện có thật về luân hồi của tôi, khi tôi c̣n là một đạo tặc trước khi tôi bắt đầu tu luyện và đạt viên măn. Câu chuyện bắt đầu vào triều đại Bắc Tống (960 –1127 sau công nguyên). Sau khi liên tục thất trận, triều Bắc Tống cuối cùng đă phải kư hiệp ước ‘Thiền Uyên’ với nước Liêu. Trong hiệp ước đó, Bắc Tống đồng ư cống nạp một số tiền lớn cho nước Liêu hàng năm. Kết quả là, Bắc Tống đă phải thu thuế cao từ người dân, làm bách tính ngày càng trở nên nghèo khổ hơn. Những người dân nước Tống sống gần biên giới giữa Tống và Liêu th́ phải chịu đựng khổ cực trong suốt cả năm trời. Ngược lại, nước Liêu đă đạt đến đỉnh điểm của sự thịnh vượng vào thời bấy giờ. Hồi ấy, tôi được luân hồi thành một vị công chúa của nước Liêu tên là Thiên Hành (天行). Thiên Hành công chúa tính t́nh khá rắn rỏi và mạnh mẽ. Do sinh trưởng tại phương Bắc nên công chúa có một dáng dấp tương đối đậm đà. Một lăo sư tinh thông vơ nghệ đă dạy vơ cho Thiên Hành công chúa từ khi cô c̣n nhỏ. Trước khi vị lăo sư dạy vơ cho cô, ông đă đưa cho công chúa một thanh bảo đao sắc bén đến nỗi có thể cắt sắt ra làm đôi. Vị lăo sư nói với công chúa rằng cô phải không được giết người vô cớ. Khi lăo sư ra đi th́ công chúa đă tṛn 20 tuổi. Để lo lắng cho việc hôn sự của Thiên Hành, phụ vương của công chúa đă phải hao tổn rất nhiều tâm tư. Ông đă t́m nhiều người để cô lựa chọn nhưng Thiên Hành công chúa vẫn không ưng một ai. Công chúa cũng luôn cảm thấy sầu muộn về vấn đề hôn sự của ḿnh. Một ngày, Thiên Hành công chúa có một giấc mơ, trong đó một bạch diện thư sinh vô cùng khôi ngô tuấn tú đọc cho cô nghe một bài thơ: “Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu, Nhân sinh phồn hoa chi đa thiểu, Tuế nguyệt du du thiên bách độ, Công thành danh tựu thân thể khô. Hà xứ thị vĩnh hằng? Duy hữu tu luyện phương thành kim cương bất hoại thân!” Diễn nghĩa: “Khi hoa xuân tàn và trăng thu lặn, Sự phồn hoa nơi cơi người c̣n được bao lâu, Hàng ngàn năm dần dần trôi qua, Đến khi công thành danh toại th́ thân thể đă khô ṃn. Cơi vĩnh hằng ở nơi đâu? Chỉ có cách tu luyện thành thân thể kim cương bất hoại!” Lúc ấy, công chúa cảm thấy vô cùng thân thiết với người thư sinh này. Đến khi cô định bước tới và chào hỏi th́ người thư sinh lập tức biến mất. Cô vô cùng ngạc nhiên và choàng tỉnh. Sau khi tỉnh dậy từ giấc mơ, cô quay sang nh́n những thị nữ của ḿnh và thấy họ đang ngủ. Công chúa châm lên một ngọn đèn và ngắm nh́n dung mạo như hoa như ngọc của ḿnh phản chiếu lên tấm gương đồng. Mặc dù không có dáng vẻ ‘liễu yếu đào tơ’ của một nàng tiểu thư suốt ngày ở trong khuê pḥng, công chúa có một vẻ đẹp cương dương mạnh mẽ. Nhưng v́ một vài lư do, cô cảm thấy không có ǵ là chân thật trong đó. Thời gian liên tục trôi đi như một ḍng sông. Làm sao cô có thể bảo tŕ vĩnh viễn tuổi trẻ và nhan sắc của ḿnh? Công chúa nghĩ về giấc mơ vừa qua và bắt đầu sầu muộn. Cô luôn luôn bất như ư về chuyện hôn nhân của ḿnh. Đột nhiên, một quyết tâm mạnh mẽ thúc giục cô rời khỏi Hoàng cung. “Ta muốn ra đi để t́m kiếm triết lư nhân sinh.” Cô đă quyết định ra đi ngay lập tức bởi v́ cô biết rằng phụ vương cô sẽ không bao giờ đồng ư. Cô đă viết một bức thư gửi cho phụ vương: “Thiên Hành sẽ rời khỏi Hoàng cung đêm hôm nay. Thưa phụ vương, xin thứ lỗi cho Thiên Hành đă không chào từ biệt phụ vương. Hài tử phải ra đi một ḿnh để t́m kiếm chính Pháp. Hài tử sẽ tự thân giải thoát khỏi ṿng luân hồi sinh tử và thoái xuất khỏi tam giới. Đến khi tu thành chính quả, hài tử nhất định sẽ quay trở lại cứu độ song thân!” Sau khi viết xong bức thư, Thiên Hành công chúa gạt những giọt nước mắt lăn trên má. Công chúa cưỡi trên một con kỵ mă và rời khỏi Hoàng thành với thanh bảo đao. Sáng hôm sau, những thị nữ của công chúa không t́m thấy cô đâu và ngay lập tức bẩm báo với Hoàng thượng. Sau khi đọc xong bức thư, Hoàng thượng đă khóc một lúc lâu. Phải mất một thời gian lâu sau, Hoàng hậu mới làm cho vị Hoàng đế nguôi ngoai đi. Cuối cùng, ông nói một cách lạc quan: “Thậm chí nếu Thiên Hành có ở bên ta, chúng ta cũng vẫn phải xa nhau trong vài chục năm nữa. Nếu hài tử thực sự có thể t́m được chính Pháp và thoát khỏi ṿng luân hồi sinh tử, chẳng phải sẽ tốt hơn sao? Khi Thiên Hành c̣n nhỏ, nó không bao giờ thích thú với những tranh đoạt quyền lợi nơi trần thế. Nó rời khỏi Hoàng cung cũng là một việc tốt. Nó sẽ sống một cuộc sống thanh thản. Ta cảm thấy toại nguyện khi nó được hạnh phúc. Nó một thân vơ nghệ và không kể nó đi đâu, không ai có thể bắt nạt nó.” Gần mười năm sau khi công chúa rời khỏi Hoàng cung, phụ vương và vương hậu của công chúa qua đời. Sau khi Thiên Hành công chúa rời khỏi Hoàng thành, cô đi lang thang trong khoảng 2 tuần cho tới một ngày nọ, khi cô du ngoạn tới một ngọn núi cao có tên là Đại Thanh Sơn. Cô nhớ lại rằng phụ vương cô đă từng nói rằng có một sơn trại trên Đại Thanh Sơn. Theo lời kể của phụ vương, trại chủ tên là Khổng Tâm, tự xưng là ‘kim đao vô địch’ nhưng do chỉ là một người ‘hữu dũng vô mưu’ nên đă bị triều đ́nh nhà Tống cử gian tế xâm nhập. Tên gian tế lẩn trốn tại một nơi phụ cận Đôn Hoàng và đă giết chết trại chủ. Hiện tại sơn trại trên núi đang ở trong trạng thái vô thủ [lĩnh]. Trong khi công chúa đang nghĩ về cuộc đối thoại giữa ḿnh và phụ vương th́ một đám lâu la chạy xuống núi và bao vây lấy cô. Dẫn đầu đám lâu la là một đại hán mặt đỏ với cây đại chùy trong tay. Hắn vừa chắn ngang đường vừa nói: “Xú nha đầu, mau đưa tiền ra th́ bổn đại gia sẽ tha mạng cho. Bằng không, ta sẽ cho ngươi một chùy.” “Ngươi dám à! Nếu có bản sự th́ lại đây, bổn cô nương sẽ đấu với ngươi một phen!” Thiên Hành rút thanh bảo đao ra và không hề tỏ ra sợ hăi chút nào. Sau một vài phen giao tranh, cây đại chùy của tên đại hán mặt đỏ đă bị thanh bảo đao của Thiên Hành bổ ra làm đôi. Thiên Hành nhảy lên ngựa và định rời đi, tuy nhiên tên đại hán ôm quyền rồi nói: “Xin cô nương dừng bước. Tại hạ có điều muốn thương lượng, không biết có được hay không?” “Có ǵ th́ ngươi cứ nói thẳng ra đi.” “Không biết cô nương có nghe nói về việc bổn sơn trại đang trong trạng thái vô thủ [lĩnh] hay chưa. Hôm nay thấy cô nương vơ nghệ siêu quần, nhất định là người hành hiệp trượng nghĩa. Chúng tôi mong cô nương lên núi làm trại chủ, huynh đệ chúng tôi nguyện nghe theo sự điều khiển của cô nương.” Thiên Hành thầm nghĩ ḿnh đang không có nơi nào để dung thân nên đă đáp ứng yêu cầu của họ. Kể từ đó, Thiên Hành trở thành trại chủ của sơn trại. Trong mười năm sau đó, Thiên Hành và nhóm thổ phỉ này đă giết chết nhiều tham quan trụy lạc và kẻ giàu có ăn chơi sa đọa. Họ đă bảo vệ sự công bằng cho rất nhiều người. Tuy là hành hiệp trượng nghĩa nhưng họ cũng đă giết hại rất nhiều người. Người dân quanh đó đă đặt cho Thiên Hành một cái tên – ‘bảo đao nữ hiệp’. Trong lúc nhàn rỗi, Thiên Hành thường nghĩ rằng: “Ta đă rời Hoàng cung để tầm Đạo cầu Pháp, nhưng số phận run rủi đă dẫn dắt ta trở thành cường đạo! Than ôi! Khi nào ta mới t́m được chân Pháp để tu luyện đây?” Hai ngày sau, trong khi Thiên Hành và băng nhóm đang tụ họp trong sơn trại ăn thịt uống rượu th́ một tên tiểu lâu la vào bẩm báo: “Ở dưới núi có khoảng sáu người đang đi ngang qua, trông rất giống mấy tên tham quan và nhà giàu. Liệu chúng tôi có nên ‘măi mại’ (cắt hợp đồng) với chúng?” Thiên Hành ra lệnh: “Cứ làm như mọi khi. Tại sao nhà ngươi chần chừ thế?” Một lúc sau, tên lâu la quay lại bẩm báo: “Chúng tôi đă giết chết tất cả bọn họ, ngoại trừ một tên có dáng dấp thư sinh. Khi chúng tôi định hạ thủ th́ hắn nói rằng hăy để hắn vào nói với trại chủ ba câu rồi muốn làm ǵ hắn cũng được.” Thiên Hành nói: “Kẻ nào có gan nói ra những câu này? Đem hắn lên đây. Ta muốn xem mặt mũi hắn ra sao.” |
Không lâu sau, người thư sinh được đưa lên núi trong tư thế bị trói. Thiên Hành thầm nghĩ: “Dường như ta đă gặp hắn ở đâu rồi th́ phải.” Nhưng cô không có thời gian để nghĩ ngợi. Cô trừng mắt nh́n anh ta rồi quát: “Nghe nói ngươi muốn nói vài lời với bổn trại chủ. Nói nhanh lên rồi chịu chết.”
Người thư sinh không có vẻ sợ hăi chút nào. Anh ta nói với Thiên Hành: “Nghe nói trại chủ được dân chúng vùng phụ cận phong cho đại danh là ‘bảo đao nữ hiệp’, nhưng hôm nay được gặp mặt mới thấy rằng cũng chỉ là hư danh.” Thiên Hành cảm thấy rất không vừa ư. Cô hỏi: ‘Ngươi định ám chỉ điều ǵ?” “Người hành hiệp trượng nghĩa không bao giờ lạm sát người vô tội. Nhưng hôm nay cô nương không thèm hỏi xem tại hạ là ai, đây có phải là tùy tiện giết người hay không?” Thiên Hành đáp: “Được rồi, để ta hỏi ngươi mấy câu. Tại sao ngươi lại đi cùng những người đó?” “Tại hạ là nhân sĩ vùng Liêu Đông, tên là Lư Bằng Phi. Tại hạ đi học từ thuở c̣n nhỏ, sau đó được gặp một vị sư phụ dạy cho pháp môn tu luyện. Sư phụ từng nói với tại hạ hăy đi lên núi Hoa Sơn để t́m gặp một cao nhân dạy cho cách thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi. Trên đường tới núi Hoa Sơn, tại hạ gặp những viên quan và người giàu có đó rồi đi cùng với họ. Bây giờ đến lượt tại hạ hỏi cô nương vài câu hỏi. Thứ nhất, khi nào th́ cô nương ngừng việc sát nhân? Thứ hai, cô nương có cảm thấy mất tự do khi sống trong thế giới con người này hay không? Thứ ba, cô nương có biết rằng ‘thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ chính là đạo lư của thần linh trên thiên thượng hay không?” Thiên Hành trở nên sững sờ và không nói được câu nào sau khi nghe xong những lời này. Đột nhiên cô nhớ lại giấc mơ mà cô đă có về người thư sinh. Cô nghĩ rằng: “Có thể nào người đàn ông này đă xuất hiện trong giấc mơ của ta?” Cô tự ḿnh cởi trói cho anh ta và lệnh cho đám lâu la đưa anh ta đi. Đêm hôm ấy Thiên Hành trằn trọc măi không ngủ được. Cô cứ nghĩ măi về vấn đề nhân sinh, hôn nhân và lư tưởng của ḿnh. Một điều cứ ám ảnh cô măi là cô đă giết rất nhiều người trong 10 năm qua và là thủ lĩnh của một băng nhóm thổ phỉ. Một khi cô bắt đầu tu luyện, quá khứ sát nhân của cô có gây chướng ngại cho cô không? Ngoài ra, cô đă phát triển rất nhiều thói xấu khi là trại chủ ở sơn trại này. Cô có khả năng loại bỏ những điều ấy nếu tu luyện trong đời này hay không? Cô không ngừng nghĩ ngợi về những vấn đề này và không sao ngủ được. Ngày hôm sau, cô kể về nỗi khổ sở của ḿnh cho Lư Bằng Phi nghe. Bằng Phi nói: “Không có vấn đề ǵ chừng nào cô nương c̣n có thiện niệm và thiện hành. Phật chỉ nh́n vào tâm người. Cổ nhân có câu: “Tri thác năng cải thiện mạc đại yên.” (Người tự biết lỗi và cải thiện chính ḿnh thật là bao dung vĩ đại). Phật Pháp có sức mạnh tiêu diệt những quan niệm hậu thiên và đưa con người trở về bản lai thuần chính. Ngoài ra… Cô nương đă quên mất tại hạ, tại hạ sẽ luôn ở bên cô nương. Nếu có vấn đề ǵ th́ xin cô nương cứ nói với tại hạ để chúng ta cùng giải quyết!” Nh́n Bằng Phi thân đầy chính khí, Thiên Hành bất giác nảy sinh ḷng ngưỡng mộ. Cô thầm nghĩ: “Ta rất vui ḷng tầm Đạo cầu Pháp với người thư sinh này. Huống hồ anh ta rất giỏi thơ phú, và ta sẽ không buồn chán khi ở bên anh ta.” Cô bèn phóng tâm nói với Bằng Phi: “Kể từ bây giờ, nếu ngươi không đối xử tốt với ta, ta sẽ cho ngươi nếm mùi bảo đao đấy!” Bằng Phi nói: “Tại hạ đâu dám bắt nạt cô nương. Chừng nào cô nương không lớn tiếng hay nổi cơn thịnh nộ, tại hạ sẽ vô cùng biết ơn!” Hai người cười nói với nhau một lúc. Và rồi Thiên Hành triệu tập tất cả huynh đệ trong sơn trại để an bài sự việc của hai người. Sau đó hai người họ thành thân và cùng nhau xuống núi. Khi đến chân núi Hoa Sơn, hai người hỏi bất cứ ai mà họ gặp về vị cao nhân kia. Họ không ngừng hỏi từ chân núi cho tới tận đỉnh núi, nhưng không ai từng nghe về một cao nhân như vậy. Trời đă bắt đầu tối, cho nên họ phải nghỉ qua đêm trong một ngôi miếu hoang trên đỉnh núi. Sáng sớm hôm sau, họ được chứng kiến cảnh Phật quang xuất hiện trên đỉnh núi. Tới tận hôm nay, tôi vẫn c̣n nhớ khoảnh khắc thiêng liêng ngày hôm đó! Đúng là: “Thất thải Phật quang tự thiên hàng, Vạn bàn tường thụy phá mê mang Thù thắng mỹ diệu măn khung vũ, Thần Phật từ bi chiếu đại thiên!” Diễn nghĩa: “Phật quang chiếu thẳng xuống từ bầu trời như bảy sắc cầu vồng, Ánh sáng huy hoàng xua tan đi đám sương mù buổi sớm, Thật là một cảnh tượng thiêng liêng và mỹ diệu, Sự từ bi của Thần Phật tỏa sáng trên thế giới này!” Họ vô cùng vui sướng và mong ước một điều thật kỳ diệu sẽ xảy đến. Và rồi một điều ǵ đó thậm chí c̣n khó tin hơn đă xảy ra: Trong ánh quang huy, một vị Phật to lớn (cự Phật) xuất hiện, thật vô cùng đẹp đẽ và uy nghiêm! Với đài sen vàng dưới chân, Phật du hành khắp mọi nơi và cứu độ chúng sinh với ḷng từ bi vô hạn, đồng thời hiển hiện chân tượng trước mặt những người tu luyện chân chính để điểm hóa cho họ! Cặp vợ chồng khấu đầu không ngừng trước vị Phật. Vị cự Phật chỉ nh́n họ rồi nói một câu: “Dụng tâm lai tu, tất thành chính quả.” Rồi Phật biến mất trong ánh kim quang. Cặp vợ chồng ôm chầm lấy nhau trong nước mắt! Họ chưa bao giờ hy vọng sẽ có cơ hội được gặp và nh́n tận mắt một cự Phật trong giây phút thiêng liêng ấy! Họ nghĩ: “Chúng ta chắc phải tích được rất nhiều phúc phận từ những kiếp trước!” Kể từ đó, họ sống trên ngọn núi Hoa Sơn và bắt đầu tu luyện. Mỗi khi họ thiếu Phật Pháp để chỉ đạo tại mỗi tầng thứ, họ lại nhận được những điểm hóa trong giấc mơ để giúp họ tiếp tục thăng hoa. Sau khi tu luyện trong gần 30 năm, khi đang ngồi đả tọa vào buổi trưa, họ đột nhiên nghe được tiếng Pháp nhạc trên bầu trời. Không lâu sau, nhiều đóa hoa trong suốt rơi xuống từ trên không trung, trông mười phần mỹ diệu. Sau đó, hai người họ bắt đầu phiêu đăng bay lên; cơ thể họ trở nên thông thấu (trong suốt) và vô cùng uy nghiêm. Rồi họ lại trông thấy vị cự Phật đang cười với họ. Sau đó, từ trên thiên thượng bay xuống một đài sen cùng một con hạc tiên. Thiên Hành bước lên đài sen c̣n Bằng Phi cưỡi trên lưng hạc tiên và bay lên trời. Những đám mây đầy màu sắc cũng theo họ bay lên trên thiên thượng. Cuối cùng họ đă được giải thoát khỏi ṿng luân hồi sinh tử! Lời kết: Có một câu nói của cổ nhân Trung Hoa: “Đạo tặc cũng phải có ‘đạo’”. Không kể là chúng ta đă làm ǵ trong quá khứ hay bao nhiêu việc xấu chúng ta đă làm, chúng ta vẫn có thể đạt viên măn chừng nào chúng ta c̣n tinh tấn trong tu luyện. Câu chuyện về luân hồi của tôi đă minh chứng rất rơ điều này. |
Câu chuyện có thật về luân hồi: Bỏ mạng nơi hoang dă
Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Đây là một phần của câu chuyện về cá nhân tôi trong suốt quá tŕnh lịch sử, về việc tôi đă nhận quả báo như thế nào sau khi làm những điều xấu ác. Mục đích của tôi khi viết ra bài này là để minh chứng rằng, khi bản thân chúng ta chấp trước vào những sai lầm và thiếu sót của người khác, chúng ta nên suy nghĩ cẩn thận về nó. Có thể chính chúng ta cũng đă từng phạm phải những tội lỗi nghiêm trọng trong quá khứ. Tuy nhiên, Sư Phụ từ bi đă không để ư tới những việc làm xấu ác trong quá khứ của chúng ta. Chúng ta nên đánh giá một người một cách toàn diện, và chắc chắn không nên thu hẹp phạm vi bằng cách đánh giá người đó trong một khoảng thời gian nhất định hay riêng về khía cạnh nào đó. Miễn là họ có thể làm tốt trong hiện tại, và khắc phục được lỗi lầm, th́ họ vẫn xứng đáng được đánh giá cao! Tất nhiên, nguyên tắc của vũ trụ ‘thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ vẫn là điều mà không sinh mệnh nào có thể chống lại! Bây giờ hăy trở lại câu chuyện của tôi. Câu chuyện xảy ra là trong thời nhà Tùy (581 – 618 sau công nguyên). Kênh đào lớn Kinh Hàng đang được xây dựng vào khoảng thời gian đó, và đă mang đến sự ảnh hưởng và thịnh vượng cho khu vực Dương Châu. Có một tiên sinh họ Hà sống tại thành phố Dương Châu. Ông là người rất thành thật và trung hậu. Ông và vợ của ông làm việc rất chăm chỉ trong cửa hàng lụa tơ tằm của họ. Họ chỉ có một người con trai tên là Hạ Dương. Gia cảnh của gia đ́nh rất khá giả. Tuy nhiên, Hạ Dương khá hư đốn từ khi c̣n nhỏ và cậu bé đă phát triển rất nhiều tật xấu. Hơn nữa, Hạ Dương có một bản tính nổi loạn vô cùng đặc biệt. Cha mẹ của cậu đă mời về các lăo sư (thầy giáo) để giáo dục cậu, nhưng cậu luôn muốn đi chơi và không bao giờ tập trung vào việc học tập. Sau đó, cha cậu đă mời về một lăo sư dạy vơ để dạy cậu vơ thuật. Một thời gian sau, vị lăo sư này nhận thấy rằng Hạ Dương không có đủ đức hạnh để học vơ thuật; cậu rất tàn ác và muốn ǵ là làm nấy. V́ vậy, lăo sư chỉ dạy cậu một số kỹ năng vơ nghệ nông cạn bề ngoài. Ông nói với Hạ Dương: “Con đừng nên làm bất cứ điều ǵ xấu. Nếu không con sẽ hại người khác, cũng như hại chính ḿnh đó.” Sau đó, vị lăo sư rời đi. Vào lúc đó, Hạ Dương đă gần hai mươi tuổi. Cậu rất khỏe mạnh cường tráng và không sợ bất cứ ai. Một ngày nọ, cậu căi cọ với cha cậu chỉ v́ một điều nhỏ nhặt. Rồi cậu rất tức giận và bỏ nhà ra đi mà không hề nói với cha mẹ câu nào. Ngay sau khi rời khỏi nhà, cậu đă kết bằng hữu với một đám côn đồ loạn đảng. Bởi v́ cậu biết một chút vơ nghệ, cậu đă trở kẻ cầm đầu của băng đảng nhỏ này. Những kẻ lưu manh dành phần lớn thời gian của chúng vào việc tiệc tùng, uống rượu, bài bạc và ăn chơi trụy lạc. Không lâu sau, chúng đă tiêu hết số tiền mà chúng có, rồi bắt đầu đột nhập vào nhà dân chúng để trộm cắp tài vật và cưỡng hiếp các cô gái xinh đẹp. Trong một thời gian ngắn, chúng đă khuấy động khắp thành Dương Châu và nơi này bị rơi vào cảnh náo loạn. Lời than văn của toàn dân trăm họ được nghe thấy ở khắp mọi nơi. Sau khi cha mẹ cậu nghe được tin cậu đă làm những điều độc ác như vậy, họ vô cùng tức giận rồi lần lượt qua đời. Sau đó, quan phủ đă truy bắt những kẻ lưu manh trong băng đảng này và hành quyết chúng. Hạ Dương không có mặt ở đó khi những kẻ đồng bọn bị bắt, và cậu ta đă may mắn thoát khỏi tai họa. Thay v́ phản tỉnh sau bài học này, cậu ta vẫn tỏ ra không hề hối cải. Sau khi lẩn trốn trong ṿng một năm, cậu ta bắt đầu tác oai tác quái trở lại, và với thủ đoạn c̣n hạ lưu và tàn nhẫn hơn nữa. Một ngày nọ, vào lúc trời nhá nhem tối, cậu ta lẻn vào tư gia của gia đ́nh Triệu viên ngoại, một điền chủ giàu có. Thật t́nh cờ, tiểu thư nhà họ Triệu đang chuẩn bị xuất giá trong hai ngày nữa, và căn nhà được trang hoàng bằng đèn lồng, giấy màu, với bầu không khí tràn đầy niềm phấn khởi và hạnh phúc. Sau khi Hạ Dương phát hiện ra điều này, cậu ta nghĩ rằng: Ta nghe nói rằng tiểu thư nhà họ Triệu xinh đẹp như hoa như ngọc, nếu ta có thể… Ta có thể được cả người đẹp lẫn tiền bạc! V́ vậy, cậu ta đă lẻn đến khuê pḥng của Triệu tiểu thư, vận dụng mánh khóe của ḿnh bằng cách liếm ướt giấy dán cửa sổ, sau đó chọc thủng một lỗ nhỏ ở đó để quan sát. Khi nh́n vào bên trong thông qua cái lỗ nhỏ đó, cậu ta thấy Triệu tiểu thư đang ngồi bên cạnh một chiếc bàn và làm một số việc thêu thùa. Cô đang thêu một cặp vịt uyên ương chơi đùa trên mặt nước. Ngay lúc ấy, Triệu tiểu thư ngẩng đầu lên và tủm tỉm cười một ḿnh. Có lẽ cô đang nghĩ tưởng về tương lai tươi sáng và hạnh phúc của ḿnh. Vẻ đẹp của cô đă làm cho Hạ Dương vô cùng sửng sốt. Có thể nói rằng sự kiều diễm của cô khiến cho mặt trăng bị lu mờ và làm cả nụ hoa phải xấu hổ. Sự mỹ lệ của cô có thể khiến cho chim sa cá lặn, và thậm chí một nàng tiên trên thiên giới cũng phải e thẹn khi so sánh với dung nhan của cô! Sự mỹ lệ của cô đơn giản là ngoài sức mô tả. Hạ Dương cảm thấy khó cưỡng lại trước vẻ đẹp của Triệu tiểu thư. Và sau đó, cậu ta đă quyết định sử dụng một phương pháp mà giới giang hồ coi là hạ lưu đê tiện nhất. Cậu ta đă thắp lên một loại hương mà có thể làm cho người ta rơi vào trạng thái mê man. Một lúc sau, Triệu tiểu thư bắt đầu hắt hơi rồi ngă xuống sàn. Sau khi Hạ Dương thấy ḿnh đă thành công, cậu ta nhảy vào pḥng của Triệu tiểu thư qua đường cửa sổ, thổi tắt nến và bế cô lên giường. Trong khi cưỡng hiếp cô, cậu ta c̣n nói: “Triệu tiểu thư, nàng là người trinh nữ thứ năm mà ta đă cưỡng hiếp!” Đúng lúc ấy, đột nhiên có tiếng nói vọng từ bên ngoài: “Tại sao ánh nến trong pḥng Triệu tiểu thư lại bị tắt vậy? Tại sao cửa sổ lại mở toang thế này?” “Không tốt rồi! Khẳng định là tên thái hoa dâm tặc đă đột nhập vào pḥng tiểu thư! Tên tiểu tử lưu manh đó không có điều ác nào là không làm! Người đâu!!” Và sau đó người ấy hô hoán lên để báo động cho gia nhân chạy tới lùng bắt Hạ Dương. Sau khi Hạ Dương nhận thấy hành vi đồi bại của ḿnh đă bị phát hiện, cậu ta nhanh chóng mặc quần áo vào rồi lao ra khỏi cửa. Nhân lúc người nhà không chú ư, cậu ta trèo qua bờ tường ở phía sân sau rồi chạy trốn. Vừa khi cậu ta nhảy ra khỏi sân sau, những người lính gác nh́n thấy cậu ta và đuổi theo cậu ta rất gắt gao. Hạ Dương không c̣n cách nào khác ngoài việc cắm đầu chạy thục mạng theo những ngơ hẻm cũng như t́m mọi cách để trốn thoát. Rồi cậu ta chạy tới một nơi hoang vu. Khi ấy cậu ta quay lại nh́n và thấy rằng không c̣n một ai ở phía sau. Cậu ta muốn ngồi xuống và nghỉ một chút. Ngay lúc đó, cậu ta trông thấy một người tiến đến gần. Người này được giang hồ biết đến với cái tên Vương Thiên Tả đại hiệp, vị hảo hán chuyên hành hiệp trượng nghĩa với một cây cương đao trong tay . Khi Hạ Dương vừa trông thấy Vương Thiên Tả, cậu ta dựng ngay dậy và cắm đầu cắm cổ chạy. Thực ra Vương Thiên Tả không hề chú ư đến Hạ Dương cho tới khi cậu ta cố gắng chạy đi. Vương Thiên Tả bèn quan sát người đang bỏ chạy, và nhận ra đây chính là Hạ Dương, tên vô lại không điều ác nào mà không làm. V́ vậy, Vương Thiên Tả đă đuổi theo Hạ Dương và giết cậu ta bằng cây cương đao của ḿnh. Sau đó Vương Thiên Tả vứt xác của Hạ Dương vào một nơi hoang vu, và đó là quả báo mà cuối cùng Hạ Dương đă phải nhận. Số phận của Hạ Dương giống hệt những ǵ mà nhà văn Ngô Thừa Ân vào triều Minh sau đó hàng trăm năm đă miêu tả trong một bài thơ (Ngô Thừa Ân là tác giả cuốn tiểu thuyết Tây Du Kư): |
“Nhân tâm sinh nhất niệm,
Thiên địa tận giai tri, Thiện ác nhược vô báo, Càn khôn tất hữu tư!” Diễn nghĩa: “Khi một niệm khởi phát từ tâm con người, Cả trời và đất đều biết, Thiện và ác mà không có báo ứng, Th́ vũ trụ này thật quá ích kỷ!” Một lúc sau, Vương đại hiệp đến gặp thân nhân trong gia đ́nh Triệu viên ngoại và gia đ́nh họ kể với Vương đại hiệp về điều đă xảy ra. Vương đại hiệp vô cùng tức giận và anh đi t́m xác của Hạ Dương để cho thêm vài nhát chém nữa. Sau đó, xác của Hạ Dương bị ăn bởi những con chó hoang nơi rừng núi. Khi Vương đại hiệp và gia đ́nh họ Triệu trở về nhà th́ họ thấy Triệu tiểu thư đă treo cổ tự vẫn sau khi cô phát hiện ra ḿnh đă bị cưỡng hiếp. Gia đ́nh Triệu viên ngoại phải trải qua nỗi đau buồn khôn tả khi hỉ sự của gia đ́nh chuyển thành tang sự. Hăy để sang một bên việc gia đ́nh Triệu viên ngoại tổ chức tang lễ như thế nào và trở lại với Hạ Dương. Sau khi Hạ Dương bị giết, nguyên thần của cậu ta rời khỏi thân thể. Bởi v́ Hạ Dương đă làm rất nhiều điều ác khi c̣n sống, cậu ta bị giáng xuống địa ngục tầng thứ sáu. Sau một thời gian dài trả nghiệp ở nơi đó, cậu được chuyển sinh làm thú vật, và phải mang thân trâu ngựa trong hơn một trăm năm trong tầng thứ đó. Khi cậu phải chịu đựng đau khổ nơi địa ngục tầng thứ sáu, một vị Bồ Tát t́nh cờ phái thị nữ của ḿnh đi thị sát một số nơi trong tầng thứ thấp. Sau khi người thị nữ của Bồ Tát thấy cảnh Hạ Dương phải chịu đau khổ dưới địa ngục, cô đă thưa lại câu chuyện với Bồ Tát sau khi trở về. Bồ Tát bèn sử dụng huệ nhăn của ḿnh để nh́n thấu lai lịch của Hạ Dương. Sau đó, Bồ Tát đă nảy ra một ư tưởng nhằm giúp Hạ Dương giải quyết ác duyên của cậu với năm cô gái mà cậu đă cưỡng hiếp. Dưới thời Vơ Tắc Thiên trị v́, trong thành Dương Châu, có một gia đ́nh họ Hạ cũng có một cậu con trai tên là Hạ Dương. Cậu bé này t́nh t́nh thật thà đôn hậu, và có tài năng từ khi c̣n rất nhỏ. Hàng ngày, cậu làm việc siêng năng và điều hành cơ sở kinh doanh, một ngân hàng nhỏ, cùng với cha cậu. Trước khi cậu bước sang tuổi hai mươi, rất nhiều gia đ́nh các cô gái tới gia đ́nh họ để đề nghị kết làm thông gia. Hai cô gái đầu tiên mà cậu đă hứa hôn lâm bệnh nặng rồi qua đời. Gia đ́nh họ Hạ bèn hỏi một thầy toán mệnh lư do, và họ nói rằng hai cô gái này đă được chùa gọi về để tu hành. Sau đó, Hạ Dương cưới ba người vợ khác. Người vợ cả đanh đá và rất hay ghen. Người vợ thứ hai th́ tính t́nh khá tốt và là người mà Hạ Dương yêu thương nhất. Người vợ thứ ba là người đẹp nhất trong số ba người phụ nữ trên, nhưng cô ta rất yêu chuộng tiền bạc. Hạ Dương yêu quí người vợ thứ hai của ḿnh hơn cả. Vài năm sau, người vợ cả, do quá ghen đă nhảy xuống một cái giếng tự vẫn. Không lâu sau, người vợ thứ hai cũng qua đời v́ một căn bệnh cấp tính. Những tai ương liên tiếp giáng xuống đầu Hạ Dương lớn đến mức mái tóc của cậu đă chuyển thành màu trắng ngay trước khi cậu ba mươi tuổi. Ngoài ra, cậu c̣n bị người khác lừa đảo trong một giao dịch buôn bán, và ngân hàng nhỏ phá sản, khiến cậu lao đao và vô cùng tuyệt vọng. Sau khi người vợ thứ ba thấy cậu đă rơi vào cảnh khốn cùng, cô ta đă gói ghém những đồ vật có giá trị vào một bao nhỏ rồi rời đi. Giờ đây, Hạ Dương không c̣n lại ǵ cả. Tại thời điểm đó, Hạ Dương đă khóc đến cạn cả nước mắt. Cậu nghĩ, “Điều ǵ đă làm cho số phận của ta đen đủi đến như vậy?” Không c̣n sự lựa chọn nào khác, cậu đành tha hương và lưu lạc khắp nơi. Một ngày nọ, cậu nằm ngủ trên đỉnh núi Thái Sơn và đă có một giấc mộng dài. Trong giấc mộng ấy, cậu đă thấy tất cả điều ác mà cậu đă gây ra vào thời nhà Tùy. Sau khi tỉnh dậy, cậu nhận thấy rằng [luật] nhân quả báo ứng quả nhiên có thật! V́ vậy, cậu đă trở thành một đạo sĩ tu luyện trong một Đạo viện gần núi Thái Sơn. “Ân oán vô thường nghiệp tùy thân, Thiện ác tất báo quả thị chân, Nhược đắc phúc báo thiện vi nhân, Càn khôn lăng lăng thiện ác phân!” Diễn nghĩa: “Ân oán không bao giờ ngớt, nghiệp vẫn đi theo mỗi người, Thiện ác đều có báo ứng, quả nhiên là điều chân thực, Muốn được phúc báo th́ phải lấy thiện đăi người, [Luật] Vũ trụ phân biệt rơ thiện và ác!” Lời kết: Người nào tinh ư th́ sẽ biết ngay rằng nhân vật Hạ Dương được đề cập đến trong bài viết chính là tôi. Tôi đă từng làm rất nhiều điều ác. Tuy nhiên, Sư Phụ vẫn không bỏ rơi tôi và Ngài đă an bài cho tôi đắc được Pháp Luân Đại Pháp, một may mắn vô cùng khó gặp từ thuở xa xưa. Trong thời nhà Tùy, người trinh nữ thứ năm mà tôi đă cưỡng hiếp chính là người vợ thứ hai của tôi trong triều đại Vơ Tắc Thiên. Ba trong số năm cô gái trên đă đắc Pháp trong kiếp sống hiện tại của họ, nhưng hai người c̣n lại, tiếc là, không đắc được thân người. Thay vào đó, họ đă chuyển sinh thành những cái cây. Việc xem xét lại lịch sử và hiểu biết rơ ràng tất cả quan hệ nhân quả có thể xóa sạch hết thảy bụi bặm trong tâm trí của chúng ta. Bằng cách xem xét bản thân và khám phá nguồn gốc sự tồn tại của tất cả những người xung quanh chúng ta, mục tiêu cơ bản của tôi khi viết ra loạt bài về luân hồi này là để phán xét một người một cách toàn diện. Tất cả mọi thứ là để chứng thực Pháp. Con đường chúng ta đi phải thật ngay chính. Chúng ta không nên để lại bất cứ một sự hối tiếc nào và phải xứng đáng với lời thệ nguyện linh thiêng mà chúng ta đă lập trước vị Phật Chủ!! |
Câu chuyện có thật về luân hồi: Cơn gió bấc tại Đôn Hoàng
Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Tôi mong muốn chia sẻ một bài học quư báu mà tôi đă học được từ quá tŕnh tu luyện của tôi ở một trong những đời trước. Qua việc chia sẻ câu chuyện này, tôi hy vọng sẽ giải thoát bản thân khỏi tâm chấp trước của ḿnh, thứ gắn liền với những bức bích họa [trên động đá] tại Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Ngoài chấp trước vào mảnh đất này, tôi cũng từng rất chấp trước vào những bức bích họa vẽ h́nh Phật trên những động đá tại Đôn Hoàng. Khi tôi đi ngang qua đó lần đầu tiên, tôi cảm thấy dường như đă thấy chúng từ trước, mặc dù tôi không thực sự hiểu chúng đại diện cho điều ǵ. Thật khó để mô tả mong muốn của tôi trong việc t́m một trường phái tu luyện mà có thể giải thoát bản thân khỏi sự luân hồi chuyển sinh măi măi, ở giữa cơn gió bấc trên đại mạc tại tỉnh Cam Túc. Trong kiếp luân hồi đó, tôi đă xem việc tu luyện như là một cách để trốn tránh thực tế phũ phàng. Ngoài ra, tôi đă không thể loại bỏ được chấp trước mạnh mẽ của tôi vào chữ ‘t́nh’. Do vậy, tôi đă bỏ lỡ cơ hội đạt viên măn trong kiếp luân hồi đó. Tôi vô cùng biết ơn Sư Phụ khi đă an bài cho tôi cơ duyên quư giá được tu luyện Pháp Luân Công trong kiếp sống hiện tại. Tôi muốn nhân cơ hội này để nhắc nhở mọi người rằng tu luyện là rất nghiêm túc và thần thánh. Nếu một người ôm giữ một động cơ kín đáo nào đó hay không thể loại bỏ các tâm chấp trước, người đó sẽ bỏ lỡ cơ duyên tiền định này. Chúng ta chỉ có cơ hội cuối cùng này để tu luyện. Đây là cơ hội sẽ không bao giờ quay trở lại. Hăy trân quư cơ hội này, v́ chúng ta đă chờ đợi điều này trong rất nhiều kiếp sống và c̣n v́ mục đích cứu độ chúng sinh, những người đă đặt rất nhiều hy vọng vào chúng ta! Hăy tinh tấn trên con đường tu luyện của chúng ta. Chúng ta không được lăng phí một giây phút nào trong thời điểm trọng đại và huy hoàng này. Chúng ta phải làm tṛn lời cam kết của chúng ta! Chúng ta không thể để Sư Phụ thất vọng sau khi Ngài đă liên tục ban cho chúng ta cơ hội tu luyện. * * * * * * * * * * * * * * * * * * Câu chuyện của tôi xảy ra trong thời “An Sử chi loạn” [1] vào năm 755 sau công nguyên, vào những năm cuối thời trị v́ của Hoàng Đế Huyền Tông đời nhà Đường. Cuộc nổi dậy đă phá hủy hoàn toàn triều đại nhà Đường và phải mất nhiều năm sau để tái lập lại sự thịnh vượng. Tại trấn Cảnh Đức, tỉnh Giang Tây, có một thiếu niên tên là Lâm Giang. Cậu sống tại Hữu Tài Phường, nằm bên ngoài cổng thành phía Nam thị trấn. Cha của cậu đă dạy cậu một công phu nội gia (tu nội). Do đó, cậu đă trở nên nổi tiếng với tài năng văn vơ song toàn của ḿnh. Cha mẹ của Lâm Giang làm việc tại Giang Bắc, v́ vậy cậu sống một cuộc sống khá sung túc và thoải mái. Điều đáng tiếc nhất là Lâm Giang không thể ở cùng cha mẹ, và cậu sống cùng người chú ruột. Lâm Giang cùng với tiểu nữ nhà hàng xóm, A Tú, có với nhau một t́nh cảm ngây thơ trong sáng tựa như ‘thanh mai trúc mă’ [2] từ khi chúng c̣n nhỏ. Họ rất gần gũi nhau. A Tú có một đôi mắt sáng long lanh, tựa như mặt nước hồ trong trẻo và tinh khiết. Mẹ của A Tú đă qua đời từ khi cô bé c̣n nhỏ. Cha cô trở thành nghiện đánh bạc và thường đi đánh bạc tại ṣng bạc lớn nhất trong vùng – Thuận Nghĩa Phường. Cha của A Tú luôn luôn thua tiền sau khi đánh bạc và đă hoang phí gần hết gia tài. Đôi khi gia đ́nh của Lâm Giang cho họ vay một chút tiền. A Tú thường khóc một ḿnh v́ cha cô nghiện đánh bạc. Một ngày nọ vào buổi trưa, Lâm Giang và A Tú nắm tay nhau đi vào thị trấn du ngoạn. Khi c̣n cách chợ vài bước, đột nhiên họ chú ư tới một thanh niên đến từ một gia đ́nh giàu có đang cố gắng bắt cóc một thiếu nữ. Trong khi cố gắng vồ lấy cô gái, người thanh niên hét lên: “Đại gia ta đă cưới 13 người vợ lẽ rồi. Hôm nay ta sẽ đưa nàng về nhà làm người vợ lẽ thứ 14 của ta! Chúng bay đâu! Đưa nàng về nhà!” Và rồi vài tên đàn em của hắn vồ lấy người thiếu nữ và quăng cô vào một chiếc kiệu nhỏ màu xanh. Khi Lâm Giang nh́n thấy vụ bắt cóc, cậu hét lên: “Dừng lại! Sao các ngươi dám bắt cóc và cưỡng bức con gái nhà lành giữa thanh thiên bạch nhật? Thả ngay cô ấy ra, bằng không các ngươi sẽ nếm mùi nắm đấm của ta!” Người thanh niên nói: “Tên tiểu tử quê mùa này ở đâu ra vậy? Ai dám ngăn cản đại gia ta đây? Chúng bay đâu, cho tên tiểu tử nhà quê này một bài học!” Lâm Giang tung một nắm đấm vào người thanh niên, nhưng bị trượt v́ anh ta kịp né đ̣n. Vài tên đàn em của hắn nhảy xổ vào Lâm Giang, nhưng cậu đă nhanh chóng đánh ngă họ xuống đất. Người thanh niên liều lĩnh kia cũng bị đánh. Đến khi Lâm Giang định rời đi, người thanh niên kia nói: “Cho ta biết tên nếu ngươi dám. Chẳng lẽ ngươi định bỏ trốn mà không để lại danh tính hay sao!” Lâm Giang nói lớn: “Tên ta là Lâm Giang, là nhân sĩ vùng này. Ta sống tại Hữu Tài Phường phía bên ngoài cổng thành. Nhà ngươi được chào đón đánh một trận với ta vào bất cứ lúc nào!” Rồi cậu nắm lấy tay A Tú và tiếp tục đi du ngoạn. Trên đường đi, Lâm Giang nói với A Tú: “Hôm nay đánh nhau với tụi vô lại này vui thật đấy.” Họ cười suốt cả ngày hôm đó và rất vui vẻ. Vào ban đêm, sau khi Lâm Giang trở về nhà, người chú nói với cậu rằng ông đă nghe về sự t́nh vừa xảy ra hôm nay. Ông khuyên nhủ Lâm Giang: “Cháu thật chẳng biết trời cao đất dày là ǵ. Cháu có biết hôm nay cháu đă đắc tội ǵ không?” “V́ chuyện ǵ thế ạ?” Lâm Giang hỏi lại v́ cảm thấy thật khó hiểu. “Cậu thanh niên kia là chủ nhân của ṣng bạc lớn nhất trong thị trấn – Thuận Nghĩa Phường. Cha của cậu ta là Tri Phủ ở Vũ Tây. Ông ta có thế lực trong Triều đ́nh. Cháu có biết tấn công con trai của một gia đ́nh quyền thế như vậy là tội ǵ không?!” Lâm Giang bắt đầu cảm thấy áp lực to lớn đè nặng lên ḿnh. Hai hôm sau, Lâm Giang nhận được một lá thư từ người cha, trong đó ông yêu cầu cậu tới Giang Bắc và giúp ông trong công việc. Trong ngày từ biệt trước khi lên đường, Lâm Giang nắm tay A Tú dưới ánh trăng và nói chuyện với cô trong suốt cả buổi tối. Lâm Giang nói: “Ta sẽ trở về, lâu nhất là 10 đến 15 ngày nữa. Khi ta trở lại, chúng ta sẽ thành thân. Và rồi chúng ta sẽ ở cùng cha mẹ ta. Ta sẽ làm việc cùng ông tại Giang Bắc. Chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao!” A Tú nói với đôi mắt ngấn lệ: “Huynh sớm trở về nhé! Muội sẽ đợi huynh!” Sau đó Lâm Giang khởi hành đi Giang Bắc. A Tú trở về nhà trong tâm trạng vô cùng buồn bă. Vừa về đến nhà th́ cô nghe phụ thân nói: “Hôm nay cha đi đánh bạc tại Thuận Nghĩa Phường và đă nợ họ 20 nén bạc.” Sau khi nghe về việc nợ bạc của phụ thân, A Tú vô cùng lo lắng. Cô phàn nàn: “Cha vẫn cứ chứng nào tật nấy. Tại sao cha không từ bỏ cái việc đánh bạc đó đi? Lâm Giang đă đánh chủ nhân nơi đó mấy hôm trước. Sớm hay muộn hắn sẽ quay lại gây sự. Giờ cha đang nợ hắn bạc, con e rằng hắn sẽ quay lại sớm cho mà xem!” Không lâu sau người thanh niên vô lại, chủ nhân của Thuận Nghĩa Phường cùng vài tên đàn em to con đập cửa xông vào nhà. Hắn cười thô bỉ: “Tốt rồi, cả hai đều ở nhà. Tên tiểu tử Lâm Giang đă đánh ta và làm hỏng việc của ta. Hôm nay ta sẽ bắt vị hôn thê tương lai của hắn phải bồi thường! Lăo già, nếu lăo trả lại ta ngay 20 nén bạc lăo đă nợ th́ ta sẽ thả con gái lăo. Bằng không… chúng bay! Lột hết quần áo của cô ta ra!” Cha của A Tú vừa khóc lóc vừa cầu khẩn: “Không! Xin đừng! Xin các người! Hăy để con gái tôi được yên!” Tuy nhiên những kẻ côn đồ đă làm ngơ trước lời cầu xin của ông. Chúng nhanh chóng lột hết quần áo của A Tú. Kẻ thanh niên ác c̣n hơn cả cầm thú kia đă cưỡng hiếp A Tú ở ngay trước mặt mọi người. Nhưng đây vẫn chưa phải là tất cả những ǵ mà A Tú phải chịu đựng. Chúng đă rạch mặt và cơ thể của cô bằng dao rồi sau đó rắc muối lên vết thương… (Thứ lỗi cho tôi. Tôi không thể kể chi tiết hơn nữa v́ quả thật sự đau đớn là không sao tả nổi). A Tú vẫn chưa chết nhưng đă hôn mê bất tỉnh sau khi những kẻ côn đồ kia rời đi trong tiếng cười man dại. Phụ thân của A Tú cố gắng bế cô sang nhà của Lâm Giang và đem nguyên sự t́nh kể lại với người chú của Lâm Giang. Sau khi nghe xong câu chuyện, chú của Lâm Giang bật khóc. Ông ngay lập tức cho người báo tin gấp tới Lâm Giang, đồng thời mời vị lang trung tốt nhất trong thị trấn tới cứu chữa cho A Tú. Tuy nhiên không ai cứu nổi A Tú. Lâm Giang tức tốc trở về nhà sau khi nghe tin. Cậu chạy vội vào nhà, ôm A Tú đang hôn mê trong ṿng tay ḿnh rồi khóc thống thiết: “Là ta đă hại muội! Là ta đă hại muội!” Ba ngày ba đêm sau, Lâm Giang vẫn thức trắng và ôm A Tú trong ṿng tay. Cậu khóc nhiều đến nỗi không c̣n một giọt nước mắt. Chỉ có vài ngày sau mà Lâm Giang trông như thể là đă già đi vài tuổi. Vào sáng sớm ngày thứ tư, A Tú đột nhiên tỉnh lại. Khi cô nhận thấy cô đang ở trong ṿng tay của Lâm Giang, cô nức nở một cách yếu ớt: “Lâm Giang ca, muội e rằng muội không thể trở thành thê tử của huynh trong kiếp này. Huynh sẽ vẫn cưới muội trong kiếp sau chứ? Muội hứa rằng chúng ta sẽ lại đoàn tụ trong kiếp tới. Muội sẽ vẫn yêu huynh!” Lâm Giang gào lên: “Ta muốn muội măi măi ở bên ta kể từ kiếp này. Kiếp này!” “Muội e rằng muội không thể làm điều đó trong kiếp này. Lâm Giang ca, hăy bảo trọng! Muội đi đây!” “Không! Không! Đừng bao giờ rời xa ta!” Lâm Giang lay thân thể của A Tú một cách lo lắng, nhưng mắt A Tú đă nhắm và cơ thể cô dần dần cứng lại… Năm ngày sau, Lâm Giang mai táng A Tú dưới gốc một cây liễu ở bên ngoài thành. Ban đầu trời mưa lất phất, nhưng khi việc an táng đă hoàn tất, bầu trời dần trở nên trong sáng hơn. Trên bầu trời phía tây xuất hiện một chiếc cầu vồng vô cùng ngoạn mục. Để giữ hoài niệm về A Tú, Lâm Giang đặt bút viết một bài thơ: |
“Thanh mai trúc mă nguyệt trung hành,
A Tú dữ ngă hỗ tương kính, Kim triêu nhữ dĩ hàm oan khứ, Chỉ lưu Lâm Giang thân nhất nhân, Nhữ thuyết dữ ngă trường tương bạn, Nguyện nhữ thệ ngôn năng thành chân, Sinh sinh thế thế thủ khiên thủ, Tự tại như ư thế thượng hành!” Diễn nghĩa: “Thanh mai trúc mă đi dưới ánh trăng, A Tú và ta kính trọng lẫn nhau, Hôm nay nàng hàm oan ra đi, Để lại Lâm Giang một thân một ḿnh, Nàng nói chúng ta sẽ măi là bạn của nhau, Ta hy vọng nàng sẽ giữ lời thề, Đời đời vẫn nắm tay nhau, Bước đi ung dung và như ư trên thế gian!” Sau khi viết xong bài thơ, Lâm Giang định đốt nó đi. Nhưng trước khi cậu kịp đốt nó, tờ giấy bỗng bay lên không trung (mà không có cơn gió nào) rồi tự bốc cháy… Sau khi trở về thị trấn, Lâm Giang tới Thuận Nghĩa Phường toan báo thù, nhưng người thanh niên kia đă rời khỏi thị trấn. Để hả giận, Lâm Giang phá hủy ṣng bạc Thuận Nghĩa Phường. Sau đó người ta nói rằng người thanh niên kia đă chết ở tuổi 35 do thân thể suy nhược v́ quá đam mê nữ sắc. Lâm Giang cảm thấy vô cùng đau buồn khi ở tại Giang Nam, v́ cậu luôn luôn nghĩ về A Tú. Cậu đă quyết định du hành tới vùng hoang mạc. Cậu nghĩ: “Tại nơi sa mạc này, sẽ không c̣n những tranh đấu thương tâm và âm mưu hiểm ác nữa.” Sau khi bái biệt người chú và phụ thân của A Tú, cậu lên đường đi về phía Tây Bắc. Cuối cùng cậu đến một nơi phụ cận vùng Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Gió bấc thổi quanh năm tại đây. Cậu đi qua một vài động đá với những bức tượng Phật đang xây dở. Sau khi cậu nh́n ngắm những bức bích họa và tượng Phật bằng đá đẹp đẽ này, cậu bắt đầu nảy sinh ḷng sùng kính Phật. Khi đi ngang qua một tu viện Phật giáo, cậu chạy tới bái kiến vị sư trụ tŕ, một người đức cao vọng trọng nhưng thái độ vô cùng khiêm nhường. Lâm Giang muốn ông thu nạp cậu làm đồ đệ, nhưng lăo tăng nói: “Thí chủ có căn cơ phi phàm nhưng mang tâm phàm quá nặng. Vậy hôm nay ta thu nhận thí chủ làm đệ tử tục gia, vậy được chứ?” “Tạ ơn Sư phụ!” Lâm Giang vừa khấu đầu vừa nói. Thế rồi Lâm Giang trở thành đệ tử tục gia của vị sư trụ tŕ tại hang Mạc Cao. Vài ngày sau, Lâm Giang phát hiện thấy một ḍng suối trong mát nằm ngay dưới chân núi cát. Ḍng nước trong trẻo ấy tựa như đôi mắt mỹ lệ của A Tú. Khi nghĩ về A Tú, Lâm Giang lại cảm thấy vô cùng thống khổ trong ḷng. Cậu nghĩ: “Ta đă phải bỏ nhà ra đi để thoát khỏi nỗi đau xa cách người mà ta hằng thương mến. Chẳng ngờ nỗi thống khổ này lại sâu sắc và nặng nề đến nhường ấy!” “Ta phải tu hành cho tốt!” Lâm Giang tự an ủi ḿnh. Hai mươi năm sau, nỗi đau khi mất A Tú đă phai nhạt dần cùng với sự tu luyện của cậu. Ngay trước khi viên măn, Lâm Giang có thể bay lượn trên không trung. Tuy nhiên, mỗi khi cậu nh́n thấy ḍng suối h́nh trăng lưỡi liềm, cậu lại liên tưởng đến đôi mắt mỹ lệ và trong trẻo của A Tú. Kết quả là, cậu đă bỏ lỡ cơ hội đạt viên măn. Cậu khóc trong nước mắt, và hối tiếc cho sự kém tinh tấn của bản thân ḿnh. Ngay lúc ấy, một thanh âm to lớn vang vọng trên bầu trời: “Tu luyện t́nh vị tận, Chẩm dạng lượng tâm tính? Vô lậu phương khả thành, Nhân yếu tái tinh tiến!” Diễn nghĩa: “Tu luyện nhưng chưa bỏ được chữ ‘t́nh’, Ta đánh giá tâm tính con thế nào đây? Phải ‘vô lậu’ [3] mới có thể thành công, Con lại phải tinh tấn lần nữa thôi!” Cậu đột nhiên nhận ra rằng Sư phụ đă nói cậu “Căn cơ phi phàm nhưng tâm phàm quá nặng”, quả là đạo lư! Cậu đă phải trả một cái giá quá đắt chỉ v́ chấp trước vào chữ ‘t́nh’! Cậu quỳ gối xuống đất với hai tay chắp trước ngực trong thế hợp thập rồi phát nguyện: “Nếu con có cơ hội tu luyện lần nữa trong Phật Pháp, con nhất định sẽ nắm chắc cơ hội và tu thành chính quả!” Sau khi nguyện đă phát ra, nguyên thần của Lâm Giang rời khỏi thân thể và tiếp tục đi vào ṿng luân hồi chuyển thế… Lời kết:Sau khi viết xong bài viết này, tôi cảm thấy nhân tố ‘t́nh’ trong tôi đă bị thanh lư đi nhiều. Cái cảm giác đau khổ khi phải vượt qua chữ ‘t́nh’ đă biến mất, đồng thời xuất lai một cảm giác được giải thoát khỏi nó. Tôi cảm thấy thật ung dung tự tại! Chú thích của người dịch: [1] “An Sử Chi Loạn”: cuộc phản loạn quy mô lớn đời nhà Đường, được cầm đầu bởi An Lộc Sơn (nguyên là một tiết độ sứ của Triều đ́nh) và thuộc hạ là Sử Tư Minh. Cái tên ‘An Sử’ là lấy từ tên họ của hai người này ghép lại mà ra. [2] ‘Thanh mai trúc mă’: Câu ‘Thanh mai trúc mă’ lấy lời và ư từ bài Trường Can hành của Lư Bạch (701 – 762) đời nhà Đường, ngụ ư t́nh cảm thắm thiết của lứa đôi. [3] ‘Vô lậu’: Không c̣n thiếu sót, đối lập với ‘hữu lậu’ nghĩa là c̣n thiếu sót. |
Câu chuyện có thật về luân hồi: Thông linh bảo ngọc
Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] ‘Bảo ngọc’ mà tôi nói tới không phải là miếng ngọc bội quư giá được đeo bởi nhân vật Giả Bảo Ngọc trong truyện Hồng Lâu Mộng. Đó là một vật vô cùng quan trọng ở một trong những kiếp luân hồi của tôi. Câu chuyện bắt đầu từ phủ Bảo Định, tỉnh Hà Bắc trong một ngày mùa hè dưới thời Chánh Đức (1505-1521 sau công nguyên) ở triều Minh. Một ngày, trong phủ tổ chức một buổi họp chợ lớn ngoài trời náo nhiệt mà thu hút rất nhiều người mua và người bán. Một lăo nhân khoảng 60 tuổi cũng tới khu chợ. Bà đến từ một gia đ́nh văn nhân và là người có học thức, nhưng sau này gia đ́nh bà lụn bại dần. Chồng của bà chết 5 năm trước và bà đă mất liên lạc với con cái, không biết rằng chúng c̣n sống hay đă chết. Do vậy, bà phải tự chăm sóc lấy bản thân và thường tới khu phố để mua sắm vật dụng đă 5 năm nay. Hôm đó là một ngày nắng đẹp, nhưng sau đó trời bắt đầu đổ mưa phùn. Sau khi mua một vài vật dụng cần thiết, vị lăo nhân vội vă trở nhà bà ở Ngọc Lâm Bảo, một khu ngoại ô cách phủ Bảo Định khoảng 65 dặm. Trên đường về nhà, cơn mưa phùn chuyển thành cơn mưa rào. Lăo nhân trông thấy một ngôi miếu đổ nát bên đường và bà nhanh chóng chạy vào bên trong để trú mưa. Sau khi lăo nhân bước vào trong sảnh ngôi miếu, bà nhận thấy rằng đây là một ngôi miếu thờ Phật Di Lặc. Không có tăng nhân nào ở bên trong và mọi thứ đều bị phủ lên một lớp bụi dày. Dường như đây là một ngôi miếu bị bỏ hoang. Đột nhiên lăo nhân nghe thấy tiếng một đứa bé đang khóc trên chiếc bàn dùng để đựng đồ cúng dường. Bà lần theo tiếng khóc và thấy một đứa bé trai được bọc trong một tấm chăn. Đứa bé trông thật thanh tú và khả ái. “Không biết ai đă để quên đứa bé này ở đây nhỉ?” lăo nhân tự hỏi. Bà giở tấm chăn ra và trông thấy một bức thư cùng một đôi ngọc bội được giấu bên trong. Trong thư viết: “Tôi là một thiếu nữ thuộc một gia đ́nh danh tiếng ở phủ Bảo Định. Phụ mẫu tôi đă hứa gả tôi cho một gia đ́nh, do đó tôi không thể cưới người đàn ông mà tôi thực sự yêu. Một năm trước, tôi có hẹn ḥ với người đàn ông đó vào ban đêm và tôi đă có mang sau đó. Tôi vô cùng xấu hổ với chính ḿnh. Tôi không thể về đối mặt với gia đ́nh, nhưng tôi cũng không muốn trốn đi cùng người đàn ông kia. Tôi đă quyết định để lại đứa bé trước tượng Phật trong dịp họp chợ lớn [Họp chợ lớn – ‘đại tập’, trong tiếng Trung phát âm giống với ‘đại cát’ – may mắn lớn]. Tôi xin những người hảo tâm hăy thu nhận đứa bé này. Hài tử được sinh vào mùng 8 tháng đông năm ngoái. Tôi đă không được thấy nó được sinh ra với miếng ngọc bội bởi v́ tôi bất tỉnh khi lâm bồn. Nhưng khi tỉnh dậy, tôi trông thấy miếng ngọc bội trên ngực nó. Đó phải là một kho báu quư giá. Có lẽ đó là dấu hiệu chỉ ra đứa bé đến từ một nơi rất cao. Tôi mong nó sẽ được mạnh khỏe và vượt qua mọi tai ương. Tôi đă để lại một chút vàng bạc làm phí tổn để nuôi nó trưởng thành. Sau khi tôi viết xong bức thư, có lẽ tôi sẽ gieo ḿnh xuống sông tự vẫn. Chừng nào đứa bé t́m được một gia đ́nh tốt nhận nuôi nó, tôi sẽ vui ḷng nhắm mắt…” Lăo nhân bày tỏ cử chỉ thể hiện sự đồng cảm với người thiếu nữ xấu số. Rồi bà nhặt miếng ngọc bội lên và nh́n nó kỹ hơn. Đây là một miếng ngọc trong veo và đẹp đến nỗi không có một chút tỳ vết. Nó vô cùng tṛn trịa và hơi lớn hơn đồng xu một chút. Có một cái lỗ tṛn ở bên trong nó để người ta có thể xỏ một cái dây qua và dùng làm đồ trang sức. Sau khi xem xét kỹ càng, lăo nhân nhận thấy có nhiều thứ đang chuyển động và cả các vị Thần ở bên trong miếng ngọc. “Đây phải là một miếng thông linh bảo ngọc [1],” lăo nhân tự nói với chính ḿnh. Bà bật khóc, bế đứa bé lên rồi cất miếng ngọc đi. Rồi bà nh́n qua cửa sổ và thấy cơn mưa rào đă tạnh. Bà nghĩ: “Chiếc chăn này quá mỏng. Nếu ta mang đứa bé ra ngoài trong một chiếc chăn mỏng thế này, nó sẽ bị cảm lạnh mất. Liệu c̣n cái chăn nào lớn hơn và dày hơn không nhỉ.” Và rồi một vệt sáng màu vàng kim xuất hiện. Một chiếc chăn bay từ trên trời xuống. Nó không quá dày hay quá mỏng. Nó không cháy khi bị quăng vào trong lửa. Nó cũng không thấm nước khi bị ném vào trong nước. Ngoài ra, có một kư tự “duyên” bằng tiếng Trung Quốc được thêu lên đó. Lăo nhân nhanh chóng lượm tấm chăn lên. Lúc ấy bà đă tin rằng đứa bé phải đến từ trên thiên thượng. Với đứa bé trong tay, bà quỳ xuống rồi khấu đầu trước tượng Phật Di Lặc. Bà bảo đảm với Phật Di Lặc rằng bà sẽ chăm sóc tốt cho đứa bé. Rồi bà ẵm đứa bé về nhà của bà ở Ngô Linh Bảo. Chăm sóc một đứa trẻ nhỏ thường là một công việc mệt nhọc và đ̣i hỏi cao. Nhưng đứa bé rất dễ thương và hiền lành. Nó hầu như không bao giờ khóc hay la hét om ṣm. Nó lớn lên ngày qua ngày. Lăo nhân vô cùng xúc động. V́ dường như đứa bé có một tiền duyên to lớn với Phật Di Lặc, bà đă đặt tên đứa bé là Thuận Duyên, có nghĩa là ‘tùy theo duyên phận’ ở tiếng Trung Quốc. Tiểu Thuận Duyên gọi vị lăo nhân là ‘bà’. Lăo nhân cười vui suốt cả ngày với nó như thể bà không thể hạnh phúc hơn khi có một đứa cháu trai. Bảy năm đă trôi qua nhanh chóng. Một buổi trưa vào mùa xuân, trong khi tiểu Thuận Duyên đang chơi đùa trong sân nhà, một tăng nhân đi vào sân với một cái bát khất thực cầm trên tay phải. Vị tăng nhân trông rất uy nghiêm và có một thần thái vô cùng ngay chính. Tiểu Thuận Duyên nhận thấy ông rất quen thuộc và tiến đến bên ông. Nó cầm tay ông rồi dẫn ông vào trong nhà. Nó gọi lăo nhân: “Bà ơi, chúng ta có khách! Chúng ta có khách!” Lăo nhân dừng việc nấu ăn và rồi chạy ra ngay. Khi bà trông thấy một tăng nhân đang khất thực, bà bèn mời ông vào trong. Vị tăng nhân rất thẳng thắn và cởi mở. Ông ngồi trong pḥng khách rồi nói với bà: “Tôi tới đây để xin một bữa ăn và để nói một chuyện quan trọng. Bà phải dưỡng dục đứa trẻ thật tốt bằng cách dạy nó lễ nghĩa để nó trọng đức hành thiện. Bằng cách này, khi thập ác [2] đầu độc thế gian, tiền duyên với Phật Pháp của nó sẽ khởi tác dụng và lại dẫn nó đến với Phật Pháp, và cả hai người sẽ được đắc độ khi đức Chuyển Luân Thánh Vương ở cơi người. Tôi hy vọng rằng bà sẽ chú ư đến những lời tôi nói. Hăy nhớ lấy! Hăy nhớ lấy!” Lăo nhân hỏi: “Đây có phải là thế giới thập ác trong thời kỳ mạt pháp và Phật Thích Ca Mâu Ni đă đề cập tới không?” Vị tăng nhân đáp: “Thiên cơ không thể tiết lộ. Bà sẽ biết khi thời điểm tới. Thật bất ngờ, mẹ của đứa bé vẫn c̣n sống. Cô ấy đă trở thành một ni cô và tu hành trong một nữ tu viện Phật giáo. Đừng nghĩ đến chuyện t́m cô ấy bây giờ v́ tất cả sẽ có cơ hội nghe đức Chuyển Luân Thánh Vương giảng Phật Pháp.” Sau khi nói xong những lời này, ông bước đi với một bát đựng đầy cơm và rồi mất hút trong tầm mắt. Vị lăo nhân nghĩ về việc làm sao bà có thể giáo dục Thuận Duyên cho tốt trong suốt đêm hôm đó và cuối cùng bà nhớ rằng chồng bà biết một tiên sinh họ Triệu ở phủ Bảo Định, người đă từng là thầy dạy học. Triệu viên ngoại là người rất hiền đức và có học vấn uyên bác. Bà nhân cơ hội buổi họp chợ lớn để tới phủ Bảo Định và bà cũng đưa Thuận Duyên đi cùng để gặp Triệu viên ngoại. Sau khi bà kể chi tiết cho Triệu viên ngoại nghe câu chuyện về Thuận Duyên kể từ ngày bà nhận nuôi, Triệu viên ngoại đồng ư dạy học cho Thuận Duyên tại nhà ông ngay lập tức. Kể từ ngày đó, Thuận Duyên ở cùng với Triệu viên ngoại để được ông dạy dỗ tại nhà. Triệu viên ngoại dạy cậu bé các kiến thức về kinh điển và lễ nhạc. Trong thời gian rảnh rỗi, Thuận Duyên giúp các việc lặt vặt cho gia đ́nh Triệu viên ngoại như là quét tuyết và nhổ cỏ, và được cả ông cùng gia đ́nh ông quư mến. Khi Thuận Duyên lên 13 tuổi, một bệnh dịch lan khắp các thôn trang quanh phủ Bảo Định. Lăo nhân bị nhiễm bệnh và qua đời. Trước khi bà qua đời, Triệu viên ngoại đưa Thuận Duyên đến thăm bà. Bà nhân cơ hội đưa lại bức thư từ người mẹ đẻ của Thuận Duyên, miếng ngọc bội cùng tấm chăn khác thường cho Thuận Duyên và nói cậu bé đừng bao giờ để mất chúng. Bà cũng nói cậu bé phải trở thành một người có học thức và là người tốt. Điều quan trọng nhất là, bà nói với Thuận Duyên rằng cậu bé phải đắc Pháp khi đức Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế phổ truyền Pháp và họ sẽ gặp lại nhau lúc đó. Không lâu sau khi họ gặp gỡ, lăo nhân qua đời. Khi Thuận Duyên nghe tin, cậu bé đă phải vượt qua nỗi buồn này. Cậu bé chôn cất lăo nhân trong nước mắt và vái ba vái trước mộ của bà. |
Sau khi Thuận Duyên trở về từ mộ của bà, Triệu viên ngoại nói: “Con ơi, con cực kỳ xuất chúng và đă vượt qua ta. Ta biết một cao nhân họ Tăng là người có học thức cao và rất tài năng. Tiên sinh sống cách đây 100 dặm. Ta đă quyết định đặt con dưới sự giám hộ của tiên sinh. Tăng tiên sinh thực ra là một tu sĩ Phật gia. Ông rất tinh thông về thiên văn, lịch sử và pháp thuật, nhưng ông không phải là một tăng nhân. Thực ra, tiên sinh có gia đ́nh với vợ và một đứa con gái. Con gái ông ngang tầm tuổi con. Ông ấy có nhiều điều hơn là một ẩn sĩ sống trong một túp lều tranh. Con sẽ thấy điều ta nói khi con đến đó. Thực ra, ‘túp lều tranh’ đó c̣n hơn cả nhà của ta. Ông ấy cũng có rất nhiều bạn bè. Tại sao con không gói ghém mọi thứ ngay ngày hôm nay? Chúng ta sẽ xuất phát vào ngày mai.” Thuận Duyên nói: “Con sẽ không bao giờ quên ơn bác như là người từ tâm lớn với con. Nhưng sau khi con rời đi, ai sẽ đến quét tuyết và nhổ cỏ cho bác?” “Con ngốc ơi. Đây là lỗi của ta khi không học đủ rộng để dạy dỗ con. Để nói với con sự thật, ta cảm thấy rất miễn cưỡng. Ta có một ư này. Khi con đắc Pháp từ đức Chuyển Luân Thánh Vương vào thời mạt pháp, con phải nói với ta điều đó để ta cũng có thể đắc Pháp. Con nghĩ sao?” Thuận Duyên đáp: “Con sẽ làm vậy. Nếu bác không tin tưởng con, hăy bắt tay để giữ lời hứa.” Thuận Duyên cuối cùng ngừng khóc và cười lên trong hạnh phúc.
Ngày hôm sau, tiểu Thuận Duyên và Triệu viên ngoại đi trên một chuyến xe ngựa đến nhà Tăng tiên sinh. Sau khi họ đến nơi, khi Triệu viên ngoại sai người ở gơ cửa th́ Tăng tiên sinh bất ngờ xuất hiện trên bục cửa và bái kiến họ. Tăng tiên sinh nói: “Tôi biết ông sẽ đến hôm nay! Thật là một chuyến đi dài!” “Xin mời vào!” Tăng tiên sinh nói. Khi mọi người an tọa và uống trà, Tăng tiên sinh giải thích với họ về điều đă xảy ra. Tiên sinh nói: “Ngày hôm qua, vợ tôi, con gái tôi và tôi mỗi người đều có một giấc mơ về miếng ngọc quư. Ông biết rất rơ về gia đ́nh tôi, nhưng có một điều quan trọng mà ông chắc hẳn không biết. Vào ngày mà con gái tôi sinh ra, một miếng ngọc bội xuất hiện trên ngực của nó. Sau khi con gái tôi biết nói, nó nói với tôi rằng đó hẳn phải là một đôi ngọc bội mà miếng kia thuộc về một người khác. Đêm hôm qua, con gái tôi nằm mơ thấy một đôi ngọc quư được treo trên hành lang nhà tôi. Tôi th́ nằm mơ thấy hai đứa trẻ đang chơi đùa bên Điện Ngọc trên Thiên Đ́nh. Rồi một giọng nói âm vang và mạnh mẽ vang lên từ trên thiên thượng: ‘Ta sẽ đi phổ truyền Pháp nơi cơi người. Những ai muốn nghe đức Chuyển Luân Thánh Vương giảng Pháp nơi cơi người phải xuống thế giới con người cùng ta!’ Rồi hai đứa trẻ quỳ xuống và phát nguyện xuống thế giới con người. Để gặp lại nhau nơi cơi người, chúng đă mang theo một đôi ngọc bội để chúng có thể t́m thấy nhau. Khi tôi tỉnh giấc vào buổi sáng, tôi có một linh cảm rằng những vị khách quư sẽ tới nhà tôi hôm nay. Ông thấy không? Ông đă tới đây hôm nay!” Triệu viên ngoại ngạc nhiên đến sững cả người. Ông khó có thể tin được một điều kỳ lạ như thế có thể xảy ra trên thế gian này. Tăng tiên sinh hỏi: “Thuận Duyên có mang miếng ngọc theo bên ḿnh không? Tôi có thể xem nó không?” Thuận Duyên bèn lấy miếng ngọc từ trong túi và kể cho Tăng tiên sinh nghe về câu chuyện từ khi cậu bé sỉnh ra. Tăng tiên sinh xem xét miếng ngọc hết sức cẩn thận. Ông la lên: “Nó giống hệt với miếng ngọc bội của con gái tôi!” Sau khi nghe xong câu chuyện của Thuận Duyên, ông gọi vợ và con gái ra để gặp họ. Ngay khi tiểu Thuận Duyên trông thấy con gái của Tăng tiên sinh, Tiểu Như, cậu bé hành xử như thể cậu bé cuối cùng đă t́m thấy thân nhân trong gia đ́nh, người mà đă xa cách trong một thời gian dài. Cậu bé bật khóc và không thể thốt lên lời nào. Tiểu Như cũng xúc động không kém. Sau khi quan sát phản ứng của hai đứa trẻ, Tăng tiên sinh tuyên bố: “Không phải nói thêm câu nào nữa. Kể từ bây giờ, Thuận Duyên là con rể ta. Ta sẽ cho Tiểu Như thành thân với cậu bé khi nó lớn lên. Khi Thuận Duyên vượt qua được kỳ thi khoa cử, chúng ta sẽ làm đám cưới. Ta chắc chắn sẽ khiến Thuận Duyên trở thành một đấng trượng phu có học vấn và đạo đức.” Sau khi từ biệt Triệu viên ngoại, Tăng tiên sinh bắt đầu dạy Thuận Duyên các kinh điển của đạo Khổng, lễ nhạc, phương pháp tu luyện của Phật gia và thậm chí là cả pháp thuật Đạo giáo. Khi Thuận Duyên lên 18 tuổi, Tăng tiên sinh cho cậu tham dự kỳ thi khoa cử. Tăng tiên sinh có hai mục đích. Ông muốn Thuận Duyên đạt được công danh. Ngoài ra ông cũng muốn Thuận Duyên giúp Triều đ́nh khôi phục lại lễ nghĩa trong thiên hạ. Thuận Duyên đă vượt qua được kỳ thi hương, thi hội rồi tới thi đ́nh. Cậu đậu kỳ thi đ́nh ở vị trí thứ hai (bảng nhăn). Điều đó xảy ra khi Bộ Lễ c̣n khuyết một chức quan, và cậu được bổ nhiệm làm chức Lễ Bộ Thị Lang. Trước khi cậu nhậm chức, cậu trở về phủ Bảo Định thăm lại Triệu viên ngoại và cưới Tiểu Như. Trước khi cậu và Tiểu Như đi nhận chức vụ, Thuận Duyên nói với Tăng tiên sinh và Tăng phu nhân rằng: “Nhạc phụ, nhạc mẫu, tại sao hai người không đi cùng chúng con và tận hưởng vinh hoa phú quư?” Tăng tiên sinh đáp: “Mẹ và cha các con đă quen sống trong túp lều tranh này. Chúng ta không thích thú cuộc sống nơi thế gian. Giờ con gái ta đă trở thành vợ của con. Ta mong con sẽ đối xử tốt với nó. Nhưng ta nghĩ ta cần xây thêm hai túp lều tranh nữa. Có như vậy, các con mới có chỗ để ở khi các con về. Hăy bảo trọng!” Thuận Duyên cùng Tiểu Như quỳ xuống và khấu đầu trước Tăng tiên sinh và Tăng phu nhân. Rồi họ lên xe ngựa và rời đi. Tăng phu nhân rất buồn và không muốn phải xa họ. Bà lầm bầm với chính ḿnh: “Khi nào th́ chúng trở về?” Tăng tiên sinh nói với vợ một cách lạc quan: “Chúng sẽ trở về. Chúng chắc chắn sẽ trở về.” Trên đường tới Bắc Kinh, Thuận Duyên và Tiểu Như đi ngang qua Ngô Linh Bảo, nơi cậu đă từng sống với lăo nhân. Thuận Duyên tu sửa lại ngôi mộ của lăo nhân và xây một ngôi đền nhỏ ngay cạnh đó. Cậu cũng cử người chăm lo cho ngôi mộ cả ngày lẫn đêm. Tại Triều đ́nh, Thuận Duyên nhận chức chức Lễ Bộ Thị Lang và đă góp công lớn trong việc khôi phục lễ nhạc của quốc gia. Không may thay, sau này khi đạo đức xă hội suy đồi, nhân tâm biến dị, các tham quan đă giành được quyền lực. Thuận Duyên không thể làm ǵ hơn. Khoảng mười năm sau, Thuận Duyên từ quan quy ẩn. Cậu và Tiểu Như trở về ngôi nhà của Tăng tiên sinh. Ngay khi họ về đến cửa, Tăng tiên sinh nói: “Đúng như ta đă nói với các con, các con sẽ trở về vào một ngày nào đó. Ta đă xây hai túp lều tranh cho các con. Tại sao hai con không chung sống với chúng ta nốt phần đời c̣n lại? Trong kiếp tới và các kiếp sau, chúng ta sẽ được gặp đức Chuyển Luân Thánh Vương và đắc Pháp.” Kể từ đó, Thuận Duyên và Tiểu Như sống trong túp lều tranh mới xây và vui thú điền viên trong phần đời c̣n lại. |
Lời kết:
Tôi đă viết bài viết này trong nước mắt. Việc biết được bao nhiêu khó nạn mà tôi đă phải chịu đựng để đắc được Pháp đă làm tôi cảm kích hơn trước sự khó nhọc mà Sư Phụ đă phải chịu đựng để phổ truyền Pháp. Các bạn đồng tu, chúng ta đă không đắc được Pháp nếu Sư Phụ không trông chừng chúng ta hay nếu chúng ta không chịu đựng rất nhiều đau khổ trong các kiếp trước! Đây là một tiền duyên cao cả và thiêng liêng mà chỉ đến một lần từ vạn cổ! Hăy cố gắng tiến bước cùng nhau trong tu luyện và trở về mái nhà yêu quư của chúng ta. Cuối cùng, tôi sẽ nói với các bạn những nhân vật trên là ai trong kiếp này. Thuận Duyên là tôi. Tiểu Như là một bạn đồng tu mà tôi gọi là “chị gái thứ hai” của tôi. Vị tăng nhân đó chính là Sư Phụ trong kiếp này. Tôi không rơ có phải Tăng tiên sinh cũng chính là Sư Phụ trong kiếp đó hay không. C̣n về Triệu viên ngoại và vị lăo nhân, họ đều đă đắc Pháp. Tôi đă gặp “lăo nhân” chỉ một tháng trước đây. Ngay khi tôi gặp cô ấy, tôi cảm thấy rất thân thuộc nhưng tôi không biết loại tiền duyên nào mà chúng tôi có. Một đêm tôi bước vào một giấc mộng dài. Bài viết này chính là phần tổng kết những h́nh ảnh trong giấc mơ của tôi. Người thiếu nữ đă sinh ra Thuận Duyên và cố gắng tự vẫn đó đă trở thành mẹ của tôi trong kiếp này, cho thấy không ai có thể thoát khỏi quan hệ nhân duyên. Khi thời gian cho phép, tôi sẽ biên soạn và xuất bản những câu chuyện về những kiếp sống khác của tôi. Để bài viết không quá dài, tôi xin dừng bút tại đây. Nếu các bạn không tin tôi, hăy chỉ coi nó là một câu chuyện thần thoại. Chú thích của người dịch: [1] Thông linh bảo ngọc: Thứ ngọc quư giá và linh thiêng. [2] Thập ác: Mười điều ác, điều Phật Thích Ca Mâu Ni đề cập đến thế giới con người trong thời mạt pháp. |
Thầy tu trên sông Hằng
Tác giả: Tiểu Liên [Chanhkien.org] Lời mở đầu: Hiện tại, Pháp Luân Đại Pháp đang bị bức hại tại Trung Quốc đại lục. Các học viên Đại Pháp đă trụ vững trước áp lực to lớn, dưới ma nạn chưa từng có tiền lệ này mà đứng vững trong một vài năm qua. Có rất nhiều câu chuyện anh dũng và truyền cảm từ các học viên Đại Pháp. Bài viết này nhằm điểm lại dưới khía cạnh lịch sử và khám phá về việc chúng ta đă tu luyện kiên định chính ḿnh như thế nào trong những đời trước. Câu chuyện này có thể xóa sạch hết thảy cát bụi trong tâm thức chúng ta, cho phép chúng ta tu luyện tinh tấn, thăng tiến hơn nữa trong thời khắc cuối cùng của Chính Pháp, và để chúng ta thực sự trân quư cơ hội khó gặp khi được tu luyện trong Chính Pháp! * * * * * * * * * * Khi đề cập đến sông Hằng, người ta có thể liên tưởng ngay đến đất nước Ấn Độ cổ. Đức Thích Ca Mâu Ni đă bắt đầu truyền Pháp của Phật giáo tại đất nước Ấn Độ cổ vào khoảng hai ngàn năm trăm năm trước đây. Sau khi đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và rời khỏi địa cầu, Pháp trong Phật giáo của đức Thích Ca Mâu Ni đă được truyền rộng, với sự ủng hộ và quảng bá của vua A Dục (Ashoka) cùng triều đại Mauryan. Hàng trăm năm sau, do những người trị v́ sau đó tại Ấn Độ đă bắt đầu cấm Phật giáo, và cũng do các đồ đệ của đức Thích Ca đă trộn lẫn những nguyên lư của Bà La Môn giáo và các tôn giáo nguyên thủy khác vào Pháp của Phật giáo, Pháp trong Phật giáo của đức Thích Ca đă dần dần suy hoại. Vào khoảng thời gian đó, có một người đàn ông hào hoa phong nhă sống trong lưu vực sông Hằng. Ông sở hữu một trang viên và sinh sống bằng cách trồng cây ăn quả. Ông kiên tŕ ủng hộ Pháp trong Phật giáo của đức Thích Ca và tu luyện bằng cách chiểu theo nghiêm ngặt Pháp của đức Thích Ca. Một ngày, vợ của ông sinh hạ được một quư tử. Bởi v́ người theo Phật gia rất thích hoa sen, cho nên họ đă đặt tên đứa bé là Ailianduo (Ái Liên Hoa), trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là người rất thích hoa sen. Sau khi đứa trẻ sinh ra, cha nó bế nó và mang tới một bức tượng Phật Tổ. Ông chắp tay trong thế hợp thập và nói: “Hôm nay, con hiến dâng đứa con trai của con cho Đức Phật, với hy vọng rằng Phật sẽ gia tŕ và cấp cho nó một con đường tu luyện tốt đẹp trong tương lai, để nó có thể rời khỏi Tam Giới, và đắc Chính Quả!” Vào thời điểm đó, Ái Liên Hoa mở to đôi mắt rất sáng và đang chớp chớp của nó, rồi bỗng nhiên nói: “Con sẽ kiên định một ḷng tu hành theo ư nguyện của Phật Tổ! Cuộc đời của con sẽ trở nên vô nghĩa nếu con không thể rời khỏi Tam Giới!” Cha đứa bé sửng sốt đến nỗi ông suưt lỡ tay đánh rơi đứa bé xuống nền nhà. Cha đứa bé đột nhiên nhận ra rằng Ái Liên Hoa vừa mới mở miệng nói và nó đă phát nguyện tu hành. Ông ngay lập tức khấu đầu trước tượng Phật Tổ và liên tục dập đầu xuống sàn để thể hiện ḷng tôn kính với đức Phật. Ái Liên Hoa lớn lên trong môi trường tu hành Phật Pháp. Nó có một sự nhận thức rơ ràng về Phật Pháp thậm chí ngay từ khi c̣n rất nhỏ, và có rất nhiều thần thông. Khi lên 12 tuổi, cha của nó gửi nó tới một ngôi chùa gần đó, nơi nó trở thành vị thầy tu trẻ tuổi nhất ở đó. Trong chùa, nó học cách tụng kinh và kiên định tŕ giới tu hành. Trong thời gian rỗi, nó cũng bổ củi và chuẩn bị bữa ăn cho các ḥa thượng khác trong chùa. Nó đă thực sự trở thành một “tiểu ḥa thượng.” V́ nơi đó thuộc vùng Nam Á, nên thời tiết đôi lúc rất nóng. Trong mùa mưa, mưa nặng hạt liên tục không dừng. Khi Ái Liên Hoa lên 18 tuổi, cả ngôi chùa gần như bị đổ sập trong một trận mưa băo dữ dội, ngoại trừ ngôi nhà nơi nó và vị sư trụ tŕ đang ở. May mắn thay, tất cả ḥa thượng khác trong chùa đều ở bên ngoài vào thời điểm đó, và chỉ có Ái Liên Hoa và vị sư trụ tŕ, người gần 80 tuổi, là ở trong chùa. Sau khi trận mưa băo qua đi, những ḥa thượng khác trở về và thấy ngôi chùa đă bị hư hại nghiêm trọng. Họ trở nên lo lắng. Phải cần một dự án lớn để xây dựng lại ngôi chùa! Phải cần biết bao nhiêu tiền mới có thể đủ để trùng tu lại ngôi chùa đó! Phải cần biết bao nhiêu thời gian để họ ra ngoài xin ăn và của bố thí! V́ vậy, tất cả ḥa thượng khác đều lần lượt ra đi. Không lâu sau, vị sư trụ tŕ viên tịch, và Ái Liên Hoa trở thành người duy nhất c̣n sót lại trong ngôi chùa. Nh́n ngôi chùa đổ nát, một cảm giác mạnh mẽ xuất hiện trong tim của Ái Liên Hoa. Không từ ngữ nào có thể mô tả được cảm giác đó. Nó tự nghĩ rằng: “Thế giới con người mới ngắn ngủi và bấp bênh làm sao! Trước sức mạnh của thiên nhiên, con người và mọi thứ được con người xây dựng thật quá nhỏ bé và kém cỏi. Thêm vào đó, tu luyện Phật Pháp là nghiêm túc phi thường. Ngôi chùa đổ nát là một khảo nghiệm cho chúng ta và đă phơi bày được rất nhiều tâm người thường. Ta không nên rời khỏi đây bằng bất cứ giá nào. Có lẽ đây là quan ải của Phật nhằm khảo nghiệm xem ta kính trọng Phật đến đâu và ta tin vào Phật đến đâu.” Kể từ đó, nó bắt đầu đi ra ngoài và lang thang để xin ăn và hóa duyên. Bất cứ địa phương nào nó đến, nó đều thuyết giảng Pháp của Phật giáo cho mọi người, cùng lúc xin quỹ để xây dựng lại ngôi chùa và trùng tu tượng Phật. Trong bốn hay năm năm sau đó, nó đă đi khắp vùng cao nguyên Deccan. Những nguy hiểm luôn theo sau ŕnh rập nó. Bị người đời nhạo báng, chế giễu và thậm chí là nguyền rủa, nhưng nó đều không động tâm. Khi sự quyết tâm của nó là không đủ, Phật thường triển hiện và cho nó điểm hóa cùng những chỉ dẫn, làm nó tăng cường tín tâm và kiên định thực hiện sứ mạng. Cuối cùng, sau khi nó đă tích trữ đủ tài vật để trùng tu ngôi chùa, Ái Liên Hoa khám phá ra rằng ngôi chùa đă trở nên ngày càng huy hoàng và trang nghiêm hơn (nhưng bề ngoài của ngôi chùa vẫn đổ nát). Nó tự nghĩ: “Đây phải là một sự khích lệ từ đức Phật.” Trong ṿng vài ngày, một trận lụt xảy ra ở gần đó và tất cả nhà cửa của dân làng trong vùng phụ cận đều bị phá hủy. Tuy nhiên, ngôi chùa xiêu vẹo không chỉ không đổ sập xuống, mà nó c̣n trở nên huy hoàng hơn. Những bức tường lớn và pḥng ốc trở nên đẹp hơn so với lần mà Ái Liên Hoa tới ngôi chùa lần đầu tiên, như thể nó đă được trùng tu lại mới. Ái Liên Hoa nhận ra rằng đây là sức mạnh của Phật Tổ. Do đó nó quỳ xuống và nói: “Xin cảm ơn Người, Phật Tổ. Con sẽ sống v́ Phật, sẽ tu hành tốt và sẽ dũng mănh tinh tấn!” |
Sau đó, nó đi ra khỏi ngôi chùa và nh́n thấy cảnh đau khổ của dân làng. Nó đă khóc. Nó nghĩ: “Tại sao ta không lấy tài vật mà ta đă xin để trùng tu ngôi chùa đem cho người dân làng để họ xây lại nhà của họ?” V́ vậy nó đă gọi những người dân làng quanh đó lại và nói: “Tất cả tài vật này đáng lẽ dùng để xây lại ngôi chùa, nhưng Phật Tổ từ bi đă dùng Phật lực để trùng tu lại nó. Ta muốn đưa lại những tài vật này cho mọi người để mọi người xây lại nhà cửa. Hăy biết ơn sự từ bi của Phật Tổ!” Mọi người đều rất cảm động và sau đó tất cả họ đều trở thành tín đồ Phật giáo.
Sau đó, một trong những cận thần của Quốc vương đă nghe được sự triển hiện từ bi của đức Phật. Người cận thần này có một thuộc hạ là tu sĩ Bà La Môn giáo. Vị tu sĩ này rất độc ác, nham hiểm và đầy ḷng đố kỵ. Khi người cận thần hỏi ông ta về sự hiển hiện từ bi của đức Phật, tu sĩ Bà La Môn giáo này ngay lập tức đề nghị rằng người cận thần nên đến gặp Quốc vương, cầu xin Quốc vương ủng hộ Bà La Môn giáo trên diện rộng, xóa bỏ Phật Giáo của đức Thích Ca, và buộc Ái Liên Hóa phải cải sang Bà La Môn giáo. Quả nhiên vị Quốc vương đần độn này đă chấp nhận lời kiến nghị của người cận thần. V́ vậy ông đă ra một chiếu thư, trong đó Quốc vương cấm tất cả mọi người trong Vương quốc tin vào Phật giáo, bắt tất cả mọi người cải sang Bà La Môn giáo, và yêu cầu người dân hiến tế trinh nữ trong những nghi lễ tạ thần Bà La Môn. Bất cứ ai dám vi phạm sắc lệnh đều bị chém đầu ngay lập tức. Những lời kêu oán vang khắp đất nước sau khi sắc lệnh được ban ra. Hầu hết những người tin theo Phật giáo đều đă cải đạo. Chỉ có Ái Liên Hoa và vài chục vị ḥa thượng khác là từ chối nghe theo sắc lệnh. Họ vẫn kiên định tin vào Pháp của đức Thích Ca. V́ những người này trái lệnh, nên đích thân người cận thần kia cùng vài thuộc hạ đă tới để giết Ái Liên Hoa cùng những người khác. Ái Liên Hoa không hề sợ hăi trước cường quyền bạo ngược, nó vẫn từ bi khuyên nhủ họ không nên hủy hoại Phật Pháp. Nó nói với họ rằng nếu họ tiếp tục thực hiện những hành vi xấu xa, họ sẽ bị rớt xuống A Tỳ Địa ngục. Họ không hề nghe lời Ái Liên Hoa. Ái Liên Hoa đă đưa bàn tay ra cho họ. Họ đă cắt đi cả mười ngón tay của Ái Liên Hoa, sau đó là chặt đầu và chặt đứt tay chân nó. Khi họ làm xong, họ có dáng vẻ rất nghênh ngang. Tuy nhiên không lâu sau những phần cơ thể của Ái Liên Hoa xuất hiện trở lại và nó đang ngồi trên một tấm nệm. Phần cơ thể mà đă bị phanh thây bởi những kẻ độc ác kia chỉ là “thân giả” do nó diễn hóa ra. Điều kỳ diệu này làm xáo động những người dân làng gần xa, và ngày càng nhiều người hơn tin vào Pháp trong Phật giáo của đức Thích Ca. Khi tin tức đến tai của những kẻ độc ác, chúng vô cùng giận dữ. Vào một đêm trăng sáng và trời lác đác sao, chúng đột nhập vào pḥng của Ái Liên Hoa. Khi ấy, Ái Liên Hoa đang ngồi trong định và nó không hề có một tạp niệm nào trong tâm trí. Nó biết rằng chúng đă vào trong nhưng nó không hề chú ư đến chúng. Thay vào đó, nó thấy Phật đang hiện ra phía trước mặt và nghiêm túc nh́n nó, và điều này đă làm nó tăng thêm tín tâm trong tu luyện. Do đó nó vẫn tiếp tục thiền định. Những kẻ tà ác này nghĩ rằng thật là một cơ hội tốt. Chúng đă mang vũ khí vào và bước tới đằng sau nó. Chúng đă cắt đi tay chân của Ái Liên Hoa. Ngay khi chúng đang ăn mừng thắng lợi, chúng khám phá ra rằng cơ thể của chúng đă nhanh chóng bị hạ xuống A Tỳ Địa ngục. Nhiều người trong số họ vẫn c̣n ở nơi đó cho đến tận hôm nay. Mặc dù vài người trong số họ đă được đầu thai trở lại, họ vẫn làm nhiều điều xấu nhằm phá hoại Đại Pháp trong đời này. Họ đă bị h́nh thần toàn diệt. Tuy nhiên, kiếp số của họ vẫn chưa hết v́ Chính Pháp vẫn chưa kết thúc, nên họ vẫn chưa bị tiêu hủy. Trong khi đối mặt với khảo nghiệm sinh tử, Ái Liên Hoa đă chọn đức tin chân chính và kiên định, cho nên nó đă bước lên một đài sen, bay ra khỏi Tam Giới, và tới miền đất tịnh độ của Phật quốc! |
Đúng là:
Đô thuyết tu luyện khổ hựu nan Nhân tâm tư niệm trọng trọng lan Khảo nghiệm diện tiền sinh tử đoạn Túc thừa liên hoa phi cửu thiên! Diễn nghĩa: Tất cả đều nói tu luyện vừa khó khăn vừa gian khổ Tâm người thường và ư niệm ích kỷ chắn hết đường Khảo nghiệm xem có xả bỏ được [chấp trước] sinh tử hay không Bước lên đài sen và bay lên chín tầng trời! Lời kết: Mục đích của bài viết này không phải là để tuyên dương điều ǵ cả, mà là để kể lại việc chúng ta đă kiên định trong chính tín với Phật Pháp như thế nào khi chúng ta tu luyện ở những đời trước trong lịch sử. |
| All times are GMT. The time now is 09:36. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.