![]() |
Cẩn trọng khi dùng vitamin bổ sung
Cẩn trọng khi dùng vitamin bổ sung
Có lẽ không ở đâu việc dùng thêm các chất vitamin lại phát triển như ở Hoa Kỳ. Những loại dưỡng chất bổ sung này được bán như là một thứ thực phẩm trong các siêu thị. Thế nhưng, đối với đa số chúng ta, việc dùng vitamin bổ sung là vô ích. Thậm chí, một số loại thuốc bổ này có thể gây ra rủi ro chết người đối với những phụ nữ cao tuổi. Theo một nghiên cứu được đăng trên tạp chí Archives of Internal Medicine, của Hiệp hội Y tế Mỹ, ngày 10/10/2011, giới chuyên gia c̣n nhấn mạnh, chất sắt bổ sung là yếu tố đáng lo ngại nhất, trong khi đó các chất khác có nguồn gốc từ calcium th́ dường như lại giúp làm giảm nguy cơ tử vong. Các tác giả của công tŕnh nghiên cứu nói trên bao gồm các nhà khoa học Mỹ và Phần Lan cho biết, « chúng tôi đă phát hiện ra rằng nhiều sản phẩm bổ sung có chứa vitamin hoặc khoáng chất, thường được sử dụng, như các sản phẩm vitamin tổng hợp, vitamin B6, acide folique, sắt, magnesium, kẽm, đồng có liên quan đến các rủi ro tử vong cao ». Kết luận này được đưa ra trên cơ sở các dữ liệu của một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện ở tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. 38 772 phụ nữ trong độ tuổi trung b́nh 62 đă trả lời bằng cách điền vào bảng câu hỏi. Họ cho biết đă dùng các chất vitamin bổ sung ra sao trong các năm 1986, 1997 và 2004. Công tŕnh nghiên cứu công bố ngày 10/10 vừa qua đă chỉ rơ là yếu tố sắt có dính líu rất nhiều đến hiện tượng tăng số nguời tử vong, tùy thuộc vào liều lượng đă dùng. Tuy nhiên, các tác giả cũng lưu ư là họ không thể xác định được mối liên quan giữa một bên là những lư do thúc đẩy những người phụ nữ này dùng chất sắt bổ sung và bên kia là tỷ lệ tử vong cao. Vấn đề này đ̣i hỏi phái có những nghiên cứu rộng lớn và sâu hơn. Ngược lại, calcium có liên quan đến việc giảm tỷ lệ tử vong. Trong thông báo đi kèm công tŕnh nghiên cứu, các bác sĩ ghi nhận là những phát hiện này, xin trích, « củng cố ḷng tin của chúng tôi rằng một số chất vitamin chống lăo hóa như vitamin E, vitamin A hay beta carotène có thể nguy hiểm ». Đồng thời, các chuyên gia cũng nhấn mạnh, đừng nghĩ là cứ dùng thêm vitamin là tốt và trong mọi trường hợp, đối với những người có chế độ ăn uống đầy đủ th́ không nên dùng các chất vitamin bổ sung như là một liệu pháp pḥng ngừa. Thực ra, đă từ lâu, các chuyên gia đă cảnh báo việc dùng dưỡng chất bổ sung, đặc biệt là ở những nguời cao tuổi. Ví dụ, năm 2009, các nhà khoa học thuộc đại học North Carolina, Hoa Kỳ đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu, thu thập dữ liệu liên quan đến việc dùng dưỡng chất bổ sung trong một thời gian dài, ở nhóm người có độ tuổi từ 50-76. Kết quả cho thấy dường như có mối liên hệ theo tỷ lệ thuận giữa thời gian sử dụng dưỡng chất bổ sung và nguy cơ bị ung thư. |
Tụ cầu khuẩn trong thực phẩm đông lạnh Trung Quốc
Tụ cầu khuẩn trong thực phẩm đông lạnh Trung Quốc
Thụy My Dư luận Trung Quốc phản đối việc Bộ Y tế cho phép sự hiện diện của tụ cầu khuẩn trong thực phẩm đông lạnh. Loại tụ cầu khuẩn này có thể gây ra bệnh viêm phổi và viêm màng năo. Theo các quy định mới của Bộ Y tế Trung Quốc được công bố ngày 24/11/2011, một lượng nhỏ tụ cầu vàng được cho phép hiện diện trong các sản phẩm đông lạnh như cơm hay ḿ. Hăng tin AFP nhắc lại, gần đây cơ quan quản lư y tế Trung Quốc đă ra lệnh thu hồi các loại sản phẩm như há cảo của công ty Synear Food – một trong những nhà sản xuất thực phẩm đông lạnh lớn nhất – sau khi phát hiện tụ cầu vàng trong mặt hàng trên. Loại tụ cầu khuẩn này có thể gây ra bệnh viêm phổi và viêm màng năo. Nhân dân Nhật báo đă phẫn nộ kêu gọi Bộ Y tế phải “đáp ứng nỗi lo ngại của công chúng” v́ “không thể làm ngơ trước sự quan ngại của người dân về an toàn thực phẩm”. Tờ báo chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc đă nêu lên “sự cần thiết phải lập lại ḷng tin về các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm”, nhắc nhở các x́-căng-đan đă gây xôn xao trong những năm gần đây như sữa nhiễm melamine hay dầu tái chế từ dầu thải thu hồi được ở những ống cống. Phản ứng của cư dân mạng cũng tương tự. Một blogger viết : “Với các tiêu chuẩn mới này, th́ độc chất được cho phép hiện diện trong thực phẩm miễn là chưa đến mức gây chết người”. Hồi tháng 9/2010, Bộ Công an Trung Quốc đă kêu gọi tăng cường các biện pháp trừng phạt thậm chí có thể tử h́nh, đối với những người gây ra các vụ tai tiếng về thực phẩm nghiêm trọng nhất. |
Phương pháp chống lăo hóa bằng hormone có an toàn không?
Trẻ măi không già có lẽ là ước mơ từ khi loài người xuất hiện trên trái đất. Từ cổ chí kim nhân loại vẫn đi t́m nguồn suối trường sinh và bỏ công nghiên cứu, t́m kiếm những phương thuốc cải lăo hoàn đồng. Thời buổi bây giờ, với những nghiên cứu khoa học và những khám phá mới, nhiều người lớn tuổi nghĩ rằng họ có thể nhờ cậy đến kết quả các nghiên cứu để giúp cho họ trẻ lâu, khỏe mạnh như tuổi thanh xuân. Chính v́ ước mơ này mà nhiều người đă tiền mất tật mang và bị một số những người trong ngành y lợi dụng thị hiếu để làm giàu. Câu Chuyện nước Mỹ hôm nay mời quí thính giả theo dơi một số phương cách kiếm tiền của các bác sỹ dựa trên ước mơ trẻ măi không già và những hệ quả của các phuơng cách sử dụng hormones. Sau đây là Lan Phương trong bài viết dựa trên báo chí tại Hoa Kỳ.
Lan Phương UserPostedImage H́nh: Getty Images/Cultura RF Theo ước tính, ngành công nghiệp được mệnh danh là chống lăo hóa trên toàn thế giới có thể thu về hơn 291 tỉ đô la tính từ nay cho đến năm 2015. Tại Hoa Kỳ, nhiều ngàn bác sỹ đă nhảy vào lănh vực này và kiếm tiền như nước. Theo bác sỹ chuyên về sản phụ khoa Steven R. Goldstein, giáo sư tại trường y thuộc đại học New York, vấn đề nằm ở chỗ rất nhiều người tự nhận là các bác sỹ chống lăo hóa thường đưa ra những lời hứa hẹn hăo huyền, nhắm tới những con mồi với những quảng cáo như “già lăo là do chính quí vị, nếu nghe chúng tôi, chúng tôi có thể sửa chữa.” Ai cũng biết lăo hóa là một tiến tŕnh tự nhiên, không ai trẻ măi không già, và không ai sống măi ngàn năm. T́m những phương thuốc chống chỏi lại tiến tŕnh tự nhiên, t́m đến các bác sỹ ở một xă hội như tại nước Mỹ với ước mơ níu kéo lại tuổi xuân, theo bài báo, hầu hết đều tiền mất tật mang, có khi c̣n mất mạng nữa cho dù y khoa ở Mỹ được xếp hạng tiên tiến nhất thế giới. Bài báo của CNN.com trưng dẫn trường hợp bà Hanneke Hops, 56 tuổi, cư dân California. Bà không sợ chết, nhưng lại sợ già. Bà muốn trong lứa tuổi ngũ tuần, bà vẫn c̣n cưỡi ngựa, chạy bộ đường trường, hay lái máy bay như hồi c̣n trẻ trung. V́ vậy bà t́m đến ông Alan Mintz, một bác sỹ chuyên khoa quang tuyến quay sang thành lập Viện Y Khoa Cenegenics tại Las Vegas, chuyên về:” y học quản lư tuổi tác.“ Bà được bác sỹ kê toa cho dùng hormone HGH, Human Growth Hormone, một loại kích thích tố tăng trưởng được cho là nguồn suối trường sinh kỳ diệu. Mặc dù cơ quan Kiểm soát Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đă cảnh báo sử dụng HGH sẽ đưa đến nhiều hệ quả phụ hết sức nguy hại. Bà Hops, không hề hay biết về những nguy hại, bắt đầu chích 6 lần mỗi tuần. Bà không già hơn, v́ bà đă chết 6 tháng sau đó, trong gan đầy những bướu độc. Theo tiến sỹ S.J Olshansky một chuyên gia thuộc trung tâm nghiên cứu tuổi già của đại học Chicago cho biết không có trị liệu nào có thể đổi ngược hay làm chậm lại tiến tŕnh lăo hóa. Những bác sỹ tự nhận là “chống lăo hóa “ đơn giản chỉ hơn những kẻ măi vơ sơn đông bán cao đơn hoàn tán một tí thôi. Những hiệp hội y khoa chính thức của Hoa Kỳ, từ Hiệp Hội Chuyên Khoa Nội Tiết đến Hiệp Hội Y Học Hoa Kỳ cảnh báo về việc sử dụng những phương thuốc chống lăo hóa. Và trong khi những bác sỹ chuyên khoa truyền thống như nội tiết và lăo khoa được huấn luyện đặc biệt để chữa trị những triệu chứng và bệnh tật của tuổi già do mất quân b́nh về kích thích tố (hormones), không phải bác sỹ nào tự nhận là “chuyên môn về chống lăo hóa” đều có bằng cấp chuyên môn cao. Và thực sự “chống lăo hóa” không phải là một chuyên khoa được Ủy ban Cấp bằng Chuyên Khoa Y Học của Hoa Kỳ công nhận. Tuy nhiên các bác sỹ tự thành lập một hiệp hội riêng cho ngành nghề của họ với tên gọi là American Academy of Anti-Aging Medicine (A4M). Thành lập năm 1992, hiệp hội này tự nhận là có đến 24.000 hội viên khắp thế giới, và cấp bằng về “chống lăo hóa" cho bất cứ một bác sỹ nào. Một khi đă mở pḥng mạch để hành nghề trong lănh vực này, thường các bác sỹ thu về rất nhiều lợi nhuận. Theo tiến sỹ Olshansky, hầu hết các loại bảo hiểm y tế đều không trả cho những loại chữa trị này, do đó khách hàng phải bỏ tiền túi ra chi, thường số tiền lên đến hàng ngàn, hay hàng chục ngàn đô la, một năm. Và trong thời buổi mà các bác sỹ ngày càng bị các công ty bảo hiểm hoặc hệ thống bảo hiểm y tế chính phủ hạn chế tiền chi trả, không ai ngạc nhiên khi các bác sỹ thuộc đủ mọi ngành, từ ngành cấp cứu đến quang tuyến, đều đổ xô sang “chống lăo hóa.” Làm sao để biết được bác sỹ chỉ đưa ra lời hứa hẹn hăo huyền? Sau đây là những hiểm nguy cho sức khỏe mà các vụ điều tra đă phát hiện: Trị liệu bằng kích thích tố (hormones), một vũ khí chính trong việc “trị liệu chống lăo hóa,” nhưng phương cách này chưa được chứng minh và đầy rủi ro cho sức khỏe. Theo bác sỹ Nanette Santoro, giám đốc ngành nội tiết sản khoa và hiếm muộn của trường y khoa Albert Einstein, tăng lượng kích thích tố nơi một phụ nữ tuổi 60 lên bằng với lượng ở tuổi đôi mươi rồi nghĩ là sẽ làm cho người đó trẻ lại th́ thật là quá đơn giản hóa vấn đề mà c̣n gây tai hại, v́ cơ thể con người không đơn giản như vậy. Sử dụng kích thích tố để trị liệu hết sức nguy hiểm v́ hầu hết các bác sỹ trong lănh vực “chống lăo hóa” không hề được huấn luyện về những loại kích thích tố gây tác dụng cực mạnh này. Bài viết của CNN nhắc đến lời nhận định của bác sỹ Thomas Perls, giáo sư y khoa và lăo khoa tại trườøng y của đại học Boston: “Trong toàn bộ ngành “chống lăo hóa” tôi chỉ mới gặp 1 bác sỹ thật sự có bằng chuyên khoa về nội tiết. Thật là đáng giận khi người ta (các bác sỹ ngành khác) nghĩ họ có thể kê toa cho bệnh nhân dùng các loại hormones kết hợp rất độc này.” Loại kích thích tố chính là HGH, human growth hormone, kích thích tố tăng trưởng của con người, theo tự nhiên, lượng HGH trong cơ thể sẽ giảm đi khi con người ngày càng lớn tuổi. Trị liệu bằng kích thích tố này kết hợp với một số các hóa chất khác mỗi năm tốn đến 12 ngàn đô la hay hơn, và các bác sỹ trị liệu tự cho là họ sẽ giúp thân chủ tiêu mỡ, tăng cơ bắp, tăng năng lực và hồi xuân. Nhưng theo bác sỹ Perls th́ không hề có một chứng minh khoa học nào như vậy, mà ngược lại có những cuộc nghiên cứu cho thấy trị liệu bằng HGH kèm thêm với các loại thuốc sẽ làm cho người ta dễ bị bệnh tim, ung thư, và tiểu đường, và gợi ư rằng HGH có thể là một yếu tố trong cái chết của bà Hanneke Hops. Trên thực tế, Cơ Quan Kiểm Soát Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ chỉ chấp thuận cho sử dụng HGH trong một trường hợp thật hiếm hoi quá thiếu kích thích tố này nơi người trưởng thành, c̣n sử dụng nó cho trị liệu chống lăo hóa là bất hợp pháp. Một loại khác nữa được sử dụng là kích thích tố nữ estrogen. Trong nhiều thập niên nhiều phụ nữ đă dùng loại estrogen tổng hợp với Progesterone để giúp giảm bớt những triệu chứng khó chịu thời kỳ măn kinh như bốc hỏa và khô trong người. Đến năm 2002, một cuộc nghiên cứu lâu năm đă phát hiện rằng sử dụng loại kích thích tố này dễ đưa đến t́nh trạng máu đóng cục, đột quị, bệnh tim và ung thư vú nên cách chữa trị đă bị đ́nh chỉ. Nhưng một số các bác sỹ ”chống lăo hóa” đă kê toa để các dược pḥng bào chế ra những viên thuốc tổng hợp các loại kích thích tố sinh học làm cho giới y khoa chính mạch hết sức lo ngại. Ngoài ra c̣n chẩn đoán mà các bác sỹ về “ chống lăo hóa” thường đưa ra gây lo ngại thêm cho giới y học ḍng chính như “thiếu kích thích tố tuyến thượng thận do quá nhiều áp lực đời sống “gây mệt mỏi và mất ngủ v..v”. Theo bác sỹ Perls, chỉ có các bác sỹ chuyên khoa về nội tiết, sau khi cho hàng loạt thử nghiệm, mới đủ thẩm quyền chẩn đoán là bệnh nhân có thiếu kích thích tố tuyến thượng thận hay không, c̣n hầu hết chẩn đoán do những bác sỹ ” chống lăo hóa” không có huấn luyện chuyên môn đưa ra đều không có cơ sở. Nhiều bác sỹ trong lănh vực này c̣n đặc chế các loại vitamin riêng của họ và quảng cáo rằng chúng giúp chống lăo hóa hiệu nghiệm hơn các loại mua ở tiệm thuốc tây. Họ bán với cái giá đắt khủng khiếp. Bác sỹ Perls đưa ra nhận xét hóm hỉnh “lợi nhuận mà những loại vitamin do các bác sỹ đó đặc chế đem về cao hơn là lợi nhuận mà các tay buôn lậu cocaine thu về.” Và thưa quí vị, những người trên 50 không thể đ̣i hỏi trẻ như tuổi đôi mươi, nhưng cái tin vui ở đây là có rất nhiều người trong lứa tuổi trung niên hay hơn, “lăo hóa theo phong cách tốt đẹp” (aging gracefully),” họ vẫn khỏe mạnh, sinh động, yêu đời, đẹp…lăo và ngay cả… sexy nữa. Theo các chuyên gia và các nhà nghiên cứu, lời khuyên hay nhất để giữ sức khỏe trong tiến tŕnh lăo hóa là duy tŕ trọng lượng cơ thể ở mức độ lành mạnh, năng vận động, sống điều độ, ăn uống những thực phẩm tươi tốt và đầy đủ dinh dưỡng, và nhất là không hút thuốc không nghiện rượu. Theo bác sỹ Goldstein, hai chất dinh dưỡng rất cần thiết cho cơ thể là calcium, 1.200 miligram, nguồn tốt nhất là từ thực phẩm, và 2.000 IU vitamin D, mỗi ngày. Ngoài ra, ở lứa tuổi trung niên trở ra, mọi người nên đi khám định kỳ với bác sỹ gia đ́nh và bác sỹ sản phụ khoa nếu là phụ nữ. Trên đây là những người giúp cho chúng ta một lối sống vui, sống khỏe, đường lối đă được chứng nghiệm lâu dài qua thời gian, tuy không có vẻ tối tân, cầu kỳ như trị liệu bằng kích thích tố hay những phương thuốc đặc biệt đắt giá, rồi kèm thêm với thể dục, thể thao, nó không làm hại cho túi tiền và sức khỏe của chúng ta như … kích thích tố HGH! |
Tập đoàn Coca-Cola thay đổi công thức v́ một chất tạo màu nghi gây ung thư
Tập đoàn Coca-Cola thay đổi công thức v́ một chất tạo màu nghi gây ung thư
UserPostedImage © AFP Thụy My Tập đoàn Mỹ Coca-Cola đă buộc ḷng phải thay đổi công thức huyền thoại của thức uống nổi tiếng Coca-Cola để phù hợp với luật lệ của California, v́ một chất tạo màu caramel bị xem là có tiềm năng gây ung thư. Coca-Cola và đối thủ cạnh tranh là Pepsi đều trấn an người tiêu dùng là mùi vị các loại nước giải khát này không thay đổi. Cũng tương tự như Pepsi, Coca-Cola phải thay đổi như trên để tránh việc phải cho in lên bao b́ tại California thông tin cảnh báo về sự hiện diện của chất 4-méthylimidazole (4-MEI). Đây là một chất tạo màu caramel có nguồn gốc từ ammoniac và sulfite, khi thử nghiệm với súc vật trong pḥng thí nghiệm đă cho thấy nếu hấp thu với lượng lớn sẽ gây ung thư. Coca-Cola vốn duy tŕ huyền thoại xưa nay về công thức pha chế loại nước giải khát nổi tiếng có từ hàng trăm năm qua, được cất kỹ trong một tủ sắt, đă cho biết thức uống này là vô hại, và mùi vị của Coca-Cola vẫn được giữ nguyên. Ben Sheidler, một trong các phát ngôn viên của tập đoàn tuyên bố : « Chúng tôi không hề thay đổi ǵ cả, từ phương pháp sản xuất cho đến công thức pha chế. Chúng tôi sẽ yêu cầu các nhà cung cấp caramel giảm tỉ lệ chất 4-MEI xuống, cho phù hợp với quy định của tiểu bang California ». Điều này cũng sẽ được áp dụng trên toàn nước Mỹ, tuy Coca-Cola hiện chưa thể xác định được ngày tháng cụ thể. Tương tự, tập đoàn Pepsi cũng khẳng định là loại nước giải khát của ḿnh « đang và sẽ luôn luôn là thức uống sạch cho người tiêu dùng ». Trong thông cáo, Pepsi cho biết : « Người tiêu thụ sẽ không nhận thấy bất cứ một sự khác biệt nào trong sản phẩm của chúng tôi, và không có lư do ǵ để phải lo lắng về bất kỳ vấn đề ǵ về sức khỏe. Không có một bằng chứng khoa học nào cho thấy chất 4-MEI sử dụng trong thực phẩm là một mối đe dọa cho sức khỏe con người ». Chất 4-MEI cũng hiện diện trong các loại nước soda khác, bia và nước tương, là một chất được nh́n nhận là gây ung thư cho loài vật, nhưng c̣n đối với con người th́ vẫn là chủ đề đang được tranh căi. Hiệp hội Nước giải khát Hoa Kỳ (ABA) cho rằng khả năng gây ung thư chỉ mới được công nhận qua một công tŕnh nghiên cứu trên loài chuột, các cơ quan an toàn thực phẩm Mỹ (FDA), Canada và châu Âu (EFSA) vẫn chưa cấm sử dụng, và chưa quy định ngưỡng tối đa cho các sản phẩm tiêu dùng. Thông cáo của ABA nhận định : « Trên thực tế, các cơ quan trên đây coi chất tạo màu caramel sử dụng trong thực phẩm là không nguy hiểm ». Hiệp hội đại diện cho các nhà sản xuất nước giải khát nói rằng cần phải tiêu thụ đến 2.900 lon nước ngọt một ngày, trong ṿng 70 năm, th́ mới đạt đến ngưỡng mà loài chuột đă mắc phải nguy cơ ung thư trong các thí nghiệm trên. Nhưng tiểu bang California đă áp dụng nguyên tắc pḥng ngừa nghiêm ngặt. Một đạo luật được thông qua vào năm 1986 buộc phải bảo vệ người tiêu thụ đối với « các sản phẩm hóa học gây ung thư, gây quái thai hoặc vô sinh », và phải « thông báo cho người tiêu thụ biết các nguy cơ ẩn chứa ». Tháng 12/2011, tiểu bang này đă ghi thêm chất 4-MEI vào danh sách các sản phẩm gây ung thư. California ấn định tỉ lệ tối đa của chất 4-MEI là 29 microgram cho mỗi sản phẩm tiêu thụ. Theo một công tŕnh nghiên cứu mới đây tại Washington do hiệp hội người tiêu dùng CSPI (Center for Science in the Public Interest) thực hiện, th́ một lon nước ngọt Coca hay Pepsi chứa từ 103 đến 153 microgram chất này. Michael Jacobson, giám đốc CSPI tuyên bố : « Coca-Cola và Pepsi luôn khẳng định là tỉ lệ chất tạo màu này không có nguy cơ ǵ cho sức khỏe. Họ chỉ t́m cách giữ thể diện mà thôi. Từ hai, ba năm qua họ đă kiện tiểu bang California ra ṭa, nhưng họ đă không thuyết phục được ṭa án và đă thua cuộc ». Hiệp hội CSPI đă kiến nghị lên FDA để chất 4-MEI được xếp vào danh sách các chất gây ung thư. Ông Jacobson nói : « Vấn đề hiện nay là biết được đến bao giờ th́ Pepsi và Coca sẽ tiến hành các thay đổi này, không chỉ tại California mà c̣n trên toàn thế giới ? ». |
Kéo dài tuổi thọ nhờ ăn nho cả vỏ
1 Attachment(s)
Kéo dài tuổi thọ nhờ ăn nho cả vỏ
UserPostedImage Một nghiên cứu của Đại học Harvard cho thấy chất resveratrol tồn tại trong vỏ nho có tác dụng rất tốt trong việc chống lăo hóa cho con người. Resveratrol không những chứa chất chống oxy hóa mà c̣n có thể pḥng tránh được các bệnh tim mạch và các bệnh ung thư. Một cuộc điều tra của Tổ chức y tế Thế giới cho thấy rằng, mặc dù người Pháp rất yêu thích các loại bơ nhưng tỉ lệ mắc bệnh tim mạch vành và tỉ lệ tử vong v́ căn bệnh này của người Pháp vẫn thấp hơn ở những quốc gia phương Tây khác. Các chuyên gia cho rằng điều này có thể liên quan đến việc người Pháp thường xuyên uống các loại rượu vang. Vỏ nho, đặc biệt là vỏ nho tím c̣n chứa chất flavonoids giúp giảm huyết áp, thúc đẩy lipoprotein mật độ cao trong máu tăng lên, làm giảm lượng cholesterol có hại, bảo vệ tim mạch. Ngoài ra, cellulose, pectin và sắt có trong vỏ nho có thể bù đắp dinh dưỡng trong chế độ ăn hiện nay. Các chuyên gia khuyên rằng, nên ăn nho cả quả cùng với vỏ và hạt, cơ thể sẽ hấp thu được nhiều chất dinh dưỡng hơn. Các chuyên gia dinh dưỡng đă t́m thấy resveratrol trong 72 loại thực phẩm như đậu phông, dâu tằm... nhưng lượng resveratrol trong vỏ nho là cao nhất. Tuy nhiên, nho lại không phải là loại trái cây nên ăn hàng ngày mặc dù nó chứa giá trị dinh dưỡng cao. (theo vietnamplus) |
TẤT CẢ NHỮNG G̀ BẠN MUỐN BIẾT VỀ eggs
1 Attachment(s)
TẤT CẢ NHỮNG G̀ BẠN MUỐN BIẾT VỀ
QUẢ TRỨNG Không có món ăn nào quen thuộc với mọi gia đ́nh hơn quả trứng. Thế nhưng có rất nhiều điều bạn chưa biết về quả trứng! TRỨNG BỔ DƯỠNG NHƯ THẾ NÀO? Khi ta ăn một miếng thịt luộc hay rô ti, th́ đó chỉ là một phần thịt heo, ḅ… với vài chục dưỡng chất mà chủ yếu là các acid amin… C̣n lại các chất khoáng cần cho xương cốt th́ ở phần xương; các sinh tố ở gan, ḷng; gelatin cần cho da th́ ở da; keratin cần cho lông tóc lại ở sừng ḅ… mà ta không thể ăn được. Ngược lại, khi ta ăn một quả trứng th́ ta hưởng được trọn vẹn hơn 60 dưỡng chất trong quả trứng, mà nếu để ấp sau 21 ngày sẽ nở ra một cá thể gà hay vịt con có đủ da, thịt, xương, lông, cánh… không dư không thiếu một chất nào. Tính bổ dưỡng toàn phần này được chứng minh bằng giá trị sinh học của trứng, nghĩa là lấy lượng nitrogen của protein tăng cân (sinh cơ) chia cho lượng nitrogen của protein trứng được ăn vào sẽ có tỉ số bằng 1, tức là ăn bao nhiêu protein của trứng vào th́ sẽ biến bấy nhiêu thành protein cơ thể. Lấy tỉ số này nhân với 100 ta sẽ có giá trị sinh học của trứng là 100, trong khi của các thực phẩm khác luôn thấp hơn. Protein của trứng hoàn hảo như vậy nên được gọi là protein lư tưởng. Lưu ư trứng ở đây là trứng gà, vịt, cút… ăn cả ḷng trắng và ḷng đỏ th́ mới đạt hiệu quả toàn vẹn được. Để thấy rơ tính chất bổ dưỡng của trứng, người ta phân tích thành phần acid amin trong protein trứng. Chất lượng này được dựa trên sự dồi dào và cân bằng của các acid amin thiết yếu trong protein trứng. Bảng 1 cho ta thấy hàm lượng protein cũng như các acid amin thiết yếu trong trứng rất giàu và có tỉ lệ cân bằng như trong cơ thể con người. Trứng rất giàu sinh tố và khoáng chất mà trên 70% chúng nằm ở ḷng đỏ (2 quả trứng gà hay vịt hoặc 10 trứng chim cút đủ cung cấp trên 50% nhu cầu các sinh tố và khoáng chất thiết yếu cho cơ thể người lớn trong ngày). TRỨNG GÀ, TRỨNG VỊT, TRỨNG CÚT, TRỨNG LỘN, TRỨNG MUỐI, TRỨNG VỮA… TRỨNG NÀO BỔ HƠN? Theo nguyên tắc chung: trứng vịt bổ hơn trứng gà v́ nó vừa to vừa cùng giá tiền với trứng gà. Hơn nữa vịt thường được thả rong hay lùa đi ăn ngoài đồng nên trứng vịt có nhiều chất bổ dưỡng hơn gà công nghiệp, tuy về mặt cảm quan, trứng gà sạch sẽ hơn và ít tanh hơn trứng vịt (gà đẻ trong chuồng khô sạch; vịt đẻ dưới đất bẩn). Ngoài ra, Vịt thuộc nhóm chim chân màng (vịt, ngỗng, le le, thiên nga) mỡ của nó chứa nhiều acid béo omega-3 có lợi cho tim mạch hơn mỡ gà. Trứng chim cút bổ nhất v́ 50% là ḷng đỏ, trong khi trứng gà, vịt chỉ có 35-40% là ḷng đỏ. - Trứng càng tươi càng tốt (ở các nước người ta thường ghi ngày đẻ trên mỗi quả trứng), trứng để quá một tuần th́ kém chất lượng hơn. Ở Pháp, trứng đă ấp sau 7-10 ngày loại ra chỉ được dùng làm thức ăn gia súc nói ǵ đến trứng vữa, trứng ung! - Trứng lộn th́ bổ hơn v́ đă biến thành phôi dễ tiêu hóa hấp thu, nhưng đôi khi nó dễ gây dị ứng đối với trẻ con dưới 6 tuổi hơn trứng tươi. - Trứng muối th́ ăn được nhưng không bổ dưỡng mấy v́ protein đă bị biến chất, sinh tố bị hủy gần hết và mặn không dùng được nhiều. - Trứng vữa, trứng ung th́ không nên dùng v́ protein đă bị biến chất, hơi có độc v́ lưu huỳnh trong trứng đă biến thành sulfur hidrogen (mùi trứng thối). Tuy vậy dân nhậu lại thích trứng ung, trứng vữa mà mới đây người ta chứng minh rằng, một H2S hữu cơ lại có tính làm tăng NO giống như Viagra! - Trứng bách thảo cũng bị biến chất, sinh tố bị giảm nhiều, dùng để ăn chơi lấy hương vị… ĂN TRỨNG CÓ BỊ TĂNG CHOLESTEROL KHÔNG ? Bảng cholesterol trong 100g thực phẩm: Nghêu: 454 mg Cật heo: 410 mg Gan heo: 368 mg Mực ống: 348 mg Cật ḅ: 340 mg Gan ḅ: 323 mg Oc heo: 310 mg Trứng: 266 mg Mực tươi: 265 mg Bơ, mỡ ḅ: 260 mg Tôm hùm: 200 mg Thịt bê: 173 mg Lạp xưởng: 150 mg Kem (cream)140 mg Thịt ḅ nạc: 125 mg Phô mai: 100 mg Ḷng trắng trứng: 0 Dầu thực vật: 0 Rau quả tươi: 0 Theo bảng 3, trứng không phải là thực phẩm giàu cholesterol lắm. Tuy cholesterol chỉ tập trung ở ḷng đỏ trứng, nhưng đây là "cholesterol tốt". Có 2 nhóm cholesterol chính: (red)-HDL-C(High-Density Lipoprotein cholesterol), cholesterol tỉ trọng cao, c̣n gọi là cholesterol tốt và VHDL-C (Cholesterol tỉ trọng rất cao), -LDL-C (Low-Density Lipoprotein cholesterol) c̣n gọi cholesterol tỉ trọng thấp, cholesterol xấu và VLDL-C... (red) Cholesterol trong ḷng đỏ trứng nhờ kết nối với glycerol, cholin, phosphor và các acid béo nhiều nối đôi trong phức hợp gọi là lecithin. Lecithin có đặc tính nhũ tương hóa rất mạnh giúp chất béo ḥa tan được trong nước (máu) nên cholesterol ḥa vào máu đi đến những chỗ tế bào bị hư hại để sửa chữa lại, nhờ vậy mà cơ thể không bị tổn thương; lượng cholesterol dư thừa lại được dưa về gan sử dụng tạo ra muối mật và các nội tiết tố điều hành cơ thể. Cholesterol như vậy là rất cần thiết cho cơ thể, kể cả cho việc sinh sản tế bào. Đối với trẻ con đang lớn và người lớn đang đang phát triển khối cơ như các vận động viên, nhất là vận động viên thể dục thể h́nh, cần tăng nhanh tế bào cơ th́ không thể thiếu cholesterol được. Người b́nh thường và ngay cả người già yếu, cao tuổi vẫn cần cholesterol hàng ngày cho việc sửa chữa tế bào hư hại. Thật ra cholesterol do thực phẩm ăn vào (gọi là cholesterol ngoại sinh) chiếm tỉ lệ không nhiều. Thường người bị cholesterol máu cao là do cholesterol nội sinh, do gan tạo ra từ thực phẩm giàu acid béo no (không nối đôi, trong mỡ ḅ, bơ, dầu dừa, dầu cọ, dầu hidrogen hóa như margarin, shortening) và do ta ăn uống không đúng cách (thiếu rau quả tươi, thiếu cholin và các chất hướng mỡ khác), thiếu vận động… Nói chung cholesterol từ trứng không những vô hại mà c̣n tốt cho cơ thể v́ lecithin làm tăng HDL-C và cholesterol nằm trong công thức lecithin được gọi là chất hướng mỡ (lipotropic) giúp cơ thể biến dưỡng chất béo tốt hơn, thuận lợi cho sức khỏe. (Chính tác giả, trong 40 năm nay gần như ngày nào cũng ăn 1 quả trứng luộc (trung b́nh tuần 5 trứng) mà khi thử máu (lipidogramme) mỗi năm 1 lần, lúc nào lipid máu, cholesterol máu cũng ở trị số normal) MỖI NGÀY ĂN ĐƯỢC BAO NHIÊU TRỨNG ? Theo thống kê hàng năm (World Almanac), trung b́nh mỗi người Mỹ tiêu thụ 300 quả trứng/năm, người Pháp 280 trứng. Nếu muốn có đủ lecithin th́ mỗi ngày phải ăn 3 trứng mới đủ cho nhu cầu cơ thể. Nhưng v́ ngũ cốc, nhất là đậu mè cũng có lecithin nên mỗi ngày ta nên ăn 1 trứng là vừa. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyên dùng từ 5 trứng mỗi tuần. Đối với các vận động viên có thể dùng gấp đôi hay hơn số lượng trên (2-3 trứng mỗi ngày). NÊN ĂN TRỨNG SỐNG HAY TRỨNG CHÍN? L̉NG TRẮNG HAY L̉NG ĐỎ? Cơ thể ta không thể tiêu hóa được ḷng trắng trứng sống, ngoài ra nó c̣n chứa chất avidin, ăn sống vào sẽ kết hợp với biotin làm hại sinh tố này. Ngoài ra, ḷng trắng trứng sống c̣n có thể bị nhiễm khuẩn. Do đó ta nên luộc trứng để dùng là tốt nhất. Trứng luộc chín (cả ḷng trắng lẫn ḍng đỏ) hoặc trứng la cót (luộc cho ḷng trắng trứng vừa chín mà ḷng đỏ c̣n mềm) đều bổ dưỡng giống nhau và là cách ăn trứng tốt nhất. Trứng tráng (omelet), trứng ốp la (tráng ḷng trắng chín mà ḷng đỏ c̣n mềm) cũng được nhưng hai cách này đều có thêm nhiều dầu mỡ không tốt bằng luộc. Không nên ăn trứng sống, hoặc nếu có th́ chỉ dùng ḷng đỏ trong các ly "sô đa hột gà sữa" hoặc "sô đa hột gà cam đường" nhưng phải dùng trứng thật tươi và lấy ḷng đỏ cẩn thận tránh nhiễm trùng từ vỏ trứng. Từ tháng 8 đến tháng 2 dương lịch năm sau không nên ăn trứng sống kiểu trên để ngừa cúm gà. SỮA GÀ MÁI CÓ TỐT KHÔNG? "Sữa gà mái": đập 1-2 quả trứng gà thật tươi vào một ly lớn, đánh tan đều với ít đường hay mật ong rồi chế nước đang sôi vào (nước phải thật sôi và tối thiểu 200 ml mới làm chín trứng) khuấy đều, ta sẽ có 1 ly trắng đục như sữa nên gọi là sữa gà mái, người lớn tuổi dùng cho bữa điểm tâm, rất bổ dương. Người sợ lên cân cũng có thể điểm tâm bằng sữa gà mái. Mỗi tuần có thể dùng vài ba ly sữa gà mái này nghĩa là không quá 5 trứng/tuần. TRỨNG NGÂM GIẤM TRỊ ĐƯỢC BỆNH G̀? Có người chế ra kiểu ăn lạ: trứng gà mới đẻ, rửa sạch, rồi dùng g̣n thấm cồn 70 lau sạch, để nguyên vỏ, sắp đầy vào keo lọ rồi đổ giấm thật chua vào cho ngập trứng, để yên trong 10 ngày. Giấm (acid acetic) sẽ làm tan vỏ trứng, (biến carbonat calcium vỏ trứng thành acetat calcium tan trong nước), khuấy đều rồi để dành dùng dần, mỗi ngày tương ứng với vài ba muỗng canh (½ -1 trứng). Có thể thêm một ít mật ong khi dùng. Dùng trứng cách này có thể hưởng được hết các chất khoáng và vi chất dinh dưỡng khác trong vỏ trứng (xem bảng 6), bổ túc dưỡng chất mỗi ngày cũng tốt nhưng một số sinh tố sẽ bị giấm làm hư. Theo kinh nghiệm dân gian th́ trứng gà ngâm giấm trị được nhiều bệnh, nhưng theo chúng tôi đây chỉ là thức ăn bổ sung hoặc được coi như thuốc bổ tổng quát mà thôi. D́mg trứng gà ngâm giấm ở mức độ mỗi ngày vài muỗng canh cũng có cái tốt khác là nếu dùng trong bữa ăn th́ giấm cũng giúp cho một số khoáng có hóa trị 2 thành dạng cation như Ca++, Zn++, Fe++ … dễ hấp thu hơn. TẠI SAO NGƯỜI TA ĐỒN RẰNG CÁC VẬN ĐỘNG VIÊN THỂ DỤC THỂ H̀NH CHỈ ĂN TOÀN L̉NG TRẮNG TRỨNG VÀ BỎ HẾT L̉NG ĐỎ? Hầu hết chất bổ dưỡng đều nằm trong ḷng đỏ trứng.Ḷng trắng chỉ có chất đạm (albumin) và mặc dù chất đạm này không chứa cholesterol, không chứa chất béo, nhưng nếu tách riêng ḷng trắng ra th́ chất đạm của nó không c̣n hoàn hảo nữa. Mặc dù các vận động viên thể h́nh Mỹ đều được các “chuyên gia” của họ khuyên nên dùng ḷng trắng không thôi (chế độ tiết thực trước lúc thi đấu để giảm cân: Vận động viên Jay Cutler ăn 26 ḷng trắng trứng mỗi ngày, Eddie Robinson 27-34 ḷng trắng/ngày, Dennis Newman 21 ḷng trắng/ngày, Laura Creavalle 6 ḷng trắng/ngày…) nhưng đó là chế độ tiết thực của người Mỹ để giảm mỡ, tăng cơ. Người Mỹ v́ đă ăn quá nhiều thịt cá, trứng, sữa, bơ, mỡ như thống kê nói trên nên họ mới (red)dùng ḷng trắng trứng như là cách để giảm chất béo và giảm cholesterol(red). Vă lại ḷng trắng trứng là thứ rẻ tiền nhất lại đễ t́m khi đi thi đấu ở xứ khác (ở Mỹ người ta dùng ḷng đỏ sấy khô làm lecithin để bán như dược phẩm hoặc thực phẩm bổ sung cho người già (để tăng trí nhớ), người cao huyết áp; c̣n ḷng trắng đóng hộp bán riêng rất rẻ), dễ chế biến nhất nên họ dùng trong những ngày bận rội cho việc chuẩn bị thi đấu mà thôi (thường là 2 trứng nguyên + 6-10 ḷng trắng cho một bữa điểm tâm với ít bánh ḿ và rau). Trong hoàn cảnh nước ta, các VĐV thể h́nh đang thiếu dinh dưỡng, việc dùng trứng cả ḷng đỏ là nguồn thực phẩm chẳng những bổ dưỡng mà c̣n rất cần thiết cho việc tăng khối cơ (2-4 trứng cả ḷng trắng và ḷng đỏ/ngày là rất tốt trong thời gian tập luyện thể h́nh. Lượng cholesterol trong ḷng đỏ không nhiều mà lại c̣n cần thiết để phát triển tế bào cơ bắp. Vă lại, người thực hành thể dục thể thao tự nó làm cho cholesterol máu thấp dù họ có ăn nhiều cholesterol trong trứng. Thay v́ chỉ dùng ḷng trắng trứng, các vận động viên thể dục thể h́nh có thể dùng 2 quả trứng gà vịt hoặc 10 trứng cút nguyên và 300g cá mỗi ngày th́ tốt hơn và kinh tế hơn. ĂN TRỨNG CÓ HẠI GAN KHÔNG? Ngày xưa, khi khoa học c̣n sơ khai, người ta thí nghiệm bằng cách lấy ḷng trắng trứng tiêm vào da thỏ th́ thấy da thỏ bị phù, nổi mẩn ngứa nên cho rằng trứng gây dị ứng. Và v́ thời đó cho dị ứng là do yếu gan nên qui cho trứng là không tốt đối với gan. Gần đây, ở thập niên 1960 trở về trước, các hiểu biết về cholesterol chưa rơ ràng nên thấy ḷng đỏ trứng chứa nhiều cholesterol th́ cho là trứng không tốt. Thật ra từ đầu thập niên 80 đến nay người ta đă chứng minh (red)cholesterol của trứng là cholesterol tốt và trứng chẳng những không hại gan mà c̣n có lợi cho gan nữa v́ cholin bảo vệ gan. Thật vậy, với thành phần acid amin cân bằng và giá trị sinh học cao nhất trong các thực phẩm (bảng 1 và 2), th́ trứng tốt cho gan. Protein trứng giàu methionin và lecithin là chất bảo vệ gan, giải độc gan mà Tây y dùng làm thuốc Methionin cho bệnh nhân đau gan. Cholin rất giàu trong ḷng đỏ trứng là chất hướng mỡ giúp gan biến dưỡng chất béo dễ dàng hơn tránh t́nh trạng gan nhiễm mỡ (red) (thuốc tây có viên Sulfarlem-choline là thuốc trợ gan nổi tiếng một thời)… Gan cũng biến cholin thành acetylcholin là chất dẫn truyền thần kinh quan trọng trong hoạt động của hệ thần kinh cũng như làm tăng trí nhớ của chúng ta. Ngoài ra (red)các sinh tố trong ḷng đỏ trứng cũng giúp gan làm việc tốt hơn(red).Khoa học ngày càng tiến bộ, giúp chúng ta rất nhiều điều, nhưng hiểu biết của mỗi người có giới hạn nhưng họ lại biến nó thành định kiến, truyền đi, truyền lại cho nên mới có sự hiểu lầm đáng tiếc nêu trên! ĂN TRỨNG CÓ NÓNG KHÔNG? CÓ KHÓ TIÊU KHÔNG? Cảm giác nóng hay mát đối với một thức ăn c̣n rất mơ hồ. Nếu người nội trợ ít khi đi chợ, chỉ mua trứng về để dành rồi ngày nào cũng trứng, hết trứng luộc dằm nước mắm, đến trứng chiên, trứng tráng, trứng ốp la… th́ trứng nóng thiệt nhưng nóng v́ thiếu rau quả tươi, v́ thực phẩm không đa dạng, nóng v́ nhiều dầu mỡ chiên trứng chứ không phải v́ trứng. Bản thân trứng đă có nhiều chất béo (trứng gà chứa 11% và trứng vịt 14% chất béo), nếu c̣n chiên rán, ốp la th́ c̣n thêm nhiều dầu mỡ hơn nữa nên ăn vào có cảm giác no lâu chứ không phải nóng. V́ thức ăn có nhiều chất béo sẽ lưu lại ở dạ dày lâu hơn thức ăn không béo chứ không phải là khó tiêu. Ngoài ra, chất bổ nào cũng vậy, khả năng dung nhận của cơ thể mỗi người đều có giới hạn nhất định. Có người ăn một lúc 3-4 trứng không sao nhưng có người ăn 1 trứng đă thấy khó chịu, nhưng đôi khi cũng do thành kiến hay định kiến chứ chưa hẵn như vậy. Chỉ có đối với người nào có cơ địa dị ứng với trứng (ăn trứng vào th́ bị ngứa ngáy, nổi mề đay mới cử trứng mà thôi. Một số trẻ con dưới 3 tuổi v́ chức năng gan chưa ḥan chỉnh, ăn trứng có thể dễ bị dị ứng, nhưng sau 5-6 tuổi th́ ăn không bị ǵ nữa. Tóm lại, trứng gà, vịt, cút là thực phẩm rất cân bằng dưỡng chất, cần thiết cho mọi lứa tuổi, mọi đối tượng, nhất là trẻ con, vận động viên và học sinh, sinh viên, người lao động trí óc và cả phụ nữ có thai, cho con bú nữa, rất cần trứng. Nếu dùng thường xuyên th́ mỗi ngày nên ăn 1 trứng và 5 ngày mỗi tuần là rất tốt. Phụ nữ mang thai nên ăn mỗi ngày 1 trứng (5 ngày/tuần) th́ năo bộ bào thai phát triển rất tốt, sau này bé sẽ thông minh hơn con các bà mẹ không ăn trứng. THẾ NÀO LÀ TRỨNG TƯƠI ? Điều hiển nhiên là trứng càng tươi càng tốt về mặt dinh dưỡng. Trên thị trường thế giới, trứng gà, vịt được gói trong một tờ giấy xốp, trên đó có ghi “trứng tươi” (frais), “trứng thật tươi” (extra-frais), thậm chí c̣n ghi ngày gà đẻ trên trứng (pond le…) và được xác nhận của hiệp hội chăn nuôi nữa; trứng này thuộc loại tươi hơn hết. Cũng c̣n có sự phân biệt trứng gà thả rong, gà nuôi trong sân (và không ghi ǵ cả là gà nhốt chuồng)...Thật ra các nhà nghiên cứu cũng đă xác nhận rằng thành phần dưỡng chất trong trứng không những suy giảm theo thời gian tồn trữ, cách bảo quản mà c̣n thay đổi tùy theo giống gà, thức ăn mà gà đẻ đang ăn và tuổi của gà mái... Về mặt trứng tươi, có thể giữ được dưỡng chất nguyên vẹn hoặc gần nguyên vẹn trong nhiều tháng nếu vỏ trứng c̣n nguyên vẹn (chẳng những không bể nứt mà c̣n không được chùi rửa mất lớp phấn nhầy bảo vệ tự nhiên của nó) và được giữ mát ở 12 – 15¬¬¬¬oC kể từ lúc gà vừa đẻ ra. Với hai điều kiện trên chỉ có những trại gà đại công nghiệp mới đáp ứng được. Ơ Pháp muốn được gọi là trứng ghi ngày có xác nhận (daté approuvé) phải có một hợp đồng kư giữa nhà chăn nuôi, người phân phối và hội người tiêu dùng, trong đó gà mái được nuôi với ít nhất là 65% ngũ cốc (chủ yếu là bắp để ḷng đỏ trứng có màu đỏ cam), trứng được vô bao b́ và chuyển tới tiệm buôn chậm nhất là 36 giờ kể từ lúc gà đẻ và bảo quản ở dưới 18oC. Ta biết rằng trứng gà mới đẻ luôn có một lớp màng bảo vệ để giữ cho từ 1.000 – 15.000 lổ nhỏ li ti quanh mỗi vỏ trứng được thông khí qua lại, đáp ứng sự hô hấp của trứng nhưng không cho vi trùng xâm nhập. Để đáp ứng điều này, lớp nhầy bên ngoài và bên trong trứng c̣n có chất kháng sinh tự nhiên (lysozym) nữa. Lúc trứng mới đẻ, buồng khí ở đầu to của trứng rất nhỏ, dưới 2 mm vuông, trứng rất tươi 4mm, trứng tươi 6mm và từ 9mm trở lên là trứng đă để lâu (tiêu chuẩn ở Pháp). (red) Trứng mới đẻ th́ khi đập vỡ nhẹ ta tách ḷng đỏ khỏi ḷng trắng dễ dàng, và dây treo ḷng đỏ ở hai đầu trứng rất xoắn. Khi để lâu, có sự thoát khí carbonic ra ngoài nên khiến ḷng trắng trở nên kiềm (trứng mới pH = 7,4), có thể lên pH = 9, khiến ḷng trắng bị nhăo mềm hơn. Do đó ở Mỹ người ta dùng tiêu chuẩn này để đánh giá độ tươi của trứng. Đập vỡ trứng nhẹ nhàng và để khối trứng không vỏ trên mặt phẳng nằm ngang và đo chiều cao chỗ ḷng trắng phía đầu lớn (chỗ mũi tên trong h́nh). Ḷng trắng mềm c̣n do sự rút nước từ ḷng đỏ và làm hư hủy màng ngoài của ḷng đỏ khiến nó dính chặt vào ḷng trắng hơn (khó tách ra). Gà mái già cũng cho trứng có chiều cao ḷng trắng thấp. Thật ra giá trị của trứng ngày nay c̣n được các nhà chăn nuôi tiên tiến điều chỉnh sao cho có nhiều sinh tố A, D, E, K nữa. Trứng đă ấp sau 6 ngày sẽ được soi qua máy chiếu để loại trứng ung, trứng không có c̣i. Ngày trước, những trứng ung sau 13 ngày ấp được chuyển qua làm bánh kẹo, kem hay sản phẩm có trứng, sữa. Nhưng nay các nước tiên tiến chỉ dùng trứng ung ấy làm thức ăn gia súc v́ phát hiện có những chất độc có hại cho sức khỏe. Ơ Mỹ và Canada trứng ung bị cấm sử dụng làm thực phẩm cho người từ lâu v́ người ta t́m thấy trong trứng ung có chất acid lactic (không độc) và acid succinic làm chuột chết với liều 8mg/kg, và acid beta hydroxybutyric. Do đó luật lệ ở Mỹ và Pháp sẽ xử phạt các sản phẩm có chứa quá 0,3mg acid beta hydroxybutyric/kg trứng. Để tránh sự thiệt hại kinh tế này, các nhà ấp trứng sử dụng loại máy soi để loại trứng không có c̣i ra vào ngày thứ 6 sau khi ấp trứng để acid beta hydroxybutyric chưa vượt tiêu chuẩn trên.. ĂN TRỨNG CÓ NGUY CƠ CAO BỊ LÂY CÚM GIA CẦM KHÔNG ? Thông thường khi gà vịt bị bệnh dịch th́ chúng không đẻ được. Nhưng nếu siêu vi khuẩn cúm gia cầm từ những con khác gần đó có truyền sang trứng th́ siêu vi cũng sẽ bị chết sau 12 giờ, v́ ngoài vỏ trứng luôn có chất nhầy bảo vệ có tính diệt khuẩn. Mặt khác, (red)nếu con gia cầm bị toi mà ráng đẻ được trứng sau cùng th́ trứng này có thể bị nhiễm siêu vi. Thế nhưng số ít siêu vi ấy dù có ở bên trong quả trứng th́ cũng sẽ nhanh chóng bị ḷng trắng có tính kháng sinh hủy diệt và nếu không bị diệt th́ không sinh sôi phát triển được v́ tế bào trứng chưa hoạt động. Chúng ta biết rằng trứng gà vịt khi chưa ấp th́ tế bào chưa hoạt động. Mà đa dố trứng gà đều không có trống, có nghĩa là nó là cái noản chứ không phải là tế bào. Siêu vi khuẩn là những tế bào chưa hoàn chỉnh, chúng không thể tự sinh sản được mà chúng chỉ thâm nhập vào tế bào sống và bắt tế bào ấy làm cái máy sinh sản giúp ra các thế hệ sau của siêu vi. Như vậy chỉ ở các trứng được ấp th́ siêu vi nếu có bên trong trứng mới sinh sản được mà thôi . Thế nhưng (red)người ta chỉ ăn trứng lộn sau khi được luộc chín th́ siêu vi nếu có cũng không c̣n. Do đó cơ hội bị lây siêu vi cúm gia cầm qua việc dùng trứng là rất hi hữu. Sưu tầm trên net . |
BS Nguyễn Trần Hoàng nói về sức khỏe người cao niên
1 Attachment(s)
BS Nguyễn Trần Hoàng nói về sức khỏe người cao niên
Wednesday, June 06, 2012 7:37:44 PM WESTMINSTER (NV) - Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng vừa có một buổi nói chuyện với đề tài “Một số vấn đề sức khỏe thường gặp ở người lớn tuổi” tại Viện Việt Học, Westminster, hôm Chủ Nhật. UserPostedImage Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng nói chuyện về sức khỏe của người cao niên tại Viện Việt Học, Westminster. (H́nh: Đỗ Dzũng/Người Việt) Theo bác sĩ, dù là bác sĩ gia đ́nh, nhưng ông lại rất quan tâm đến người cao niên, nhất là vấn đề tâm lư. “Tâm lư người bệnh, nhất là người cao niên, rất quan trọng,” Bác Sĩ Hoàng nói với cử tọa. “Những vấn đề của người cao niên, và cả trung niên nữa, ví dụ như bệnh cao huyết áp, ung thư, té ngă, tai biến mạch máu năo (stroke), đều rất đáng quan tâm. Và để những căn bệnh này không hành hạ chúng ta, bệnh nhân phải biết bí quyết sống, và sống khỏe. Đó là ‘viên thuốc thần’ cho sức khỏe.” Cao huyết áp Theo Bác Sĩ Hoàng, trong số 50 triệu người bị bệnh cao huyết áp tại Hoa Kỳ, “chỉ có 34% được chăm sóc đủ để mức huyết áp trở lại mức b́nh thường”. “Trong khi đó, cao huyết áp là một trong những nguy cơ chính dẫn tới tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim, suy tim và suy thận,” bác sĩ cho biết. “Nếu điều trị cao huyết áp, tai biến mạch máu năo sẽ giảm từ 30 đến 40%, nhồi máu cơ tim sẽ giảm từ 20 đến 25%, suy tim giảm trên 50% và suy thận cũng giảm.” Không chỉ chữa bệnh, mà thay đổi lối sống cũng là điều cần thiết để giảm cao huyết áp. Bác Sĩ Hoàng khuyên: “Giảm cân để cơ thể có chỉ số BMI (Body Mass Index) vừa phải, ở mức 18.5, là điều rất cần thiết. Thêm vào đó, phải ăn nhiều trái cây, rau, sữa ít béo, ăn ít chất béo và chất béo băo ḥa, giảm muối, tập thể dục 30 phút/ngày. Nếu có uống rượu th́ uống vừa phải, và tránh thuốc lá.” Huyết áp giảm là nhờ thuốc, không nên tự động ngừng thuốc khi thấy huyết áp không c̣n cao, và cần phải phối hợp với bác sĩ và phải chú ư bệnh t́nh thường xuyên, Bác Sĩ Hoàng cho biết thêm. Ung thư Đối với căn bệnh ung thư, Bác Sĩ Hoàng cho biết: “Không phải ung thư nào cũng giống nhau. Đây là nguyên nhân gây chết đứng hàng thứ hai ở Hoa Kỳ. Thống kê cho thấy, phân nửa đàn ông và 1/3 đàn bà bị ung thư trong cuộc đời.” Và để giảm bớt sự phát triển của ung thư, “chúng ta phải thay đổi cách sống, như là ngưng hút thuốc, ăn uống đúng cách, và ung thư được phát hiện càng sớm th́ khả năng chữa khỏi càng cao”, theo bác sĩ cho biết. Ngoài ra, bác sĩ cho biết, người bị ung thư nên giảm hoặc bỏ rượu, ăn ít chất béo, nhiều rau quả tươi, tránh thức ăn chế biến sẵn, tập thể dục, ngừa viêm gan siêu vi, t́nh dục an toàn. Riêng đối với phụ nữ, phải làm Pap's smear, khám vú hàng năm, bắt đầu khi 40 tuổi. Đối với nam giới, nên thực hiện PSA, khám nhiếp hộ tuyến, bắt đầu khi 50 tuổi. Cả nam lẫn nữ, khi được 50 tuổi, nên truy tầm ung thư ruột già. Té ngă Té ngă có lẽ là một để tài quan trọng và ảnh hưởng sức khỏe người cao niên. Theo Bác Sĩ Hoàng, tỉ lệ và độ trầm trọng của té ngă tăng lên từ từ khi bắt đầu 60 tuổi. “Mỗi năm, có một phần ba số người từ 65 tuổi trở lên bị té, tỉ lệ này càng cao hơn sau tuổi 75,” bác sĩ nói. “Đối với người cao niên, té thường gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn như găy xương, và khi phải nằm liệt giường, các hậu quả tiếp theo về tâm thần cũng như thể chất cũng trầm trọng hơn ở người trẻ rất nhiều. Khoảng 5% người cao niên bị té phải vào bệnh viện. Họ thường mất tự tin, làm cho họ giảm các hoạt động thể lực cần thiết và càng suy yếu hơn, cũng như bị cách ly hơn về mặt xă hội, càng yếu hơn và dễ bị chết sớm.” Về nguyên nhân, bác sĩ cho biết, té ngă có thể do tai nghểnh ngảng, mắt mờ, rối loạn về thăng bằng (cũng là một chức năng của tai), lăng trí, rối loạn tâm lư như lo lắng, trầm cảm, bệnh về xương khớp, tim mạch, tiểu đường, bệnh của tuyến giáp trạng, bệnh của bàn chân như bị u chai ở bàn chân. Các yếu tố bên ngoài có thể do thuốc men, lên xuống cầu thang, thiếu ánh sáng, giày không vừa, sàn nhà trơn, không có tay nắm an toàn trong nhà tắm và nhà vệ sinh, thảm lỏng lẻo, dây điện vướng chân... Bác Sĩ Hoàng nói: “Một điều ít ai để ư là xuống thang thường dễ bị té hơn lên thang. Ngoài ra, c̣n có một nguyên nhân nữa là nguy hiểm ngoài đường như đường trơn, lề đường không bằng phẳng.” Bác sĩ cho biết, có nhiều cách pḥng ngừa té ngă: -Kiểm tra xem đă điều trị đúng mức các bệnh về mắt, tai, khớp. -Kiểm tra xem thuốc men đă dùng đủ và đúng chưa, ngay cả thuốc mua không cần toa bác sĩ. Nên thảo luận với bác sĩ để uống thuốc hoặc ngưng thuốc, không nên tự ư. Các thuốc trị các bệnh kinh niên như cao huyết áp, tiểu đường là các thuốc phải uống thường xuyên, nếu không sẽ có các biến chứng rất nguy hiểm. “Điều quan trọng là nếu cần th́ phải dùng đúng, nếu không cần th́ không lạm dụng,” Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng khuyên. Sự an toàn trong nhà cũng là điều cần chú ư, theo bác sĩ. Những điều này không tốn kém ǵ nhiều và cũng không mất nhiều thời gian. Ông nói thêm: “Bị găy xương hoặc các biến chứng nặng hơn v́ những điều không đáng là chuyện không nên để xảy ra. Nếu đi không vững th́ dùng gậy chống, không nên mắc cỡ đến nỗi không dám ra đường. Nên nhớ là nếu v́ sợ té mà không dám nhúc nhích, hoạt động ǵ cả, th́ c̣n tệ hơn là bị té. Cái chính là phải có cố gắng vận động vừa sức và thường xuyên.” Và để tránh té ngă, theo Bác Sĩ Hoàng, khi mới thức dậy, người cao niên nên nằm yên khoảng nửa phút cho tỉnh táo hẳn, ngồi dậy nửa phút trên giường cho tỉnh thêm và để máu lên năo, bỏ chân xuống giường, chờ thêm nửa phút để máu bơm lên năo thật đủ và tỉnh thêm, sau đó mới di chuyển. “Nhưng trước khi làm những chuyện này, quư vị nhớ phải bật đèn cho đủ sáng,” bác sĩ nói thêm. Tai biến mạch máu năo Khi bị tai biến mạch máu năo, phải được đưa đi cấp cứu ngay, bác sĩ cho biết. Các dấu hiệu báo động của tai biến mạch máu năo có thể là sự xuất hiện đột ngột một (hoặc nhiều hơn) các triệu chứng như bất th́nh ĺnh tê hay yếu một bên của cơ thể, bất th́nh ĺnh bị mất hay rối loạn thị giác, bất th́nh ĺnh bị nhức đầu dữ dội, chóng mặt hoặc lú lẫn, mất thăng bằng, giọng nói lắp bắp hoặc khó khăn trong việc truyền đạt tư tưởng. “Các triệu chứng này thường xuất hiện đột ngột,” Bác Sĩ Hoàng giải thích. “Đôi khi, tai biến mạch máu năo có thể được báo trước bằng các cơn thiếu máu năo tạm thời, trong đó các triệu chứng không b́nh thường kéo dài khoảng 5 đến 20 phút, tối đa là 24 tiếng đồng hồ.” Để tránh tử vong, Bác Sĩ Hoàng khuyên: “Khi bị tai biến mạch máu năo, thời gian điều trị có thể có hiệu quả nhất là trong ṿng 90 phút từ khi có triệu chứng. Nên gọi bác sĩ hoặc cấp cứu ngay khi có các triệu chứng lạ.” “Nên nhớ, thời gian từ lúc bị đến lúc được chữa trị trong các trường hợp này là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định bệnh nhân có hồi phục hay không,” Bác Sĩ Hoàng cảnh báo. “Nên nhớ rằng, 90 phút ‘sống chết’ này bao gồm cả thời gian làm xét nghiệm để xác định chẩn đoán trước khi bắt đầu cho thuốc. Đừng mất thời 'sửa soạn' hay chờ 'người này người kia.' Nếu không kịp 90 phút th́ càng sớm vẫn càng tốt hơn.” Kết thúc buổi nói chuyện, Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng khuyên: “Chúng ta nên làm chủ sức khỏe, ăn uống hợp lư, vận động đúng mức, cân bằng tâm lư, bỏ hút thuốc và bớt uống rượu. 'Thích những cái ḿnh (thật sự) cần' (hơn là thích những cái mà ḿnh tưởng là cần) có lẽ là 'viên thuốc thần' duy nhất giúp chúng ta sống đơn giản, mạnh khỏe, thành công và hạnh phúc.” Đỗ Dzũng/Người Việt –– |
Hệ tiêu hóa : "Bộ năo thứ hai" của cơ thể con người
1 Attachment(s)
Hệ tiêu hóa : "Bộ năo thứ hai" của cơ thể con người
UserPostedImage Trọng Thành Trạng thái khỏe mạnh hay đau ốm có liên hệ nhiều với chuyện ăn uống là điều hầu như ai cũng biết. Tuy nhiên, bộ máy tiêu hóa không chỉ đơn giản là một phương tiện thẩm lọc những ǵ ta đưa vào bụng. Ngay cả khi y học đă có rất nhiều tiến bộ, bộ máy tiêu hóa vẫn c̣n chứa đựng rất nhiều bí ẩn. Tạp chí Khoa học của đài RFI hôm nay muốn đưa đến quí vị một số hiểu biết mới trong lĩnh vực này và một số biện pháp phổ thông giúp cho việc bảo vệ được hệ thống rất quan trọng này của cơ thể chúng ta. Tại Pháp, trong thời gian gần đây, bộ máy tiêu hóa ngày càng được giới y khoa chú ư hơn. Cuốn sách « Các bí mật về đường ruột, bộ lọc của cơ thể chúng ta » (Les secrets de l'intestin, filtre de notre corps) ra đời năm ngoái 2011, một lần nữa nhắc lại tầm quan trọng và tính chất độc lập rất cao của hệ tiêu hóa với hệ thần kinh trung ương, đối với sức khỏe con người. Bộ phận cơ thể này được ví như một « bộ năo thứ hai », với số lượng tế bào thần kinh tương đương với hệ tủy sống. Hai tác giả của cuốn sách kể trên là bác sĩ Jacqueline Warnet, chuyên gia về tiêu hóa, về ám thị y học và vi dinh dưỡng, và bác sĩ Louis Berthelot, chuyên khoa mạch máu, nhà châm cứu chuyên về y học Trung Hoa và cũng là chuyên gia về vi dinh dưỡng. Việc bộ máy tiêu hóa và đặc biệt là hệ thần kinh tiêu hóa ngày càng được coi trọng nhắc chúng ta đến cuốn sách “Bộ năo thứ hai, một hiểu biết mới mang tính đột phá về chứng rối loạn thần kinh dạ dày và đường ruột” (The Second Brain, A Groundbreaking New Understanding of Nervous Disorders of the Stomach and Intestine) của nhà nghiên cứu người Mỹ Michael Gershon (đại học Columbia), ra đời cách đây hơn 10 năm. Đây là cuốn sách đầu tiên đưa ư tưởng về hệ thần kinh tiêu hóa như "một bộ năo thứ hai" đến với đại chúng. Chúng ta cũng biết rằng, trong một số nền văn hóa, trong đó có Việt Nam, bụng không chỉ là một bộ phận của cơ thể, mà c̣n là nơi diễn ra nhiều hoạt động tinh thần chủ yếu. "Nghĩ bụng", "tốt bụng", "vừa ḷng" hay "phải ḷng" ai đó, hay "ghi ḷng, tạc dạ"... là một vài trong số rất nhiều diễn đạt có từ lâu đời và được dùng phổ biến trong văn hóa người Việt. Các phát hiện gần đây cho thấy, vẫn c̣n rất nhiều bí ẩn trong những mối quan hệ giữa hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh bụng. Hệ vi khuẩn đường ruột : một thế giới bí ẩn Bên cạnh phương diện thần kinh của hệ tiêu hóa, hệ vi khuẩn đường ruột cũng là một đối tượng ngày càng được cho rằng có tác dụng vô cùng lớn lao đến sức khỏe con người. Lĩnh vực này cho đến nay c̣n ít được nghiên cứu. Năm 2008, Châu Âu tiến hành chương tŕnh nghiên cứu MetaHIT (Metagenomics of the Human Intestinal Tract) để t́m hiểu về hệ vi khuẩn này, được ước tính có số lượng lên tới 100 000 tỷ vi khuẩn, tức là gấp 10 lần số tế bào có trong cơ thể chúng ta. MetaHit, chương tŕnh nghiên cứu đầu tiên trên thế giới trong lĩnh vực này, được Ủy ban Châu Âu tài trợ 22 triệu đô la, và được tiến hành tại 8 quốc gia. Chương tŕnh này có mục tiêu phân lập toàn bộ gen của các vi khuẩn trong đường ruột, với số lượng ước tính khoảng nửa triệu gen. Chương tŕnh MetaHIT sắp kết thúc. Một dự án mới quy mô lớn tương tự (mang tên MétaGénoPolis, do Inra - Viện Nông học Pháp - phụ trách cùng với hai công ty thực phẩm Danone và Nestlé), đang chuẩn bị tiến hành, có mục tiêu t́m hiểu tác động của hệ vi khuẩn đường ruột đến sức khỏe, với việc thành lập một ngân hàng mẫu phân của khoảng 100.000 người. Những kết quả nghiên cứu mới về hệ thần kinh tiêu hóa và hệ vi khuẩn đường ruột mang lại hy vọng sẽ có nhiều ứng dụng quan trọng trong trị liệu, đặc biệt trên phương diện trị liệu không dùng thuốc, đối với rất nhiều căn bệnh mà từ trước đến nay vẫn được coi là không dính dáng trực tiếp đến chuyện tiêu hóa, như : chứng đau nửa đầu, căng thẳng, suy nhược thần kinh, lo hăi, mất ngủ, các bệnh về da, các bệnh về tai mũi họng, các bệnh về hô hấp hay các chứng nhiễm trùng... Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, một số nhà nghiên cứu cũng cảnh báo về xu thế tiêu thụ tràn lan các sản phẩm trợ sinh (probiotic) hay tiền trợ sinh (prebiotic),... |
Câu Chuyện Nước Mỹ cuối cùng, Lan Phương và lời giă từ
Câu Chuyện Nước Mỹ cuối cùng, Lan Phương và lời giă từ
UserPostedImage Lan Phương - VOA - 17.06.2012 Thưa quí vị, thế giới thực phẩm quanh ta đầy những món hấp dẫn, ngọt ngào trong đó nào đường, nào mật, mật mía, mật bắp, mật ong. Nhưng mật ngọt không những chỉ làm… chết ruồi mà về lâu, về dài, c̣n có thể làm… chết người nữa. Câu chuyện Nước Mỹ hôm nay do Lan Phương đem đến quí vị, sẽ nói về những cái hại của đường, cùng chiến dịch của thị trưởng thành phố New York và công ty giải trí Disney chống những thứ đồ ăn thức uống có hại cho sức khỏe dân chúng, một chiến dịch có thể làm cho hăng nước ngọt Coca-Cola và các hăng tương tự… thót ruột! Nhớ lại thời c̣n bé tại Việt nam, mỗi lần nghe tiếng rao, vừa rao, vừa hát của ông bán kẹo kéo, (mà không hiểu tại sao chỉ đàn ông mới bán kẹo kéo!), là trẻ con mừng rỡ chạy ào đến, xúm đông xúm đỏ để quay số và mua kẹo. Bây giờ ở nước Mỹ, cứ buổi chiều, từ mùa xuân đến hết hè, mỗi lần nghe tiếng xe kem với tiếng nhạc vui tươi rộn ră tiến vào khu xóm và đám trẻ xếp hàng chờ mua, người Việt xa xứ lại t́m thấy h́nh ảnh của chính ḿnh ngày cũ: hạnh phúc cầm trên tay một món ăn thật ngọt ngào, miếng kẹo kéo hay que kem đều có chung nguồn gốc: đường, đường và đường! Đường có nhiều nguồn, chiết xuất từ mía, củ cải đường, bắp, thốt nốt hay các loại mật ngọt như mật ong, mật bắp, mật cây Maple… nhưng đường nào mà người ta lạm dụng cũng gây hại cho sức khỏe. Tiến sỹ về dịch vụ y tế Nancy Appleton trong tờ báo mạng Mercola.com đă đưa ra một danh sách dài lê thê đến 70, 80 tai hại của việc ăn quá nhiều đường. Trong khuôn khổ bài viết này, Lan Phương không thể kê khai hết, chỉ xin thu tóm những điểm chính: - Đường gây nghiện (từ “hảo ngọt,” theo nghĩa đen, là vậy!), ăn quá nhiều bánh kẹo, chè cháo làm lên cân, đưa đến những chứng bệnh đi kèm theo với bệnh béo ph́. Nó c̣n làm cho người tiêu thụ cứ thèm ngọt và tiếp tục lục kiếm đồ ngọt để… ăn tiếp! - Ăn nhiều đường có thể làm sâu răng và gây các chứng bệnh về nướu răng. - Nó làm cho người ta cảm thấy mệt và đau nhức bắp thịt. - Gây chứng đường máu thấp. - Hủy hoại thành mạch máu, gây chứng giăn tĩnh mạch. - Quá nhiều đường nạp vào cơ thể trong một thời gian dài có thể biến ta thành người cau có khó chịu hoặc trầm cảm. - Nó có thể gây bệnh tim: đường bị liên kết với chứng sơ cứng động mạch, làm tăng huyết áp. - Làm sưng gan và thận, có thể gây sạn thận. - Ăn quá nhiều đường tinh chế có thể gây rối loạn giấc ngủ và gây chứng mất ngủ. - Đường nuôi dưỡng những tế bào ung thư làm chúng mau phát triển. Nó được liên kết với sự phát triển của nhiều loại ung thư: ung thư vú, buồng trứng, tuyến tiền liệt, hậu môn, tụy tạng, phổi, bàng quang và dạ dày. - Làm cho ta chóng già v́ nó làm mất đi tính đàn hồi của các mô và có thể làm cho da sớm nhăn (Quí bà, quí cô nhớ nhé, muốn giữ cho trẻ đẹp lâu th́ ăn ít đường thôi!) - Mỗi lần cơ thể tiếp nhận đồ ngọt, mức đường trong máu tăng vọt, tụy tạng phải làm việc tiết ra nhiều insulin để hạ lượng đường trong máu xuống mức b́nh thường. Thỉnh thoảng th́ không sao nhưng lạm dụng đường từ ngày nọ qua ngày kia sáng chiều chè cháo, bánh kẹo là một cách hành hạ tụy tạng, bắt nó lao động quá sức, một ngày nào đó nó… đ́nh công, không làm việc nữa, không tiết insulin, hệ quả là chứng tiểu đường. - Đường tiếp sức cho sự sản sinh mau chóng của loại nấm Candida Albican, gây chứng nhiễm trùng nấm. - Nó ức chế hệ thống miễn nhiễm, làm suy yếu hệ thống tự vệ của cơ thể chống lại các chứng bệnh nhiễm trùng. - Làm suy kém khả năng theo dơi, thiếu tập trung tư tưởng, và khiến trẻ em náo động, đứng ngồi không yên, hay quậy phá, ảnh hưởng đến khả năng học hỏi, tiếp thu kiến thức. - Làm yếu thị lực, có thể dẫn tới chứng đục thủy tinh thể và cận thị. - Nhiều đường quá làm tăng nguy cơ các chứng bệnh về tự miễn như sưng khớp, hen suyễn, và đa sơ cứng (bệnh thần kinh multiple sclerosis). - Các chứng bệnh về đường tiêu hóa, khó tiêu, ợ chua, loét dạ dày, lan tràn của nấm candida, hấp thu kém, dị ứng với thực phẩm, bệnh Crohn và sưng ruột kết. - Hấp thu kém các chất khoáng: đường tinh chế gây trở ngại cho việc hấp thu các chất calcium, magnesium, một yếu tố thêm vào nguyên nhân bệnh loăng xương. Nó cũng gây ra t́nh trạng thiếu chromium và đồng. Tờ Time số ra ngày 18 tháng Sáu năm nay cho biết chính v́ những tai hại này mà thị trưởng thành phố New York Michael Bloomberg mới đây đă đề nghị cấm bán những ly nước ngọt cỡ đại gần 1 lít cho khách tại các nhà hàng ăn và các nơi khác. Đề nghị này đă gây nhiều phản ứng trong cư dân. Một người dân New York lên tiếng chống đối: "Đây là quốc gia dân chủ, chúng tôi có quyền chọn lựa thứ nước ngọt nào mà chúng tôi muốn uống." Ông David Almasi thuộc Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu chính sách công, chỉ trích đề nghị của Thị trưởng Bloomberg: "Theo đề nghị của ông th́ người ta có thể mua một ly bia nặng đến 1134 gram nhưng không được mua một ly coca lớn đến như vậy!" Nhưng có những người tán thành đề nghị của ông Thị trưởng, v́ họ hiểu rằng đề nghị này nhắm đến mục tiêu bảo vệ sức khỏe cho quần chúng. Một cư dân cho biết: "Phải thành thật mà nói, tôi nghiện uống Coca Cola. Giờ đây tôi cảm thấy khó mà bỏ được." Một cư dân khác cũng đồng ư: "Thực t́nh tôi cho rằng đây là ư kiến hay. Tôi cũng thuộc loại hơi nặng cân." Đây không phải là hành động đầu tiên t́m cách bảo vệ sức khỏe cho cư dân thành phố của thị trưởng Bloomberg. Trong quá khứ ông đă thành công trong việc dẹp bỏ những điều không lành mạnh cho sức khỏe dân chúng. Thành phố New York đ̣i các nhà hàng ăn và những sạp, quán bán thức ăn phải loại bỏ trans fat, những chất mỡ béo băo ḥa gây hại cho sức khỏe. Chiến dịch này đă mở đường cho những thành phố khác là Philadelphia và San Francisco noi theo. Ngoài ra từ năm 2008 các nhà hàng ăn trong thành phố phải kê khai số calorie của mỗi món ăn trên thực đơn. Đến nay th́ điều này đă trở thành luật định toàn quốc áp dụng cho các hệ thống bán thức ăn nào có hơn 20 cơ sở. Và hiện nay thuốc lá cũng đă bị loại bỏ ra khỏi những nơi công cộng như công viên, quảng trường và những băi biển của thành phố New York. Những thành phố khác có thể sẽ theo chân là San Jose, bang California và Boulder, bang Colorado. Cũng ư thức được vấn đề sức khỏe của công chúng, công ty giải trí Disney hiện đă đưa ra những tiêu chuẩn gắt gao về dinh dưỡng áp dụng cho những quảng cáo về thực phẩm trên các kênh truyền h́nh, đài phát thanh, các trang web và tại những công viên giải trí của công ty như Disneyland và Disney World, để t́m cách bảo vệ sức khỏe cho quần chúng và tập thói quen ăn uống tốt cho trẻ em. Cả hai nỗ lực này, hiện đang được truyền thông chú ư quảng bá, đều nhắm tới giải pháp giảm bớt nạn mập ph́ tại nước Mỹ với tỉ lệ hiện nay của người lớn là 35% và thanh thiếu niên dưới 19 tuổi là 17%. Trước chiến dịch bảo vệ sức khỏe cho cư dân của thị trưởng Bloomberg và cho quần chúng của công ty Disney, những công ty như Coca-Cola và các hăng tương tự sản xuất những thứ nước ngọt đóng chai cảm thấy bị dồn vào thế thủ và có lẽ cần chuẩn bị đón chờ một sự sút giảm trong mức cầu. Tuy nhiên, thưa quí vị, các nhà dinh dưỡng không hề ngăn cản chúng ta năm th́, mười họa, nếm một chút hạnh phúc ngọt ngào, một bánh xôi nếp mật “mẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp mật như đường mía lau” (ca dao), ... , hay vài ba miếng sô cô la cho đậm đà ngày lễ t́nh nhân. Kính thưa quí khán thính giả, độc giả, hôm nay, ngày cuối cùng, Lan Phương gửi đến quí vị Câu Chuyện Nước Mỹ. Sau 25 năm có cơ duyên hiếm hoi được phục vụ quí vị tại Việt Nam và khắp nơi trên thế giới qua đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, mang đến quí vị những tin tức hàng ngày, các bài trường tŕnh, phóng sự và Câu Chuyện Nước Mỹ hàng tuần, nhịp cầu nối thính giả, độc giả với sinh hoạt, văn hóa, lịch sử Hoa Kỳ qua làn sóng phát thanh lúc ban đầu rồi sau đó trên cả trang web và thỉnh thoảng qua h́nh ảnh webcast, giờ đây đă đến lúc chia tay cho dù luật nước Mỹ không bắt buộc các công chức liên bang phải về hưu ở một hạn tuổi nào đó. Lan Phương đa tạ những đóng góp ư kiến xây dựng mà quí vị dành cho chuyên mục này từ nhiều năm nay, đa tạ ḷng quí mến của quí vị và cầu chúc quí vị dồi dào sức khỏe để tiếp tục theo dơi, đóng góp ư kiến cho các bài vở của ban Việt ngữ. Tre già, măng mọc, thế hệ đàn em với nhiệt huyết và đầy đủ khả năng sẽ nối tiếp sứ mạng mang đến quí vị những tin tức trung thực và những tường tŕnh mà quí vị mong đợi. Lan Phương xin giă từ. UserPostedImage |
Công ty dược phẩm Đức tạ lỗi về bi kịch Thalidomide
Công ty dược phẩm Đức tạ lỗi về bi kịch Thalidomide
Thuốc viên thalidomide, tháng 4/1998. VOA - 01.09.2012 Một công ty bào chế dược phẩm Đức đă đưa ra lời tạ lỗi đầu tiên về bi kịch thalidomide -- 50 năm sau khi loại thuốc chữa các triệu chứng ốm nghén mà các thai phụ sử dụng trong những năm của thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 làm cho hàng ngàn em bé chào đời với những dị tật bẩm sinh nghiêm trọng. Tổng Giám đốc Công ty Grunenthal Haral Stock đă tạ lỗi hôm thứ Sáu. Ông nói rằng “Bấy lâu nay chúng tôi đă giữ im lặng và chúng tôi rất hối hận về việc đó.” Ông Stock phát biểu như vậy ở thành phố Stolberg của Đức tại buổi lễ khánh thành bức tượng đồng, tượng trưng một em bé bị tật, không có tay chân, v́ hậu quả của thuốc thalidomide. Ông nói rằng nhiều phụ nữ đă uống loại thuốc này “mà không có lư do ǵ để tưởng tượng là nó có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho những đứa con chưa chào đời của ḿnh”. Ông Stock nói thêm rằng “chúng tôi xin quí vị xem sự im lặng rất lâu của chúng tôi như một dấu hiệu của sự bàng hoàng thầm lặng mà số phận của quí vị đă mang đến cho chúng tôi.” Ông Stock cho biết công ty Grunenthal đă bắt đầu thực hiện những dự án với các nạn nhân của thuốc này để cải thiện điều kiện sinh hoạt của họ. Một số tổ chức tranh đấu cho quyền lợi của nạn nhân đă bác bỏ những dự án của Grunenthal. Họ cho rằng những dự án đó “quá ít và quá trễ.” Tổ chức Y tế Thế giới cho biết hơn 10.000 ca dị tật bẩm sinh sau khi phô nhiễm với thuốc thalidomide đă được ghi nhận ở 46 nước |
WHO kêu gọi mọi người bớt ăn muối
WHO kêu gọi mọi người bớt ăn muối
5 gram muối/ngày d'oh! Những người trưởng thành nên tiêu thụ dưới 2 gram sodium và dưới 5 gram muối mỗi ngày VOA - 31.01.2013 Tổ Chức Y Tế Thế Giới, WHO, đă đưa ra các hướng dẫn mới, kêu gọi người trưởng thành tiêu thụ ít muối, và có lượng potassium tối thiểu trong chế độ ăn uống của ḿnh. Trong một thông cáo đưa ra hôm thứ Năm, WHO nói rằng những người trưởng thành nên tiêu thụ dưới 2 gram sodium và dưới 5 gram muối mỗi ngày. WHO cũng khuyên nên tiêu thụ một số lượng tối thiểu potassium là 3,5 gram, trong chế độ dinh dưỡng mỗi ngày. Tổ Chức này nói rằng, khuyến cáo này nhằm giúp mọi người giảm bớt nguy cơ huyết áp cao, nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh đau tim và đột quỵ. WHO nói rằng sodium có trong những thực phẩm thiên nhiên, kể cả sữa, kem, và trứng; chất này có nhiều trong những thực phẩm chế biến như thịt heo ướp muối và các thức ăn vặt. Những thực phẩm nhiều potassium gồm có đậu, các loại hạt, và các rau trái như rau dền và chuối. |
Cuốn sách gây tranh luận tại Pháp: "Sự thật về cholesterol
Cuốn sách gây tranh luận tại Pháp: "Sự thật về cholesterol"
UserPostedImage Tuần báo Le Nouvel Observateur giới thiệu về cuốn sách của Gs Philippe Even Trọng Thành Trong lĩnh vực y khoa tại Pháp từ một tuần nay, có một cuộc tranh luận với tâm điểm là cuốn sách « Sự thật về cholesterol » của giáo sư Philippe Even. Quan điểm chính của cuốn sách cho rằng lượng cholesterol cao trong cơ thể nh́n chung không phải là nhân tố gây ra các bệnh tim mạch, đi ngược lại một quan điểm phổ biến từ nhiều thập kỷ nay, được hầu hết y giới thừa nhận. Quan điểm này đă bị phản đối dữ dội, nhưng cũng có không ít người chia sẻ. Ngày 13/02, tuần báo Le Nouvel Observateur giới thiệu trên trang nhất cuốn sách của giáo sư Philippe Even và hàng tựa là tên của sách : « La vérité sur le cholestérol/Sự thật về cholesterol », với hàng tít phụ : « Nếu cholesterol không nguy hiểm. Giáo sư Even mở màn cuộc tranh luận ». Sách sẽ chính thức ra mắt bạn đọc vào ngày mai 21/02/2013. Le Nouvel Observateur ghi nhận : « Giáo sư Even dấn thân vào một cuộc hành tŕnh đầy thách thức mới : tận mắt thẩm định lại các nghiên cứu kinh điển về tính độc hại của cholesterol và các thử nghiệm lâm sàng với các thuốc statin, các dược phẩm giảm cholesterol rất mạnh – thị trường dược phẩm lớn nhất với doanh số 25 tỷ đô la năm 2011 ». Theo khẳng định của tác giả cuốn sách : « Không có cholesterol xấu. Người ta đă phóng đại tác dụng của nó. Nó không phải là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim và các tai biến mạch máu năo. Cholesterol là một phi vụ làm ăn, cho phép ngành công nghiệp dược phẩm ăn không 2 tỷ euro/năm, với việc bán ra một cách đại trà các thuốc statin giảm cholesterol ». Giáo sư Even cũng là đồng tác giả một cuốn sách gây sốc khác cách đây nửa năm : « Guide des 4.000 médicaments utiles, inutiles ou dangereux/Hướng dẫn về 4.000 dược phẩm có ích, vô ích hay nguy hiểm », trong đó có nhận định rằng các thuốc statin chỉ cần thiết đối với 9/10 trường hợp đang sử dụng hiện nay. Hàng loạt tổ chức y khoa, đặc biệt là tim mạch, cũng như nhiều bác sĩ ngay lập tức đă lên tiếng phản đối quan điểm của giáo sư Even, thái độ chủ quan « vơ đũa cả nắm » của tác giả cuốn sách, chủ yếu trong việc phủ nhận tác dụng của việc dùng các thuốc statin để hạ cholesterol, rất nguy hiểm đối với sinh mệnh của nhiều bệnh nhân đang điều trị bằng statin. Nếu biết rằng, tại Pháp có khoảng từ gần 5 triệu đến gần 7 triệu người sử dụng statin, tùy theo các nguồn thống kê khác nhau, th́ không khó khăn ǵ để đoán biết cuốn sách phủ nhận tác hại của cholesterol gây ra một làn sóng phản đối dữ dội như vậy. Trong số các tổ chức y khoa kư vào thông cáo chung ngày 18/02/2013 phản đối cuốn sách này, có nhiều hiệp hội bác sĩ tim mạch Pháp : Collège National des Cardiologues français, Collège des Cardiologues de Hôpitaux, Société français de cardiologie, Fédération française de cardiologie… La Haute Autorité de santé (HAS)/Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế Pháp, đă ra thông cáo về chủ đề này ngay vào ngày 14/02. Thông cáo của HAS nhắc lại rằng, tiếp theo một nghiên cứu phân tích vào năm 2010, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế HAS khẳng định các thuốc hạ cholesterol có tác dụng không thể tranh căi với mục đích ngăn ngừa các tai biến tim mạch tái phát. HAS cho biết các thuốc statin làm giảm nguy cơ tử vong 10% đối với nguy cơ tái phát tai biến tim mạch, đặc biệt với chứng nhồi máu cơ tim. C̣n đối với các trường hợp người không có tiền sử tai biến tim mạch, th́ HAS cho rằng, các thuốc hạ cholesterol chỉ nên dùng đối với những người nào cùng lúc với tỷ lệ cholesterol cao, có thêm nhiều nguy cơ gây tai biến tim mạch khác, như tiểu đường, huyết áp cao hay hút thuốc lá… Ngược lại, các trường hợp đối với người chỉ có lượng cholesterol cao, nhưng không có các yếu tố rủi ro khác, th́ việc dùng statin để hạ cholesterol là không cần thiết. Le Figaro trong bài « Cholesterol, những điều dối trá và những sự thực của giáo sư Even » th́ nhấn mạnh đến các lo ngại của HAS, về tác động của cuốn sách « khiến người bệnh lo lắng, khiến họ mất ḷng tin vào một trị liệu có hiệu quả và vào các bác sĩ của ḿnh. Làm tăng nguy cơ dừng các trị liệu đối với các bệnh nhân thực sự có nhu cầu, tác giả cuốn sách kể trên phải gánh chịu một trách nhiệm lớn ». Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế Pháp HAS cũng khuyến cáo các bệnh nhân « không nên tự ngừng dùng thuốc, nếu không có ư kiến của bác sĩ điều trị ». Quan điểm cho rằng cholesterol không có hại đối với hệ tim mạch, của bác sĩ Even trong cuốn sách sắp được phát hành, thực ra không hoàn toàn mới. Cũng theo Le Nouvel Observateur, từ đầu những năm 2000, tiếp theo « Những huyền thoại về cholesterol », cuốn sách của bác sĩ Thụy Điển Uffe Ravnskov, và tiếp theo hơn một trăm bài báo bảo vệ quan điểm này được đăng tải, 98 người - bao gồm các nhà nghiên cứu và các bác sĩ phủ nhận tác hại của cholesterol - đă tập hợp thành một mạng lưới Thincs (the International network of cholesterol skeptics) vào năm 2002. Mặc dù các nghiên cứu của nhóm được đăng tải trên một số tạp chí khoa học có uy tín như Lancet, nhưng quan điểm « tác hại của cholesterol chỉ là một huyền thoại » của họ ít được chú ư. Gần đây tại Pháp, cũng về chủ đề này, có cuốn sách của bác sĩ chuyên khoa tim mạch Michel Lorgeril, « Cholesterol, những lời dối trá và sự tuyên truyền », ấn hành năm 2007. Bác sĩ Lorgeril cũng là người từng đề xuất « nghịch lư Pháp » hay chế độ ăn uống đặc thù của khu vực Địa Trung Hải vào năm 1992, ghi nhận hiện tượng : Dù người Pháp và dân cư ở khu vực Nam Âu có tỷ lệ cholesterol cao tương đương người Mỹ, nhưng lại ít mắc các bệnh tim mạch hơn nhiều so với người Mỹ. Một trong các lư do của nghịch lư này là các cư dân tại khu vực Địa Trung Hải uống rượu vang và sử dụng các chất béo không băo ḥa có trong dầu ô liu, một thực phẩm phổ biến của khu vực. Cho dù có những bất đồng sâu sắc trong vấn đề sử dụng các thuốc statin hạ cholesterol giữa bên ủng hộ và bên chống, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế HAS, trong thông cáo kể trên nhân cuốn sách của giáo sư Even, cũng thừa nhận rằng các thuốc statin cho những người có nguy cơ tim mạch, không phải lúc nào cũng được kê đúng. HAS thừa nhận: « có một số trường hợp lạm dụng statin ở Pháp ; việc lạm dụng statin trong việc ngăn ngừa nguy cơ tim mạch ở những người không có tiền sử tai biến (…), ở những người mà nguy cơ bị tai biến không cao ». Về chủ đề này, Libération số ra ngày 13/02 có bài « Cholesterol, các thuốc statin bị chỉ trích dữ dội ». Libération lưu ư đến một số điều hợp lư trong quan điểm phản bác tác hại của cholesterol. Đặc biệt là góc nh́n của giáo sư Bernard Bégaud, người phụ trách một cơ sở theo dơi dược phẩm lớn nhất tại Pháp, có trụ sở ở Bordeaux. Bác sĩ Bégaud ghi nhận, kể từ hơn 10 năm nay, không có một nghiên cứu nào cho thấy các tác dụng tích cực của statin tại Châu Âu, đối với các bệnh nhân ở giai đoạn pḥng ngừa sơ cấp, tức là có tỷ lệ cholesterol hơi cao, nhưng chưa từng bị nhồi máu. Mà trên thực tế, các bác sĩ đă kê thuốc statin một cách phổ biến cho những người này. Ngay từ năm 2005, bác sĩ Bégaud đă cho rằng 20% trường hợp điều trị với statin là không cần thiết. Libération cũng lưu ư đến cái nh́n thận trọng của giáo sư Simon Weber, bệnh viện Cochin Paris, theo đó, bác bỏ hoàn toàn tác dụng của statin là « hồ đồ ». Bên cạnh đó, bác sĩ chuyên khoa tim mạch bệnh viên Cochin cũng nghiêm khắc chỉ trích áp lực của các tập đoàn công nghiệp dược phẩm, từ năm này qua năm khác, thúc đẩy việc sử dụng statin với liều cao, mà điều này là không cần thiết, thậm chí c̣n nguy hiểm. Hạ cholesterol bằng các thuốc statin có cần thiết hay không ? Nếu cần th́ trong những trường hợp nào ? Và rộng hơn nữa, để pḥng ngừa các căn bệnh tim mạch, các biện pháp căn bản là ǵ ?... Đây là những câu hỏi hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp một lần nữa lại đặt ra trong công luận Pháp, nhân cuốn sách của bác sĩ Even, trong bối cảnh nhiều bê bối dược phẩm quy mô lớn mới bị bung ra trong thời gian gần đây, như vụ Mediator. Giới chuyên gia cũng như công luận cũng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các chiến lược điều trị và chăm sóc sức khỏe sát thực, hiệu quả và chi phí tiết kiệm hơn. Phần phỏng vấn bác sĩ Nguyễn Ư Đức (Texas) RFI : Xin Bác sĩ cho biết về quan điểm phủ nhận tác hại của cholesterol đối với các bệnh tim mạch được nh́n nhận như thế nào tại Hoa Kỳ. BS Nguyễn Ư Đức : Đây là một vấn đề khá quan trọng, ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi, cho nên cũng chỉ xin có vài ư kiến hết sức căn bản, thông thường. Cho tới nay, ư kiến chung của y giới cũng như quần chúng tại Hoa Kỳ vẫn cho là cao cholesterol có liên hệ tới bệnh tim mạch. Và người ta đă đặt ra các tiêu chuẩn cholesterol tới mức độ nào là phải điều trị bằng được phẩm, bằng giảm tiêu thụ chất béo, chất cholesterol hoặc các phương thức khác… Tuy nhiên, từ lâu cũng đă có nhiều nghiên cứu cho rằng cao cholesterol không đưa tới bệnh tim mạch. Họ nêu ra kết quả nghiên cứu của Framingham, Boston, kéo dài 30 năm cho hay cao cholesterol là một rủi ro đưa tới bệnh tim mạch nhưng không giải thích tại sao, và ½ bệnh nhân có bệnh tim mạch th́ cholesterol lại thấp, trong khi đó ½ người không có bệnh tim mạch th́ cholesterol lại cao. Cũng nên để ư rằng yếu tố rủi ro (risk) không phải là nguyên nhân gây ra bệnh mà chỉ là một nguy cơ, một cơ hội để bệnh có thể xảy ra. Chẳng hạn có nghiên cứu nói là phụ nữ cao lớn thường hay bị bệnh ung thư nhũ hoa, th́ không có nghĩa là cứ cao lớn là bị ung thư này. Tất nhiên là không phải vậy. Có thể dẫn thêm một số nghiên cứu khác như một nghiên cứu tại Canada trong 12 năm cho hay cao cholesterol không liên quan ǵ tới bệnh tim mạch. Hoặc người Nhật thường được coi như ăn ít thực phẩm chứa cholesterol và ít có rủi ro bệnh tim. Khi họ định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục món ăn truyền thống th́ lại bị bệnh tim mạch nhiều hơn là người Nhật tiêu thụ món ăn Hoa Kỳ nhiều chất béo. Như vậy th́ có thể là có một rủi ro nào khác, chẳng hạn stress… Như vậy th́, tại sao cho là cao cholesterol đưa tới bệnh tim mạch vẫn c̣n rất phổ biến. Có ư kiến cho rằng các nhà sản xuất dược phẩm cũng như kỹ nghệ chế biến thực phẩm, v́ lợi nhuận tài chánh, vẫn liên tục bảo vệ quảng bá tin tưởng rằng cao cholesterol là xấu trong quần chúng, và quần chúng tin theo. Cho nên, nhiều người e ngại khi nói mức độ cholesterol không liên hệ tới bệnh tim là đi ngược với ư kiến được coi là không phải bàn căi hiện nay. RFI : Xin Bác sĩ cho biết thêm về cholesterol. BS Nguyễn Ư Đức : Cholesterol là một thành phần cần thiết của màng các tế bào, được dùng để sản xuất một số kích thích tố, tạo ra sinh tố D trên da bằng tia nắng, cũng như tạo ra acit mật để tiêu hóa chất béo... Cholesterol chiếm 70% các chất cấu tạo tế bào của năo bộ, cho nên cơ thể đă tự cung cấp tới 75% cholesterol. Khi ta tiêu thụ nhiều cholesterol, th́ cơ thể giảm sản xuất mà khi tiêu thụ giảm th́ cơ thể tăng sản xuất để giữ quân b́nh tự nhiên. Do đó giảm tiêu thụ cholesterol chưa đủ để hạ cao cholesterol. Vả lại, theo một số nghiên cứu, cholesterol chỉ bám vào thành động mạch bị tổn thương v́ lư do khác, như là đường quá cao, chất béo ôi hư. V́ thành động mạch b́nh thường rất trơn chu để máu lưu thông dễ dàng. Khi có một vết thương, th́ LDL (Low-density lipoprotein) mới dính vào đó mà gây ra rủi ro. RFI : Xin Bác sĩ cho biết quan niệm của Bác sĩ về việc pḥng ngừa các bệnh tim mạch. Chúng tôi cứ nghĩ rằng, cái quan niệm trung dung của Á đông vẫn là điều nên áp dụng, và nhà văn Hoa Kỳ Mark Twain có nói là ông tin tưởng ở sự vừa phải moderation trong mọi lănh vực (kể cả sự vừa phải). Cholesterol nói riêng, thức ăn nói chung, rất cần thiết cho cơ thể, nhưng sự cần thiết này có giới hạn. Nếu cung cấp quá giới hạn th́ cơ thể không sử dụng hết và phải t́m cách loại ra khỏi cơ thể, ấy là không kể sự bội thu gây ra sự mất cân bằng tự nhiên của các chức năng cũng như cấu trúc của cơ thể và gây ra rủi cho cho sức khỏe cũng như gây ra bệnh. Thành ra, trung dung vừa phải là điều cần. Tiêu thụ cho đúng với nhu cầu. Tiêu thụ đa dạng nhiều chất dinh dưỡng khác nhau, nhưng phải theo một tỷ lệ nhiều ít chấp nhận được. Như vậy sức khỏe mới được bảo toàn một phần nào. Rồi ta cũng cần áp dụng các phương thức bảo vệ sức khỏe khác như vận động cơ thể, ngủ nghỉ đầy đủ, giải trí thư giăn trí óc và tránh xúc động quá mức. Ngoài ra cũng nên để ư là kết quả nghiên cứu khoa học không có giá trị vĩnh viễn. Kết quả đúng hôm nay chưa chắc đă đúng vào vài năm nữa. V́ để phát triển, khoa học cần được liên tục nghiên cứu. Một kết quả mới được thông báo mới chỉ là kết quả sơ khởi, cần nhiều nghiên cứu khác có cùng ư kiến th́ kết quả đó mới được coi là chung kết và được phổ biến để dân chúng áp dụng... RFI : C̣n về thuốc hạ cholesterol, Bác sĩ có ư kiến như thế nào ? BS Nguyễn Ư Đức : Thực t́nh ra, những loại thuốc để hạ cholesterol, các nhà bào chế cũng đă lưu ư với giới tiêu thụ rằng, thuốc có thể gây ra một số những rủi ro cho cơ thể chúng ta. Đặc biệt nhiều người uống statin có cảm giác rằng đau nhức cơ bắp, đôi khi rất trầm trọng, tổn thương cho gan, thận, thần kinh, thậm chí tử vong mà lư do tại sao vẫn chưa được xác định. Lư do làm sao, th́ vẫn chưa xác định được, thành ra chúng tôi cũng chỉ xin thưa thế này. Khi sử dụng loại thuốc đó, th́ nhiều khi phải sử dụng lâu dài, chúng ta cũng phải hết sức dè dặt, theo dơi. Nếu có những biến chứng, hoặc có những khó khăn ǵ xảy ra, th́ phải cho bác sĩ hay, để bác sĩ có thể điều chỉnh cái lượng thuốc của ḿnh để giảm thiểu các rủi ro cho sức khỏe. RFI xin cảm ơn Bác sĩ Nguyễn Ư Đức đă dành thời gian cho cuộc phỏng vấn hôm nay Back to top |
Anh, Mỹ xếp hạng kém về sức khỏe
Rank: Advanced Member
Groups: Registered Joined: 3/26/2011(UTC) Posts: 13,716 Thanks: 6458 times Was thanked: 2706 time(s) in 1905 post(s) Anh, Mỹ xếp hạng kém về sức khỏe Người dân Vương quốc Anh thuộc số dân nhiều bệnh tật nhất ở phương Tây bất chấp sáu thập niên hưởng dịch vụ y tế miễn phí, theo một nghiên cứu đăng trên tạp chí Lancet. Các nhà nghiên cứu quốc tế phân tích tỉ lệ bệnh tật và tử vong tại Anh từ 1990 đến 2010 so với 15 nước Tây Âu và Úc, Canada và Mỹ. Họ mô tả kết quả tại Anh là “gây sốc” và nói Anh không giải quyết những nguy cơ sức khỏe trong dân số như huyết áp cao, béo phí, lạm dụng thuốc và rượu. “Không ai lại nghĩ Anh quốc đứng gần chót bảng,” Tiến sĩ Christopher Murray, tác giả chính của báo cáo, nói. Trong bảng xếp hạng về số năm khỏe mạnh trung b́nh trong đời người, Anh quốc xếp thứ 12. Đa số người Anh, theo nghiên cứu, có 68.6 năm khỏe mạnh mặc dù tuổi thọ trung b́nh là 79.9. Hoa Kỳ xếp thứ 17 trên 19 nước, với 67.9 năm khỏe mạnh. Tây Ban Nha đứng đầu với 70.9 năm khỏe mạnh so với tuổi thọ trung b́nh là 81.4. Phần Lan xếp chót bảng – đa số người dân nước này chỉ có 67.3 năm khỏe mạnh so với tuổi thọ 80.1. Các yếu tố hàng đầu ảnh hưởng sức khỏe người Anh là hút thuốc, huyết áp cao, béo ph́, ít vận động, uống rượu và chế độ ăn uống kém. |
Thuốc trụ/kháng sinh
1 Attachment(s)
Thuốc trụ/kháng sinh
UserPostedImage Bác sĩ Hồ Văn Hiền - VOA - 21.03.2013 Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia. Thính giả Lê Giang ở Philadelphia, bang Pennsylvania, email đến câu hỏi sau đây: “Xin hỏi về thuốc trụ sinh. Khi tôi c̣n ở Việt Nam cách nay khoảng 20 năm, đau bệnh ǵ đi các thầy thuốc cũng được cho uống ‘thuốc trụ sinh’, đứt tay, ghẻ lở cũng ra nhà thuốc mua bột thuốc trụ sinh xức vào, có lúc khỏi bệnh, có lúc không. Thuốc th́ lúc màu vàng, lúc màu đỏ, nhưng h́nh như đều có tên với cái đuôi là ‘cillin’. Khi tôi di dân sang Mỹ, thuốc trụ sinh không mua được dễ dàng như vậy nữa và phải có toa bác sĩ theo quy định về thuốc men ở Mỹ -- là điều tôi có thể hiểu được. Thế nhưng cách uống thuốc th́ khác, dường như lần nào phải uống trụ sinh, bác sĩ đều ra toa cho tôi phải uống 10 ngày liên tục, cho dù bệnh không c̣n thấy nữa sau vài ngày uống thuốc. Xin hỏi: 1. Thuốc trụ sinh và kháng sinh là một phải không? 2. Tên thuốc có đuôi “cillin” là trụ sinh có đúng không? Khi xưa, thời c̣n chiến tranh ở Việt Nam, tôi hay nghe nói đến thuốc penicillin lắm, bây giờ thuốc này có c̣n hữu dụng như vậy nữa hay không? 3. Tại sao phải uống thuốc trụ sinh 10 ngày liên tục như vậy, như trong trường hợp của tôi? 4. Uống trụ sinh nhiều bị vàng răng, có đúng không?" Chúng tôi đă chuyển thắc mắc cho bác sĩ Hồ Văn Hiền, và sau đây là phần giải đáp của bác sĩ Hiền: 1) Trụ sinh hay kháng sinh: ”trụ” - từ Hán Việt có nghĩa là “chống”, “kháng” có nghĩa tương tự. “Sinh” là đời sống. Trước 1975, miền nam VN gọi là trụ sinh, hiện nay gọi là kháng sinh để dịch từ antibiotic, (có lẽ theo tiếng quan thoại cũng gọi là kháng sinh) (anti=chống, “bio” đời sống, ví dụ biology là khoa học về đời sống.) 2) Penicillin: Sir Alexander Fleming (1881-1955) là một nhà bác học người Tô cách lan (Scottish), t́nh cờ t́m ra một chất do nấm Penicillium notatum sản xuất (1928). Fleming để quên không rửa một đĩa Petri cấy vi khuẩn staphylococcus, và mấy ngày sau, ông thấy một loại nấm từ đâu rơi vào, mọc trong môi trường cấy. Chung quanh các chỗ nấm mọc, vi khuẩn staphylococcus không mọc được, ông mới kết luận là những nấm này tiết ra một chất có khả năng chống lại vi khuẩn. Ông trích được từ môi trường cấy một chất mà ông đặt tên là penicillin (PNC). Nhờ đó mà năm 1945 ông được chung giải Nobel y khoa với hai nhà khoa học khác có công ứng dụng penicillin trong y học lâm sàng. Chất này được gọi là penicillin do tên của nấm (fungus) penicillium sản xuất ra nó. Tuy nhiên, hồi đó Fleming chỉ nghĩ đến dùng penicillin như một chất sát trùng ngoài da. Phải nhờ nhiều nghiên cứu khác th́ năm 1942 mới có những thử nghiệm lâm sàng dùng penicillin chữa bệnh trên người.Thuốc hồi đó cực kỳ hiệu nghiệm với một số vi khuẩn như vi trùng gây bệnh giang mai (syphilis), bệnh lậu (gonorrhea), vi trùng bệnh scarlet fever, là những bệnh ghê gớm nhất thời đó. Thuốc penicillin V để uống,c̣n có penicillin chích thịt hoặc truyền tĩnh mạch, thuốc procaine Penicillin chích thịt (tác dụng kéo dài hơn, chích mỗi ngày một lần, thuốc benzathine penicillin c̣n kéo dài hơn nữa, chỉ cần chích một tháng một lần, để chữa giang mai, ngừa viêm khớp thấp cấp tính (acute rheumatic fever). Sau này những thuốc trụ sinh khác được tổng hợp cũng như được khám phá ra từ các nguồn khác. Một số lớn thuốc tương tự trong gia đ́nh penicillin (“beta-lactam antibiotics”) tên có đuôi -cillin như amoxicillin, methicillin, được dùng cho những hoàn cảnh với nhu cầu khác nhau. Ví dụ ampicillin có quang phổ trị liệu rộng hơn penicillin, amoxicillin hấp thụ tốt hơn ampicillin, methicillin trị các vi khuẩn kháng penicillin. Hiện nay, người ta không dùng penicillin để rảy bột, thoa trên vết thương v́ các vi trùng ngoài da phần lớn đă lờn thuốc, thuốc PNC dùng vào vết thương rát và khó chịu, thuốc hấp thụ vào máu không đồng đều, đi vào các khe vết thương cũng không tin cậy, có thể gây cơ thể dị ứng với penicillin và nhất là có những thuốc thoa tốt hơn như bacitracin, neomycin, hay gần đây mupirocin (Bactroban) hiệu nghiệm với vi trùng staphylococcus hơn. 3) Tại sao bác sĩ dặn dùng trụ sinh trong 10 ngày? Thuốc dùng 10 ngày trong một số trường hợp mà bs sĩ ước tính, căn cứ trên các nghiên cứu lâm sàng, là thời gian 10 ngày cần để chữa cho dứt bệnh. Ví dụ, bệnh nhân bị nhiễm streptococcus Group A trong amidan, bác sĩ dặn uống mười ngày, dù hết nóng, hết đau họng. Lư do bs muốn dứt hẳn vi khuẩn trong người bệnh, để tránh hậu hoạ về sau, v́ nhiễm vi trùng này có thể gây ra bệnh thấp khớp cấp tính (acute rheumatic fever) là một bệnh có thể làm đau tim, viêm cơ tim, viêm và hư các van tim. Tuy nhiên, đây chỉ là ước tính, căn cứ trên thống kê số đông từng được nghiên cứu. Ví dụ khác, như thuốc azithromycin dùng chữ viêm tai giữa (otitis media) nhưng chỉ uống 5 ngày, trong lúc dùng amoxicillin th́ uống 10 ngày; đều là những khuyến cáo trên các nghiên cứu lâm sàng. Nhiễm trùng đường tiểu nếu chỉ ở bọng đái có thể chỉ uống kháng sinh một liều cao, hoặc ba ngày, nhưng nếu bs nghi nhiễm trùng liên hệ đến thận, có thể cho bệnh nhân uống 2-3 tuần kháng sinh, nhất là ở trẻ em, để tránh hư hại thận và các biến chứng về sau.Hay người bệnh lao có thể uống thuốc hàng tháng , hàng năm. Căn cứ trên những nghiên cứu mới, hiện nay y khoa Mỹ cũng như thế giới thiên về y khoa thực chứng (evidence based medicine), người ta xét lại rất thường xuyên, rất nhiều các khuyến cáo này. 4) Răng vàng do tetracycline (tetracycline tooth staining) Một số thuốc như thuốc kháng sinh loại tetracycline (oxytetracycline, chlortetracycline, minocycline), nếu trẻ em uống vào lúc chúng dưới 8 tuổi (lúc các răng thường trực đang thành h́nh), kháng sinh sẽ đi vào cơ cấu mô răng của chúng làm cho răng đổi màu vàng (sau đó có thể biến thành màu nâu), cũng như ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của các xương khác. Đàn bà có bầu cũng không được dùng tetracycline và các kháng sinh liên hệ v́ tác dụng tương tự trên thai nhi, làm răng sữa chúng bị vàng. Sau 8 tuổi dùng kháng sinh tetracycline không làm vàng răng. Các thuốc kháng sinh khác không làm vàng răng vĩnh viễn như tetracycline, trừ một số ngoại lệ như ciprofloxacin . Thường bác sĩ chữa cho các em đều biết chuyện này và tránh tetracycline cho trẻ em dưới 8 tuổi, trừ trường hợp bất khả kháng, dùng rất ngắn hạn. Chúc quư thính giả may mắn. Bác sĩ Hồ Văn Hiền |
Cuốn sách gây tranh luận tại Pháp: "Sự thật về cholesterol"
Cuốn sách gây tranh luận tại Pháp: "Sự thật về cholesterol"
UserPostedImage Tuần báo Le Nouvel Observateur giới thiệu về cuốn sách của Gs Philippe Even Trọng Thành Trong lĩnh vực y khoa tại Pháp từ một tuần nay, có một cuộc tranh luận với tâm điểm là cuốn sách « Sự thật về cholesterol » của giáo sư Philippe Even. Quan điểm chính của cuốn sách cho rằng lượng cholesterol cao trong cơ thể nh́n chung không phải là nhân tố gây ra các bệnh tim mạch, đi ngược lại một quan điểm phổ biến từ nhiều thập kỷ nay, được hầu hết y giới thừa nhận. Quan điểm này đă bị phản đối dữ dội, nhưng cũng có không ít người chia sẻ. Ngày 13/02, tuần báo Le Nouvel Observateur giới thiệu trên trang nhất cuốn sách của giáo sư Philippe Even và hàng tựa là tên của sách : « La vérité sur le cholestérol/Sự thật về cholesterol », với hàng tít phụ : « Nếu cholesterol không nguy hiểm. Giáo sư Even mở màn cuộc tranh luận ». Sách sẽ chính thức ra mắt bạn đọc vào ngày mai 21/02/2013. Le Nouvel Observateur ghi nhận : « Giáo sư Even dấn thân vào một cuộc hành tŕnh đầy thách thức mới : tận mắt thẩm định lại các nghiên cứu kinh điển về tính độc hại của cholesterol và các thử nghiệm lâm sàng với các thuốc statin, các dược phẩm giảm cholesterol rất mạnh – thị trường dược phẩm lớn nhất với doanh số 25 tỷ đô la năm 2011 ». Theo khẳng định của tác giả cuốn sách : « Không có cholesterol xấu. Người ta đă phóng đại tác dụng của nó. Nó không phải là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim và các tai biến mạch máu năo. Cholesterol là một phi vụ làm ăn, cho phép ngành công nghiệp dược phẩm ăn không 2 tỷ euro/năm, với việc bán ra một cách đại trà các thuốc statin giảm cholesterol ». Giáo sư Even cũng là đồng tác giả một cuốn sách gây sốc khác cách đây nửa năm : « Guide des 4.000 médicaments utiles, inutiles ou dangereux/Hướng dẫn về 4.000 dược phẩm có ích, vô ích hay nguy hiểm », trong đó có nhận định rằng các thuốc statin chỉ cần thiết đối với 9/10 trường hợp đang sử dụng hiện nay. Hàng loạt tổ chức y khoa, đặc biệt là tim mạch, cũng như nhiều bác sĩ ngay lập tức đă lên tiếng phản đối quan điểm của giáo sư Even, thái độ chủ quan « vơ đũa cả nắm » của tác giả cuốn sách, chủ yếu trong việc phủ nhận tác dụng của việc dùng các thuốc statin để hạ cholesterol, rất nguy hiểm đối với sinh mệnh của nhiều bệnh nhân đang điều trị bằng statin. Nếu biết rằng, tại Pháp có khoảng từ gần 5 triệu đến gần 7 triệu người sử dụng statin, tùy theo các nguồn thống kê khác nhau, th́ không khó khăn ǵ để đoán biết cuốn sách phủ nhận tác hại của cholesterol gây ra một làn sóng phản đối dữ dội như vậy. Trong số các tổ chức y khoa kư vào thông cáo chung ngày 18/02/2013 phản đối cuốn sách này, có nhiều hiệp hội bác sĩ tim mạch Pháp : Collège National des Cardiologues français, Collège des Cardiologues de Hôpitaux, Société français de cardiologie, Fédération française de cardiologie… La Haute Autorité de santé (HAS)/Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế Pháp, đă ra thông cáo về chủ đề này ngay vào ngày 14/02. Thông cáo của HAS nhắc lại rằng, tiếp theo một nghiên cứu phân tích vào năm 2010, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế HAS khẳng định các thuốc hạ cholesterol có tác dụng không thể tranh căi với mục đích ngăn ngừa các tai biến tim mạch tái phát. HAS cho biết các thuốc statin làm giảm nguy cơ tử vong 10% đối với nguy cơ tái phát tai biến tim mạch, đặc biệt với chứng nhồi máu cơ tim. C̣n đối với các trường hợp người không có tiền sử tai biến tim mạch, th́ HAS cho rằng, các thuốc hạ cholesterol chỉ nên dùng đối với những người nào cùng lúc với tỷ lệ cholesterol cao, có thêm nhiều nguy cơ gây tai biến tim mạch khác, như tiểu đường, huyết áp cao hay hút thuốc lá… Ngược lại, các trường hợp đối với người chỉ có lượng cholesterol cao, nhưng không có các yếu tố rủi ro khác, th́ việc dùng statin để hạ cholesterol là không cần thiết. Le Figaro trong bài « Cholesterol, những điều dối trá và những sự thực của giáo sư Even » th́ nhấn mạnh đến các lo ngại của HAS, về tác động của cuốn sách « khiến người bệnh lo lắng, khiến họ mất ḷng tin vào một trị liệu có hiệu quả và vào các bác sĩ của ḿnh. Làm tăng nguy cơ dừng các trị liệu đối với các bệnh nhân thực sự có nhu cầu, tác giả cuốn sách kể trên phải gánh chịu một trách nhiệm lớn ». Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế Pháp HAS cũng khuyến cáo các bệnh nhân « không nên tự ngừng dùng thuốc, nếu không có ư kiến của bác sĩ điều trị ». Quan điểm cho rằng cholesterol không có hại đối với hệ tim mạch, của bác sĩ Even trong cuốn sách sắp được phát hành, thực ra không hoàn toàn mới. Cũng theo Le Nouvel Observateur, từ đầu những năm 2000, tiếp theo « Những huyền thoại về cholesterol », cuốn sách của bác sĩ Thụy Điển Uffe Ravnskov, và tiếp theo hơn một trăm bài báo bảo vệ quan điểm này được đăng tải, 98 người - bao gồm các nhà nghiên cứu và các bác sĩ phủ nhận tác hại của cholesterol - đă tập hợp thành một mạng lưới Thincs (the International network of cholesterol skeptics) vào năm 2002. Mặc dù các nghiên cứu của nhóm được đăng tải trên một số tạp chí khoa học có uy tín như Lancet, nhưng quan điểm « tác hại của cholesterol chỉ là một huyền thoại » của họ ít được chú ư. Gần đây tại Pháp, cũng về chủ đề này, có cuốn sách của bác sĩ chuyên khoa tim mạch Michel Lorgeril, « Cholesterol, những lời dối trá và sự tuyên truyền », ấn hành năm 2007. Bác sĩ Lorgeril cũng là người từng đề xuất « nghịch lư Pháp » hay chế độ ăn uống đặc thù của khu vực Địa Trung Hải vào năm 1992, ghi nhận hiện tượng : Dù người Pháp và dân cư ở khu vực Nam Âu có tỷ lệ cholesterol cao tương đương người Mỹ, nhưng lại ít mắc các bệnh tim mạch hơn nhiều so với người Mỹ. Một trong các lư do của nghịch lư này là các cư dân tại khu vực Địa Trung Hải uống rượu vang và sử dụng các chất béo không băo ḥa có trong dầu ô liu, một thực phẩm phổ biến của khu vực. Cho dù có những bất đồng sâu sắc trong vấn đề sử dụng các thuốc statin hạ cholesterol giữa bên ủng hộ và bên chống, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế HAS, trong thông cáo kể trên nhân cuốn sách của giáo sư Even, cũng thừa nhận rằng các thuốc statin cho những người có nguy cơ tim mạch, không phải lúc nào cũng được kê đúng. HAS thừa nhận: « có một số trường hợp lạm dụng statin ở Pháp ; việc lạm dụng statin trong việc ngăn ngừa nguy cơ tim mạch ở những người không có tiền sử tai biến (…), ở những người mà nguy cơ bị tai biến không cao ». Về chủ đề này, Libération số ra ngày 13/02 có bài « Cholesterol, các thuốc statin bị chỉ trích dữ dội ». Libération lưu ư đến một số điều hợp lư trong quan điểm phản bác tác hại của cholesterol. Đặc biệt là góc nh́n của giáo sư Bernard Bégaud, người phụ trách một cơ sở theo dơi dược phẩm lớn nhất tại Pháp, có trụ sở ở Bordeaux. Bác sĩ Bégaud ghi nhận, kể từ hơn 10 năm nay, không có một nghiên cứu nào cho thấy các tác dụng tích cực của statin tại Châu Âu, đối với các bệnh nhân ở giai đoạn pḥng ngừa sơ cấp, tức là có tỷ lệ cholesterol hơi cao, nhưng chưa từng bị nhồi máu. Mà trên thực tế, các bác sĩ đă kê thuốc statin một cách phổ biến cho những người này. Ngay từ năm 2005, bác sĩ Bégaud đă cho rằng 20% trường hợp điều trị với statin là không cần thiết. Libération cũng lưu ư đến cái nh́n thận trọng của giáo sư Simon Weber, bệnh viện Cochin Paris, theo đó, bác bỏ hoàn toàn tác dụng của statin là « hồ đồ ». Bên cạnh đó, bác sĩ chuyên khoa tim mạch bệnh viên Cochin cũng nghiêm khắc chỉ trích áp lực của các tập đoàn công nghiệp dược phẩm, từ năm này qua năm khác, thúc đẩy việc sử dụng statin với liều cao, mà điều này là không cần thiết, thậm chí c̣n nguy hiểm. Hạ cholesterol bằng các thuốc statin có cần thiết hay không ? Nếu cần th́ trong những trường hợp nào ? Và rộng hơn nữa, để pḥng ngừa các căn bệnh tim mạch, các biện pháp căn bản là ǵ ?... Đây là những câu hỏi hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp một lần nữa lại đặt ra trong công luận Pháp, nhân cuốn sách của bác sĩ Even, trong bối cảnh nhiều bê bối dược phẩm quy mô lớn mới bị bung ra trong thời gian gần đây, như vụ Mediator. Giới chuyên gia cũng như công luận cũng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các chiến lược điều trị và chăm sóc sức khỏe sát thực, hiệu quả và chi phí tiết kiệm hơn. Phần phỏng vấn bác sĩ Nguyễn Ư Đức (Texas) RFI : Xin Bác sĩ cho biết về quan điểm phủ nhận tác hại của cholesterol đối với các bệnh tim mạch được nh́n nhận như thế nào tại Hoa Kỳ. BS Nguyễn Ư Đức : Đây là một vấn đề khá quan trọng, ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi, cho nên cũng chỉ xin có vài ư kiến hết sức căn bản, thông thường. Cho tới nay, ư kiến chung của y giới cũng như quần chúng tại Hoa Kỳ vẫn cho là cao cholesterol có liên hệ tới bệnh tim mạch. Và người ta đă đặt ra các tiêu chuẩn cholesterol tới mức độ nào là phải điều trị bằng được phẩm, bằng giảm tiêu thụ chất béo, chất cholesterol hoặc các phương thức khác… Tuy nhiên, từ lâu cũng đă có nhiều nghiên cứu cho rằng cao cholesterol không đưa tới bệnh tim mạch. Họ nêu ra kết quả nghiên cứu của Framingham, Boston, kéo dài 30 năm cho hay cao cholesterol là một rủi ro đưa tới bệnh tim mạch nhưng không giải thích tại sao, và ½ bệnh nhân có bệnh tim mạch th́ cholesterol lại thấp, trong khi đó ½ người không có bệnh tim mạch th́ cholesterol lại cao. Cũng nên để ư rằng yếu tố rủi ro (risk) không phải là nguyên nhân gây ra bệnh mà chỉ là một nguy cơ, một cơ hội để bệnh có thể xảy ra. Chẳng hạn có nghiên cứu nói là phụ nữ cao lớn thường hay bị bệnh ung thư nhũ hoa, th́ không có nghĩa là cứ cao lớn là bị ung thư này. Tất nhiên là không phải vậy. Có thể dẫn thêm một số nghiên cứu khác như một nghiên cứu tại Canada trong 12 năm cho hay cao cholesterol không liên quan ǵ tới bệnh tim mạch. Hoặc người Nhật thường được coi như ăn ít thực phẩm chứa cholesterol và ít có rủi ro bệnh tim. Khi họ định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục món ăn truyền thống th́ lại bị bệnh tim mạch nhiều hơn là người Nhật tiêu thụ món ăn Hoa Kỳ nhiều chất béo. Như vậy th́ có thể là có một rủi ro nào khác, chẳng hạn stress… Như vậy th́, tại sao cho là cao cholesterol đưa tới bệnh tim mạch vẫn c̣n rất phổ biến. Có ư kiến cho rằng các nhà sản xuất dược phẩm cũng như kỹ nghệ chế biến thực phẩm, v́ lợi nhuận tài chánh, vẫn liên tục bảo vệ quảng bá tin tưởng rằng cao cholesterol là xấu trong quần chúng, và quần chúng tin theo. Cho nên, nhiều người e ngại khi nói mức độ cholesterol không liên hệ tới bệnh tim là đi ngược với ư kiến được coi là không phải bàn căi hiện nay. RFI : Xin Bác sĩ cho biết thêm về cholesterol. BS Nguyễn Ư Đức : Cholesterol là một thành phần cần thiết của màng các tế bào, được dùng để sản xuất một số kích thích tố, tạo ra sinh tố D trên da bằng tia nắng, cũng như tạo ra acit mật để tiêu hóa chất béo... Cholesterol chiếm 70% các chất cấu tạo tế bào của năo bộ, cho nên cơ thể đă tự cung cấp tới 75% cholesterol. Khi ta tiêu thụ nhiều cholesterol, th́ cơ thể giảm sản xuất mà khi tiêu thụ giảm th́ cơ thể tăng sản xuất để giữ quân b́nh tự nhiên. Do đó giảm tiêu thụ cholesterol chưa đủ để hạ cao cholesterol. Vả lại, theo một số nghiên cứu, cholesterol chỉ bám vào thành động mạch bị tổn thương v́ lư do khác, như là đường quá cao, chất béo ôi hư. V́ thành động mạch b́nh thường rất trơn chu để máu lưu thông dễ dàng. Khi có một vết thương, th́ LDL (Low-density lipoprotein) mới dính vào đó mà gây ra rủi ro. RFI : Xin Bác sĩ cho biết quan niệm của Bác sĩ về việc pḥng ngừa các bệnh tim mạch. Chúng tôi cứ nghĩ rằng, cái quan niệm trung dung của Á đông vẫn là điều nên áp dụng, và nhà văn Hoa Kỳ Mark Twain có nói là ông tin tưởng ở sự vừa phải moderation trong mọi lănh vực (kể cả sự vừa phải). Cholesterol nói riêng, thức ăn nói chung, rất cần thiết cho cơ thể, nhưng sự cần thiết này có giới hạn. Nếu cung cấp quá giới hạn th́ cơ thể không sử dụng hết và phải t́m cách loại ra khỏi cơ thể, ấy là không kể sự bội thu gây ra sự mất cân bằng tự nhiên của các chức năng cũng như cấu trúc của cơ thể và gây ra rủi cho cho sức khỏe cũng như gây ra bệnh. Thành ra, trung dung vừa phải là điều cần. Tiêu thụ cho đúng với nhu cầu. Tiêu thụ đa dạng nhiều chất dinh dưỡng khác nhau, nhưng phải theo một tỷ lệ nhiều ít chấp nhận được. Như vậy sức khỏe mới được bảo toàn một phần nào. Rồi ta cũng cần áp dụng các phương thức bảo vệ sức khỏe khác như vận động cơ thể, ngủ nghỉ đầy đủ, giải trí thư giăn trí óc và tránh xúc động quá mức. Ngoài ra cũng nên để ư là kết quả nghiên cứu khoa học không có giá trị vĩnh viễn. Kết quả đúng hôm nay chưa chắc đă đúng vào vài năm nữa. V́ để phát triển, khoa học cần được liên tục nghiên cứu. Một kết quả mới được thông báo mới chỉ là kết quả sơ khởi, cần nhiều nghiên cứu khác có cùng ư kiến th́ kết quả đó mới được coi là chung kết và được phổ biến để dân chúng áp dụng... RFI : C̣n về thuốc hạ cholesterol, Bác sĩ có ư kiến như thế nào ? BS Nguyễn Ư Đức : Thực t́nh ra, những loại thuốc để hạ cholesterol, các nhà bào chế cũng đă lưu ư với giới tiêu thụ rằng, thuốc có thể gây ra một số những rủi ro cho cơ thể chúng ta. Đặc biệt nhiều người uống statin có cảm giác rằng đau nhức cơ bắp, đôi khi rất trầm trọng, tổn thương cho gan, thận, thần kinh, thậm chí tử vong mà lư do tại sao vẫn chưa được xác định. Lư do làm sao, th́ vẫn chưa xác định được, thành ra chúng tôi cũng chỉ xin thưa thế này. Khi sử dụng loại thuốc đó, th́ nhiều khi phải sử dụng lâu dài, chúng ta cũng phải hết sức dè dặt, theo dơi. Nếu có những biến chứng, hoặc có những khó khăn ǵ xảy ra, th́ phải cho bác sĩ hay, để bác sĩ có thể điều chỉnh cái lượng thuốc của ḿnh để giảm thiểu các rủi ro cho sức khỏe. |
Trung Quốc: Bố mẹ thích cho con uống sữa ngoại
1 Attachment(s)
Trung Quốc: Bố mẹ thích cho con uống sữa ngoại
UserPostedImage Baby Milk Formula VOA - 28.05.2013 Sau khi một đường giây bán thịt chuột được dán nhăn là thịt cừu bị phá vỡ, sau khi hàng ngàn heo chết được thả trôi trên sông Thượng Hải, bố mẹ người Trung Quốc bây giờ không biết nuôi bé sơ sinh bằng thức ăn ǵ. Nhiều người săn lùng sữa ngoại đến độ bây giờ có nạn buôn lậu sữa bột và nan khan hiếm sữa bột tại một số nước phương Tây. Bà Vũ Thiếu Sai cho đài CBS của Mỹ biết trong chuyến đi Mỹ mới đây, bà đă mua 1.800 đôla tiền sữa bột, đủ để dùng cho cháu bé của bà trong một năm rưỡi. Bà Vũ nói bầu trời ô nhiễm của Bắc Kinh là bằng chứng cho thấy có cái ǵ không ổn với sữa bột do Trung Quốc sản xuất. Niềm tin vào sữa bột Trung Quốc bị xói ṃn từ năm 2008 khi có 6 bé sơ sinh chết v́ dùng sữa bột có chất melamine, một hóa chất độc hại để làm bao plastic. Vụ tai tiếng này làm các nhà sản xuất sữa Trung Quốc đánh mất thị trường 12,5 tỉ đôla một năm về sữa bột trẻ em, và làm các nhà sản xuất nước ngoài có thương hiệu đáng tin cậy từ lâu tăng gấp đôi doanh số trong 5 năm qua. Các hiệu sữa nước ngoài bây giờ chiếm phân nửa thị trường tại Trung Quốc. Nguồn: CBS, foodworldnews.com |
Tử vong v́ thuốc giảm đau tăng nhanh ở nữ giới
1 Attachment(s)
Tử vong v́ thuốc giảm đau tăng nhanh ở nữ giới
UserPostedImage Tử vong liên quan đến việc kê toa thuốc giảm đau ngày càng tăng tại Hoa Kỳ trong thập niên qua. VOA - 03.07.2013 Trung tâm Kiểm soát và Pḥng chống bệnh của Hoa Kỳ, gọi tắt là CDC, cho hay việc dùng quá liều lượng các loại thuốc giảm đau mua phải có toa bác sĩ đang ngày càng phổ biến, nhất là ở phái nữ. Trung tâm này cho hay từ năm 1999 đến năm 2010 đă có 48.000 phụ nữ chết v́ dùng thuốc giảm đau quá liều lượng. Theo trung tâm này, số phụ nữ tử vong do dùng thuốc quá liều tăng 400% kể từ năm 1999, so với mức 265% ở nam giới. CDC nói rằng xu hướng tử vong ở nam giới vẫn cao v́ dùng quá liều các thuốc giảm đau có kê đơn, khoảng cách biệt này đang thu hẹp lại. Trung tâm này nói tỉ lệ tử vong liên quan đến việc kê toa thuốc giảm đau ngày càng tăng tại Hoa Kỳ trong thập niên qua. CDC kêu gọi giới chuyên môn trong ngành chăm sóc sức khỏe cần phải cảnh giác khi kê toa cho các loại thuốc giảm đau rằng phụ nữ gặp phải rủi ro cao hơn khi dùng thuốc qua liều. Các loại thuốc giảm đau được nêu ra trong báo cáo của trung tâm CDC gồm các loại opioid thông dụng hoặc các loại thuốc giảm đau có chất gây mê, như hydrocodone, oxycodone, oxymorphone và methadone. Back to top |
Các loại thuốc dùng chung có thể chữa viêm gan siêu vi C
Các loại thuốc dùng chung có thể chữa viêm gan siêu vi C
Carol Pearson - VOA - 25.09.2013 Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, ít nhất cũng có 150 triệu người trên thế giới bị bệnh viêm gan mạn tính gọi là Viêm gan siêu vi C. Bệnh này có đủ mọi mức độ từ nhẹ tới gây tử vong. Thông tín viên VOA Carol Pearson tường thuật rằng trong lúc không có loại vắc-xin nào để ngăn ngừa nó, các nhà khảo cứu đă t́m thấy một kết hợp các thuốc có thể chữa lành được các ca bệnh khó khăn. Các nhà khảo cứu lâu nay vẫn t́m cách để chữa lành hay ngăn ngừa viêm gan siêu vi C, một bệnh hay lây và có thể gây ra chứng suy gan, ung thư gan gây tử vong. Bác sĩ Anthony Fauci thuộc Viện Y tế Quốc Gia Hoa Kỳ nói về bệnh đó như sau: “Bệnh viêm gan siêu vi C măn tính là nguyên nhân hàng đầu khiến chúng ta phải ghép gan tại Hoa Kỳ.” Bác sĩ Fauci lănh đạo một cuộc khảo cứu tập trung vào các bệnh nhân sống trong những khu vực thành thị nghèo khó, hầu hết là người Mỹ gốc Châu Phi, đă mắc các bệnh gan. Những bệnh nhân này được sử dụng một loại thuốc mới, sofosbuvir chưa được chứng nhận bởi Cơ quan Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm FDA. Ông cho biết: “Sofosbuvir là một tác nhân đánh trực tiếp vào vi-rút viêm gan siêu vi C. Nó tác động vào một trong những enzyme quan trọng đối với loại vi-rút này để tái tạo chính nó.” Các bệnh nhân cũng nhận được rivavirin, một loại thuốc xưa hơn, chống lại viêm gan siêu vi C. Sau khi được sử dụng cả hai loại thuốc trong một khoảng thời gian, có từ 50 tới 70% bệnh nhân được chữa lành, và các xét nghiệm sau đó thấy không có vi-rút viêm gan siêu vi C trong máu họ. Liệu pháp này không dùng interferon, một loại thuốc thường hay chích để chống lại bệnh này. Interferon có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng khiến các nhà khảo cứu không muốn sử dụng, nhưng sự phối hợp các thuốc vừa thử chỉ có rất ít tác dụng phụ, và không có bệnh nhân nào phải bỏ cuộc, ngưng chữa trị. Viêm gan siêu vi C được coi như một kẻ giết người thầm lặng bởi v́ hầu hết không biết ḿnh bị nhiễm cho tới khi căn bệnh đă phát triển tới giai đoạn nghiêm trọng hơn. Chẩn đoán sớm sẽ ngăn ngừa được ung thư gan hoặc suy gan, và có nhiều cơ may được chữa lành, đó là lư do tại sao Bác sĩ Fauci nói rằng tích cực kiểm tra bệnh cũng quan trọng như t́m được thuốc dễ sử dụng. Ông nói: “Thúc đẩy người ta chẩn bệnh và nếu họ cần th́ cho họ một chế độ điều trị, là một vấn đề hết sức quan trọng của ngành y tế công cộng.” Cuộc khảo cứu này được đăng trên tạp chí Journal of the American Medical Association. |
Ông đă mất gần 60 kg mà không nói cho gia đ́nh của ḿnh, và làm họ được bất ngờ
1 Attachment(s)
Ông đă mất gần 60 kg mà không nói cho gia đ́nh của ḿnh, và làm họ được bất ngờ
UserPostedImage Francetv info : ông giảm gần 60 kg mà không có cho gia đ́nh của ḿnh, và làm họ được bất ngờ HTMT dịch tin tức báo điện tử Pháp - Francetv info - 08.1.2014 / Yahoo FR Trong một năm, từ 136 kg xuống c̣n 77 kg và ông đă giấu người thân của ḿnh. Một người Mỹ đă chú ư giữ ǵn ăn uống trong năm 2013 và mất gần 60 kg, ông quyết định gây bất ngờ cho gia đ́nh về việc giảm cân của ḿnh, web chuyên ngành của Hoa Kỳ Gawker ( tiếng Anh) cho hay hôm thứ Hai, 6-1-2014.Ông nói em gái cùng mẹ khác cha, quay phim phản ứng của cha mẹ khi họ phát hiện ra điều này trong mùa lễ. Ông đă không gặp họ trong một năm. Ông đăng video trên YouTube vào ngày 2,tháng Giêng, với bí danh Bob Jones . "Oh, chúa ơi, mẹ rất tự hào về con", mẹ ông kêu lên và ôm chầm lấy ông. Trước đó, em gái cùng mẹ khác cha của ông đă không nhận ra ông trước khi bà ngoại của ông nói với cô đấy là ai. "Khi cô tới nhà, cô ấy nh́n tôi và đi mà không có bất kỳ phản ứng nào", ông kể trên trang web. Trong cùng một trang web đă giải thích làm thế nào ông có thể giảm cân rất nhiều như thế. "Không có thực phẩm nào bị cấm, nhưng tôi chủ yếu là ăn salade với cá ngừ (cá thu), thịt gà nấu xốt, các loại rau đông lạnh, đậu và gạo, sandwich với thịt gà tây hoặc thịt ḅ nướng, rau dền và trứng. Khi tôi bị mất 100 £ [ 45 kg ], tôi bắt đầu đi bộ đến chỗ làm việc ( 8 km ) trong ṿng hai tháng cho đến khi thời tiết quá lạnh ngoài trời", ông viết, theo trang web Nouvel Obs nơi đă chuyển tiếp câu chuyện của ông hôm thứ Ba. |
Tác dụng của chất xơ và dược thảo Diên Hồ trong việc trị bệnh
1 Attachment(s)
Tác dụng của chất xơ và dược thảo Diên Hồ trong việc trị bệnh
UserPostedImage VOA - 09.01.2014 Một số chất xơ trong thực phẩm có thể pḥng ngừa bệnh suyễn, một chứng bệnh phổi mà cho tới gần đây chưa được nhiều người biết tới tại các nước đang phát triển. Các chuyên gia nói rằng số người mắc bệnh suyễn ngày càng gia tăng tại các quốc gia ít phát triển, v́ dân chúng ở đó chuyển thói quen ăn uống từ những thực phẩm có chất xơ cao sang các thực phẩm chế biến. Đồng thời các nhà khảo cứu đă khám phá ra công thức tự nhiên trong một cây dược thảo thời cổ đại, làm giảm bớt chứng đau nhức mạn tính trong đó có đau lưng. Hợp chất này trích ra từ củ của một loại cây hoa có tên là Diên Hồ (Corydalis) mà người Trung Hoa đă sử dụng để trị đau nhức từ nhiều thế kỷ trước. Câu chuyện Khoa Học và Đời Sống kỳ này đề cập tới hai cuộc khảo cứu dựa theo các bài tường thuật của thông tín viên đài VOA Jessica Berman. Chúng ta có hai loại chất xơ từ thực phẩm – không thể ḥa tan và có thể ḥa tan. Chất xơ không thể ḥa tan, từ các thực phẩm như ngũ cốc nguyên hạt, dưa chuột, và súp lơ xanh, trong đó có những thứ được gọi là chất không tiêu hóa được chỉ có tác dụng cơ học đối với ruột, giúp làm sạch ruột. Một cuộc khảo cứu mới do các nhà khoa học tại Thụy Sĩ gợi ư rằng, chất xơ có thể ḥa tan được - từ trái cây và rau - được phân hóa bởi vi khuẩn trong ruột có thể giảm bớt viêm phổi. Ông Benjamin Marsland là một nhà nghiên cứu miễn dịch tại Trường Đại học Lausanne. Ông nói trong một cuộc phỏng vấn qua Skype rằng cho tới gần đây bệnh suyễn hầu như không được biết tới tại các quốc gia nơi dân chúng ăn nhiều chất xơ có thể ḥa tan. “Tại một số quốc gia, chẳng hạn Burkina Faso, số lượng chất xơ ḥa tan được đưa vào cơ thể rất cao và không có phát triển dị ứng, trong khi tại các nước tây phương hóa, ta có một lượng hấp thụ chất xơ trong thực phẩm thấp và các loại dị ứng ngày càng gia tăng.” Vi khuẩn trong ruột phân hóa chất xơ có thể ḥa tan trong đó có pectin từ trái táo, từ các trái cây họ dâu và họ cam thành các acid béo. Ông Marsland nói rằng những acid béo này tương tác với các mô xốp bên trong xương, nơi các tế bào miễn nhiễm được tạo ra, và giúp điều tiết hệ thống miễn nhiễm hoạt động quá tích cực. Một phản ứng miễn nhiễm quá tích cực có thể dẫn tới viêm. Để xem chất xơ trong thực phẩm có thể ảnh hưởng tới phát triển bệnh tật bên ngoài đường tiêu hóa như suyễn chẳng hạn, ông Marsland và các đồng nghiệp đă khảo cứu hai nhóm chuột. Một nhóm chuột được nuôi bằng chế độ dinh dưỡng có hàm lượng chất xơ có thể ḥa tan cao trong hai tuần lễ, trong khi nhóm kia được nuôi với một chế độ dinh dưỡng với mức pectin thấp. Cả hai nhóm sau đó được phơi nhiễm ve bụi, nguyên nhân chính gây bệnh suyễn, một điều kiện có dấu hiệu viêm phổi, làm hẹp lại khí quản và thở kḥ khè. Ông Marsland nói rằng, những con chuột ăn ít chất xơ có thể ḥa tan phản ứng mạnh với dị ứng bụi trong đó có sự hiện diện của các hợp chất gây viêm phổi và làm nghẽn khí quản tương tự như những ǵ ta thấy ở loài người. Những con chuột ăn thực phẩm phong phú về pectin, có mức độ tế bào miễn nhiễm thường tăng cao trong dị ứng suyễn.Ông Marsland nói tiếp: “Như vậy cơ chế qua đó chế độ dinh dưỡng giúp cho phổi là chất xơ dinh dưỡng thay đổi vi khuẩn trong đường ruột, thay đổi chất chuyển hóa trong hệ thống tuần hoàn, và việc đó ảnh hưởng tới phương cách phát triển của các tế bào miễn nhiễm.” Các nhà khảo cứu xác nhận những phát hiện của họ bằng cách chích cho những con chuột này một chuỗi ngắn acid béo khác. Lại một lần nữa có ít hơn các chỉ dấu viêm trong số những con chuột được chích hợp chất này. Bài báo mô tả sự liên hệ giữa chất cơ có thể ḥa tan và suyễn được đăng trong tạp chí Nature Medecine. Cây Diên Hồ (Corydalis) chủ yếu mọc ở miền đông trung bộ Trung Quốc. Trong suốt hàng ngàn năm, dân chúng tại quốc gia châu Á này đă thu hoạch củ của loại cây này và luộc chúng trong dấm. Hỗn hợp này chế biến với trà và được sử dụng để trị đau nhức. Mặc dù Diên Hồ hữu hiệu trong việc làm giảm bớt tất cả các loại đau nhức, trong đó có đau nhức tạm thời và đau viêm khớp mạn tính, Diên Hồ có thể mang lại lợi ích lớn nhất trong việc điều trị đau nhức dai dẳng mà các chuyên gia nói rằng hiện chưa có được một loại thuốc tốt cho chứng bệnh này. UserPostedImage Cây Diên Hồ (Ảnh: Creative Commons-Wikimedia) Một nhà khảo cứu thuộc Trường Đại học California phân hiệu Davis, ông Olivier Civelli, nói rằng hoạt chất trong cây Diên Hồ đă được các nhà khảo cứu xác định là dehydrocorybulbine hay DHCB. Trong những cuộc thí nghiệm trên thú vật, DHCB có vẻ hữu hiệu trong việc làm giảm bớt đau nhức mạn tính ở mức độ thấp. Cây này thuộc ḍng họ của cây anh túc. Ông Civelli giải thích rằng loại thuốc được gọi là opiod giống như morphine thường được được dùng để điều trị đau nhức mạn tính chỉ nên sử dụng một thời gian ngắn bởi v́ tính chất gây nghiện của nó. Nhưng DHCB có vẻ vừa hữu hiệu, vừa không gây nghiện trong việc điều trị chứng đau nhức dai dẳng. Ông nói: “Như vậy, điều chúng tôi t́m thấy là hợp chất của chúng tôi không có tác dụng như vậy. Nó không bị mất tác dụng qua thời gian. Bởi v́ chúng tôi đă chích cho thú vật trong bảy ngày và tác dụng giảm đau mà chúng tôi thấy là vẫn ổn định.” Các thuốc gây nghiện hoạt động theo chiều hướng của morphine trong năo bộ. Nhưng ông Civelli nói rằng có vẻ như DHCB hoạt động qua một hóa chất vận chuyển trong năo bộ khác được gọi là một dopamine D2 thụ thể, mà các cuộc khảo cứu gợi ư là đóng một vai tṛ trong cảm giác đau. Ông Civilli và các đồng nghiệp đă khám phá DHCB như là một phần trong dự án “dược thảo” để xác định và sắp loại công thức hoạt động trong y học cổ truyền Trung Hoa. Ghi nhận rằng việc phát triển một loại thuốc mới có thể tốn kém một tỉ đô la hay hơn, ông Civili nói rằng dự án này có mục đích khám phá những hợp chất thiên nhiên rẻ tiền hơn. Ông nói: “T́m cách hiểu tại sao dân tộc Trung Hoa đă sử dụng loại dược thảo này từ khoảng ba ngàn năm trước? Và dược thảo này hữu hiệu. Có bao nhiêu hợp chất ngoài thị trường có thể giúp làm giảm bớt đau nhức ? Và đó là lư do khiến chúng tôi quan tâm tới công cuộc khảo cứu hiện nay.” Các dược thảo liên quan tới cây Diên Hồ có thể mua trên Internet, nhưng nếu không có thêm các cuộc thí nghiệm nữa để biết chắc chúng an toàn, th́ ông Civelli sẽ không khuyên mọi người sử dụng chúng. Một bài báo về việc khám phá công thức thuốc làm giảm đau ở dược thảo cổ truyền của Trung Hoa sử dụng cây Diên Hồ được đăng trong tạp chí Current Biology. Back to top |
multivitamin chỉ phí tiền
1 Attachment(s)
Nghiên cứu mới: Xài multivitamin chỉ phí tiền
Monday, January 20, 2014 6:55:13 PM HOA KỲ (NV) - “Hăy ngưng phí phạm tiền bạc cho mấy thứ thuốc bổ đa sinh tố (multivitamin). Chúng chẳng ích lợi chút nào!” HNGN.com trích dẫn lời nhắn của các nhà khảo cứu qua một nghiên cứu mới nhất gửi đến chúng ta. UserPostedImage (H́nh minh họa: Justin Sullivan/Getty Images) Thông điệp này muốn nhắn nhủ đến những người hiện đang có một chế độ kiêng cữ “tương đối tốt,” biết lo cho sức khỏe nhưng không hay biết đến thông tin liên quan đến ngành kỹ nghệ trị giá $53 tỉ ở nước Mỹ. Theo thống kê, khoảng 53% người Mỹ đang dùng ít nhất một loại thuốc bổ nào đó. Bài viết mới được đăng trên tập san Annals of Internal Medicine, theo đó ba cuộc nghiên cứu về lợi ích do thuốc bổ đa sinh tố mang lại cho thấy chúng chỉ là con số không. Nghiên cứu phân tích tác dụng của thuốc bổ đối với bệnh tim mạch, ung thư, mức tử vong và sự giảm thiểu nhận thức. Họ khám phá thấy không có sự khác biệt nào giữa người có dùng thuốc bổ với người không hề uống. Các nhà khảo cứu ghi nhận rằng mua thuốc bổ là hoàn toàn phí phạm tiền bạc, đặc biệt đối với người không bị vấn đề thiếu sinh tố nào và người biết ăn uống có đầy đủ sinh tố. Thuốc bổ thảo mộc là ngành kỹ nghệ trị giá $5 tỉ bạc. Nhiều người xoay qua uống dược thảo thay v́ thuốc theo toa bác sĩ, tin tưởng rằng làm vậy có được sức khỏe tốt hơn. Lư do v́ chúng được quảng cáo là bào chế từ “thiên nhiên” và chất “hữu cơ”. Chúng được bày bán ở khắp các tiệm thuốc. Điều mà người ta không ư thức được là những nghiên cứu trước đây cho thấy dược thảo mang lại hơn 50,000 hiệu ứng tai hại. Cơ thể con người chỉ có thể hấp thụ một vài liều lượng vitamin và khoáng chất mỗi ngày. Khi vượt qua giới hạn, lượng dư thừa sẽ bị tống khứ ra ngoài theo đường tiểu. Các sinh tố ḥa tan trong chất béo tích tụ trong cơ thể, sau này gây hại cho sức khỏe. Các nhà nghiên cứu ở Cleveland Clinic nhận thấy rằng thặng dư vitamin E làm gia tăng nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt. Nghiên cứu khác cũng khám phá thấy dùng quá nhiều vitamin A gia tăng nguy cơ bị rỗng xương và nứt xương hông. Tuy nhiên, mặc dù những khám phá từ nghiên cứu mới này, nhiều chuyên gia về sức khỏe vẫn bênh vực cho thuốc bổ multivitamin. Theo họ, nhiều người bị bệnh kinh niên không ăn được thức ăn có đầy đủ sinh tố, thuốc bổ đa sinh tố là giải pháp duy nhất đối với họ. Có người không dùng nhiều rau quả nên cũng cần đến multivitamin. Vitamin B12 là thứ sinh tố cần yếu chỉ có trong thịt, do đó người ăn chay phải lệ thuộc vào multivitamin để có đủ lượng sinh tố hằng ngày. Nói tóm lại, dựa theo các nghiên cứu, không thể cho rằng multivitamin là vô bổ cho cơ thể, mà chính là sự tiêu thụ thái quá mới có hại mà thôi. (T.P.)/NV Back to top |
Benefits of H20
1 Attachment(s)
Water! Water@
|
NHỮNG TRIỆU CHỨNG CẦN LƯU Ư CHO NGƯỜI CAO TUỔI
NHỮNG TRIỆU CHỨNG CẦN LƯU Ư CHO NGƯỜI CAO TUỔI
1- Bỗng nhiên thấy tức thở Lư do: có thể là do nghẽn mạch phổi(pulmonary embolus). Nhận xét: Cảm thấy khó thở sau khi tập thể dục hay đang ngồi có thể là do vận động hay do ưu tư lo lắng. Nhưng nếu đột nhiên bị khó thở có thể là do chứng nghẽn mạch phổi do cục đông máu làm nghẹt mạch máu trong phổi. Bệnh này có thể nguy hiểm tới tính mạng. Một lư do khác là tim lên cơn đau hoặc trụy tim. Cả hai t́nh huống trên đều làm cho bệnh nhân thở gấp hay khó chịu hoặc cảm thấy thiếu không khí . Cẩn đưa bệnh nhân đi cấp cứu. 2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên Lư do: có thể là do lên cơn đau tim (heart attack). Nhận xét: Đánh trống ngực (palpitations) có thể chỉ là v́ ưu tư lo lắng, nhưng cũng có thể là dấu hiệu của cơn đau tim hay chứng loạn nhịp tim (arrhythmia) .Nên liên lạc với bác sĩ ngay. 3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường Lư do: có thể là do huyết áp thấp. Nhận xét: Chóng mặt vào buổi sáng được gọi là "huyết áp thế đứng thấp" (orthostatic hypotension) gây ra bởi sự loại nước (dehydration) , bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, bệnh trụy tim, hay thuốc men bao gồm cả thuốc lợi tiểu và thuốc huyết áp. Một lư do khác có thể là chứng "chóng mặt tư thế nhẹ " (benign positional vertigo) gây ra bởi sự xáo trộn của các bộ phận cân bằng của tai trong. Nên đi gặp bác sĩ để chẩn đoán. 4- Nước tiểu ṛ rỉ Lư do: có thể là do chứng són đái (urinary incontinence) mà nguyên nhân không phải v́ lăo hoá, nhiểm khuẩn đường tiểu (urinary tract infection-UTI) , bệnh tiền liệt tuyến, dây thẩn kinh bị ép. hoặc tiểu đường Nhận xét: đi gặp bác sĩ để chẩn đóan 5- Đầu đau như búa bổ Lư do: có thể là do xuất huyết năo Nhận xét: Trong phần lớn trường hợp đó là triệu chứng của chứng nhức nửa đầu (migraine) chỉ cần uống thuốc giảm đau và nghỉ ngơi là hết. Nhưng một vài trường hợp hiếm xẩy ra là chứng nhức đầu có thể là dấu hiệu có khối u hay xuất huyết trong năo. Cẩn đặc biệt chú ư là khi bị đau nhiều nửa bên đầu một cách đột ngột và kéo dài mà lại kèm theo buồn nôn, ói mửa, và chảy nước mắt. Trong trường hợp sau này phải đi bệnh viện gấp. 6- Mắt bị sưng vù Lư do: có thể là do viêm dây thần kinh mắt (optic neuritis). Nhận xét: Dây thần kinh mắt có thể bị nhiễm khuẩn hay bị dị ứng. Nếu chữa sớm th́ không hại ǵ cho mắt v́ vậy cần đi bác sĩ khẩn cấp. 7- Tai đau và mắt nh́n thấy hai h́nh (song thị) Lư do: có thể do tai giữa bị nhiễm khuẩn Nhận xét: Bệnh có thể trở thành nghiêm trọng bất ngờ v́ vậy cần đi bác sĩ cấp thời nếu chứng đau không dứt và/hoặc có bị thêm chóng mặt lảo đảo, nhức đầu, ói mửa, song thị, nửa ngủ nửa thức, cổ cứng đơ, sưng ở sau tai, sốt nhiều và liệt mặt. 8- Tự nhiên giảm sút kư Lư do: có thể là do ung thư. Nhận xét: Nếu ăn uống vẫn b́nh thường như cũ mà đột nhiên bị sút cân th́ có thể là bị bệnh ác tính. Một nguyên nhân khác cũng có thể là do sự bất b́nh thường nội tiết (endocrinic abnormality) như bệnh tuyến giáp trạng (thyroid disorder), trầm cảm hay tiểu đường. Nên đi gặp bác sĩ ngay để chẩn đoán. 9- Đột nhiên đau háng Lư do: có thể là do tinh hoàn bị xoắn Nhận xét: Đây là một khuyết tật bẩm sinh khá thông thường. Ống dẫn tinh trùng bị xoắn làm máu không chạy tới tinh hoàn. Cơn đau cũng giống như bị đá vào háng. Đôi khi ngoài cơn đau c̣n thấy bị sưng nữa. Trong ṿng 4 hay 6 tiếng th́ c̣n cứu đươc, chứ trễ từ 12 đến 24 tiếng th́ coi như phải cắt bỏ. Một nguyên nhân khác có thể là nhiểm khuẩn mào tinh hoàn (epididymis) tức là bộ phận trữ tinh trùng. Trong trường hợp này có thể dùng trụ sinh để chữa trị. 10 - Đau nhói gan bàn chân Lư do: có thể là do bệnh thần kinh (neuropathy) . Nhận xét: Đau nhói cứ tái phát ở bất cứ chỗ nào trên cơ thể có thể là do sự nén ép dây thần kinh, tăng thông khí phổi (hyperventilation) hoặc bệnh thần kinh. Liên lạc với bác sĩ càng sớm càng tốt. 11- Vết thâm tím măi không tan Điều ǵ xẩy ra: Lư do: bệnh tiểu đường. Nhận xét: Vết đứt hay thâm tím chậm lành có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường (dấu hiệu khác gồm có da bị ngứa hoặc đau nhói bàn tay hay bàn chân). Nên t́m cách giảm cân (giảm 10 phẩn trăm trọng lượng ảnh hưởng đáng kể lên mức đường trong máu), tập thể dục và coi chừng thói quen ăn uống. 12 - Răng đau buốt khi ăn Sô-cô-la Điều ǵ sẽ xẩy ra: Lư do: viêm lợi. Nhận xét: Một trong những dấu hiệu đầu tiên của sâu răng là nhạy cảm với đồ ngọt. Dấu hiệu đầu tiên khác là răng mất mầu và có mùi khi cà răng. Kỹ thuật laser có thể phát hiện sớm các ổ răng sâu và tiêu diệt các vi khuẩn trước khi làm sâu răng. 13 - Ṿng eo rộng 42 inch Điều ǵ sẽ xẩy ra: Lư do: bất lực. Nhận xét: Có thể bây giờ chưa có vấn đề nhưng trong tương lai bạn có thể bị loạn năng cường dương (erectile disfunction) . Nguyên do là v́ khi đàn ông quá mập các động mạch thường hay bị nghẹt nên ḍng máu không đủ làm cho cương. Hăy tập thể dục đều cho đến khi eo thon lại, thắt vừa dây lưng 34 inch. 14 - Mắt thoáng không thấy ǵ - chỉ trong một giây Lư do: có thể là do đột quỵ (stroke). Nhận xét: Các yếu tố rủi ro chính của đột quỵ là cao huyết áp (trên 140/90) và cholesterol toàn phần cao hơn 200. Bị tê một bên người và tạm thời hai mắt không nh́n thấy ǵ là những dấu hiệu đáng chú ư nhất. Đột nhiên bị tê, nói liú lưỡi, hay mất thăng bằng có thể là bẳng chứng của một cơn đột quỵ nhẹ gọi là đột quỵ thiếu máu cục bộ đoản kỳ (transient ischemic attack- TIA). Đột quỵ nhẹ này thường báo trước một đột quỵ thật sự nên khi có triệu chứng của TIA th́ phải gặp bác sĩ ngay. 15 - Có cảm giác như bị ợ nóng (heartburn) Lư do: có thể là do chứng đau thắt (angina). Nhận xét: Đau ngực cả hàng giờ, lúc có lúc không, được bác sĩ gọi là "hội chứng mạch vành không ổn định" (unstable coronary syndrome). Nguyên nhân là v́ các cục đông máu đươc tạo thành bên trong thành động mạch vành ngay tại chỗ mảng (plaque) bị bể vỡ. Khoảng 50 phẩn trăm những người có hội chứng trên đây sẽ bị lên cơn đau tim trong ṿng 6 tháng sau. Mỗi khi thấy đau thắt ngực, cần phải đi bệnh viện. 16 - Đau lưng nhiều Lư do: có thể là do chứng ph́nh mạch (aneurysm). Nhận xét: Đau cũng tương tự như vừa dọn dep xong tủ quẩn áo bề bộn. Thế nhưng chườm nóng, nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau thông thường lại không khỏi. Nếu không phải v́ tập thể dục th́ đau lưng bất chợt như vậy có thể là dấu hiệu của chứng ph́nh mạch. Chứng đau này chỉ hết khi động mạch chủ bị bể. Một nguyên nhân khác của chứng đau lưng này - kém phần nguy hiểm hơn - là sạn thận. Bác sĩ cho chụp CT scan để xác định vị trí và h́nh dạng của chỗ mạch ph́nh, sau đó cho uống thuốc huyết áp hay giải phẫu ghép nối nhân tạo. 17- Ngồi lâu trên ghế không yên Lư do : có thể do các cơ lưng bị căng thẳng. Nhận xét : Nếu cứ phải thay đổi vị thế ngồi luôn tức là có dấu hiệu các cơ lưng bị căng thẳng và điều này có thể dẫn đến đau lưng dưới. Cẩn phải lựa chọn ghế ngồi cho thoải mái, sao cho đầu ở vị trí ngay đối với cột sống để giảm tối thiểu sức căng thẳng trên cổ, vai và lưng dưới. 18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp Điều ǵ sẽ xẩy ra: bạn cũng sẽ bị cao huyết áp luôn. Nhận xét: V́ bệnh cao huyết áp vừa phải không có dấu hiệu bên ngoài nên cẩn phải đo huyếp áp mỗi năm một lần, nhất là nếu trong gia đ́nh có tiền sử bị cao huyết áp. Nghiên cứu cho thấy là những người bị căng thẳng tinh thần v́ cha mẹ mắc bệnh cao huyết áp cũng có nhiểu rủi ro bị bệnh này luôn. Nếu số đo huyết áp cao hơn 140/90, bạn nên tập thể dục nhiều hơn, t́m cách sụt cân, giảm sodium trong chế độ ăn uống, ăn loại cá tốt cho tim, uống nhiều vitamin C. 19 - Tay bị run khi tập thể dục Lư do: có thể là do cơ bắp bị mỏi mệt. Nhận xét: Nếu bạn đă bỏ tập cả nhiều tháng th́ cơ bắp bị run có thể là v́ mệt mỏi. V́ vậy khi mới tập trở lại bạn nên tập vừa phải, đừng tập quá mệt. Bạn hăy ngưng tập khi cảm thấy các cơ bắp bắt đầu run. 20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng Lư do: do bạn đă quá chén. Nhận xét: Rượu làm suy yếu hệ thần kinh trung ương. V́ vậy nếu bạn uống quá nhiều, tất cả những ǵ trong cơ thể có liên quan tới hệ này sẽ đều bị suy yếu: trí phán đoán, khí sắc, khả năng phối hợp và quân b́nh, sự nhạy cảm với đau đớn, khả năng sinh dục… Bạn nên tránh đừng uống rươu nhiều. Bạn nên nhớ là nếu nồng độ rượu trong máu hơn 0.06 phần trăm là trên pháp lư bạn đă bị coi như là say rượu. 21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân Lư do: nhiều triển vọng là do gẫy xương v́ sức nén (stress fracture). Nhận xét: Cũng giống như các mô khác trong cơ thể, xương tự tái tạo. Nhưng nếu bạn tập thể dục quá mạnh, xương không có cơ hội để lành trở lại nên một vết gẫy v́ sức nén (stress fracture) sẽ có thể xuất hiện. V́ thế mu bàn chân và phiá trước cẳng chân sẽ đau dai dẳng. Bạn càng tập thể dục th́ càng đau và ngay cả khi ngưng nghỉ cũng đau. Uống thuốc ibuprofen hay paracetamol không ăn thua ǵ. Thuốc mầu phóng xạ cho thấy chỗ xương gẫy qua h́nh chụp tia X, và bác sĩ sẽ bắt bạn phải nghỉ tập cho đến khi xương lành. Trường hợp xấu nhất là bạn phải bó bột vài tuần. 22 - Đau như cắt ở bụng Lư do: V́ vùng giữa xương sườn và háng có kẹt đầy các bộ phận nên đau có thể là triệu chứng hoặc của viêm ruột thừa, viêm tụy tạng hoặc của túi mật bị sưng. Cả ba trường hợp đểu có cùng một nguyên nhân : v́ một lư do nào đó các bộ phận này đă bị nhiễm khuẩn nguy hại đến tính mạng. Nhận xét : Nếu để bộ phận nói trên bể vỡ ra th́ bệnh nhân có thể bị chết, v́ vậy cẩn đi bệnh viện cấp thời. 23- Cẳng chân bị đau và sưng to Lư do: có thể là do chứng huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis –DVT). Nhận xét: Chỉ cẩn ngổi một chỗ liền chừng 6 tiếng hay hơn là máu sẽ tụ ở cẳng chân dưới tạo thành cục đông máu (gọi là chứng huyết khối tĩnh mach sâu). Cục đông máu đủ lớn sẽ làm nghẹt tĩnh mạch bắp chân gây đau và sưng. Xoa cẳng chân là điểu đầu tiên bạn sẽ làm nhưng cũng là điều tệ hại nhất v́ cục đông máu lớn có thể chạy ngược lên phổi, điều nầy gây nguy hiểm đến tính mạng của bạn. Muốn chụp h́nh tia X để định bệnh DVT bác sĩ phải chích chất mẩu vào tĩnh mach. Bác sĩ sẽ cho thuốc làm tan cục đông máu hoặc đặt cái lọc vào tĩnh mạch để chặn cục đông máu không cho chạy lên phổi. 24 - Tiểu tiện bị đau Lư do: có thể là do ung thư bàng quang (bọng đái). Nhận xét: Rặn tiểu là cả một cực h́nh và nước tiểu lại có màu rỉ sắt. Đau và máu trong nước tiểu là hai triệu chứng của ung thư bàng quang. Hút thuốc là yếu tố rủi ro bị bệnh lớn nhất. Nếu khám phá sớm bệnh có 90 phẩn trăm triển vọng được chữa khỏi. Nhiễm khuẩn bàng quang cũng có cùng các triệu chứng như trên (Theo "24 warning signs you cannot afford to ignore"). (st) / MGP Back to top |
« Ăn uống đúng cách » vừa thoát bệnh, vừa cứu Trái đất
« Ăn uống đúng cách » vừa thoát bệnh, vừa cứu Trái đất
Ăn uống sai cách có hại cho sức khỏe là điều đông đảo mọi người ngày càng hiểu rơ. Tuy nhiên, c̣n ít người gắn liền việc ăn uống đúng cách, có lợi cho sức khỏe cá nhân, với việc bảo vệ môi trường tự nhiên, hay nói cách khác đối với « sức khỏe » của hành tinh. Hôm thứ Tư vừa qua, trên The Lancet, tạp chí y học nổi tiếng Anh Quốc, 37 nhà khoa học (từ 16 quốc gia) công bố « Thực đơn lư tưởng » có tên gọi « Sức khỏe Hành Tinh / Planetary Health ». Nếu nhân loại thực hiện được thực đơn này, ít nhất sẽ có 11 triệu người thoát chết hàng năm, và đồng thời lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ giảm mạnh và đa dạng sinh học được bảo vệ. Bí quyết của thực đơn này là ǵ ? Theo nghiên cứu được công bố trên The Lancet, Thực đơn lư tưởng hàng ngày gồm trung b́nh 300 gram rau, 200 gram quả, 200 gram hạt toàn phần các loại (gạo, ngô…), 250 gram sữa hoặc thực phẩm tương đương, nhưng chỉ có 14 gram thịt đỏ. Để bù vào lượng protein thiếu hụt, có thể thay thịt đỏ bằng thịt gia cầm (29 g), cá (28 g), trứng (13 g) hay các loại hạt có chứa nhiều protein, như hồ đào, óc chó… (50 g). Tiêu thụ thịt ở quy mô lớn tại các nước giàu, các nhóm xă hội khá giả ở những nước đang phát triển không những gây tổn hại cho sức khỏe của chính người sử dụng mà cho cả môi trường, và là một nguồn khí thải gây hiệu ứng nhà kính quan trọng. Thay đổi lớn cần có trong chế độ ăn với cư dân các nước phát triển là tăng gấp bội lượng rau quả và các loại hạt, đồng thời giảm ít nhất là một nửa lượng thịt và đường, trong khẩu phần ăn hàng ngày. Cụ thể là với người Mỹ, trung b́nh cần giảm tiêu thụ « thịt đỏ » 20 lần so với hiện nay (đang ở mức 280 gram/ngày), với người Pháp, khoảng 3 lần (46 gram/ngày). « Thay đổi triệt để chế độ ăn » là có thể Giáo sư Tim Lang, Đại học Luân Đôn, người lănh đạo cuộc nghiên cứu nói trên, nhấn mạnh là trong vấn đề ăn uống, nhân loại đang phạm phải « những sai lầm nghiêm trọng ». Tại các nước phát triển hay đang tăng trưởng mạnh, hàng loạt căn bệnh măn tính, như béo ph́, tiểu đường, huyết áp, hoặc một số loại bệnh ung thư là do chế độ ăn uống không đúng cách. Theo nghiên cứu nói trên, ăn uống thừa chất và không đúng cách là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Người chết do nguyên nhân này c̣n cao hơn cả tổng số người thiệt mạng do tiêu thụ rượu, thuốc lá, ma túy, quan hệ t́nh dục không được bảo vệ. Ước tính khoảng 2,4 tỉ dân cư thế giới đang sử dụng quá nhiều thực phẩm so với mức cần thiết. Ngược lại với t́nh trạng ở các nước phát triển, tại phần c̣n lại của thế giới, hơn 800 triệu người hoặc thiếu ăn, hoặc phải sử dụng thực phẩm không bảo đảm chất lượng. Đây là nguồn gốc của nhiều bệnh tật và tử vong sớm. Theo giáo sư Tim Lang, việc « thay đổi triệt để chế độ ăn » trong thế kỷ 21 là điều tuy khó, nhưng không phải là không thể được, bởi kinh nghiệm cho thấy chế độ ăn uống của con người đă thay đổi rất nhiều trong thế kỷ 20. Những ai có dịp sống qua nhiều thời kỳ, nhiều xă hội, nhiều điều kiện khác nhau, th́ ngay trong thời gian một đời người cũng có thể ghi nhận điều này. Các nhà nghiên cứu không hy vọng toàn nhân loại áp dụng nhất loạt « Thực đơn lư tưởng » này. Chỉ cần áp dụng một phần t́nh trạng sức khỏe cá nhân và sức khỏe của hành tinh cũng có đă có những cải thiện trông thấy. |
thể thao hiệu nghiệm như thuốc »
thể thao hiệu nghiệm như thuốc »
Thể dục, thể thao đều đặn thường xuyên là liều thuốc ngừa bệnh hiệu nghiệm nhất. Đó là kết quả kiểm chứng khoa học vừa được công bố. Với tựa « thể thao hiệu nghiệm như thuốc », Le Figaro công bố kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu y tế và khoa học Pháp Inserm. Sau hai năm nghiên cứu, với 1800 chương tŕnh khoa học chuẩn bị cho xu hướng lăo hóa tại Pháp, Inserm cho biết nếu tập luyện ba lần mỗi tuần và kiên nhẫn lâu dài, 10 loại bệnh kinh niên như tiểu đường loại 2, suyễn, béo ph́, suy tim có thể được cải thiện đến 25%. |
XOA BÓP HUYỆT VỊ Ở CHÂN MỖI NGÀY,
XOA BÓP HUYỆT VỊ Ở CHÂN MỖI NGÀY,
HIỆU QUẢ DƯỠNG SINH HƠN THUỐC BỔ Dưỡng sinh chân trần là một loại phương pháp rất đặc biệt, bởi vì lòng bàn chân có rất nhiều huyệt vị, đi lại bằng chân trần có thể kích thích huyệt vị lòng bàn chân, do đó dẫn đến hiệu quả dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe. Đi bằng chân trần giúp tăng cường khả năng chống lạnh, khiến cơ thể ít sinh bệnh, còn có thể kích thích đầy đủ lòng bàn chân, do đó tăng cường khả năng của não bộ. Kích thích huyệt vị bàn chân thời gian dài sẽ làm tăng tuần hoàn máu, trị liệu bệnh ở chân cũng rất tốt. NHỮNG ĐIỂM TỐT CỦA DƯỠNG SINH BẰNG CHÂN TRẦN: 1. CHÂN TRẦN LĂN QUẢ BÓNG TENNIS, GIẢM ĐAU LƯNG Bạn có thể thử đem quả bóng tennis đặt ở dưới lòng bàn chân, chầm chậm lăn quả bóng từ gót chân đến ngón chân và ngược lại, làm trong 2-3 phút, là có thể làm giãn cơ vùng lưng và giảm đau nhức. 2. VỪA XEM TIVI VỪA GIẪM LÊN ĐẬU TƯƠNG, CÓ THỂ GIẢM BÉO BÀI ĐỘC Ở phía trước ghế sô-pha rải một ít hạt đậu tương, sau đó mỗi ngày xem tivi thì đồng thời dùng chân trần dẫm lên. Bởi vì đậu tương có kích thước thích hợp, kích thích vừa phải lên huyệt vị lòng bàn chân, giúp tăng cường chuyển hóa, nên đạt được tác dụng bài độc đốt mỡ. 3. XƠ MƯỚP XÁT LÒNG BÀN CHÂN, LÀM ĐẸP DA Mỗi ngày sau khi rửa chân xong lấy xơ mướp dùng sức xát lên lòng bàn chân, cho đến khi nóng thì dừng. Làm như vậy giúp tuyến thượng thận tăng cường bài tiết hooc-môn, dẫn đến giảm lắng đọng sắc tố, do đó khiến da trắng nõn mà đàn hồi. 4. TẬP QUẶP NGÓN CHÂN, GIÚP TĂNG CƯỜNG CHỨC NĂNG DẠ DÀY RUỘT Nếu như chức năng dạ dày ruột suy nhược, thì bạn có thể tập luyện quặp ngón chân, hoặc tập dùng ngón 2 và ngón 3 để cặp đồ vật, như vậy sẽ kích thích kinh lạc, nếu kiên trì thực hiện thì các triệu chứng như tiêu hóa không tốt, táo bón, tiêu chảy sẽ được cải thiện. 3 PHƯƠNG PHÁP TẬP BÀN CHÂN 1. ĐẤM LÒNG BÀN CHÂN Buổi tối trước khi đi ngủ dùng nắm đấm đấm vào lòng bàn chân, có thể tiêu trừ mệt nhọc của cả một ngày dài, tăng cường tuần hoàn máu toàn thân, khiến cho chức năng bài độc của nội tạng được nâng cao, tuần hoàn máu lưu thông không trở ngại, đồng thời tăng cường tốc độ thiêu đốt mỡ. Cách làm: lấy lòng bàn chân làm trung tâm, tiến hành có tiết tấu, lực đấm sao cho hơi có cảm giác đau, đấm chừng 100 lần, khoảng 2 phút là hoàn thành. 2. ĐUNG ĐƯA HAI CHÂN Tuần hoàn máu hai chân không tốt, sẽ dẫn đến mất cân bằng chức năng nội tạng và bài tiết hooc-môn, độc tố trong cơ thể không kịp thời loại bỏ, tốc độ trao đổi chất quá chậm dẫn đến tích lũy mỡ, gây béo phì. Chỉ cần kích thích vùng chân là có thể gia tăng tuần hoàn máu, tăng nhanh chuyển hóa. Cách làm: Nằm ngửa trên giường hoặc sàn nhà, giơ hai chân lên, sau đó hai chân làm động tác như đạp xe đạp. Thực hiện 2 phút, sẽ khiến tuần hoàn máu thông suốt, thiêu đốt mỡ, ngoài ra còn có thể cải thiện giấc ngủ. 3. ĐI LẠI BẰNG CHÂN TRẦN Ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là khiến cho lòng bàn chân có cơ hội được rèn luyện, khi đi lại thì cố gắng để lòng bàn chân được kích thích, như đi chân trần trên nền đá cuội, hoặc chuẩn bị một tấm thảm có những chỗ gồ tròn mịn. Đại Hải biên dịch Theo secretchina |
HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH
HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH
(HCRKT=Irritable Bowel Syndrome=IBS) BS Trần Minh Thiệu HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH (HCRKT=Irritable Bowel Syndrome=IBS) là một rối loạn tiêu hoá chức năng đặc trưng bởi triệu chứng đau bụng và thay đổi thói quen đi tiêu mà không t́m thấy tổn thương thực thể nào. Osler đặt ra tên gọi “VIÊM ĐẠI TRÀNG NHẦY” vào năm 1892 khi ông viết về một rối loạn bao gồm đau bụng và tiêu phân nhày xảy ra với một tỷ lệ cao ở những bệnh nhân có bệnh tâm lư đi kèm. Kể từ đó, hội chứng này đă được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như đại tràng co thắt, đại tràng kích thích, đại tràng thần kinh… Một trong những bệnh lư đường ruột thường gặp nhất ở nước ta cũng như trên thế giới là HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH - IBS (Irritable bowel syndrome) (Viết tắc là HCRKT) •Tỷ lệ mắc bệnh từ 5%- 20% dân số, tỷ lệ này thay đổi theo từng nghiên cứu, theo từng vùng dân cư. Tỷ lệ nữ mắc gấp hai lần nam giới, hoàn cảnh xă hội có ảnh hưởng tới sự phát sinh của HCKT. •Ở Hoa Kỳ là khoảng 20% dân số mắc phải và chi phí điểu trị khoàng 8 tỷ đô la hàng năm . •Ở Việt Nam chiếm tới 83,38% ở các người bệnh có vấn đề về tiêu hóa •Các nước Âu Mỹ có tỷ lệ mắc IBS cao hơn ở châu Á và Trung Đông. Bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, bệnh kéo dài làm người bệnh luôn lo lắng căng thẳng mất ngủ, luôn luôn lo sợ bị các bệnh hiểm nghèo khác của ruột. 1. HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH LÀ G̀? Có nhiều nghiên cứu trên thế giới đă chứng minh HCRKT là rối loạn chức năng của ống tiêu hóa nhưng biểu hiện chủ yếu là các triệu chứng của đại tràng theo Thomson W.D.(1990) đă định nghĩa: Các rối loạn chức năng của ruột tái đi tái lại nhiều lần mà không t́m thấy các tổn thương về giải phẫu, tổ chức học, sinh hóa ở ruột gọi là HCRKT (irritable bowel sydrome - IBS). Hiện nay, nhờ các thăm ḍ hiện đại về h́nh thái và chức năng của ruột trên thực nghiệm và lâm sàng đă dần làm sáng tỏ cơ chế điều chỉnh ống tiêu hóa chủ yếu là sự tác động qua lại giữa hệ thống thần kinh trung ương với hệ thống thần kinh ruột ( trục năo-ruột) - hệ thống mạng lưới thần kinh (plexuces) hoạt động cùng với nhau để thực hiện nhịp nhàng chức năng b́nh thường của ruột. 2. CƠ CHẾ SINH BỆNH CỦA HCRKT: GỒM 3 NỘI DUNG SAU. •Sự cảm thụ bất thường chức năng ống tiêu hóa: Tăng tính nhậy cảm, nội tạng dễ kích thích. •Thay đổi tính chịu đựng của ruột, giảm khả năng chịu áp lực của khối thức ăn ở một số đoạn ruột. •Rối loạn vần động của ruột, tăng nhu động ruột gây ỉa chảy, giảm nhu động ruột gây táo bón. 3. CHẨN ĐOÁN HCRKT: 3.1. Triệu chứng lâm sàng: •Rối loạn chức năng tiêu hóa có thể biểu hiện các triệu chứng lâm sàng trên toàn bộ ống tiêu hóa. •Phần trên ống tiêu hóa: Hội chứng trào ngược dạ dày-thực quản, chứng khó tiêu, đầy tức bụng. •Phần dưới ống tiêu hóa: Triệu chứng chủ yếu ở đại tràng (táo bón chức năng, ỉa chảy chức năng) được gọi là đại tràng co thắt, hoặc đại tràng bị kích thích, hoặc rối loạn chức năng đại tràng. 3.2. Tiêu chuẩn Rome III: HCRKT được chẩn đoán dựa theo tiêu chuẩn Rome III. Năm 2006, hội nghị tiêu hóa quốc tế tại Rome đă đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán HCRKT như sau: Đau bụng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng kéo dài 12 tuần hoặc trong 12 tháng trước đó, không nhất thiết liên tục, kèm theo: •Giảm đi sau đại tiện. •Thay đổi h́nh dạng khuôn phân. •Thay đổi số lần đi đại tiện. Ngoài các triệu chứng trên có thể gặp thêm các triệu chứng không đặc hiệu nhưng gợi ư chẩn đoán HCRKT: •Số lần đại tiện không b́nh thường (>3 lần/ngày hoặc <3lần/tuần). •Phân không b́nh thường (lỏng, cứng, nhăo). •Đại tiện có lúc phải chạy vội vào nhà xí, hoặc phải rặn nhiều,hoặc cảm giác đi chưa hết phân. •Bụng chướng hơi, cảm giác nặng tức bụng. •Phân có nhầy mũi nhưng không bao giờ có máu. •Các triệu chứng không đặc hiệu trên luôn thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào chế độ và thức ăn đồ uống •Nếu ăn uống các thức ăn không thích hợp ngay lập tức xuất hiện các triệu chứng rối loạn; nếu ăn kiêng các triệu chứng có thể hết. HCRKT gồm nhiều triệu chứng cơ năng, các triệu chứng thay đổi, trong các triệu chứng có thể phân thành 2 thể loại: •Các triệu chứng về tiêu hóa biểu hiện chính là đau bụng, bụng chướng hơi, rối loạn đai tiện, rối loạn phân. •Các triệu chứng ngoài ống tiêu hóa phụ thuộc vào thời gian bệnh kéo dài: Đau đầu, mất ngủ, các triệu chứng về rối loạn tâm lư (lo lắng, sợ bệnh hiểm nghèo...). 3.3. Triệu chứng cận lâm sàng: •Xét nghiệm máu b́nh thường. •Xét nghiệm phân, cấy phân t́m vi khuẩn b́nh thường. •Sinh thiết, xét nghiệm mô bệnh học đại tràng b́nh thường. •Chụp X.Q khung đại tràng, b́nh thường hoặc có rối loạn co bóp nhu động •Nội soi đại-trực tràng b́nh thường. •Qua thăm khám và xét nghiệm có thể giúp chúng ta phát hiện một số triệu chứng báo động về bệnh lư thực tổn để chẩn đoán phân biệt với HCRKT. Các triệu chứng báo động: •Chán ăn, sụt cân. •Thiếu máu. •Sốt, tăng BC, tốc độ máu lắng tăng. •Đại tiện phân có nhầy máu. •Phân nhỏ dẹt thường xuyên. •Các triệu chứng rối loạn phân mới xảy ra ở người > 40 tuổi. •Tiền sử gia đ́nh có người bị ung thư đại tràng. 4. Chẩn đoán phân biệt: HCRKT với một số bệnh thường gặp. 4.1. HCRKT có ỉa chảy: •Nhiễm trùng đường ruột. •Suy giảm miễn dịch. •Ung thư đại-trực tràng. •U lympho ruột. •Dị ứng thức ăn. •Thiếu men lactase. •Viêm loét đại trực tràng chảy máu. •Viêm đại tràng vi thể. •Hội chứng Crohn 4.2. HCRKT có táo bón - đau bụng nổi trội: • U đại tràng. •Bệnh to giăn đại tràng. •U tụy. •Ngộ độc ch́. •Thoát vị. •Bệnh sỏi mật và viêm túi mật. •Rối loạn chuyển hóa porphyrine. 5. ĐIỀU TRỊ: Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy bệnh nhân bị HCRKT dễ tăng nhu động ruột so với người b́nh thường, các triệu chứng thường tái đi tái lại, kéo dài nhiều năm, bệnh nhân phải đi khám bệnh nhiều nơi, tâm lư luôn ngờ vực, lo lắng sợ bệnh nặng, bệnh ác tính. Bác sĩ điều trị cần thiết lập mối quan hệ tin cậy, chắc chắn, kiên định với người bệnh, cần giải thích cho bệnh nhân hiểu thấu đáo về HCRKT làm nhẹ đi sự lo lắng từ các triệu chứng của chính họ, hướng dẫn họ điều trị chi tiết, cẩn thận, tạo ḷng tin cho người bệnh. Một số lưu ư khi điều trị HCRKT: •Điều trị theo triệu chứng nổi trội là hợp lư và hữu ích. •Chưa có thuốc riêng biệt nào điều trị hết mọi triệu chứng của HCRKT. •Điều trị có thể không làm dứt hẳn triệu chứng nhưng sẽ cải thiện tốt hơn chất lượng cuộc sống của người bệnh, các triệu chứng lâm sàng có thể giảm hoặc mất sau điều trị nhưng rất dễ tái phát. •Không nên dùng thuốc kháng sinh, chỉ dùng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn ruột. ĐIỀU TRỊ CỤ THỂ: 5.1. Chế độ ăn rất quan trọng trong điều trị HCRKT: •Khi đang có triệu chứng rối loạn tiêu hóa nên tránh ăn các thức ăn, nước uống không thích hợp. •Thức ăn khó tiêu, dễ sinh hơi như: Khoai, sắn, bánh ngọt nhiều bơ, hoa quả có nhiều đường (cam, quưt, soài, mít...) •Đồ uống nhiều đường và có gas, chất kích thích (rượu, cà fê, gia vị chua cay...) •Những thức ăn để lâu, bảo quản không tốt •Nếu có ỉa chảy tránh ăn qua nhiều thức ăn có nhiều chất xơ (rau muống, rau cải, dưa...). 5.2. Chế độ luyện tập rất cần thiết, phải kiên tŕ: •Luyện tập chế độ đại tiện 1 lần trong ngày, xoa bụng buổi sáng khi ngủ dậy để gây cảm giác muốn đại tiện. •Luyện tập thư giăn, khí công, tập thể dục, đi bộ thường xuyên. 5.3. Thuốc điều trị triệu chứng: •Chống đau, giảm co thắt: Duspataline, No-spa, Spasfon... •Chống táo bón: uống nhiều nước, ăn thức ăn nhiều chất xơ, thuốc nhuận tràng (Forlax, Tegaserod, Duphalac...) •Chống ỉa chảy: Smecta, Actapulgite, Imodium.... •Chống sinh hơi: Meteospasmyl, pepsan, than hoạt... •Thuốc an thần kinh: Rotunda, Seduxen, Dogmatyl... XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ NẶNG CỦA HCRKT VÀ XỬ TRÍ (THEO GI-MIMS, 2005-2006): A. Nhẹ: •Triệu chứng không thường xuyên. •Rối loạn tâm lư ít. •Điều trị: Giáo dục về bệnh, ăn kiêng, chọn thức ăn thích hợp. B. Trung b́nh: •Triệu chứng thường xuyên, ảnh hưởng đến hoạt động b́nh thường. •Suy giảm tâm lư. •Triệu chứng nặng lên - t́m yếu tố thúc đẩy. •Thay đổi nếp sinh hoạt, tâm lư liệu pháp, chế độ ăn kiêng. •Dùng thuốc kiểm soát triệu chứng. C. Nặng: •Đau bụng thường xuyên. •Suy giảm tâm thần tiềm ẩn. •Điều trị như trên kết hợp với thuốc an thần hoặc thuốc tâm thần. |
NỘI KHOA - NỘI TIẾT (ENDOCRINOLOGY)
NỘI KHOA - NỘI TIẾT (ENDOCRINOLOGY)
12 Dấu Hiệu Chắc Chắn Của Bệnh Thận (Theo Sina Health) Làm thế nào để phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh thận? Giáo sư Vương Bạo Khôi ở Trung Quốc đă đưa ra 12 dấu hiệu rơ ràng nhất. Vào thời kỳ đầu của bệnh thận, người bệnh ít cảm thấy đau đớn. Do đó, những dấu hiệu manh nha của những căn bệnh này thường dễ dàng bị bỏ qua. Mới đây, trang Sina Health đă phỏng vấn chuyên gia đầu ngành về thận – giáo sư Vương Bạo Khôi về vấn đề này. Quote: Sơ Lược Thông Tin về Giáo sư Vương Bạo Khôi: Giáo Sư Vương Bạo Khôi được coi là nhân tài ưu tú của Y học Trung Quốc hiện tại, Ông hiện là Bác Sĩ và là Giám đốc bệnh viện thận Đông Phương trực thuộc Đại học Y Dược Bắc Kinh. Bên cạnh đó, ông c̣n đảm nhiệm chức Phó chủ nhiệm Ủy ban nghiên cứu thận tại Bắc Kinh, nguyên là ủy viên ban thường vụ của Hiệp hội Y khoa nghiên cứu về bệnh thận trong nước. Chia sẻ về những dấu hiệu đầu của các bệnh về thận, giáo sư Vương Bạo Khôi cho biết: "Nhiều người bị mắc các căn bệnh này chỉ tiến hành thăm khám khi cảm thấy cơ thể không khỏe mạnh. Do đó, phần lớn bệnh t́nh của họ đều được phát hiện khi đă vào giai đoạn nghiêm trọng, thậm chí có trường hợp nguy hiểm đến t́nh mạng, phải tiến hành lọc máu". Dưới đây là danh sách 12 dấu hiệu báo trước những thay đổi về t́nh trạng của thận được đưa ra bởi giáo sư - bác sĩ đầu ngành Vương Bạo Khôi. CƠ THỂ VÀ TINH THẦN BẤT THƯỜNG Khi công năng thận có biểu hiện không tốt, nhiều chất cặn bă sẽ không được bài tiết qua đường nước tiểu. Sự ứ đọng của các chất này sẽ khiến tinh thần mệt mỏi, cơ thể bải hoải, cả người cảm thấy như không c̣n chút sức lực. Nếu thận có bệnh, protein và các chất dinh dưỡng khác sẽ bị ṛ rỉ qua đường nước tiểu, làm cho cơ thể mất sức. Tuy nhiên, dấu hiệu này có thể bị nhiều người nhầm lẫn với t́nh trạng lao lực quá độ hay một vài nguyên nhân khác. Cũng v́ thế, sự bất thường về cơ thể và tinh thần này dễ bị các bệnh nhân bỏ qua. CHÁN ĂN Không có cảm giác thèm ăn, kén ăn, thậm chí nôn mửa cũng được coi là một số dấu hiệu sớm của bệnh thận. Khi rơi vào t́nh trạng này, nhiều người thường chủ động xét nghiệm, khám về đường tiêu hóa hoặc chuyên khoa gan. Nếu dạ dày và gan không phát hiện vấn đề khác lạ, không thể loại trừ khả năng các căn bệnh về thận là nguyên nhân gây nên những triệu chứng này. NƯỚC TIỂU CÓ BỌT Bọt xuất hiện trong nước tiểu có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có bệnh thận. Khi công nặng thận gặp rối loạn, protein trong cơ thể sẽ bị thoát ra từ đường nước tiểu, tạo thành các bọt có thể phát hiện bằng mắt thường. ĐAU THẮT LƯNG Vị trí của thận nằm ở hai bên của cột sống. Khi thận mắc bệnh, cơ thể sẽ được báo hiệu bằng những cơn đau ở vùng thắt lưng. LƯỢNG NƯỚC TIỂU BẤT THƯỜNG Người khỏe mạnh thường đi tiểu từ 4 - 6 lần/ngày và thải ra khoảng 800 – 2000ml nước tiểu. T́nh trạng nước tiểu quá nhiều hoặc quá ít là một trong những dấu hiệu báo trước các chứng bệnh liên quan đến thận. PHÙ NỀ Uống quá nhiều nước hoặc ngủ nhiều là những nguyên nhân phổ biến gây ra t́nh trạng phù nề ở mặt, mí mắt, chân tay hoặc một số bộ phận khác. Tuy nhiên, ít ai biết rằng, các bệnh về thận cũng là một trong số những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phù nề. NƯỚC TIỂU ĐỤC NHƯ L̉NG TRẮNG TRỨNG HOẶC ĐI TIỂU RA MÁU Đây được xem là hai dấu hiệu nổi bật giúp người bệnh có thể sớm phát hiện các bệnh về thận. Khi bắt gặp t́nh trạng này, chúng ta nên nhanh chóng tiến hành thăm khám. Lưu ư: một số thầy thuốc không thuộc chuyên khoa thận thường bỏ qua hai dấu hiệu nguy hiểm này. Do đó, người bệnh cần thăm khám đúng chuyên khoa tại các bệnh viện uy tín để có được kết quả chính xác nhất và tiến hành điều trị kịp thời. THIẾU MÁU Một trong số những nguyên nhân phổ biến gây ra thiếu máu chính là do các vấn đề về thận. Bên cạnh công năng bài tiết, thận c̣n có vai tṛ điều ḥa nội tiết và các hormone trong máu. Do đó, khi cơ quan này rơi vào t́nh trạng rối loạn chức năng, người bệnh có thể bị chứng thiếu máu. TIỂU ĐƯỜNG Bệnh thận đái tháo đường là nguyên nhân chiếm vị trí thứ nhất của suy thận mạn ở các nước phương Tây. “Cầu thận đái tháo đường” là tên bệnh dùng để chỉ những tổn thương cầu thận thứ phát do tiểu đường gây nên. Do đó, các bệnh nhân đái tháo đường nên điều trị kịp thời để tránh các biến chứng như urê huyết hay một số chứng bệnh về thận. CAO HUYẾT ÁP Nhiều nghiên cứu đă chỉ ra rằng chứng tăng huyết áp gây ra suy thận và ngược lại, suy thận có thể gây nên tăng huyết áp. Do đó, vấn đề đặt ra là phải kiếm soát được huyết áp để tránh bị suy thận, và cần điều trị tốt suy thận mới có thể hạn chế được tăng huyết áp. BỆNH GOUT VÀ TĂNG ACID URIC MÁU Axit uric máu tăng cao sẽ gây ra tăng huyết áp và biến chứng suy thận. Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hoá, gây ra bởi t́nh trạng lắng đọng các tinh thể urat ở các mô của cơ thể, do tăng acid uric trong máu. Hàm lượng uric quá cao trong máu sẽ khiến acid uric gây ra chứng cao huyết áp hoặc lắng đọng ở thận, làm tổn thương chức năng của cơ quan này. NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU Người bệnh bị nhiễm trùng đường tiết niệu thường xuyên và kéo dài có thể dẫn đến chứng suy thận. Giáo sư Vương Bạo Khôi cho biết, ông từng tiếp xúc với nhiều bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu. Đa số họ đều tiến hành điều trị muộn và không triệt để nên thường rơi vào t́nh trạng suy giảm chức năng thận. |
PHƯƠNG PHÁP "ĐƠN GIẢN" ĐỂ G̀N GIỮ SỨC KHỎE
PHƯƠNG PHÁP "ĐƠN GIẢN" ĐỂ G̀N GIỮ SỨC KHỎE:
Uống 1 ly Nước Ấm vào Buổi Sáng khi thức dậy (Nguồn: MyiLife) ĐIỀU G̀ XẢY RA VỚI CƠ THỂ KHI BẠN "UỐNG NƯỚC ẤM" LÚC ĐÓI VÀO MỖI SÁNG? Nhiều người thường bắt đầu ngày mới với một tách trà nóng hay cà phê. Nhưng bạn có biết rằng, uống một cốc nước lọc ấm mỗi sáng sẽ rất có lợi cho bạn. Uống nước ấm khi dạ dày trống rỗng vào mỗi buổi sáng có nhiều tác dụng tích cực đối với cơ thể của bạn, bao gồm cả thúc đẩy tiêu hóa, loại bỏ độc tố khỏi cơ thể, giảm đau, cải thiện lưu thông... Dưới đây là những ǵ sẽ xảy ra khi bạn uống nước ấm mỗi sáng khi đang đói: 1) Giải độc cho các cơ quan trong cơ thể Uống một cốc nước nóng vào buổi sáng có thể loại bỏ các độc tố nguy hiểm từ cơ thể của bạn. Nước và các chất lỏng khác có tác phân hủy thức ăn trong dạ dày và thúc đẩy tiêu hóa. Bởi vậy, ngay cả sau bữa ăn, thay v́ uống nước lạnh, bạn hăy uống nước ấm để cải thiện quá tŕnh tiêu hóa. 2) Cải thiện sự trao đổi chất Nếu bạn bị đau dạ dày, hăy uống một cốc nước ấm vào buổi sáng trước khi ăn sáng. Điều này sẽ cải thiện sự trao đổi chất và cơ thể của bạn sẽ hoạt động đúng cách. Hơn nữa, uống nước ấm lúc này sẽ làm dịu các chứng đau dạ dày và giúp bạn cảm thấy dễ chịu. 3) Giúp giảm đau Những cơn đau do chuột rút trong thời ḱ kinh nguyệt có thể được xoa dịu bằng cách uống nước ấm. Trên thực tế, đây là một phương thuốc tự nhiên mà vẫn có tác dụng. Nước ấm làm giăn các cơ bắp của dạ dày và giúp làm dịu cơn đau. Uống nước ấm không chỉ tốt cho những cơn đau do chuột rút trong ḱ kinh nguyệt mà c̣n có tác dụng đối với bất ḱ cơn đau do chuột rút ở thời điểm nào v́ nước ấm khi vào cơ thể giúp cải thiện lưu thông mao mạch và làm thư giăn các cơ bắp. 4) Giúp giảm cân Uống một cốc nước ấm vào buổi sáng có thể giúp bạn giảm cân nhanh hơn. Lư do là bởi v́ nước ấm làm tăng nhiệt độ của cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể. Điều này dẫn đến khả năng đốt cháy nhiều calo hơn. Uống nước ấm cũng có tác dụng tích cực đối với hoạt động thận và các cơ quan bài tiết nên sẽ giảm t́nh trạng tích nước trong cơ thể, dẫn đến tăng cân. 5) Làm chậm quá tŕnh lăo hóa Không ai thích lăo hóa sớm và nhanh già, đặc biệt là phụ nữ. May mắn thay, nguy cơ này có thể tránh được bằng cách uống nước ấm mỗi sáng. Độc tố trong cơ thể thúc đẩy quá tŕnh lăo hóa, nhưng uống nước ấm mỗi sáng lại giúp loại bỏ độc tố ra ngoài một cách hiệu quả. Nhờ đó, việc làm này cũng có tác dụng làm chậm quá tŕnh lăo hóa. Ngoài ra, uống nước ấm c̣n cải thiện độ đàn hồi của da, giúp bạn luôn có làn da sáng, khỏe mạnh và giảm nếp nhăn. |
CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ (GERASCOPHOBIA)
CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ (GERASCOPHOBIA)
Do những hoàn cảnh nhất định, một số người có biểu hiện sợ tuổi già một cách bất thường và dai dẳng, mà y văn gọi là CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ (GERASCOPHOBIA). Những người này sợ một cách thái quá dù đang trong t́nh trạng khỏe mạnh và no đủ về vật chất. Họ lo lắng nhan sắc phai tàn đi kèm với bệnh tật triền miên. Họ sợ ḿnh sẽ không c̣n được tự do đi lại, phải sống cuộc sống thụ động và phụ thuộc chẳng khác nào bị “giam lỏng” trong nhà sau khi về hưu. Những quan điểm tiến bộ của xă hội về sắc đẹp và tuổi già cũng không có tác dụng làm vơi đi nỗi sợ của họ. Thuật ngữ “GERASCOPHOBIA” có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp, gồm “GERAS” nghĩa là tuổi già và “PHOBOS” là nỗi sợ. GERASCOPHOBIA là một chứng sợ lâm sàng thường được xếp vào nhóm các chứng sợ cụ thể, tức nỗi sợ được kích hoạt bởi một nhân tố, vật thể hoặc hoàn cảnh cụ thể nhất định. Chứng sợ tuổi già thường khởi đầu bằng những nỗi lo sợ bị bỏ mặc, mất khả năng lao động và tự chăm lo cho bản thân. Phần lớn các đối tượng mắc chứng sợ này là những người c̣n trẻ và khỏe mạnh. TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ Các triệu chứng bao gồm việc đánh mất vẻ đẹp ngoại h́nh, lo sợ tương lai, sợ phải phụ thuộc vào người khác trong sinh hoạt hằng ngày, và sợ mất đi vị trí xă hội khi về già. Những biểu hiện cụ thể: •Sống tách biệt với hiện thực; •Thường xuyên lo âu, sợ hăi mà không rơ nguyên nhân; •Khó thở; •Đổ mồ hôi nhiều; •Buồn nôn; •Miệng khô; •Cơ thể run rẩy; •Tim đập nhanh; •Không thể giao tiếp hoặc suy nghĩ một cách b́nh tĩnh, lưu loát; •Sợ chết. Đặc điểm chung của chứng sợ tuổi già Những người mắc phải chứng sợ này luôn thường trực nỗi lo nhan sắc và sức khỏe giảm sút khi tuổi cao, từ đó dẫn đến e sợ tương lai. Nhờ khả năng tự lập mà con người có được sự tự tin, v́ vậy càng lớn tuổi, họ càng cảm thấy mất dần sự tự tin đó khi phải thường xuyên nhờ sự hỗ trợ của người khác để thực hiện những sinh hoạt hằng ngày. Khi nỗi sợ này lớn dần, người bệnh có xu hướng tách biệt với cuộc sống hằng ngày và tự cô lập ḿnh. Đây thực sự là một chứng sợ đáng quan tâm trong thời đại ngày nay, khi mà giá trị của sắc đẹp và sự trẻ trung luôn được truyền thông đề cao. Xă hội ca ngợi tuổi trẻ đến mức khiến cho người ta dễ đánh đồng tuổi già với sự vô dụng. V́ vậy, ở một góc độ nhất định, có thể thấy việc con người ngày nay trở nên nhạy cảm với tuổi già là một điều dễ hiểu, khi chính xă hội cũng góp phần tạo ra áp lực đó. CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ Ở PHỤ NỮ Nhan sắc luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của phụ nữ, nhất là trong thời đại ngày nay, với sự ra đời của những công nghệ làm đẹp như mỹ phẩm và phẫu thuật thẩm mỹ. Đồng thời, nỗi lo về tuổi tác và sự tàn phá của thời gian cũng tăng theo. Hầu hết phụ nữ thường bị ám ảnh bởi quan niệm già nua là xấu xí, mà một phần trong đó có sự tác động không nhỏ của xă hội. Bên cạnh những đặc điểm chung đă đề cập ở phần trên, chứng sợ tuổi già ở phụ nữ c̣n có những nguyên nhân do đặc thù giới tính. Ngoài việc mất dần sức hấp dẫn bên ngoài do tuổi tác, phụ nữ càng lớn tuổi th́ khả năng sinh con càng giảm sút và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Đối với phụ nữ c̣n độc thân, tuổi cao là một trở ngại lớn trong việc t́m kiếm bạn đời, chưa kể đến ảnh hưởng từ định kiến xă hội. Thực tế cũng chứng minh, ngay ở kinh đô điện ảnh Hollywood, trong khi tài tử George Clooney vẫn liên tục được xướng tên trong danh sách những người đàn ông hấp dẫn nhất hành tinh hằng năm dù nam diễn viên này đă 50 tuổi; th́ nữ diễn viên Glenn Close – một biểu tượng t́nh dục trên màn bạc được các đấng mày râu ngưỡng mộ vào thập niên 80-90 – nay đă không c̣n được xem là hấp dẫn ở độ tuổi ngoài lục tuần. Ngoài ra, các thống kê cho thấy phụ nữ càng lớn tuổi càng đối mặt với nhiều nguy cơ về bệnh tật, đặc biệt là ung thư, như ung thư vú, ung thư buồng trứng hay ung thư ruột kết. Về mặt xă hội, việc phải sống phụ thuộc cũng sẽ khiến cho phụ nữ khi về già có nhiều nguy cơ đối mặt với những khó khăn hoặc tranh chấp về mặt tài chính, gia đ́nh hay nhà ở. ĐIỀU TRỊ CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ Cũng như đối với những chứng rối loạn lo lắng khác, người mắc chứng sợ tuổi già cần phải đến bác sĩ và làm theo các chỉ dẫn để t́m ra phương pháp điều trị phù hợp nhất với ḿnh. Bằng các phương pháp trị liệu và tham vấn, bệnh nhân được tạo điều kiện bày tỏ căn nguyên của nỗi sợ và những ǵ dẫn đến nỗi sợ đó. Các phương pháp điều trị thường gặp đối với chứng sợ tuổi già là dùng thuốc chống trầm cảm, áp dụng liệu pháp hành vi, tái hiện kư ức, các kĩ thuật thư giăn và các liệu pháp hồi phục tinh thần. Bệnh nhân thường sợ rằng họ sẽ mất dần vai tṛ chủ động và vị trí xă hội khi về già, c̣n các chuyên gia điều trị sẽ giúp họ nhận ra rằng về hưu không phải là dấu chấm hết, rằng có một cuộc sống thú vị khác sau khi nghỉ hưu. Đối với những phụ nữ sợ tuổi già, chị em cần học cách chấp nhận tuổi già như một quy luật tất yếu và không thể tránh khỏi của cuộc sống. Thay v́ để cho tâm trí bị ám ảnh bởi những nếp chân chim, hăy nghĩ về những việc có ích, những điều hay lẽ phải ḿnh đă làm được trong cuộc sống và hăy tự hào v́ điều đó. Thay v́ để cho cảm giác nuối tiếc lấn át, chị em cần h́nh thành quan niệm rằng con người được sinh ra để làm những việc có ích phù hợp với mỗi giai đoạn của cuộc đời và tuổi già không đồng nghĩa với sự vô dụng. Hăy sống một cuộc sống năng động, làm những công việc ưa thích như đọc sách, xem phim, hoặc đi chơi, tham gia các hoạt động xă hội với bạn bè thuộc đủ mọi lứa tuổi. Luôn ǵn giữ một lối sống lành mạnh và chủ động, th́ dù tuổi đă cao, chúng ta vẫn có thể sống ích cho gia đ́nh và xă hội, bằng cách này hay cách khác. |
HỒI SINH CAO CẤP TRẺ SƠ SINH VÀ NHI ĐỒNG
HỒI SINH CAO CẤP TRẺ SƠ SINH VÀ NHI ĐỒNG
(EUROPEAN PEDIATRIC LIFE SUPPORT) BS NGUYỄN VĂN THỊNH NHẬP ĐỀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NGỪNG TIM-HÔ HẤP NHỮNG ĐẶC ĐIỂM Ở TRẺ EM Quote: Những mục tiêu Cuối chương này, các bạn hẳn có thể : • Thảo luận và so sánh căn nguyên của ngừng tim-hô hấp của trẻ em và người lớn. • Thảo luận tiên lượng của ngừng tim nguyên phát và thứ phát. • Biết những đặc điểm cơ thể học, sinh lư và thần kinh của nhũ nhi và trẻ em. I. NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NGỪNG TIM HÔ HẤP Những nguyên nhân của ngừng tim-hô hấp của trẻ em không giống với người lớn do những khác nhau về sinh lư học, cơ thể học và bệnh lư học. Những khác nhau này thay đổi trong thời kỳ tăng trưởng, thời kỳ sơ sinh, vào tuổi ấu thơ (bao gồm tuổi thiếu niên) và cho đến tuổi trưởng thành. Ngừng tim nguyên phát do một loạn nhịp tim loại rung thất hay tim nhịp nhanh thất vô mạch là thường xảy ra hơn ở người lớn. Sự xuất hiện đột ngột và không tiên đoán được, phản ánh bệnh tim nội tại. Khử rung sớm là điều trị của rung thất. Mỗi phút mất di trước khi khử rung làm giảm những khả năng trở lại một tuần hoàn ngẫu nhiên 10%. Ngừng tim thứ phát thường xảy ra hơn ở trẻ em và phản ánh một quá tŕnh tận cùng khi bệnh nguyên không được kiểm soát. Nhịp trước tận cùng (rythme préterminal) thường xảy ra nhất là tim nhịp chậm dẫn đến vô tâm thu hay hoạt động điện vô mạch. Những nhịp này không phải do một bệnh của tim nhưng do một chức năng tim bất b́nh thường, hậu quả của một giảm oxy mô (hypoxie tissulaire) nghiêm trọng dẫn đến một loạn năng cơ tim (dysfonction myocardique). Điều này có thể là do một suy hô hấp với oxygénation không thích đáng hay một hạ huyết áp do một bất túc tuần hoàn. Lúc khởi đầu, cơ thể thực hiện một đáp ứng sinh lư thích ứng nhằm bảo vệ tim và năo bộ khỏi t́nh trạng giảm oxy mô, dẫn đến một t́nh huống suy hô hấp hay tuần hoàn bù (insuffisance respiratoire ou circulatoire compensée).Tuy nhiên, cơ thể cuối cùng bị kiệt quệ. Đó là giai đoạn suy hô hấp hay tuần hoàn mất bù (insuffisane respiratoire ou circulatoire décompensée) tùy theo nguyên nhân gây bệnh. Hai loại suy hô hấp và tuần hoàn có thể hiện diện đồng thời. Khi t́nh huống trở nên nghiêm trọng, suy hô hấp và/hoặc tuần hoàn dẫn đến suy tim-hô hấp và sau đó dẫn đến ngừng tim-hô hấp (bảng 1). UserPostedImage Bảng 1. Những hậu quả của một suy hô hấp hay tuần hoàn tiến triển không được điều trị ở nhũ nhi và trẻ em. II. TIÊN LƯỢNG Tiên lượng của hồi sinh khi ngừng tim-hô hấp là u tối, nhất là nếu ngừng kéo dài. Sự nhận biết những t́nh huống đi trước ngừng tim-hô hấp và sự điều trị nó một cách thích đáng là thiết yếu. Sự nhận biết và hồi sinh một đứa bé ngừng hô hấp (giai đoạn cuối cùng của suy hô hấp mất bù) mà tim vẫn đập được liên kết với một tỷ lệ sống c̣n lâu dài 50 đến 70% trong khi tỷ lệ sống sót không di chứng thần kinh của một đứa bé ngừng tim hô hấp là dưới 5%. Những nguyên nhân của các bệnh của trẻ em so với những bệnh của người lớn phải được đặt tương quan với những khác nhau về sinh lư và cơ thể học.Những khác nhau này hàm ư một tŕnh tự ưu tiên điều trị căn cứ trên A• đường dẫn khí (với sự bất động cột sống cổ trong chấn thương Ac), B-hô hấp (Breathing), C-tuần hoàn và D-trạng thái tâm thần (Disability). Phương tiện để nhớ ABCD chỉ ưu tiên dành cho những giai đoạn chủ yếu của xử trí về mặt đánh giá và điều trị, có thể áp dụng cho tất cả các trẻ em. Phương pháp này cho phép cứu sống. III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA TRẺ EM A. ĐƯỜNG DẪN KHÍ. 1. MŨI VÀ HẦU Vào lúc sinh, nắp thanh môn (épiglotte) nằm ở mức cột sống cổ thứ nhất, nghĩa là nằm cao và rất về phía trước. V́ lư do này đường dẫn khí đặc biệt dễ bị tắc do đè ép bên ngoài của các mô mềm. Nhũ nhi bắt buộc phải thở bằng mũi cho đến 6 tháng tuổi. Do đó, năng lực mà nó có thể tiêu xài khi bị tắc mũi (ví dụ do những chất tiết v́ bị nhiễm trùng hô hấp) có thể đáng kể và dẫn đến suy hô hấp. Những lư do cơ học như atrésie des choanes, tắc gây nên bởi một ống thông mũi-dạ dày hay do sparadrap làm tắc các lỗ mũi, có thể gây nên một chướng ngại đáng kể đối với không khí đi qua mũi. 2. TƯƠNG QUAN GIỮA ĐẦU VÀ CỔ. Về mặt tỷ lệ, đầu của trẻ sơ sinh là lớn so với thân ḿnh của nó. Được kết hợp với một xương chẩm tương đối dô ra, nên ở tư thế nằm đầu có khuynh hướng gập lên cổ, điều này dẫn đến tắc thanh quản, vốn mềm mại. Tuổi càng lớn, về mặt tỷ lệ, đầu càng trở nên nhỏ hơn so với ngực và cổ dài ra, và thanh quản trở nên đề kháng hơn với áp lực bên ngoài. Mặt và miệng của nhũ nhi v́ hẹp so với lưỡi có kích thước lớn, nên lưỡi làm tắc dễ dàng đường khí của đứa bé trong t́nh trạng mất tri giác. Sàn miệng dễ đè ép, điều này có thể gây nên tắc đường khí nếu ta không áp dụng những biện pháp thận trọng khi mở đường khí. 3. THANH QUẢN Ở nhũ nhi thanh quản nằm cao so với thanh quản của người lớn (ở người lớn thanh quản nằm ở mức các đốt sống cổ thứ 5 hay 6). Nắp thanh môn (épiglotte) cong h́nh chữ U lồi ra trong hầu với một góc 45 độ ; các dây thanh âm ngắn. Dưới 8 tuổi, phần hẹp nhất của thanh quản là sụn nhẫn (cartilage cricoide) trong khi sau 8 tuổi, thanh quản có h́nh trụ cho đến tận các phế quản gốc. Những đặc điểm cơ thể học này có những hàm ư về thực hành sau đây : • Các thủ thuật khai tắc một vật lạ có thể thất bại ở trẻ em nhỏ tuổi bị tắc đường dẫn khí một phần, với nguy cơ biến đổi tắc một phần thành tắc hoàn toàn. Vật lạ có thể kẹt vào phần hẹp nhất của thanh quản, nghĩa là ở mức sụn nhẫn. • Khi đưa vào lưỡi đèn thanh quản, việc kiểm soát lưỡi tương đối lớn có thể khó khăn và sự xê dịch của lưỡi về phía sau có thể gây tắc đường dẫn khí do vị trí cao của nắp thanh môn và thanh quản. • Vị trí đầu (position céphalique) của thanh quản tạo một góc nhọn giữa khẩu hầu và thanh môn (glotte). Điều này làm cho việc nh́n trực tiếp thanh môn khó khăn với một đèn soi thanh quản. Do đó để nh́n dễ dàng hơn, hăy dùng một lưỡi thẳng (lame droite) hơn là một lưỡi cong (lame courbe). • Việc đưa vào ống thông khí quản có thể bị trở ngại bởi commissure trước của các dây thanh âm, nằm cao hơn so với commissure postérieure. • Một ống thông khí quản không có quả bóng có thể được sử dụng ở trẻ em dưới 8 tuổi v́ lẽ kích thước của ống thông được xác định bởi phần hẹp nhất của đường khí, nghĩa là ở mức ṿng sụn nhẫn. Một ống thông có kích thước đúng đắn cho phép đóng kín vùng sụn nhẫn, điều này cho phép thông khí áp lực dương mà không quá gây ṛ quanh ống thông. Một ống thông khí quản quá nhỏ gây nên ṛ khí, liên kết với một sự thông khí không hiệu quả. Cho đến cách nay ít lâu, các ống thông có quả bóng (sonde à ballonnet) bị chống chỉ định ở trẻ em dưới 8 tuổi. Tuy nhiên người ta đă chứng minh rằng khi ống thông có quả bóng có kích thước thích đáng và khi áp suất quả bóng được theo dơi, nó có thể được sử dụng ở trẻ nhỏ (xem chương 3) Đường dẫn khí của trẻ em và nhũ nhi hẹp hơn so với đường dẫn khí của người lớn. Do đó nhũ nhi đặc biệt nhạy cảm với phù nề. Đường kính tuyệt đối của đường dẫn khí cũng nhỏ hơn, các nhiễm trùng hô hấp gây nên một tỷ lệ tử vong quan trọng hơn ở các trẻ em so với người lớn. Các hậu quả của phù nề có thể hiểu được do áp dụng định luật Poiseuille. Định luật này đặt sự liên hệ giữa sức cản của một khí lưu thông trong ống với chiều dài của nó, viscosité của chất khí và đường kính ống dẫn theo công thúc sau đây : UserPostedImage Một sự giảm nhẹ đường kính của đường dẫn khí có một ảnh hưởng quan trọng lên lưu lượng oxy và CO2 qua hệ hô hấp. B. HÔ HẤP Các lá phổi không được thành thục vào lúc sinh với một interface khí-phế nang 3m2 so với 70m2 ở người lớn. Số lượng những đường dẫn khí nhỏ gia tăng 10 lần giữa lúc sinh và tuổi trưởng thành. Vào lúc sinh, sự mở của các phế nang của một trẻ sơ sinh sinh non có thể bị biến đổi bởi một thiếu hụt surfactant. Sự cho surfactant ngoại tại có thể cho phép mở các phế nang và sau đó việc duy tŕ sự mở này có thể cần thiết. Cơ học thông khí (mécanique ventilatoire) thay đổi với tuổi tác. Ở nhũ nhi, các xương sườn có thể uốn nắn và các cơ gian sườn tương đối yếu và không hiệu quả so với cơ hoành. Điều này đóng một vai tṛ quan trọng trong động lực học hô hấp (dynamique respiratoire) của trẻ nhỏ. Cơ hoành là cơ chủ yếu của thông khí nhũ nhi và cử động của nó về phía dưới lúc thở vào kéo ngực về phía bụng điều này tạo nên một effet de vide cho phép mang không khí vào đường hô hấp trên và trong hai lá phổi. Những chướng ngại vật lư đối với sự co cơ hoành có thể có nguồn gốc ở bụng (căng trướng dạ dày, tràn khí phúc mạc, tắc ruột) hay nguồn gốc ở phổi (tăng phồng trong trường hợp viêm tiểu phế quản, hen phế quản hay hít vào một vật lạ) và có thể dẫn đến một thông khí không có hiệu quả. Ở trẻ lớn hơn, các cơ gian sườn được phát triển hơn và góp phần một cách đáng kể vào cơ học thông khí ; các xương sườn cốt hóa và biến hóa thành một cấu trúc cứng, trở nên đề kháng hơn trong trường hợp détresse respiratoire. Có thể có một co rút gian sườn và ức quan trọng ở trẻ nhỏ trong trường hợp suy hô hấp, trong khi co rút này không quan trọng ở trẻ lớn hơn. C. TUẦN HOÀN Thể tích lưu thông của một trẻ sơ sinh là 80ml/kg và giảm với tuổi để đạt 60-70 ml/kg ở người lớn. Đối với một trẻ sơ sinh 3kg, thể tích này là 240 ml ; ở 6 tháng tuổi với một trọng lượng 6kg, thể tích lưu thông là 480 ml. V́ lẽ thể tích lưu thông bé, các trẻ rất nhạy cảm với sự mất nước. Do đó không lấy làm ngạc nhiên khi những trường hợp ỉa chảy giết chết mỗi năm hàng triệu trẻ em trên thế giới. D. TRẠNG THÁI TÂM THẦN Một trong những khó khăn mà ta có thể gặp với trẻ rất nhỏ là nó không thể diễn tả những xúc cảm của nó. Do đó, khi ta điều trị một trẻ bệnh hay bị thương, điều rất quan trong là đến với nó với sự cảm thông và tử tế. Không phải là khó lắm khi tưởng tượng một đứa bé có thể hoảng sợ như thế nào khi nó bị bệnh và khi bố mẹ bi căng thẳng đem nó đến bệnh viện, trong một môi trường xa lạ hay những người lạ mang lại cho nó những điều không thoải mái. Sự nhận thức làm giảm sự sợ hăi. Điều quan trọng là hăy giải thích rơ ràng những điều một cách trực tiếp cho đứa trẻ. Nếu có thể những lời giải thích phải được thực hiện bằng một ngôn ngữ dễ hiểu đối với đứa bé. Bố mẹ phải có thể được ở gần con ḿnh, ngay cả trong khi hồi sinh ; sự hiện diện của họ trong điều trị cho phép làm giảm sự e sợ, stress và sự lo âu của đứa bé và của bố mẹ của nó. Năng lực diễn đạt của đứa bé được cải thiện khi lớn lên. Tuy nhiên phải nhớ rằng trong t́nh huống stress, lo âu hay đau đớn, đứa bé có thể thoái lui. Phải xét đến điều đó khi đánh giá thần kinh đứa bé. V́ lẽ trạng thái c̣n non nớt về mặt diễn đạt trước 5 tuổi, thang điểm Glasgow được biến đổi đối với lứa tuổi này. E. TUỔI VÀ TRỌNG LƯỢNG Đứa trẻ khác với người lớn v́ tầm vóc nhỏ thay đổi với tuổi. Chính v́ thế ở đứa trẻ trọng lượng quan trọng v́ lẽ các loại thuốc được cho tùy theo trọng lượng cơ thể. Trong t́nh huống cấp cứu, ta không có thời gian để cân đứa bé. Công thức sau đây cho phép đánh giá gần đúng trong lượng của đứa bé tùy theo tuổi tính bằng số năm (giữa 1 và 10 tuổi). Trọng lượng (kg) = 2 x (tuổi tính bằng số năm + 4) Có những giải pháp khác thí dụ règle de Broselow. Thước này đo kích thước của đứa bé và suy ra trọng lượng của nó. Đối diện với trọng lượng của đứa bé được chỉ những liều lượng của các loại thuốc cấp cứu được tính theo trọng lượng này. Kích thước của các thiết bị khác nhau, có thể cần thiết, được chỉ tùy theo trọng lương. Những thước chính xác hơn những công thức để đánh giá trọng lượng của đứa bé. Dầu thế nào đi nữa, và dầu phương pháp được lựa chọn là ǵ, điều quan trọng, đó là người chăm sóc phải đủ quen với phương pháp này để có thể áp dụng nó một cách nhanh chóng và hiệu quả. IV. NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ PH̉NG NGỪA TỬ VONG. Trong thời kỳ sơ sinh, các bất thường bẩm sinh là nguyên nhân thông thường nhất của tử vong, tiếp theo bởi những tai biến chu sinh và sau đó bởi chết đột ngột của nhũ nhi. Ở nhũ nhi, các bất thường bẩm sinh vẫn là nguyên nhân gây tử vong đầu tiên, tiếp theo bởi các bệnh hô hấp và tim mạch, các nhiễm trùng và các chấn thương. Nguyên nhân thông thường nhất gây tử vong ở trẻ em lứa tuổi trước học đường là chấn thương, tiếp theo sau bởi những bất thường bẩm sinh, các bệnh tim mạch và ung thư. Chấn thương là nguyên nhân đâu tiên gây tử vong (gấp đôi ung thư) ở trẻ em lứa tuổi học đường. Ở thiếu niên và thanh niên (giữa 15 và 24 tuổi), tự tử và những vết thương do chính thiếu niên gây nên là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ; giết người là nguyên nhân thứ ba. Những nguyên nhân của tử vong thay đổi đối với tuổi. Do đó điều quan trọng là xác lập những sơ đồ pḥng ngừa. Những sơ đồ pḥng ngừa này gồm ba điều : giáo dục, biển đổi môi trường và tăng cường pháp lư về an toàn. Mọi nhân viên điều trị có thể tham gia vào sự cải thiện của pḥng ngừa những tai nạn : pḥng ngừa nguyên phát (thí dụ pḥng ngừa những tai nạn bằng cách sử dụng đồ dùng an toàn trong những khu vực chơi) ; pḥng ngừa thứ phát (giảm những hậu quả của tai nạn thí dụ bằng cách khuyến khích đội casque ở những trẻ đi xe đạp) và pḥng ngừa tam phát (giảm những hậu quả của sự cố bằng cách cải thiện appel de service de secours sau tai nạn ; thí dụ bằng cách tham gia vào một cours như RANP-EPLS) Sự pḥng ngừa tam phát được minh họa bởi chaine de survie, có mục đích cung cấp những điều trị cấp cứu tốt nhất một cách phối hợp. Chaine de survie Mắt xích 1 : Nhận biết sớm và gọi cứu Mắt xích 2 : Hồi sinh tim-phối sớm để lợi thời gian Mắt xích 3 : Khử rung sớm để phát khởi tim trở lại Mắt xích 4 : Hồi sinh sau ngừng tim để cải thiện tiên lượng. UserPostedImage Chaine de vie của Hội đồng hồi sinh châu Âu (ERC) có thể được áp dụng cho đứa bé. Mắt xích đầu tiên nhằm nhận biết vấn đề của đứa bé (thường nhất là một suy hô hấp hay tuần hoàn) và gọi giúp đỡ (sau một phút hồi sinh tim phổi ở đứa bé) ; mắt xích thứ hai nhằm bắt đầu một hồi sinh cơ bản sớm ; mắt xích thứ ba nhằm có thể khử rung sớm khi cần thiết và mắt xích cuối cùng nhằm hồi sinh sau ngung tim để bảo vệ năo. CHẾT ĐƯỢC DỰ KIẾN VÀ CHẾT BẤT NGỜ Ta có thể đứng trước một đứa trẻ mà t́nh huống làm cho những thủ thuật hồi sinh không thích hợp. Đứa trẻ này và gia đ́nh của nó phải được xử trí với ḷng trắc ẩn bởi một kíp được đào tạo soins palliatifs. Cái chết của một đứa bé là một lúc âu lo và căng thẳng đối với bố mẹ, những người thân cũng như đối với kíp điều trị có can dự vào. Điều quan trọng là kíp điều trị này có thể tiếp cận một buổi debriefing sau cái chết để có thể diễn đạt những cảm xúc và t́nh cảm được cảm thấy khi điều trị đứa bé. Mọi thành viên của một kíp điều trị phải có khả năng gọi giúp đỡ hay yêu cầu những lời khuyên ở các đồng nghiệp, những référent hay những thầy thuốc tâm lư. Vài tuần sau khi đứa bé qua đời, bố mẹ phải được mời gặp thầy thuốc chịu trách nhiệm điều trị đứa bé. Điều đó cho phép bố mẹ có những câu trả lời cho những câu hỏi vẫn chưa được giải quyết của họ và nhận những kết quả của những thăm ḍ hay những bệnh phẩm được thực hiện lúc đứa trẻ chết. Điều quan trọng là bố mẹ cảm thấy rằng những điều trị tốt nhất đă được cho con họ mặc dầu sự hồi sinh đă thất bại. Một xử trí sớm dựa trên phương pháp ABD làm giảm số những trường hợp tử vong bất ngờ. Đào tạo RANP (Réanimation Avancée Néonatale & Pédiatrique) • EPLS (European Pediatric Life Support) có mục đích cung cấp những điều trị tốt nhất cho các em bé. Quote: Những điểm chủ yếu • Ngừng tim hộ hấp thứ phát thường gặp nhất ở trẻ em và là biến cố tận cùng của một bệnh hay một thương tổn. • Sự nhận biết và phương pháp cơ cấu hóa ABCD của đứa bé bị bệnh ngăn ngừa sự tiến triển về hướng ngừng tim hô hấp. • Đường dẫn khí, hô hấp, tuần hoàn, và t́nh trạng thần kinh có những đặc điểm khác ở đứa bé so với người lớn. • Sự pḥng ngừa nguyên phát (pḥng ngừa tai nạn), pḥng ngừa thứ phát (giới hạn những hậu quả của tai nạn) và pḥng ngừa tam phát (xử trí tốt nhất của cấp cứu) phải được hướng về những nguyên nhân đặc hiệu của tử vong tùy theo tuổi. BS NGUYỄN VĂN THỊNH (23/7/2013) |
HỒI SINH CAO CẤP TRẺ SƠ SINH VÀ NHI ĐỒNG
HỒI SINH CAO CẤP TRẺ SƠ SINH VÀ NHI ĐỒNG
(EUROPEAN PEDIATRIC LIFE SUPPORT) BS NGUYỄN VĂN THỊNH CHƯƠNG I NHẬN BIẾT TRẺ BỊ BỆNH NẶNG (RECONNAÎTRE L’ENFANT GRAVEMENT MALADE) Quote: Những mục tiêu Cuối chương này các bạn hẳn có khả năng : • Mô tả và nhận biết đứa trẻ bị bệnh nặng • Nhận biết và thảo luận chức năng hô hấp b́nh thường và bất b́nh thường. • Nhận biết và thảo luận chức năng tuần hoàn b́nh thường và bất b́nh thường • Định nghĩa choáng • Biết những ưu tiên điều trị đứa trẻ bị bệnh nặng. PHẦN I Tiên lượng của ngừng tim hô hấp cua đứa trẻ là u tối. Chẩn đoán sớm và điều trị thích đáng đứa trẻ bị bệnh nặng cho phép làm ngừng sự tiến triển về ngừng tim hô hấp và làm giảm tỷ lệ tử vong và bệnh của những t́nh huống này. Chương này mô tả thực hiện như thế nào một đánh giá nhanh chóng một đứa trẻ cũng như những triệu chứng và những dấu hiệu lâm sàng liên kết với suy hô hấp và tuần hoàn (choáng), cả hai có thể dẫn đến ngừng tim hô hấp. Sự nhận diện đứa trẻ bị bệnh nặng và sự xử trí theo những nguyên tắc ABC : A = Airway (đường dẫn khí) B = Breathing (Thở) C = Tuần hoàn Ta cho thể thêm D vào ABC. D thay thế cho chữ disability (những rối loạn về t́nh trạng tri giác). Sự đánh giá t́nh trạng tri giác bổ sung sự đánh giá suy hô hấp và tuần hoàn. I. NHẬN BIẾT SUY HÔ HẤP 1. CHỨC NĂNG HÔ HẤP B̀NH THƯỜNG. Một chức năng hô hấp b́nh thường đ̣i hỏi những chuyển động khí đi vào và đi ra khỏi hai lá phổi cũng như những trao đổi oxy và CO2 ở màng phế nang-mao mạch. Sự thông khí phút (ventilation minute) (yếu tố quyết định chính của trao đổi CO2) tùy thuộc đồng thời thể tích lưu thông (volume courant) (thể tích khi mỗi lần hô hấp) và tần số hô hấp. Quote: Thông khí phút = Thể tích lưu thông x Tần số hô hấp Một hô hấp b́nh thường đ̣i hỏi một cố gắng tối thiểu. Tần số hô hấp thay đổi theo tuổi, sự kích động, sự lo âu hay sốt. Tiến triển của các tần số hô hấp theo thời gian là một tham số tốt hơn một trị số riêng rẻ của tần số hô hấp. Thể tích lưu thông (Vc) vẫn không thay đổi trong suốt cuộc đời với một trị số từ 7 đến 9 ml/kg. Thể tích hô hấp có thể được đánh giá về chất lượng bằng cách thính chẩn phổi (sự đi vào của không khí trong tất cả các vùng của phổi) và những cử động của lồng ngực trong khi thở. UserPostedImage 2. NHỮNG CƠ CHẾ CỦA SUY HÔ HẤP. Suy hô hấp cấp tính có thể được gây nên bởi tất cả các bệnh lư ảnh hưởng lên những chuyển động khí đi vào và đi ra khỏi phổi, do đó làm biến đối sự thải CO2 (sự thông khí) và/hoặc ảnh hưởng lên sự trao đổi khí ở màng phế nang-mao mạch (oxygénation). Sự thất bại duy tŕ thông khí phút (ventilation minute) (giảm thông khí phế bào) được liên kết với một sự gia tăng PaCO2. Điều này có thể được gây nên bởi một sự giảm của tần số hô hấp (thí dụ ngộ độc nha phiến) hay do một sự giảm của thế tích lưu thông (volume courant) (thí dụ tắc đường dẫn khí hay bệnh lư thần kinh cơ). Sự biến đổi của các trao đổi khí ở màng phế nang-mao mạch nói chung là do sự tích tụ dịch trong các phế nang. Sự biến đổi này được liên kết với một sự giảm PaO2 và một sự gia tăng độ cứng của phổi, nghĩa là giảm độ dẻo (compliance) của phổi. Sự giảm PaO2 kích thích trung tâm hô hấp và làm gia tăng tần số hô hấp. Công hô hấp gia tăng do sự gia tăng của tần số hô hấp và mức độ cứng của phổi. Dấu hiệu xanh tía trung tâm (cyanose) xuất hiện khi độ bảo ḥa oxy dưới 80%, chỉ rằng hémoglobine không bảo ḥa dưới 5g/dl. Sự vắng mặt của triệu chứng xanh tía đặc biệt ở những bệnh nhân thiếu máu không hàm ư một oxygénation b́nh thường. Sự gia tăng PaCO2 có thể được kèm theo tim nhịp nhanh, co mạch và mạch nhảy nhưng những dấu hiệu này không đáng tin cậy. Các tần số hô hấp bất thường được xếp loại thành những tần số quá nhanh (thở nhịp nhanh, tachypnée), quá chậm (thở nhịp chậm, bradypnée) và vắng mặt (ngừng thở, apnée). Thở nhịp nhanh và thở nhịp chậm có thể được kèm theo bởi suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire). Suy kiệt hô hấp là một hội chứng lâm sàng, phản ảnh một sự gia tăng công hô hấp, thường được liên kết với một cố gắng làm gia tăng thể tích lưu thông. 3. T̀NH TRẠNG HÔ HẤP BÙ Các cơ chế bù gồm có sự gia tăng tần số hô hấp khi thể tích lưu thông bị giảm hay một sự gia tăng thể tích lưu thông khi tần số quá chậm. Suy hô hấp cũng được liên kết với một sự gia tăng của lưu lượng tim (chủ yếu bởi một tần số tim nhanh hơn) nhằm cải thiện những trao đổi khí và sự thông máu mô. Những dấu hiệu của suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire) : • Sử dụng các cơ phụ. • Sự gia tăng tần số hô hấp. • Sự gia tăng tần số tim. T́nh trạng tăng thán huyết (hypercapnie) (gia tăng nồng độ CO2 động mạch) và/hoặc giảm oxy mô (hypoxie) phản ánh sự mất khả năng của đứa bé để bù bệnh hô hấp. 4. SUY HÔ HẤP Trên quan điểm sinh lư, suy hô hấp (insuffisance respiratoire) thường được định nghĩa như là " sự bất túc của hệ hô hấp trong sự duy tŕ một paO2 > 60 mmHg (= 9 kPa) đối với 21% FiO2 ” (điều này tương ứng với một SpO2 khoảng 90%) hay bất túc trong sự duy tŕ một PaCO2 < 60 mmHg (= 9 kPa) ”. Có được một khí huyết động mạch không phải luôn luôn dễ dàng và đôi khi không đáng tin cậy ở đứa bé. Ngoài ra, một đứa bé trong t́nh trạng suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire) có thể có khả năng duy tŕ những trị số b́nh thường của khí huyết động mạch bằng cách làm gia tăng những cố gắng hô hấp. Điều quan trọng là phải đánh giá xem t́nh h́nh hô hấp có ổn định không hay sự mất bù có sắp tiến về suy hô hấp hay không. Trên quan điểm thực hành, suy hô hấp bù hay mất bù không được xác định bởi phân tích khí huyết nhưng bởi những thăm ḍ lâm sàng. Sự đánh giá này đ̣i hỏi phải biết những triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp. Khi các cơ chế bù bị vượt quá, sự suy thoái xảy ra rất nhanh và một ngừng tim-hô hấp phải được xét đến. Những dấu hiệu xác định suy hô hấp mất bù là sự giảm t́nh trạng tri giác, sự giảm trương lực (hypotonie), sự giảm gắng sức hô hấp, xanh tía và xanh tái cực kỳ mặc dầu được cho oxy, vă mồ hôi và tim nhip chậm. II. ĐÁNH GIÁ TRẠNG THÁI HÔ HẤP : A VÀ B A. AIRWAY = ĐƯỜNG DẪN KHÍ (VOIES RESPIRATOIRES) Để đảm bảo những chuyển động thích đáng của khí vào trong phổi và do đó một sự thông khí phút (ventilation minute) thích đáng, đường dẫn khí của trẻ em phải được thông suốt và an toàn. Nếu đường dẫn khí có nguy cơ và không được đảm bảo an toàn, chúng có thể trở nên bị tắc (thí dụ ở một đứa trẻ bất tỉnh thở tự nhiên, lưỡi có thể bị xê dịch ra phía sau trong xoang miệng và gây tắc đường dẫn khí). Để cải thiện khí đi vào, đứa trẻ, mà đường dẫn khí bị tắc một phần hay hoàn toàn, gia tăng tần số hô hấp và công hô hấp. Khi đánh giá t́nh trạng thông thương của đường khí, phải ghi nhớ rằng sự hiện diện của những cử động của lồng ngực không hàm ư rằng đường khí thông thương. Phải đánh giá sự đi vào của không khí bằng cách nghe và cảm thấy những chuyển động khí và những tiếng thở. B. BREATHINH = SỰ HÔ HẤP (RESPIRATION) 1. TẦN SỐ HÔ HẤP Ở trẻ sơ sinh, thở nhịp nhanh (tachypnée) có thể là dấu hiệu đầu tiên của suy hô hấp. Thở nhịp nhanh không có suy kiệt hô hấp (thở nhịp nhanh b́nh yên) có thể có một nguyên nhân không phải do phổi (thí dụ trong choáng, acidocétose diabétique, ngộ độc bởi salicylate hay suy thận). Những biến đổi của tần số hô hấp theo thời gian là quan trọng. Một sự gia tăng tần số hô hấp thể hiện một sự bù sinh lư của một sự suy thoái của chức năng hô hấp. Một sự giảm đột ngột của tần số hô hấp ở một đứa trẻ đau nặng rất là có ư nghĩa và có thể là một biến cố trước tận cùng (un événement pré-terminal). Những nguyên nhân của giảm tần số hô hấp có thể hoặc là hạ thân nhiệt, hoặc là một sự suy giảm của hệ thần kinh trung ương hoặc là mệt. Phải luôn luôn xét đến sự suy kiệt (épuisement) : một đứa bé có một tần số hô hấp 80/phút mệt rất nhanh và sự giảm đột ngột tần số hô hấp là một dấu hiệu báo động. 2. CÔNG HÔ HẤP Sự gia tăng của công hô hấp được thể hiện bởi sự tăng cao của tần số hô hấp, của co kéo liên sườn (rétraction intercostale), trên ức và dưới sườn, sự sử dụng các cơ phụ (các cánh mũi phập phồng, những cử động giật của đầu, co kéo mũi ức). Những dấu hiệu này hiện diện trong những bệnh lư hô hấp như tắc đường dẫn khí hay các bệnh lư phế bào. Để đáp ứng với sự gia tăng của công hô hấp, một phần quan trọng hơn của lưu lượng tim được chuyển về các cơ hô hấp với một sự gia tăng thứ phát của sự sản xuất CO2. Khi công hô hấp vượt quá khả năng vận chuyển oxy đến các cơ hô hấp, nhiễm toan hô hấp biến chứng thành nhiễm toan chuyển hóa (tương ứng với sự gia tăng của nồng độ acide lactique). a. Co kéo (tirage). Co kéo dễ được quan sát ở nhũ nhi và trẻ nhỏ tuổi v́ tính dẻo (compliance) cao của lồng ngực. Tầm quan trọng của nó cho một chỉ dẫn về mức độ nghiêm trọng của suy kiệt hô hấp. Ở trẻ em trên 5 tuổi, lồng ngực ít đàn hồi hơn và co kéo chứng tỏ một sự biến đổi nghiêm trọng của chức năng hô hấp. b. Các cử động giật của đầu (bobbing : đầu gật gù) và balancement thoraco-abdominal. Khi công hô hấp gia tăng, các cơ ức đ̣n chũm có thể được sử dụng như các cơ phụ. Ở nhũ nhi, điều này gây nên một cử động ra trước và ra sau của đầu mỗi lần thở, điều này làm giảm tính hiệu quả của sự thông khí. Balancement thoraco-abdominal là một cử động nghịch lư của bụng. Trong khi thở vào, trong lúc cơ hoành co lại : bụng căng ra và lồng ngực thu rút lại. Hô hấp trở nên không hiệu quả, v́ thể tích lưu thông bị giảm đối với một cố gắng cơ gia tăng. UserPostedImage Suy hô hấp mất bù một đứa trẻ có một suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire) (co kéo gian và dưới sườn, co kéo mũi uc và cánh mũi phập phồng) và một sự giảm tiếp xúc với người điều trị c. Những tiếng thở vào và thở ra. B́nh thường, đường dẫn khí ngoài ngực hẹp lại và những đường dẫn khí trong ngực giăn ra trong giai đoạn thở vào của hô hấp. T́nh huống này đảo ngược trong giai đoạn thở ra. Quan sát xem những tiếng thở bất thường có xảy ra trong giai đoạn thở vào hay thở ra, có thể cho phép xác định nơi tắc nghẽn đường dẫn khí. Một tiếng thở vào âm cao (tiếng thở rít : stridor) là đặc trưng của một tắc không hoàn toàn của đường hô hấp trên (ngoài ngực). Tiếng thở rít là do sự đi qua nhanh và chảy rối của không khí qua một phần hẹp của đường hô hấp trên. Tiếng rít hai th́ (thở vào và thở ra) là đặc trưng cho một tắc đường dẫn khí ở phần trên của khí quản. Khi tắc nằm ở phần thấp của khí quản, tiếng rít ở th́ thở ra. Tiếng thở kḥ khè (wheezing) là một tiếng thở ra kèm theo một th́ thở ra kéo dài. Tiếng thở kḥ khè có thể nghe thấy bằng tai hay thính chẩn. Tiếng thở kḥ khè là một dấu hiệu tắc phế quản hay tiểu phế quản (trong ngực). Tiếng này trở nên mạnh hơn khi đường hô hấp càng hẹp và khi sự đi qua của không khí càng giảm. Tiếng thở kḥ khè giảm có thể là dấu hiệu của một tắc hoàn toàn hay sự kiệt quệ của đứa bé, cũng như là dấu hiệu của một sự cải thiện. d. Thở rên (grunting) Thở rên (geignement expiratoire = grunting) được gặp chủ yếu ở các trẻ sơ sinh nhưng cũng có ở các nhũ nhi hay những trẻ nhỏ. Tiếng động này được gây nên do thở ra chống lại một thanh môn đóng lại một phần nhằm tạo nên một áp suất dương cuối thời kỳ thở ra (PEP) để giữ ǵn hay làm gia tăng capacité résiduelle fonctionnelle. Thở rên được nghe ở những bệnh nhân mà bệnh gây nên xẹp phế nang và mất thể tích phổi (phù phổi, viêm phổi, xẹp phổi hay hội chứng SDRA). Nó cũng được mô tả trong những bệnh của đường hô hấp trên và dưới, các viêm cơ tim, các nhiễm trùng nghiêm trọng (nhiễm trùng huyết, viêm màng năo) và trong trường hợp tắc ruột. Thở rên là một chứng cớ của một bệnh nặng. 3. THỂ TÍCH LƯU THÔNG : TÍNH HIỂU QUÁ CỦA SỰ THÔNG KHÍ Sự nở của lồng ngực có thể được đánh giá bằng thị chẩn, ấn chẩn, đả chẩn và thính chẩn. Thị chẩn và ấn chẩn đánh giá mức độ và sự đối xứng của sự nở lồng ngực. Đả chẩn hữu ích để chẩn đoán những vùng xẹp phổi (âm đục) hay một tăng vang khí (tràn khí màng phổi). Thính chẩn cho một chỉ dẫn về thể tích khí đi vào trong hai lá phổi. Những tiếng thở phải đối xứng và dễ nghe. Một thính chẩn cẩn thận cả lồng ngực, đặc biệt ở nách, có thể phát hiện những tiếng thở được truyền từ một vùng khác (thí dụ trong tràn khí màng phổi hay xẹp phổi). Điều hữu ích là so sánh thính chẩn một phía của ngực với phía kia. Một lồng ngực im lặng là một dấu hiệu báo động chỉ một sự giảm nghiêm trọng của thể tích lưu thông. 4. OXYGENATION : XANH TÍA VÀ XANH TÁI Xanh tía là một dấu hiệu muộn và không thường có của suy hô hấp. Xanh tía rơ rệt hơn ở các niêm mạc miệng và ở ḷng móng tay. Xanh tía giới hạn ở các chi (xanh tía ngoại biên) thường là do một suy tuần hoàn hơn là một suy hô hấp (xanh tía trung ương). Giảm oxy huyết có thể gây nên một sự co mạch làm che khuất t́nh trạng xanh tía. SpO2 phải được đo bằng oxymétrie de pouls ngay khi một suy hô hấp đuoc nghi ngờ ngay cả khi không có xanh tía. C. T̀NH TRẠNG TRI GIÁC Đứa trẻ trong t́nh trạng giảm oxy mô và/hoặc tăng thán huyết có thể trở nên bị kích động hay ngủ gà khi suy hô hấp tiến triển. Biến cố tận cùng là mất tri giác. Bố mẹ có thể giải thích rằng đứa bé không phản ứng như lệ thường hay nó không c̣n nhận biết ra họ nữa. Nhà lâm sàng đánh giá t́nh trạng tri giác của đứa bé bằng cách cố đạt được một sự tiếp xúc thị giác và/hoặc một đáp ứng với những kích thích lời nói hay đau đớn. III. MONITORAGE Oxymétrie de pouls là một công cụ quư báu trong đánh giá suy hô hấp. Nó phải được sử dụng một cách hệ thống để đo độ bảo ḥa oxy động mạch qua da (saturation transcutanée artérielle en oxygène : Sp02). Trị số của Sp02 ít đáng tin cậy hơn khi dưới 70% đứng trước choáng và/hoặc trong trường hợp ngộ độc CÓ hay méthémoglobinémie IV. NHẬN BIẾT CHOÁNG 1. ĐỊNH NGHĨA CHOÁNG Choáng là một t́nh trạng lâm sàng trong đó lưu lượng máu và sự cung cấp các substrat đến các mô không thỏa măn nhu cầu chuyển hóa. Sự mang không đủ các substrat như oxy và glucose đến các mô và lấy đi các chất chuyển hóa tế bào gây nên một sự chuyển hóa kỵ khí với sự tích tụ acide lactique. Sự biến đổi chuyển hóa tế bào này sẽ gây nên những thương tổn tế bào không hồi phục được. Choáng có thể liên kết với một luu lượng tim b́nh thường, bị giảm hay được gia tăng hay một huyết áp b́nh thường hay giảm. Choáng được mô tả như là bù hay mất bù. CHOÁNG BÙ là giai đoạn sớm của choáng không hạ huyết áp. Mặc dầu huyết áp b́nh thường, ta quan sát thấy những dấu hiệu thông máu bất b́nh thường như tim nhịp nhanh, mạch ngoại biên khó ấn chẩn, thở nhịp nhanh và thiểu niệu. CHOÁNG MẤT BÙ hiện diện khi hạ huyết áp phát triển và khi sự thông máu các cơ quan sinh tử (năo, tim) bị ảnh hưởng. LƯU LƯỢNG TIM Quote: Lưu lượng tim = Tần số tim x thể tích phóng máu HUYẾT ÁP Quote: Huyết áp = Lưu lượng tim x Sức cản mạch máu toàn thể Tiền gánh (précharge) là thể tích làm đầy (volume de remplissage) của tim. Hậu gánh (postcharge) chủ yếu được biểu hiện bởi các sức cản mạch máu toàn thể. Một sự gia tăng tần số tim có thể giúp duy tŕ luu lượng tim nếu một thể tích phóng máu (volume d’éjection) sụt giảm. Một sự co mạch (nghĩa là sự gia tăng sức cản mạch máu toàn thể) có thể giúp duy tŕ một huyết áp b́nh thường khi lưu lượng tim giảm. Hai cơ chế bù này giải thích những dấu hiệu sớm của choáng : tim nhịp nhanh và giảm thông máu da. Sự thông máu của các cơ quan tùy thuộc đồng thời lưu lượng tim và huyết áp (chủ yếu là huyết áp trung b́nh). Trong số những tham số bị ảnh hưởng hay ảnh hưởng lưu lượng tim, vài tham số có thể đo được (tần số tim và huyết áp) và những tham số khác (thể tích phóng máu và sức cản ngoại biên toàn thể) có thể được đánh giá một cách gián tiếp bằng cách khám biên độ và chất lượng của các mạch ngoại biên, sự thích đáng của áp suất thông máu của các cơ quan bia (t́nh trạng tri giác, thời gian đầy lại mao mạch, nhiệt độ da và nếu có thể được lượng nước tiểu bài xuất và đo nồng độ lactate trong máu). Các sức cản mạch máu toàn hệ hạ có thể được nghi ngờ nếu huyết áp động mạch trương tâm dưới những trị số b́nh thường đối với tuổi của đứa bé. UserPostedImage 2. NGUYÊN NHÂN CỦA CHOÁNG. Choáng có thể do suy tuần hoàn hay hô hấp. Phần lớn trẻ em bị choáng nghiêm trọng dầu cho nguyên nhân là gi, có một mức độ loạn năng tim mạch đ̣i hỏi nhiều loại điều trị (thí dụ xử trí đường dẫn khí (A), thở (B) và tuần hoàn (C). a/ CHOÁNG GIẢM THỂ TÍCH. Choáng giảm thể tích được đặc trưng bởi một thể tích lưu thông (tiền gánh) bị giảm. Choáng giảm thể tích có thể do mất dịch quan trọng như trong một mất nước hay xuất huyết. b/ CHOÁNG PHÂN BỐ Choáng phân bố được đặc trưng bởi một sự phân bố không thích đáng của lưu lượng máu, không đủ đối với nhu cầu chuyển hóa của các mô. Loại choáng này được gặp trong trường hợp sepsis hay phản vệ khi dịch đi ra khỏi các khoang mạch máu vào các mô chung quanh. Nói chung lưu lượng tim bị giảm trong suy tuần hoàn, nhưng choáng phản vệ và choáng nhiễm khuẩn có thể được đặc trưng bởi một lưu lượng tim gia tăng. Trong trường hợp này sức cản mạch máu toàn thân (résistance vasculaire systémique) bị giảm và đứa trẻ có vẻ được thông máu tốt với mạch ngoại biên nhảy và một sự gia tăng của sự khác biệt tâm thu-trương tâm (différence systolo-diastolique). Mặc dầu sự thông máu có vẻ đúng đắn và mặc dầu lưu lượng tim tăng cao, có một sự không ḥa hợp giữa lưu lượng máu đến mô và những nhu cầu chuyển hóa không đủ. Loại choáng này khó chẩn đoán trong giai đoạn sớm của nó. Sự quan sát chăm chú những dấu hiệu lâm sàng sớm của choáng liên kết với sự phân tích khí huyết động mạch cho phép chẩn đoán đúng. c/ CHOÁNG TIM (CHOC CARDIOGENIQUE) Choáng tim là do suy cơ tim hay một loạn nhịp tim d/ CHOÁNG DO TẮC (CHOC OBSTRUCTIF) Choáng do tắc được đặc trưng bởi một loạn năng tim do một tắc ngăn cản sự làm đầy và/hoặc sự phóng máu của tim (tràn khí màng phổi dưới áp lực, chèn ép tim). . UserPostedImage Suy tuần hoàn mất bù ở một đứa trẻ nhiễm trùng màng năo cầu khuẩn với những dấu hiệu mắt bù (giảm mức độ tri giác). V. ĐÁNH GIÁ T̀NH TRẠNG TIM MẠCH : C Sự đánh giá của t́nh trạng tim-mạch phải bắt đầu một cách hệ thống bằng sự đánh giá t́nh trạng tri giác, của các đường dẫn khí (A) và của sự thở (B). Sự xử trí các đường dẫn khí và sự thông khí phải được bắt đầu trước khi đánh giá t́nh trạng tuần hoàn. 1. TẦN SỐ TIM. Tần số tim gia tăng để đáp ứng với một sự gia tăng của nhu cầu chuyển hóa mô. Tim nhịp nhanh xoang là đáp ứng thông thường với t́nh trạng âu lo và sốt nhưng cũng có thể là do giảm oxy mô, toan chuyển hóa, tăng thán huyết, giảm thể tích máu hay đau đớn. Các trẻ sơ sinh có rất ít dự trữ tim (réserve cardiaque) : chúng gia tăng lưu lượng tim chủ yếu bằng cách làm gia tăng tần số hơn là thể tích phóng máu (volume d’éjection). Đáp ứng đầu tiên của chúng đối với giảm oxy mô là tim nhịp chậm ; những trẻ lớn hơn lúc khởi đầu phát triển một tim nhịp nhanh. Khi sự gia tăng tần số tim không c̣n đủ nữa để duy tŕ một oxygénation mô thích đáng ; giảm oxy mô và toan chuyển hóa xảy ra và dẫn đến một tim nhịp chậm báo hiệu một ngừng tim-hô hấp sắp xảy ra. 2. HUYẾT ÁP Những cơ chế bù để tái lập một lưu lượng tim trong trường hợp giảm thể tích lưu thông là : • co mạch • tim nhịp nhanh • gia tăng khả năng co bóp cơ tim. Thể tích phóng máu (volume d’éjection) giảm với giảm thể tích máu (hypovolémie). Trong thời gian đầu, huyết áp được duy tŕ nhờ sự gia tăng của tần số tim và sức cản ngoại biên toàn thể. Khi các cơ chế bù bị vượt qua, hạ huyết áp xuất hiện. Tim nhịp nhanh vẫn tồn tại cho đến khi các dự trữ catécholamine của cơ tim cạn kiệt. Hạ huyết áp xảy ra muộn trong choáng giảm thể tích (sau khi mất 40% thể tích lưu thông) Dầu choáng thuộc loại nào, hạ huyết áp là một dấu hiệu mất bù và phải được điều trị tích cực, v́ lẽ suy tim-hô hấp và ngừng tim sắp xảy ra. Khi huyết áp thu tâm nằm dưới giới hạn dưới của b́nh thường, phải t́m kiếm những dấu hiệu choáng khác. Nếu choáng được xác nhận, nó phải được điều trị tích cực. UserPostedImage 3. CƯỜNG ĐỘ CỦA MẠCH Tim nhịp nhanh là một dấu hiệu sớm nhưng không đặc hiệu của choáng và hạ huyết áp là một dấu hiệu đặc hiệu nhưng xảy ra muộn. Vậy những chỉ đấu khác cần thiết để xác lập một chẩn đoán sớm của choáng. Thể tích phóng máu có thể được đánh giá bằng cách ấn chẩn biên độ của mạch. Khi thể tích phóng máu bị giảm, biên độ của các mạch giảm. Biên độ của các mạch phản ánh hiệu số giữa áp suất động mạch thu tâm và áp suất động mạch trương tâm. Trong choáng, sóng áp suất (onde de pression) giảm biên độ làm cho mạch khó bắt rồi không bắt được. Biên độ của các mạch ngoại biên (động mạch quay, chày, pédieuse...) giảm nhanh hơn biên độ của các mạch trung tâm (động mạch cảnh, cánh tay, đùi). Sự so sánh giữa các mạch ngoại biên và trung tâm có thể hữu ích. Các mạch xa cũng có thể bị giảm do co mạch gây nên bởi sốt, lạnh hay âu lo. Sự giảm các mạch trung tâm là một dấu hiệu báo hiệu ngừng tim hô hấp sắp xảy ra. 4. THÔNG MÁU NGOẠI BIÊN Các sức cản mạch máu toàn thể có thể được đánh giá một cách gián tiếp bằng thời gian đầy lại mao mạch, nhiệt độ của da và huyết áp tâm thu 5. TIỀN GÁNH Đánh giá lâm sàng của tiền gánh cho phép gián biệt choáng tim với những dạng khác của choáng và đánh giá tác dụng của một bolus dung dịch làm đầy (soluté de remplissage). Ở một trẻ em khỏe mạnh, các tĩnh mạch cổ (veines jugulaires) chỉ hơi thấy rơ và bờ gan có thể ấn chẩn tối đa 1 cm dưới bờ sườn. Nếu tiền gánh trở nên quá quan trọng (thí dụ trong trường hợp tăng gánh thể tích hay trong suy tim), các tĩnh mạch cổ trở nên ứ máu, gan lớn lên và các ran ẩm có thể nghe được trong hai lá phổi 6. THÔNG MÁU CỦA CÁC CƠ QUAN BIA Sự thông máu của các cơ quan tùy thuộc vào lưu lượng tim và áp suất thông máu. Chất lượng của sự thông máu của các cơ quan được đánh giá một cách hiệu quả ở da, thận và năo bộ. a. DA Ở đứa trẻ khỏe mạnh, da nóng, khô và hồng hào từ đầu đến chân, ngoại trừ nhiệt độ bên ngoài quá lạnh. Thời gian đầy lại mao mạch (TRC : temps de recoloration capillaire) được sử dụng để đánh giá sự thông máu ở da. Nếu như nó kéo dài, đó là một dấu hiệu sớm của choáng. Thời gian đầy lại mao mạch được đánh giá bằng cách đếm thời gian mà da của pulpe của một ngón tay hay vùng trước ức cần để trở lại màu sau khi bị làm trắng đi do một đè ép 5 giây. B́nh thường thời gian đầy lại mao mạch dưới 2 giây. Để đánh giá một cách đúng đắn thời gian đầy lại mao mạch, chi phải ở cùng mức với tim (hay hơi được đưa cao lên) để tránh mọi sự ứ đọng tĩnh mạch (stase veineuse). Sự giảm tưới máu đă phản ảnh một sự co mạch ngoại biên, dấu hiệu sớm của choáng. Những dấu hiệu co mạch ngoại biên khác, có thể xuất hiện khi lưu lượng tim sụt, là : • sự xuất hiện một biên giới giữa nóng và lạnh, bắt đầu ở các ngón tay rồi lan lên thân ḿnh • những marbrures • xanh tái • xanh tía ngoại biên b. NĂO : T̀NH TRẠNG TRI GIÁC Những dấu hiệu giảm thông máu năo tùy thuộc vào thời gian và mức độ nghiêm trọng của hiện tượng. Nếu khởi đầu thiếu máu cục bộ xảy ra đột ngột (như trong một loạn nhịp tim), dấu hiệu đầu tiên có thể là một sự mất tri giác liên kết với những co giật và giăn đồng tử. Nêu sự giảm thông máu xảy ra từ từ, như trong một suy tuần hoàn hay suy hô hấp, những dấu hiệu sẽ là những luân phiên các thời kỳ kích động, ngủ gà hay cáu kỉnh. Những rối loạn tri giác của trẻ em trong t́nh trạng choáng tiến triển theo thứ tự sau đây : ta có thể nhớ chúng theo thứ tự nhờ AVPU (bằng tiếng Anh) A : Alert (éveillé) : Bệnh nhân tỉnh V : Voice (réponse à la voix) : Đáp ứng với lời nói P : Pain (réponse à là douleur) : Đáp ứng với đau đớn U : U (Unresponsive) : không đáp ứng với một kích thích nào c. THẬN Sự giảm lượng nước tiểu thải ra mỗi giờ (<1ml/kg/giờ) chỉ một sự thông máu thận không thích đáng. Sự theo dơi xuất lượng nước tiểu là hữu ích để đánh giá tính hiệu quả của điều trị choáng. UserPostedImage |
Chứng Tiểu Đêm Ở Người Già
Chứng Tiểu Đêm Ở Người Già
Người lớn tuổi thường bị mất ngủ, lư do thường gặp nhất là phải đi tiểu nhiều ban đêm. Ngoài việc gây rối loạn giấc ngủ, bệnh nhân sáng sớm mệt mỏi, không nghỉ ngơi đầy đủ, nguy cơ té và có thể gẫy xương có thể là những chuyện nguy hiểm đi kèm theo chứng tiểu đêm. Bệnh nhân đàn ông có thể có những triệu chứng kèm theo ở đường tiểu phía dưới (lower urinary tract): như ban ngày đi tiểu liên miên (urinary frequency, (trên 8 lần/ngày)), ḍng ">nước tiểu yếu, cần đi tiểu ngay (urgency), hay són tiểu (urinary incontinence). Nguyên nhân chúng ta thường nghe đến là tuyến tiền liệt ph́ đại lành tính (benign prostate hypertrophy) (không phải ung thư) làm đường thoát ra của nước tiểu bị nhỏ lại và tiểu không thông, chia làm nhiều lần. Phụ nữ có thể đi tiểu nhiều lần hơn lúc lớn tuổi, hoặc do kết quả sinh đẻ, hoặc do thói quen phụ nữ hay đi tiểu. A. Vài ư niệm về cơ thể học: Chúng ta có hai trái thận (E: kidney, F: rein) hai bên, phía sau và phía trên bụng. Hai thận lọc máu và bài tiết nước tiểu, đi xuống hai ống niệu quản (ureter), vào bọng đái (bladder) nằm giữa, phía dưới bụng. Bọng đái người lớn có nước tiểu chừng 300ml th́ mắc tiểu, nếu năo cho phép “mở cửa” th́ nước tiểu thoát ra niệu đạo, nếu nín thêm bọng đái có thể chứa đến 600ml là tối đa. Tuyến tiền liệt (prostate) trước đây c̣n gọi là “nhiếp hộ tuyến”, là một tuyến ngoại tiết của bộ phận sinh dục nam. Tuy nhiên gần đây người ta cũng đặt tên lại cho một số tuyến tương tự ở phái nữ là tuyến tiền liệt nữ (female prostate). Ở phái nam, tuyến nằm dưới và nằm ngay trước ngơ nước tiểu đi ra của bàng quang (= bọng đái: bladder). Tuyến này tiết vào tinh dịch một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng. Tuyến tiền liệt bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thoát ra từ bọng đái, nếu tuyến lớn quá (ph́ đại, hypertrophy), hoặc có ung bướu, tuyến có thể bóp nghẽn đường đi ra của nước tiểu và làm khó tiểu hoặc bí tiểu. Tuy nhiên, chứng đi tiểu đêm không phải luôn luôn do tuyến tiền liệt. B. Những lư do khác nhau có thể gây chứng tiểu đêm: 1) Nước tiểu nhiều lúc ban đêm (nocturnal polyuria) do: - Suy tim. - Rối loạn chất nội tiết ADH (antidiuretic hormone, hay arginin vasopressin được hypothalamus của năo bộ tiết ra) là chất đáng lẽ làm thận giữ lại nước nhiều hơn, làm nước tiểu cô đọng hơn, và thể tích nước tiểu giảm đi lúc ban đêm. Ngược lại ở một số người già có rất ít chất vasopressin này tiết ra ban đêm, nên lượng nước tiểu ban đêm quá nhiều. - Nước ứ phần dưới cơ thể (hạ chi), do các tĩnh mạch không hoạt động b́nh thường, do suy tim, do thiếu protein trong máu, do ăn mặn quá. - Uống thuốc lợi tiểu (diuretic) trước khi đi ngủ (ví dụ thuốc loại thiazide trị bệnh cao máu) - Ngưng thở (apnea) trong giấc ngủ v́ bị đường hô hấp tắc nghẹt (obstructive sleep apnea), thiếu oxy trong máu gây ra áp suất trong động mạch phổi tăng, làm áp suất trong tâm nhĩ phải tăng và gây tác dụng tạo ra nước tiểu nhiều hơn. Nếu bệnh nhân ngáy to, thỉnh thoảng yên lặng không nghe tiếng thở, nhất là người mập, nên coi chừng có sleep apnea hay không, bằng cách đo polysomnogram (đo tim, nhịp thở, oxy trong hơi thở, năo điện đồ cùng một lúc trong khi bệnh nhân ngủ). Nếu cần, dùng CPAP cho apnea (máy tạo nên áp suất dương thường trực trong đường hô hấp trong lúc ngủ.) 2) Bệnh tạo ra quá nhiều nước tiểu: - Do bệnh tiểu đường (đái tháo đường, diabetes) - Đái tháo nhạt (diabetes insipidus, do tổn thương năo bộ, hoặc do thận bị hư /nephrogenic diabetes insipidus) - Uống nước quá nhiều (polydipsia). 3) Do thể tích (dung tích, capacity) bọng đái quá nhỏ về đêm: - Hệ thần kinh bọng đái bất thường (neurogenic bladder) không kiểm soát được. -Viêm bọng đái (cystitis) - Ung thư bọng đái, tiền liệt, niệu đạo (cancer of the bladder, prostate, urethra). -Thói quen đi tiểu lúc bọng đái chưa đầy (~300-600ml). - “Overactive bladder” (OAB) (bọng đái “quá hoạt động”). - Lo âu (anxiety). - Rượu, café - Sạn trong bọng đái - Thuốc men: + Caffeine, theophylline trị thông cuống phổi, thuốc lợi tiểu. + Thuốc beta blockers (dùng trị bệnh cao huyết áp, làm cơ detrusor bọng đái co lại tăng risk són tiểu), thuốc alpha blocker (giản nở các sợi cơ cỗ bọng đái), thuốc lợi tiểu (dùng trị bệnh cao huyết áp). C. Lời khuyên: Nói chung, nếu cần nên đến bác sĩ gia đ́nh để t́m xem chính xác nguyên nhân ở đâu, ngoài khả năng do tuyến tiền liệt gây ra. Nếu bác sĩ cho phép, có thể thử những biện pháp thông thường như: – Tránh uống nước quá nhiều, nhất là tối, 6h trước khi đi ngủ, ăn trái cây khô trước khi đi ngủ để giảm bớt nước tiểu ban đêm. – Tránh cà phê, trà, rượu, bia (la ve) và những thuốc lợi tiểu nếu có thể được. – Kê chân lên cao (lúc ngồi, nằm) ban ngày để tránh nước tụ xuống hai chân, mang vớ bó chặt để giảm bởt phù hai chân. – Cẩn thận thắp đèn sáng, nếu cần đi khám mắt xem thị lực có tốt không, có bị cườm mắt hay không, để tránh té, tai nạn lúc đi tiểu đêm. Chúc bệnh nhân may mắn. Bác sĩ Hồ Văn Hiền |
Tác Hại Của Giày Cao Gót
1 Attachment(s)
:thankyou::thankyou:
|
bệnh khớp thoái biến
Bệnh Khớp Thoái Biến
Khớp (joint) là các chỗ những đầu xương nối với nhau. Trong khớp có nhiều cơ cấu rất tinh vi, phối hợp hoạt động để khớp vừa vững chắc vừa linh động. Sụn khớp (articular cartilage), phần quan trọng của khớp, bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương trong khớp nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động. Ở Mỹ đă lâu, chúng ta cần ḥa nhập vào ḍng y khoa Mỹ, dùng những từ y khoa Mỹ họ dùng: đau cổ (neck pain), đau vai (shoulder pain), đau khuỷu tay (elbow pain), đau cổ tay (wrist pain), đau lưng (back pain), đau lưng dưới (low back pain), đau hông (hip pain), đau gối (knee pain), đau cổ chân (ankle pain), đau khớp (joint pain), viêm khớp (arthritis: khớp vừa đau, vừa sưng to, nóng đỏ). Nên bỏ hai chữ “phong thấp” vào sọt rác quá khứ, v́ những chữ này mơ hồ, không biết dịch sang tiếng Anh thế nào. Xin nhớ, vào nhà thương, các bác sĩ, y tá họ nói tiếng Anh, chúng ta cần dùng đúng chữ để họ hiểu (nếu cần thông dịch, người thông dịch cũng dịch được dễ dàng). Các thuốc Ibuprofen, Motrin, Aleve, Celebrex, ..., thuần túy, chỉ là thuốc chống đau như Tylenol, Aspirin, không nên gọi chúng là “thuốc phong thấp”. Bệnh khớp nhiều lắm. Ba bệnh khớp làm khổ chúng ta nhiều nhất: “osteoarthritis”, (bệnh viêm xương-khớp), “rheumatoid arthritis” (bệnh viêm khớp rheumatoid) và “gout” (thống phong). Hôm nay, chúng ta t́m hiểu bệnh “osteoarthritis”, tên khác dễ hiểu hơn: “degenerative joint disease” (bệnh khớp thoái biến). Bệnh khớp thoái biến xảy ra nhiều nhất trong các loại bệnh khớp. Ở Mỹ, đến 12% dân số mang bệnh khớp thoái biến, và với các vị trên 70 tuổi, tỉ lệ gần 35% (tức cứ 3 người, 1 người bị). Rất nhiều vị, đi từ pḥng ngủ sang pḥng tắm cũng khó khăn, v́ khớp gối, khớp hông đau nhức quá. Đời người chúng ta ví như chiếc xe hơi, chập chững chạy đầu đời, bon bon chạy giữa đời, rồi chậm dần vào cuối đời. Do máy đă rêm, bánh đă ṃn. Các khớp của ta giống những bánh xe hơi, dùng lâu tất ṃn. Bệnh khớp thoái biến gây do sự ṃn lở của sụn khớp (articular cartilage), nhất là ở những vùng sụn phải trực tiếp nâng đỡ sức nặng của cơ thể. Do thế, bệnh thường tấn công các khớp mang sức nặng (hông, gối, lưng dưới, ...), hoặc khớp sử dụng nhiều trong công việc hàng ngày (các khớp ngón tay, khớp nơi gốc ngón tay cái). Dưới tuổi 55, các khớp ṃn giống nhau ở cả nam lẫn nữ. Tuổi cao hơn, khớp hông bị nhiều hơn ở đàn ông, c̣n phụ nữ hay có bệnh ở các khớp ngón tay và gốc ngón cái. Phụ nữ cũng đau khớp gối nhiều hơn đàn ông. Ai dễ bị bệnh khớp thoái biến? Nhiều yếu tố đưa ta đến với bệnh khớp thoái biến: - Tuổi tác: yếu tố quan trọng nhất. Càng cao tuổi, các khớp ta càng dễ hao ṃn. - Phái tính: phụ nữ dễ mang bệnh hơn đàn ông. (Phải chăng, so ra, nữ giới vẫn phải làm việc nhiều hơn nam giới, việc sở, việc nhà?). - Chấn thương: những khớp trước từng bị chấn thương hoặc sử dụng nhiều quá dễ mang bệnh. Chẳng hạn, người vũ ballet hay có bệnh ở khớp cổ chân. Ngược lại, các vơ sĩ boxing hay mang bệnh ở khớp nối bàn tay và ngón tay. Người làm những nghề nghiệp cần qú gối dễ mang bệnh ở khớp gối. - Nặng cân: xe nặng, bánh tất mau ṃn. Người nặng, khớp mau hư, nhất là khớp gối. - Bệnh bẩm sinh: khiến khớp bất thường ngay từ lúc mới sanh. - Bệnh nội tiết: tiểu đường, suy tuyến giáp trạng, ... Định bệnh Ta đă biết, trong khớp có sụn khớp (articular cartilage), bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động. Bệnh khớp thoái biến gây do sự ṃn lở của sụn khớp. Khi sụn ṃn hoặc lở vỡ, các đầu xương không c̣n uyển chuyển trượt lên nhau, nên gây đau nhức, cứng khớp, ... Tuy vậy, rất nhiều trường hợp bệnh không gây đau ǵ cả. Có người chẳng bao giờ đau, t́nh cờ chụp phim, phim chụp cho thấy khớp đă ṃn. Đau khớp, nếu xảy ra, trong giai đoạn đầu, thường là cái đau âm ỉ, cảm thấy sâu trong khớp bệnh: khớp lưng, hoặc khớp hông, khớp gối, khớp ngón tay, ... Người bệnh thấy đau nhiều hơn khi đi lại, sử dụng khớp, và bớt đau lúc nghỉ ngơi. Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn nặng hơn, cái đau thành liên tục, làm khổ cả vào ban đêm. “Công chúa đứt tay, ăn mày đổ ruột”. Mỗi người chúng ta cảm nhận cái đau một khác. Cùng một mức độ bệnh lư của khớp, phụ nữ than đau nhiều hơn đàn ông, người hưởng trợ cấp than đau nhiều hơn người đi làm, và người ly dị than nhiều hơn người có gia đ́nh hạnh phúc. Người ta cho rằng trong bệnh khớp thoái biến, như chứng đau lưng, như nhiều bệnh khác, những yếu tố tâm lư và xă hội có ảnh hưởng quan trọng, khiến người bệnh cảm thấy đau nhiều hay ít. Triệu chứng quan trọng khác là cứng khớp (stiffness). Khớp thường cứng vào buổi sáng mới ngủ dậy hoặc sau lúc nghỉ ngơi một thời gian ngắn trong ngày. Cứng khớp không kéo dài lâu, chỉ khoảng 20 phút. Đến giai đoạn nặng, khớp mất h́nh dạng b́nh thường, méo mó, to lên, và không c̣n gập, duỗi được hết mức. Có khi, đang đi, khớp khựng lại. Khớp sờ thấy đau, hoặc sưng và hơi nóng. Khi khớp chuyển động, sờ như thấy các đầu xương trong khớp chạm vào nhau, kêu “lục cục lạc cạc”. Sự định bệnh dựa vào bệnh sử (triệu chứng do người bệnh kể), sự thăm khám, và phim chụp. Phim chụp cho thấy hai đầu xương trong khớp sát vào nhau ở chỗ sụn bị ṃn, có khi thấy những chồi xương mọc ra bất thường. Khi sụn khớp ṃn nhiều, trên phim, khớp lệch lạc thấy rơ (subluxation), mất h́nh dạng b́nh thường. Điểm đáng chú ư là triệu chứng và mức độ tàn tật do bệnh gây nên, nặng hay nhẹ, thường không ăn khớp với phim chụp. Nếu đem 100 người trên 40 tuổi ra chụp phim, theo phim chụp, 90 người sẽ có những thay đổi bất thường ở các khớp nâng đỡ sức nặng cơ thể (lưng dưới, hông, gối, ...), tuy vậy, chỉ 30 người có triệu chứng đau nhức. Đau dữ hay ít, như đă bàn, c̣n tùy thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt những yếu tố tâm lư và xă hội. Chữa Trị: Sự trị liệu nhắm mục đích giảm đau, giúp các khớp duy tŕ được cơ năng, và hoạt động b́nh thường. Những trường hợp bệnh nhẹ, người bệnh chỉ cần được trấn an, chỉ dẫn cách vận động, thu xếp công việc hàng ngày để tránh những hoạt động khiến khớp dễ tổn thương thêm, và thỉnh thoảng uống thuốc giảm đau nếu cần. Với những trường hợp nặng hơn, có thể phải phối hợp nhiều phương pháp chữa trị khác nhau: 1. Vận động: Bắp thịt và xương, khớp như anh em ruột thịt, phối hợp, giúp đỡ nhau trong lúc hoạt động. Bắp thịt quanh khớp nếu dẻo dai, vững chắc sẽ giúp khớp bớt làm việc, hoặc làm việc hữu hiệu hơn, và cái đau sẽ nhẹ đi. Các vận động nhẹ nhàng, không đặt nhiều sức nặng trên khớp (low-impact, nonweight-bearing) rất tốt. Bơi lội tuyệt nhất. Không th́ những thể dục năng động nhẹ (low-impact aerobics exercises), hoặc các cách tập đặc biệt dùng cho người mang bệnh khớp. Đạp xe đạp đều có thể làm bớt đau khớp gối bị bệnh. Một chuyên viên thấu đáo về việc tập luyện cho người mang bệnh khớp (physical therapist) có thể giúp ta rất nhiều, chỉ dẫn cho ta những cách tập đúng với nhu cầu của tật bệnh ta. Kiên nhẫn là mẹ thành công. Tập 4-5 lần mỗi tuần, đều như vậy, sau hai tháng, thường sẽ bắt đầu thấy có tiến triển tốt. 2. Đắp, thoa tại chỗ: - Ấp nhiệt (khăn, b́nh nước nóng, heating pad, ...) vào khớp đau có thể giúp khớp bớt đau và cứng. Cách giản dị và rẻ tiền là tắm nước ấm vào buổi sáng lúc khớp hay bị cứng. Có vị thấy bớt đau khi dùng nước đá thay v́ dùng nhiệt. - Một loại kem được xem có tác dụng giảm đau, mua bên ngoài không cần toa bác sĩ là capsaicin cream. Thoa kem capsaicin ngày vài lần trên khớp, có khi bạn không cần uống thuốc giảm đau nữa. Kem capsaicin rất hữu hiệu cho các khớp gối và bàn tay. Khi mới dùng, có thể thấy nóng ở chỗ thoa thuốc, song tiếp tục dùng, phản ứng khó chịu này sẽ bớt dần. 3. Tránh bắt khớp bệnh làm việc quá sức: - Luôn giữ cơ thể trong tư thế thẳng thắn. Khi nghỉ ngơi, học hành, làm việc, lái xe, bạn nên ngồi ghế có lưng tựa thoải mái (thêm tay dựa càng tốt), sát người vào lưng ghế, để lưng ghế nâng đỡ cơ thể bạn cho thẳng, giúp các khớp xương, bắp thịt lưng và cổ không mỏi. - Trong công việc hàng ngày, bạn xếp đặt công việc và dụng cụ làm việc hợp lư, thuận tầm tay, vừa tầm mắt, hầu khỏi cong cúi nhiều trong lúc làm việc. Đồng thời, ứng dụng tinh thần “chị ngă em nâng”, sử dụng càng nhiều khớp càng tốt trong lúc làm việc. Chẳng hạn, bưng tách cà phê với cả hai tay, nâng b́nh cà phê bằng cách đỡ cả trên lẫn dưới (một tay đỡ đáy b́nh, một tay xách quai xách phía trên), ... Với cách này, lực tác động sẽ lan tỏa, không khớp nào phải làm việc quá sức. Cũng nhớ, khi nhặt vật ǵ dưới đất, thay v́ cúi lưng, bạn cong hai gối trong lúc giữ lưng cho thẳng. Khi bưng bê vật nặng, bạn đưa sát vào người, từ từ đứng lên, trong lúc vẫn thẳng lưng. Nếu vật quá nặng, cách tốt nhất là nhờ thêm người khác giúp sức. - Người bị bệnh ṃn khớp hông hay khớp gối nên tránh đứng, qú, ngồi chồm hổm (squatting) lâu. - Xe nặng, bánh mau ṃn. Nên xuống cân nếu béo mập. - Giữ sự cân bằng giữa hoạt động và nghỉ ngơi. Những dịp nghỉ ngắn (10-20 phút) trong ngày giúp các khớp nghỉ ngơi sau những lúc hoạt động. - Người bị bệnh ṃn khớp gối hay khớp hông một bên, có thể dùng gậy chống (cầm bằng tay bên không đau) để nâng đỡ cơ thể trong lúc đi lại, giúp các khớp đau đỡ làm việc trong lúc đi lại. - Giày thể thao loại tốt, hấp thu bớt các sức tác động (impact-absorbing shoes), giúp giảm sức nặng đè trên các khớp ở chân, có thể khiến bớt đau khi đi lại, và có lẽ cũng làm chậm đà tiến triển của căn bệnh. Khổ nỗi, các cụ ta ít quen đi giày thể thao, thích đi dép cao su, dép Nhật cho nhẹ, thoáng, và chỉ... vài đồng một đôi. 4. Chữa trị bằng thuốc: Thuốc giúp bớt đau. Những trường hợp đau nhẹ hoặc vừa, ta dùng Tylenol là đủ, rẻ, lại an toàn. Không mang bệnh gan hay thận, ta có thể dùng đến 8 viên Tylenol 500 mg mỗi ngày (2 viên ngày 4 lần). Những thuốc giảm đau chứa chất nha phiến như Tylenol số 2, số 3, Vicodin, ... thường không cần thiết, v́ tác dụng không dài. Hơn nữa, dùng liên tục, lâu ngày, thuốc có thể sẽ mất tác dụng và gây nghiện. Các thuốc chống viêm không chứa chất steroid (non-steroid anti-inflammatory drugs, viết tắt NSAID) như Advil, Nuprin, Motrin, ... làm bớt đau và cứng khớp. Dùng Tylenol không bớt đau, ta có thể dùng đến những thuốc loại này. Cái bất lợi là, dùng lâu ngày, chúng có thể gây khó chịu, lở bao tử, chảy máu đường tiêu hóa, và hại cho thận, ... Dùng những thuốc này, ta nên uống lúc bụng no (đang ăn hoặc sau khi ăn). Thấy khó chịu vùng bụng trên, hoặc đi cầu ra phân đen, bạn nên ngưng thuốc và cho bác sĩ biết ngay. Một thuốc giảm đau khác có tên Ultram, cũng giúp nhiều người bớt đau, nhưng không gây những tác dụng độc hại như các thuốc trên. Tất nhiên, nó có thể gây những tác dụng phụ khác. Gần đây, một số tài liệu đề cập đến việc dùng chất glucosamine và chất chondroitin để chữa bệnh khớp thoái biến, cho rằng hai chất này có khả năng giúp sửa chữa, tái tạo sụn khớp, và bổ khuyết lượng chất nhờn cần có trong khớp. Chúng tác dụng chậm, ít nhất 4 tuần mới công hiệu, và cũng có thể gây một số tác dụng phụ. Sự an toàn và hiệu quả về lâu về dài của thuốc chưa được biết rơ. Thuốc mua bên ngoài không cần toa, bạn có thể thử, song nên cho bác sĩ biết. Ngoài các thuốc uống, trong nhiều trường hợp, bác sĩ cũng chích thuốc chứa chất steroid hoặc thuốc Synvisc thẳng vào khớp giúp khớp bớt đau. 5. Giải phẫu: Giải phẫu dùng cho những trường hợp bệnh quá nặng gây đau nhức liên tục, chữa trị hết mức bằng những phương pháp nội thương song không kết quả. Có nhiều phương pháp giải phẫu khác nhau: - Thay hẳn một khớp: khớp hông, khớp gối nay có thể thay. - Gọt bớt xương (osteotomy). - Mài bớt sụn (chondroplasty, abrasion arthroplasty). - Đưa ống soi vào khớp, dọn dẹp những chỗ bị hư hoại trong khớp. Sau cùng, ta cũng đừng quên vai tṛ của tinh thần trong sự chữa trị bệnh khớp thoái biến. Tinh thần và thể xác tuy hai nhưng là một. Trong điều kiện sức khỏe cho phép, nên thường xuyên vận động, hầu giúp cơ thể khỏe mạnh. Thể xác khỏe khoắn, ta thấy yêu đời, yêu người, đỡ căng thẳng tinh thần, và cảm nhận cái đau ít hơn. Một thể xác khỏe mạnh, một tinh thần lạc quan, một lư tưởng hoặc triết lư sống trong sáng, đấy là những viên thuốc bổ của đời sống. Xin biên toa để bạn dùng hàng ngày. |
Trụ Sinh Không Chữa Được Cảm Cúm
1 Attachment(s)
Trụ Sinh Không Chữa Được Cảm Cúm
Bác sĩ Nguyễn Văn Đức Những ngày nắng nóng chắc đă qua, hôm nay trời mát nhiều rồi, thu đă ngoài ngơ. Tháng 10, 11 chúng ta nhắc nhau đi ngừa cúm. Mùa lạnh là mùa của bộ hô hấp, trong đó có cảm (cold), cúm (flu). Nhiều vị trong chúng ta vẫn nghĩ cảm, cúm cần có trụ sinh mới mau hết. Sự sử dụng trụ sinh ở Mỹ c̣n quá lung tung, và hiện tượng vi trùng kháng thuốc trụ sinh đang là mối lo ngại, nên Trung Tâm Kiểm Soát và Pḥng Ngừa Bệnh (CDC) thiết lập website www.cdc.gov/getsmart để giáo dục việc sử dụng trụ sinh, đồng thời gửi đến văn pḥng các bác sĩ tài liệu “Cold or Flu, Antibiotics Don’t Work for You” (Cảm hay cúm, các trụ sinh không giúp bạn đâu) để bác sĩ hướng dẫn những bệnh nhân của ḿnh về vấn đề này. Xin dịch tài liệu “Cold or Flu, Antibiotics Don’t Work for You” của CDC, chúng ta cùng đọc: Khi bạn bệnh, bạn muốn mau khỏe. Nhưng trụ sinh không phải là câu trả lời cho mọi thứ bệnh tật. Tập sách nhỏ này giúp bạn biết khi nào trụ sinh có tác dụng và khi nào không. Muốn t́m hiểu thêm, bạn hỏi bác sĩ bạn hoặc viếng website cdc.gov/drugresistance/community. Nguy hiểm: Vi trùng sẽ kháng thuốc Nếu bạn dùng trụ sinh hoài, sẽ có tai hại ǵ? Dùng trụ sinh lúc không cần thiết có thể làm các vi trùng trở thành kháng thuốc. Các vi trùng kháng thuốc trụ sinh sẽ mạnh hơn và khó tiêu diệt. Các vi trùng này có thể tiếp tục ở trong cơ thể bạn và gây những bệnh hiểm nghèo không c̣n trị được với trụ sinh. Muốn trị được bệnh, chúng ta phải dùng những thuốc mạnh hơn, và có thể bạn phải vào nhà thương để chữa. Để tránh t́nh trạng các bệnh nhiễm trùng kháng trụ sinh, Trung Tâm Kiểm Soát và Pḥng Ngừa Bệnh khuyên bạn nên tránh dùng trụ sinh khi không cần thiết. Trụ sinh không phải là câu trả lời trong mọi trường hợp Hầu hết các bệnh nhiễm trùng gây do hai loại trùng: vi trùng (bacteria) và siêu vi (virus). Trụ sinh chỉ chữa được bệnh do vi trùng, không chữa được bệnh do siêu vi. Vi trùng gây bệnh viêm họng “strep throat” (viêm họng do vi trùng Streptococcus), vài bệnh sưng phổi (pneumonia) và nhiễm trùng xoang (sinus infections). Trụ sinh có tác dụng trong các bệnh này. Siêu vi gây bệnh cảm (cold), cúm (flu), và hầu hết các trường hợp ho, chảy mũi, đau họng. Trụ sinh không có tác dụng trong các trường hợp này. Dùng trụ sinh để chữa bệnh do siêu vi: - Sẽ KHÔNG chữa được bệnh - Sẽ KHÔNG giúp bạn mau khỏe hơn - Sẽ KHÔNG ngừa được việc lây bệnh cho người nhà. Câu hỏi hay được đặt ra * Làm sao tôi biết được tôi bị bệnh do vi trùng hay siêu vi? Bạn hăy hỏi bác sĩ bạn và nghe theo lời khuyên của bác sĩ. Nên nhớ, nếu bạn bị cảm hay cúm, đây là bệnh siêu vi và trụ sinh không chữa được. * Khi bị cảm hay cúm, trụ sinh không giúp tôi mau khỏe hơn sao? Không, trụ sinh hoàn toàn không có tác dụng ǵ với bệnh gây do siêu vi. Trụ sinh không hề giúp bạn mau khỏi bệnh. Bạn hăy hỏi bác sĩ bạn về những cách chữa giúp bạn dễ chịu trong lúc chờ căn bệnh qua đi. Hăy thông minh (Get smart) - Trụ sinh là các thuốc mạnh, nhưng không phải bệnh nào chúng cũng chữa. - Dùng không đúng, trụ sinh có thể gây hại cho sức khỏe của bạn. - Trụ sinh chữa được hầu hết các bệnh vi trùng, nhưng không chữa được các bệnh siêu vi. - Trụ sinh giết vi trùng, không giết được siêu vi; v́ vậy, trụ sinh không có tác dụng ǵ khi dùng để chữa cảm, cúm, chảy mũi, đau họng không do vi trùng Streptococcus, hầu hết các trường hợp ho và viêm ống phổi (bronchitis). - Khi bạn bịnh, trụ sinh không phải lúc nào cũng là câu trả lời cho vấn đề sức khỏe của bạn. Tự bảo vệ với sự chăm sóc tốt nhất Bạn không nên dùng trụ sinh để trị cảm thường (common cold) hay cúm (flu). Nếu bác sĩ biên toa trụ sinh cho bạn để chữa một bệnh nhiễm vi trùng (bacterial infection), chẳng hạn như bệnh “strep throat” (viêm họng do vi trùng Streptococcus), bạn nên dùng hết số lượng thuốc trong chai thuốc. Mới uống vài ngày thấy bớt đă ngưng thuốc, bệnh chỉ mới trị một phần, vi trùng chưa bị tiêu diệt hết có thể sẽ tấn công bạn trở lại, và nguy hiểm hơn, lúc đó chúng có thể đă trở thành kháng thuốc trụ sinh. Điều này cũng áp dụng cho cả trẻ em, chúng ta cần cho các em uống hết thuốc như chỉ dẫn của bác sĩ, dù thấy các em đă mau chóng bớt nhiều, khỏe hơn. Thuốc trụ sinh nếu uống không hết (như trường hợp thuốc gây tác dụng phụ, bác sĩ khuyên bạn ngưng thuốc, đổi sang thuốc khác) nên vất đi, bạn không nên trữ lại ở nhà, và tự ư đưa cho người khác dùng thuốc trụ sinh của ḿnh. Sưu tầm |
Soi Ruột Cứu Người
1 Attachment(s)
Soi Ruột Cứu Người
Bác sĩ Nguyễn Văn Đức Tôi có tất cả 12 người bệnh ung thư ruột già (colon cancer). Vài vị đă qua đời. Một vị trên 50 tuổi không có bảo hiểm, Medi-Cal, nhiều năm lần lữa không đi soi ruột già, đến khi đi cầu ra máu, tôi gửi đi soi, ra ung thư ruột già, phải mổ cắt rộng chỗ ung thư, đoạn ruột già trên chỗ ung thư không nối lại với khúc dưới được, vị này nay phải đeo bọc phân ở bụng (colostomy), săn sóc bọc phân mỗi ngày. Rồi ung thư chuyển di đến phổi, lại mổ phổi, chuyển di đến gan, lại mổ gan. Hiện vị này c̣n đang trị liệu với hóa chất (chemotherapy). Một vị khác nghe lời bạn bè, “Chị không có triệu chứng ǵ, đi soi ruột già làm chi”, cứ nhất định từ chối lời khuyên soi ruột già của tôi, đến khi thử phân, ba mẫu phân đều thấy có máu, lúc đó vị này mới chịu đi soi, ra ung thư ruột già, phải mổ, mổ xong tắc ruột, lại vào nhà thương lần nữa chữa tắc ruột. Con cái phải nghỉ việc nhiều ngày trông coi mẹ trong bệnh viện, rồi khi ra viện, chở đi bác sĩ ung thư và thông dịch. Mỗi năm, có 11 triệu trường hợp ung thư ruột già mới xảy ra trên toàn thế giới. Riêng tại Mỹ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng khoảng 50.000 người. - Bác trên 50, nên đi soi ruột già. Bác để trễ chuyện này 16 năm rồi. - Không bác sĩ ạ, tôi không đi soi, tôi muốn tiết kiệm tiền cho chính phủ. - Nếu thương chính phủ, bác càng nên đi soi sớm. V́ chữa ung thư ruột già rất tốn kém trường hợp nó nặng, kể từ lúc khám phá ra ung thư ruột già, đến khi bác qua đời v́ căn bệnh, chính phủ phải bỏ ra mấy trăm ngàn đô-la để cố cứu bác. Tiền mổ, có khi nhiều lần, tiền chữa bằng hóa chất, tiền săn sóc bọc phân đeo ở bụng. Khổ cho bác, cho con cái bác, mà cho cả chính phủ. Trong các tổ hợp y tế HMO (Health Maintenance Organizations, Tổ Chức Duy Tŕ Sức Khỏe) chăm sóc sức khỏe cho các vị cao niên, theo lệnh của Medi-Cal, Medicare, bác sĩ phải làm việc nghiêm túc, chú trọng việc pḥng ngừa bệnh cho các vị cao niên. Một trong những việc quan trọng này là nhắc nhở các vị đi soi ruột già để truy t́m ung thư ruột già (colon cancer screening) đúng hạn kỳ, bắt đầu từ tuổi 50, dù người bệnh không có triệu chứng ǵ cả. Ba phương pháp truy t́m ung thư ruột già Medi-Cal, Medicare, qua tổ hợp y tế HMO, muốn các bác sĩ phải làm cho người bệnh 50 tuổi trở lên của ḿnh: soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm, hoặc soi đoạn cuối của ruột già (sigmoidoscopy) mỗi 5 năm, hoặc thử phân hàng năm. Soi toàn ruột già Tốt nhất, chúng ta nên soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm để truy t́m và ngừa ung thư ruột già. Soi toàn ruột già giúp bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa nh́n trực tiếp niêm mạc lót ḷng của toàn thể ruột già, khám phá hầu hết các bướu thịt và ung thư nếu có. Chiều hôm trước khi soi, người bệnh ăn lỏng (clear liquid diet), uống thuốc xổ để xúc sạch ruột. Khi soi, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa cho người bệnh ngủ, và đưa một ống soi vào hậu môn người bệnh, đẩy dần lên để coi, cho đến khi đi hết ruột già từ trái sang phải. Thấy có chỗ nào trông bất thường, qua ống soi bác sĩ có thể cắt đi đem thử thịt. Soi toàn ruột già có thể gây chảy máu hoặc làm rách ḷng ruột già với tỉ lệ 1/1000. V́ được cho ngủ, hôm đi soi, người bệnh cần có người chở về, và không thể đi làm trong cùng ngày. Trả tiền mặt, soi toàn ruột già tốn khoảng 900-1000 Mỹ kim; trong các tổ hợp y tế HMO, các vị cao niên không phải trả tiền. Sigmoidoscopy Đây là phương pháp soi đoạn cuối của ruột già (phần ruột già bên trái) gần về phía hậu môn (ống soi chỉ vào sâu 60 cm), và nếu b́nh thường, sẽ làm lại mỗi 5 năm. Chiều trước ngày soi sigmoidoscopy, người bệnh ăn thức ăn lỏng, và chỉ cần được bơm thuốc vào hậu môn để đi cầu cho sạch hết phân ngày hôm sau trước khi soi. Thường khi soi, người bệnh không phải ngủ và có thể trở lại làm việc trong ngày. Soi sigmoidoscopy có thể khám phá các bướu thịt hoặc ung thư trong phạm vi các vùng được soi. Việc soi rất ít nguy hiểm, hiếm khi xảy ra chảy máu hoặc rách ḷng ruột già. Sigmoidoscopy rẻ hơn colonoscopy, ít nguy hiểm hơn, song điểm bất lợi nhất của sigmoidoscopy là không t́m được những bướu thịt hoặc ung thư ở phía bên phải của ruột già. Ngoài ra, khi t́m thấy bướu thịt hoặc ung thư tại những vùng soi, sau đó cũng sẽ phải làm colonoscopy (tức tốn thêm lần tiền nữa) để soi toàn ruột già, v́ bướu thịt hoặc ung thư có thể xuất hiện luôn tại cả những vùng ruột già bên phải. Thử phân Ung thư ruột già hay gây chảy máu ít một, mắt chúng ta thường không nh́n thấy, song thử phân có thể khám phá thấy máu trong phân. Vị nào không thích truy t́m ung thư ruột già bằng hai phương pháp kể trên, có thể thử t́m máu trong phân hàng năm. Thử thấy có máu trong phân, cần soi toàn ruột già t́m ung thư. Tuy nhiên, phương pháp truy t́m bằng thử phân kém nhất, không mấy chính xác, do các bướu thịt trong ḷng ruột già hiếm khi chảy máu nên trắc nghiệm hay ra âm tính (không thấy có máu), ngược lại, nhiều trường hợp trắc nghiệm dương tính (thấy có máu), nhưng thực ra v́ những nguyên nhân khác không phải ung thư, chẳng hạn như trĩ. Trên là ba phương pháp truy t́m ung thư ruột già từ tuổi 50 cho người b́nh thường, không có triệu chứng, thực hiện trong các tổ hợp y tế HMO theo lệnh của Medi-Cal, Medicare. Với các vị có những yếu tố quan trọng dễ đưa đến ung thư ruột già (có người thân trong gia đ́nh bị ung thư ruột già, bệnh viêm ruột, …) tùy trường hợp, bác sĩ sẽ đề nghị truy t́m sớm hơn so với người thường. Đầu năm 2014 tới, tất cả các vị Medi-Medi sẽ lần lượt phải gia nhập một tổ hợp y tế, và vào cuối năm nay, sẽ nhận được thư thông báo, yêu cầu chọn bác sĩ chính (primary care doctor) và tổ hợp y tế, nếu không, sẽ bị chỉ định bác sĩ và tổ hợp. V́ trong tổ hợp, các vị sẽ được chăm sóc kỹ càng hơn với những chỉ thị trực tiếp của Medi-Cal, Medicare các bác sĩ trong tổ hợp phải thi hành, c̣n như bây giờ, người có Medi-Medi muốn đi đâu th́ đi, dễ sa vào tay những bác sĩ chỉ muốn kiếm tiền bằng những phương cách bất chính gây tốn kém công quĩ, mà không khuyên người bệnh những việc cần làm. Với mô thức tổ hợp y tế, chính phủ biết chắc những chỉ thị đưa xuống các bác sĩ sẽ phải thi hành, đồng thời nắm vững được đồng tiền chi ra để chăm sóc sức khỏe cho các vị Medi-Medi, của công không c̣n bị lọt vào tay những kẻ gian giảo. Soi ruột già vừa cứu mạng chúng ta, vừa tiết kiệm tiền cho hệ thống y tế chúng ta đang hưởng. Mà cũng chẳng phải tiền ǵ của hệ thống y tế, nhưng chính tiền của những người công dân Mỹ cần cù đi làm đóng thuế. Cũng xin nhớ, trong lănh vực sức khỏe, một lời khuyên vô ư thức có thể gây hại, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng của người thân chúng ta. Chớ nên khuyên người kiểu, “Chị không có triệu chứng ǵ, đi soi ruột già làm chi, bác sĩ chỉ vẽ chuyện”, song nên khuyên, “Chuyện sức khỏe, chị hỏi ư kiến bác sĩ, c̣n chị hỏi chuyện bếp núc, làm vườn, mua hột xoàn, tui chỉ chị”. Lời nói chúng ta nên thận trọng, nhất là trong những địa hạt chuyên môn ḿnh không rành. Sưu tầm |
Khắc Phục Găy Xương Đùi Ở Người Già
1 Attachment(s)
Khắc Phục Găy Xương Đùi Ở Người Già
Găy cổ xương đùi là kiểu găy nội khớp của xương lớn nhất cơ thể. Đối với trẻ em và người lớn trẻ tuổi, găy cổ xương đùi thường xảy ra sau một chấn thương mạnh. Nhưng ở người cao tuổi, loại găy này có thể xảy ra chỉ do một chấn thương nhẹ như trượt chân, ngă đập vùng chậu hông xuống nền cứng, đây là loại găy xương nặng có thể dẫn đến tử vong. V́ sao hay bị găy cổ xương đùi? Cấu tạo các bè xương vùng cổ xương đùi chia hai bè cung nhọn và nan quạt, tiếp giáp giữa hai bè này là điểm yếu gọi là cổ phẫu thuật, v́ vậy mọi trường hợp găy cổ xương đùi thường xảy ra ở điểm yếu này. Do cấu tạo của mạch máu nuôi dưỡng nhiều ít khác nhau, nên khi găy xương càng sát chỏm th́ nguy cơ hoại tử chỏm càng lớn, v́ ở đây ít mạch máu nuôi dưỡng. Ngược lại, găy ở xa chỏm, nhờ dinh dưỡng tốt hơn bởi có nhiều mạch máu nên ít bị hoại tử. Găy cổ xương đùi là găy xương phạm khớp, làm máu từ ổ găy chảy vào khớp, v́ vậy nếu bất động lâu sẽ dẫn đến thoái hóa và dính khớp, do khớp được nuôi bởi dịch khớp nhờ thẩm thấu, khi máu tràn vào khớp làm thay đổi dịch khớp, nên việc nuôi dưỡng kém và gây dính khớp. Cho nên các trường hợp găy cổ xương đùi cần điều trị sớm, phẫu thuật sớm, cố định tốt, vận động sớm để tránh dính khớp. Có 2 nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp làm găy cổ xương đùi: trực tiếp do chấn thương đập mạnh vùng mấu chuyển lớn và cổ xương đùi gây ra găy dạng; gián tiếp do bị ngă mà bàn chân, đầu gối đập xuống nền cứng, trọng lượng cơ thể dồn từ trên xuống và phản lực từ dưới lên gây nên cơ chế “cắt kéo” làm găy cổ xương đùi. Mặt khác loăng xương cũng làm tăng tỷ lệ găy cổ xương đùi. Phát hiện găy cổ xương đùi Nhiều thống kê cho thấy: đa số trường hợp găy cổ xương đùi là người già, nữ nhiều hơn nam. Các dấu hiệu cần chú ư để phát hiện găy cổ xương đùi là: sau một chấn thương, bệnh nhân thấy đau chói tại khớp háng, đau vùng nếp bẹn; Nếu bất lực vận động một phần: bệnh nhân c̣n cử động được một số động tác của khớp háng, khớp gối, có khi c̣n tự đứng dậy và đi được vài bước. Nếu bất lực vận động hoàn toàn: bệnh nhân hoàn toàn không cử động được. Trường hợp điển h́nh thấy chi bị biến dạng, sưng nề, nếu đo chu vi vùng đùi nghi ngờ thấy lớn hơn bên lành là có găy; đo chiều dài chi bên găy ngắn hơn bên lành; trục chi găy thay đổi; cổ và bàn chân bên găy xoay ngoài, ngả xuống mặt giường; để chân găy duỗi thẳng tác động nhẹ vào gót chân bệnh nhân thấy đau ở khớp háng. Ấn vào trên cung đùi vùng mạch máu, bệnh nhân kêu đau chói ở ổ găy. Dấu hiệu đặc trưng là bàn chân xoay ngoài chừng 60 độ, trong khi bên lành bàn chân chỉ xoay ngoài được khoảng 30 độ. Nếu ổ găy nội khớp th́ gốc chi không sưng nề, không có máu tụ bầm tím. Trường hợp găy ngoại khớp th́ gốc chi sưng nề to, máu tụ bầm tím lan tỏa. Chụp Xquang có thể thấy rơ đường găy. Cách chữa trị khi bị găy cổ xương đùi - Sơ cứu: giảm đau cho bệnh nhân bằng thuốc uống hay tiêm; cố định xương dùng nẹp cố định của y tế (nẹp Cramer) hay nẹp tự tạo; vận chuyển bệnh nhân về cơ sở y tế trên ván cứng. - Điều trị: hiện nay không dùng bảo tồn bằng nắn chỉnh bó bột do nặng nề, nhiều biến chứng. Phẫu thuật kết hợp xương bằng những chùm đinh nhỏ; các vít xương xốp tự do có ép hoặc không ép; các phương tiện kết hợp xương vững chắc như nẹp một khối, nẹp hai khối; kết xương bằng nẹp DHS (Dynamic hip sereust) vít vùng khớp háng có sức ép là biện pháp tốt nhất hiện nay nhờ các ưu điểm như sức ép tốt, chống xoay tốt, kết xương xong tập vận động được ngay. Phương pháp thay chỏm xương, thay ổ khớp cũng là cách điều trị tiên tiến. Nếu điều trị bảo tồn, bất động nằm lâu có thể gặp các biến chứng: viêm phổi, viêm tiết niệu, loét do tỳ đè, suy kiệt, hoại tử chỏm, khớp giả, liền lệch trục, thoái hóa khớp háng, teo cơ cứng khớp háng... Pḥng chống loăng xương ở người già Chống loăng xương bằng cách dùng thực phẩm tốt cho xương như sữa và các chế phẩm từ sữa; ăn cá thay cho thịt mỗi ngày, ăn các loại rau xanh đậm màu như: cải xoăn, súp lơ xanh, cà rốt, củ cải, ḷng đỏ trứng gà, nước cam tươi, nước dâu tây, sữa tươi ít béo... Pḥng tránh ngă cho người già bằng cách điều trị tích cực các bệnh viêm phổi, nhồi máu cơ tim, các bệnh gây kém mắt, kém tai, đeo kính và dùng máy trợ thính để cải thiện thị lực và thính lực. Khắc phục các yếu tố dễ gây ngă bằng cách san phẳng những chỗ mấp mô, lấp hố sâu trên lối đi, mắc thêm đèn ở những chỗ tối, làm thêm lan can vịn tay ở những chỗ cần thiết; bỏ bớt bàn ghế và những thứ không cần thiết trong nhà để việc đi lại được dễ dàng; dùng thảm không trơn trượt trong sàn nhà, sàn pḥng vệ sinh; dùng giầy dép có đế vững chắc, không trơn trượt, không đi guốc cao gót. ThS. Bs. Trần Ngọc Hương |
"đem năo bỏ chợ
1 Attachment(s)
V́ Sao Hư Bộ Nhớ
Nếu tưởng người già mới lẫn th́ chưa đủ. T́nh trạng sa sút trí nhớ đến độ "vừa nghe đă quên" của người trẻ từ lâu đă vượt xa mức báo động. Ai chưa tin xin thử xem có bao nhiêu người nhớ nổi số... driver license ! Nhiều người quên tuốt luốt, quên giờ vào sở, quên luôn công việc, quên cả vợ con, đến độ sau giờ làm việc phải ngồi hàng giờ ở bàn nhậu để cố nhớ nẻo về nhà, thậm chí quên hết đến độ chỉ c̣n nhớ có mỗi ngày... lănh lương! Chuyện ǵ cũng có lư do. Bộ nhớ mau hư thường v́ nạn nhân chính là thủ phạm do thiếu nhiều thứ cùng lúc lại thừa vài món trong cuộc sống thường ngày. Đó là: * Thiếu ngủ: Không kể người lỡ chọn nghề trực đêm, thiếu ngủ v́ thức quá khuya dường như là "mốt" của nhiều cư dân trong các thành phố. Kẹt một điểm là chất lượng của trí nhớ gắn liền với độ sâu của giấc ngủ, theo kết quả nghiên cứu ở Đại học Schleiweg- Holstein. Nhưng nếu tưởng như thế chỉ cần dùng thuốc ngủ để ngủ cho được nhằm tăng cường trí nhớ th́ lầm. Thuốc an thần tuy tạo được giấc ngủ nhưng năo bộ đồng thời cũng mê một lèo khiến bộ nhớ quên luôn công việc. * Thiếu nước: Năo lúc nào cũng tiêu thụ không dưới 20% năng lượng của cơ thể riêng cho chức năng tư duy. Năo v́ thế rất cần nước và chất đường sinh năng. Theo chuyên gia ở Đại học Erlangen, uống không đủ nước trong ngày lại thêm bữa ăn chiều thiếu chất ngọt là một trong các lư do khi tín hiệu thần kinh vừa nhập vào lại ra ngay, cứ như nước đổ đầu vịt. * Thiếu dầu mỡ: Chất béo loại cần thiết cho cấu trúc của tế bào thần kinh như 3-Omega, Acid Linoleic... là món ăn chính của năo bộ. Đừng tưởng kiêng cử là béo tốt cho năo. Trái lại là khác. Tất nhiên đừng để tăng chất mỡ máu v́ đó là yếu tố bất lợi cho hoạt động của bộ năo. Nhưng thiếu mỡ cũng tai hại tương tự. * Thiếu dưỡng khí: Thêm vào đó, năo không thể dán tín hiệu thần kinh, dù là h́nh ảnh hay âm thanh vào bộ nhớ nếu tế bào thiếu dưỡng khí v́ thiếu máu. Chính v́ thế mà nhiều thầy thuốc khuyên dùng cây thuốc có công năng cải thiện hàm lượng dưỡng khí trong năo bộ ngay cả cho người chưa phát hiện triệu chứng "đụng đâu quên đó”. * Thiếu vận động: Nhiều công tŕnh nghiên cứu cho thấy người cao tuổi nếu vận động thể dục thể thao trong ngày th́ ít quên hơn người không vận động. Theo các nhà nghiên cứu về lăo khoa ở Hoa Kỳ, vận động trong ngày là điều kiện để bộ năo không thiếu dưỡng khí trong đêm. Cũng không cần h́nh thức thái quá, nhẹ nhàng thôi, như đi bộ, bơi, chạy xe, khí công..., miễn là ngày nào cũng có. * Thiếu tập luyện: Muốn năo "bén nhọn" như xưa mà không tập luyện chẳng khác nào chưa học bài. Chơi ô chữ, sudoku, học ngoại ngữ, vẽ tranh..., kiểu nào cũng tốt, càng nhiều cách giải trí càng hay, miễn là đừng ngồi yên mỗi ngày nhiều giờ trước máy truyền h́nh v́ đó là h́nh thức tai hại cho bộ năo. * Thừa Stress: Bôi sạch bộ nhớ là một trong các phản ứng phụ của nội tiết tố nẩy sinh trong t́nh huống Stress. Biết vậy nên t́m cách pha loăng Stress bằng thể dục thể thao, thiền định, kiểu nào cũng được, miễn vui là chính. Thêm vào đó, đừng tự đầu độc cơ thể và bộ năo bằng thuốc lá, rượu bia, thịt mỡ... Với bộ năo "ngập rác" th́ quên là cái chắc v́ đâu c̣n chỗ nào để nhớ! * Thừa chất oxy-hóa: Hàm lượng chất gây rỉ sét tế bào sản sinh từ rối loạn biến dưỡng, độc chất trong môi trường ô nhiễm, khói thuốc lá, độ cồn, phụ gia trong thực phẩm công nghệ, hóa chất trong dược phẩm... càng cao, tế bào năo càng mau già trước tuổi. Cầm chân chất oxy-hóa bằng hoạt chất kháng oxy-hóa v́ thế là biện pháp chủ động để bộ nhớ đừng mau "hết đát". Hăy đừng "đem năo bỏ chợ" qua lối sống chẳng khác nào có thù sâu với năo bộ. Nếu đối xử với năo bạc bẻo th́ đừng trách có lúc "có vay có trả” BS. LƯƠNG LỄ HOÀNG |
Hăy Tắt Facebook Trước Khi Năo Suy Sụp
1 Attachment(s)
Hăy Tắt Facebook Trước Khi Năo Suy Sụp
Người sử dụng internet hàng ngày đối đầu với một lượng thông tin quá tải, dễ dẫn đến mất những thông tin quan trọng trong bộ nhớ của chính ḿnh, trong khi đó họ được đưa vào trí nhớ những thông tin không mấy quan trọng. Bộ nhớ ngắn hạn của con người, khác với phần bộ nhớ dài hạn, chỉ có chỗ chứa rất hạn chế và thời gian cũng có hạn, tờ báo Ư Corriere della Sera đă viết về việc con người càng mất nhiều thời gian vào Faceboook và các mạng xă hội khác th́ họ có nguy cơ bị nhanh chóng chiếm hết phần bộ nhớ ngắn hạn. Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học Thụy Điển đă cảnh báo rằng chúng ta không được gây quá tải cho phần bộ nhớ ngắn hạn, nếu không nó sẽ bị lấp đầy và dễ sụp đổ. Các nhà khoa học khuyên những người sử dụng internet không nên tốn quá nhiều thời gian trên Facebook, v́ nó có thể làm nguy hại đến dung lượng của bộ nhớ và dẫn đến mất nhiều thông tin quan trọng. Không có chỗ cho những thông tin quan trọng Ảnh minh họa Quả đất nóng dần lên tầng ôzôn có vấn đề ǵ đó Sọ dừa gặp vấn đề tŕ trệ tri thức nhồi vào tri thức cứ pḥi ra (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ - Nguyễn Duy) Theo các nhà khoa học ở Viện Công nghệ Hoàng gia Stockholm th́ khi đọc các mạng xă hội hàng ngày, người sử dụng đứng trước một khối lượng thông tin quá tải, dễ dẫn đến mất những thông tin quan trọng trong bộ nhớ của chính ḿnh, trong khi đó họ được đưa vào trí nhớ những thông tin không mấy quan trọng. Bộ nhớ ngắn hạn sẽ dễ bị tắc nghẽn và sinh ra vấn đề. Erik Fransen - người đứng đầu nhóm nghiên cứu - nói rằng hậu quả của việc sử dụng nhiều mạng xă hội thiếu sự nghỉ ngơi hồi phục sinh lực có thể dẫn đến mất chỗ chứa của bộ nhớ. Những nhà tâm lư thường gọi nó là working memory (WM) tức là bộ nhớ làm việc hơn là bộ nhớ ngắn hạn. Bộ nhớ làm việc có hai hạn chế: hạn chế về thời gian và hạn chế về số lượng. Có nghĩa là khoảng thời gian để xử lư những thông tin nào đó được giữ ở trong hệ thống nhận biết, trước khi loại bỏ và quên đi hoặc đưa vào bộ nhớ dài hạn, vốn rất ngắn, chỉ kéo dài khoảng 20 giấy. V́ phải chạy đua với thời gian nên bộ năo bị bắt buộc phải lựa chọn, trở nên rất dễ bị căng thẳng. Bộ nhớ con người không tính đến internet Hệ thống hoạt động của bộ nhớ ngắn hạn giúp cho chúng ta không bị lấp đầy những bởi những kích thích cảm giác và lượng thông tin tới quá nhiều từ môi trường bên ngoài. Nói cách khác bộ nhớ ngắn hạn bảo vệ chúng ta. Nhưng bộ nhớ ngắn hạn không tính đến việc h́nh thành internet và trước hết là những mạng xă hội, và v́ thế nó không thích ứng được với hoạt động này. Theo ông Erik Fransen, phương pháp giải quyết là phải điều độ và suy tính: Facebook cũng được, nhưng chỉ với thời gian sử dụng thích hợp, trước hết phải để cho năo có thời gian nghỉ ngơi. Bộ năo thầm lặng của con người hoạt động không ngừng hoàn toàn xứng đáng có những khoảng thời gian để nghỉ ngơi. Người dịch: Nguyễn Minh (vietinfo.eu) |
All times are GMT. The time now is 11:15. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.