VietBF

VietBF (https://vietbf.com/forum/index.php)
-   School | Kiến thức 2006-2019 (https://vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=273)
-   -   Your's Health (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=1234581)

florida80 06-03-2019 20:52

XỬ TRÍ SỚM TIỀN BỆNH VIỆN
BỆNH NHÂN BỊ CHẤN THƯƠNG NẶNG

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

CHƯƠNG 1: CÁC CƠ CHẾ CHẤN THƯƠNG


I. NGUYÊN TẮC CĂN BẢN.

Một sự giải thích đúng đắn những thông tin nhận được lúc xảy ra một tai nạn cho phép một thầy thuốc SMUR tiên đoán 90% những thương tổn mà anh ta sẽ gặp ngay cả trước khi đến gần bệnh nhân.

II. KHÁI NIỆM CRASH.

Thuật ngữ “ crash ” không chỉ có nghĩa là một tai nạn xe hơi (vehicular crash) nhưng cũng là một tai nạn vận tải (accident de roulage), một sự té ngă (nhảy qua cửa sổ), một vết thương do đạn (balle) hay do bạch khí (arme blanche) hay do nổ (explosion).

Người ta phân biệt :
• Précash : những biến cố đi trước tai nạn hay những tiền sử của bệnh nhân (bệnh măn tính, thuốc men..). Giai đoạn precash bao gồm tất cả các biến cố đi trước tai nạn, như việc uống rượu hay thuốc. Những t́nh trạng đi trước tai nạn cũng là một bộ phận của precash phase, như những t́nh trạng nội khoa cấp tính hay có trước (và những thuốc để điều trị những t́nh trạng này) hay trạng thái tâm thần của một bệnh nhân. Trong trường hợp điển h́nh, những bệnh nhân chấn thương trẻ không có các bệnh măn tính.Tuy nhiên, với những bệnh nhân già, những t́nh trạng nội khoa hiện diện trước khi chấn thương xảy ra có thể gây nên những biến chứng nghiêm trọng trong việc xử trí tiền bệnh viện của bệnh nhân và có thể ảnh hưởng một cách đáng kể lên tiên lượng. Thí dụ, người lái xe già đụng phải một cây cột có thể có đau ngực chỉ một nhồi máu cơ tim (heart attack). Phải chăng người lái xe đụng cột và bị một cơn nhồi máu tim, hay người lái xe này đă bị nhồi máu tim và sau đó mới đụng cột ?

• Crash : bắt đầu vào lúc va chạm và chấm dứt khi tất cả các đồ vật ngừng lại.

• Post-cash : bắt đầu công tác hiểu những cơ chế gây thương tổn (mécanismes lésionnels) bởi thầy thuốc SMUR.


III. ĐỒNG HỌC (CINETIQUE).

Khảo sát động học cho phép đánh giá những biến cố đă xảy ra khi đụng nhau (collision) :
• Ai đă đụng cái ǵ ? Với tốc độ nào ? Thời gian phanh lại là bao nhiêu ?

• Các nạn nhân có được giữ lại bởi một dây an toàn hay không được buộc ? Các nạn nhân có bị bật hắt ra (éjecté) hay không ?

• Các nạn nhân có va vào các đồ vật hay không ? Nếu có, bao nhiêu ?


Việc đem đến một phim vidéo ngắn hay vài photo rất hữu ích cho thầy thuốc bệnh viện tiếp đón bệnh nhân bị đa chấn thương.

IV. ĐỊNH LUẬT VỀ NĂNG LƯỢNG VÀ CHUYỂN ĐỘNG.

Hai định luật vật lư cho phép hiểu những cơ chế trao đổi năng lượng lúc xảy ra một crash.

1/ ĐỊNH LUẬT THỨ NHẤT CỦA NEWTON.

Một vật đứng im vẫn bất động và một vật chuyển động vẫn chuyển động trừ phi nó chịu một ngoại lực.

Thí dụ một người ngồi phía trước xe hơi. Xe đụng phải một cái cây và dừng lại. Người không mang dây an toàn tiếp tục chuyển động cho đến khi đụng phải tay lái (steering column), bảng đồng hồ (tableau de bord, dashboard) hay kính che gió (pare-brise, windshield). Sự va chạm với vật làm ngừng chuyển động về phía trước của nửa ḿnh trên hay đầu. Các cơ quan nội tạng vẫn chuyển động cho đến khi chúng đụng thành ngực hay thành bụng, làm dừng lại chuyển động về phía trước.

Điều này cũng đúng với chuyển động chuyển ngang (mouvement de translation horizontale) như tai nạn giao thông hay thẳng đứng, như té từ một nơi cao.

2/ ĐỊNH LUẬT NĂNG LƯỢNG VÀ CHUYỂN ĐỘNG.

Tại sao sự bắt đầu hay ngừng lại một cách đột ngột đưa đến chấn thương và thương tổn nơi một cá thể ? Định luật bảo tồn năng lượng phát biểu rằng năng lượng không có thể được tạo ra hay phá hủy nhưng có thể được thay đổi h́nh dáng. Sự chuyển động của một chiếc xe hơi là một dạng năng lượng. Khi chuyển động bắt đầu hay ngừng lại, năng lượng biến đổi thành một dạng khác. Nó có thể lấy dạng năng lượng cơ học, nhiệt, điện hay hóa học.

Trong thí dụ trước, khi xe hơi dừng lại, năng lượng phải được biến đổi thành một năng lượng khác (cơ học, nhiệt, điện hay hóa học).

Một thí dụ năng lượng thay đổi dạng khi chuyển động ngừng lại là khi một người lái xe phanh lại và xe hơi giảm tốc (decelerate). Năng lượng chuyển động được biến đổi thành nhiệt ma sát (heat of friction) (năng lượng nhiệt) bởi bàn đạp phanh (brake pad) lên tăng hăm (brake drum, tambour de frein). Tương tự, năng lượng cơ học của một chiếc xe hơi đụng phải một bức tường được làm tiêu tan do sự uống của khung hay những bộ phận của xe. Năng lượng c̣n lại được truyền cho những người ngồi trong xe và các cơ quan nội tạng của họ.

Năng lượng động (énergie cinétique) tỷ lệ với trọng lượng và tốc độ :

E (năng lượng động) = M/2 (một nửa khối lượng) x V2 (tốc độ b́nh phương).

Ta thấy rơ rằng trọng lượng của những người ngồi trên xe không phải là yếu tố quyết định nhưng đúng là tốc độ của vật chuyển động.

V. TRAO ĐỔI NĂNG LƯỢNG

Mật độ năng lượng (densité d’énergie) được trao đổi trong một va chạm tùy thuộc lượng các hạt (particules) mô bị ảnh hưởng. Các mô càng dày, th́ sẽ có nhiều hạt bị va chạm bởi một vật đang chuyển động. Một cú đấm vào trong một chiếc gối sẽ sinh ít thương tổn hơn khi đấm vào tường...Một người có thể sống sót sau một té ngă khi người đó té vào một mặt phẳng có thể đè ép được (compressible) (bụi tuyết, nước, thực vật, trampoline) nhưng sẽ không có cơ may sống c̣n nếu té ngă trên một mặt phẳng cứng.

VI. HIỆN TƯỢNG KHÍ XÂM THỰC (CAVITATION).

Việc đánh vào một ḥn billard truyền năng lượng cho những ḥn billard khác. Ḥn billard được đánh vào từ bỏ năng lượng của nó, chạy chậm lại và kể cả dừng lại khi những ḥn billard khác xa điểm va chạm. Trong thân thể con người, hiện tượng này gây nên một xoang (lỗ hổng) (cavité) và được gọi là hiện tượng khí xâm thực (cavitation).

Như vậy hai dạng xoang được tạo nên :
1. Một xoang tạm thời (cavité temporaire) được tạo nên trong lúc va chạm, các mô lấy lại vị trí ban đầu, làm người quan sát bị lầm.
2. Một xoang thường trực (cavité permanente) gây nên bởi sự đè ép hay sự xé rách các mô.

VII. CHẤN THƯƠNG ĐỤNG DẬP VÀ CHẤN THƯƠNG XUYÊN (BLUNT TRAUMA VÀ TRAUMA PENETRANT)

Hiện tượng khí xâm thực (cavitation) này cho phép phân biệt “ chấn thương đụng dập ” (blunt trauma hay trauma mousse) (sự đè nát, sự giảm tốc hay tăng tốc) với chấn thương chọc thủng (trauma pénétrant) (sự đè nát của mô và sự tách chúng dọc theo đường vào của vật xuyên qua).

Trong một chấn thương đụng dập :
• Hộp sọ có thể bị nén ép, găy, đẩy các mảnh vỡ vào trong năo bộ. Năo bộ tiếp tục chuyển động về phía trước gây nên chấn động năo (commotion), đụng dập (contusion) hay rách (lacération). Các mạch máu có thể bị xé rách, gây nên xuất huyết ngoài màng cứng (hémorragie épidurale), dưới màng cứng (sous durale) hay màng nhện (arachnoidienne). Một thương tổn h́nh mắt ḅ (lésion en forme d’œil de bœuf) trên kính chắn gió là đặc trưng.

• Một sự tăng duỗi (hyperextension) hay tăng gấp (hyperflexion) sinh ra những gập góc nghiêm trọng, gây nên các găy xương và trật các đốt sống. Những nén ép theo đường thẳng có thể gây nên các lún đốt sống (tassements vertébraux). Sự va chạm bên (impact latéral) khiến cổ bị gập và xoay.

• Các găy xương chậu có thể chịu trách nhiệm một sự mất máu quan trọng. 10% những thương tổn này được kèm theo bởi những thương tổn sinh dục.

• Những cơ quan bị đè ép bởi cột sống vào tay lái hay bảng đồng hồ (tableau de bord) như một cái búa đánh trên một cái đe, có thể gây nên rách các cơ quan nội tạng (tụy tạng, lá lách, gan và thận).

• Những cơ quan bụng có thể đi vào trong ngực và làm giảm thể tích phổi, có thể bị thiếu máu cục bộ do đè ép. Nếu có một xuất huyết trong bụng, nó có thể gây nên tràn máu ngực (hémothorax).

• Sự kéo giăn của động mạch chủ có thể xảy ra gây vỡ tức thời và hoàn toàn. Thường hơn sự kéo giăn chỉ một phần và tạo nên một ph́nh động mạch có thể vỡ trong nhiều phút, giờ hoặc ngày tiếp theo sau.

• Sự đụng dập thành ngực có thể gây nên một hiện tương được gọi là“ sac de papier ” nguyên nhân của tràn khí màng phổi. Bệnh nhân thấy tai nạn xảy đến thở sâu vào, nín thở (đóng nắp thanh môn). Các lá phổi khi đó “ bị đóng lại ” và khi va chạm bị xé rách.

• Sự đè bẹp ngực có thể gây nên găy các xương sườn, dẫn đến tràn khí màng phổi, mảng sườn hay cả hai.

• Sự đụng dập các cơ quan bên trong ngực có thể gây nên một đụng dập cơ tim với loạn nhịp tim.

• Những vết rách của các cơ quan có thể xảy ra ở những điểm cắm vào thành bụng. Nếu cơ quan có cuống, một sự giật đứt (arrachement) hay cắt đứt (cisaillement) có thể xảy ra (thận, ruột non, ruột già, lá lách). Khi đó là một cơ chế “ phía thấp và xuống dưới ”, gan có thể đi xuống, gây nên vỡ dây chằng treo.

• Một cơ chế cuối cùng cần phải biết trong trường hợp đè ép bụng (va chạm với một tay lái) : sự gia tăng nhanh chóng của đè ép bụng gây nên một sự gia tăng áp suất động mạch chủ. Máu bị dồn về phía van động mạch chủ gây nên vỡ ṿng van (anneau valvulaire).


VIII. ACCIDENTOLOGIE.

Vào lúc xảy ra một tai nạn, 3 đụng chạm (collision) xảy ra :
• Chiếc xe đụng phải một vật.

• Hành khách không có dây an toàn đụng bên trong xe.

• Các cơ quan nội tạng của người ngồi trong xe va chạm nhau hay đụng vào thành của xoang chứa chúng.


Các đụng xe hơi (collision de voiture) có thể được chia thành 5 loại :
• va chạm trực diện (impact frontal)

• va chạm ở phía sau (impact par l’arrière)

• chạm bên hông (impact latéral)

• va chạm xoay (impact rotatoire)

• tonneau.

florida80 06-03-2019 20:53

1/ Va chạm trực diện (impact frontal) :

Bệnh nhân có thể theo hai con đường :

a/ The Down-and-Under Path (hướng xuống dưới và bên dưới)

• Đầu gối có hai điểm va chạm với bảng đồng hồ (tableau de bord) : xương đùi và xương chày.

Trong khi xương chày đụng bảng đồng hồ và dừng lại, xương đùi tiếp tục chuyển động và chevaucher xương chày này. Đầu gối có thể bị trật, với rách các dây chằng và dây gân. Một thương tổn của động mạch kheo có thể được liên kết.

Nếu chính xương đùi chạm với bảng đồng hồ, xương có thể găy cũng như làm tổn hại ổ cối (acétabulum).


• Bàn chân có thể bị quẹo nếu được đặt trên sàn xe hay trên pédale de frein với một cẳng chân duỗi thẳng với hậu quả găy khớp.

Phải luôn luôn t́m kiếm empreinte của đầu gối trong tableau de bord.


b/ The Up-and-Over Path

Nói chung đầu đập vào kính che gió (pare-brise) hay khung của nó. Ngực và bụng bị đè vào tay lái. Những thương tổn quan trọng của lồng ngực (găy xương sườn, mảng sườn), của các mô (đụng dập phổi, đụng dập cơ tim) hay các cơ quan có thể xảy ra (gan, lá lách).

2/ Va chạm phía sau, emboutissage

• Năng lượng va chạm biến đổi thành sự giảm tốc (décélération)

• Sự dị biệt vận tốc (vitesse) giữa hai xe càng lớn, th́ lực va chạm ban đầu càng lớn và, do đó, năng lượng để gây thiệt hại càng lớn.

• Tốc lực (vélocité) là hiệu số của hai tốc độ này.

• Vào lúc va chạm, xe hơi phía trước bị phóng ra phía trước. Nếu cái dựa đầu (appui-tête) không được đặt để tránh mọi cử động tăng duỗi của cổ, các dây chằng có có thể bị rách (whiplash injury).

• Nhưng nếu xe hơi đụng phải một chiếc khác hay một vật hay nếu người lái phanh xe lại và dừng lại đột ngột, các hành khách bị phóng về phía trước, như lúc bị đụng xe trực diện (collision frontale).

• Tai nạn khi đó gây nên hai va chạm : phía sau và phía trước với gia tăng xác suất các thương tổn.


3/ Va chạm bên hông (impact latéral)

Hành khách có thể bị thương do chuyển động của xe và do cửa bị phóng vào trong habitacle. Những lực đè ép bên có thể xảy ra gây găy xương (mảng sườn, giập phổi, găy xương đ̣n, xương chậu, xương đùi). Người lái xe sẽ bị các thương tổn lách hơn, c̣n người hành khách th́ bị các thương tổn ở gan. Sự va một bên đầu vào một trong những montant của xe có thể gây vết thương da đầu, chấn động năo và cả xuất huyết năo. Các thương tổn đốt sống thường xảy ra hơn. Có thể xảy ra một sự va đụng giữa các nạn nhân, nguồn gốc của những thương tổn bổ sung.

Sự hiện diện của một người bị chết xác nhận mức độ nghiêm trọng của va chạm mà những người khác trong xe đă bị.

4/ Va chạm xoay

Xảy ra một sự phối hợp của những thương tổn được gây nên bởi những va chạm trực diện và bên.

5/ Tonneau :

Xe có thể chịu những va chạm ở những nơi khác nhau. Gần như không thể nói trước các thương tổn của các nạn nhân.

Ghi chú : sự hấp thụ động năng (énergie cinétique) thay đổi giải thích sự khác nhau về các thương tổn tùy theo tuổi tác : mảng sườn (volet thoracique) sẽ thường gặp hơn ở bệnh nhân già có lồng ngực cứng ; Một đụng dập phổi hay vỡ cơ hoành sẽ được quan sát nhiều hơn ở bệnh nhân trẻ với lồng ngực mềm dẻo.

florida80 06-03-2019 20:53

. DÂY AN TOÀN (CEINTURE DE SECURITE) VÀ TÚI KHÍ (AIRBAG)

1/ DÂY AN TOÀN

Việc mang dây an toàn đă làm thu giảm mức độ nghiêm trọng của vài thương tổn và đă tránh cho những người ngồi trong xe khỏi bị bắn hắt ra. Hiệu quả của nó đặc biệt được liên kết với một cấu tạo 3 điểm (une architecture à 3 points) cũng như với việc sử dụng tốt của các đai (sangle) ; nếu những đai này không được đặt đúng vị trí, có thể gây nên những thưởng tổn đặc hiệu.

Một dây nịt bụng (ceinture ventrale), được căng kém hay được đặt trên các gai chậu trước-trên (épines iliaques antéro-supérieures) có thể gây nên những thương tổn do sự ép nén của các cơ quan bụng nằm giữa dây nịt và thành sau ; những thương tổn tạng có thể xảy ra cũng như các thoát vị hoành (hernie diaphragmatique) do tăng áp lực.

Người ta khuyến nghị xem xét mặt trước của ngực và của bụng để t́m kiếm các khối máu tụ hay những đốm xuất huyết trên đường đi của dây nịt, thậm chí vị trí của boucle de fermeture.

2/ TÚI KHÍ (AIR-BAGS)

Air bags nên luôn luôn được sử dụng phối hợp với dây an toàn để bảo vệ tối đa. Nguyên thủy, các hệ thống túi khí người lái và hành khách ngồi trước nhằm làm yếu đi chuyển động ra phía trước của người ngồi trước mà thôi. Chúng hấp thụ năng lượng một cách chầm chậm bằng cách gia tăng khoảng cách dừng (stopping distance). Chúng vô cùng hữu hiệu trong lần va chạm trực diện hay gần như trực diện đầu tiên (từ 65% đến 70% các trường hợp dừng xe xảy ra trong ṿng 30 độ các đèn pha). Bởi v́ nhiều túi khí xẹp ngay sau khi đụng chạm, nên chúng không hữu hiệu trong những va chạm nhiều lần hay những va chạm phía sau.

Một số các thương tổn có thể được quy cho sự va chạm của người trên xe với vật đệm (coussin) đang được thổi phồng lên ; những thương tổn này liên quan đến găy xương cổ tay, những vết chợt da mặt và những đụng dập của nhăn cầu (cũng do kính va đập).

Một trong những vấn đề được đặt ra và có liên hệ với kỹ thuật học của thiết bị này và với sự cấp điện của chất nổ cho phép thổi phồng vật đệm : nếu túi khí không được mở ra sau lúc va chạm, nó có có thể được khởi động do sự cắt đoạn colonne de direction tạo các mạch điện. Do đó những người cứu thương phải chú ư đừng để là nạn nhân của điều này và đừng giữ vị trí giữa tay lái (hay tableau de bord) và nạn nhân.

X. NGƯỜI ĐI XE GẮN MÁY (MOTOCYCLISTES)

Trung tâm trọng lực của cặp “ moto/conducteur ” nằm ở trên và sau của trục trước của xe.

Lực va chạm trực diện (head-on impact), trục xe đóng vai tṛ pivot ; các thương tổn do sốc của người lái xe vào tay lái (các chấn thương liên kết với khúc đoạn đụng vào tay lái : khung chậu, bụng, ngực, thậm chí đầu). Nếu các bàn chân vẫn bị giữ ở bàn đạp, sự va chạm có thể liên hệ một hoặc hai thân xương đùi.

Trong trường hợp bị bắn hất ra, cũng như đối với những người ngồi trong xe hơi, các thương tổn là do đoạn thân thể đầu tiên đụng phải chướng ngại vật (trong đó có đất). Người ta cho rằng sự bị bắn hất ra khỏi xe nhân lên 6 lần những nguy cơ tử vong hay bệnh tật ; một người bị bắn hắt ra (éjecté) trên 13 người mang một găy xương cột sống.

XI. NGƯỜI BỘ HÀNH

Typologie là của người bộ hành bị đụng bởi một chiếc xe hơi. Khách bộ hành người lớn bị đụng bất ngờ quay đi khỏi chiếc xe và sự tiếp xúc diễn ra thành 3 giai đoạn : các chi dưới bị va phải thanh đỡ va (pare-chocs), như vậy nạn nhân bị phóng vào capot (hay vào kính chắn gió) rồi trượt dọc theo capot để rơi xuống đất “ đầu trước tiên ”.

Về đứa bé, nó thường đối diện với chiếc xe và do kích thước của ḿnh, bị đụng nơi đùi và khung chậu ; va chạm thứ hai liên hệ phần trên của cơ thể (ngực) và đứa trẻ bị phóng lên cao, đập vào capot rồi trượt xuống dưới xe hoặc dưới bánh xe.

XII. TÉ NGĂ

Vấn đề được xét đến ở đây là vấn đề của những té ngă từ một độ cao mà kích thước lớn hơn kích thước của nạn nhân ; khoảng cách rơi gây nên những thương tổn giảm tốc (lésions de décélération) lúc va chạm (định luật Newton). Người ta chấp nhận rằng một chiều cao rơi đo 3 lần kích thước của nạn nhân (trưởng thành) được liên kết với một mức độ nghiêm trọng quan trọng một cách đáng kể. Tính chất của bề mặt tiếp nhận, phần thân thể va đụng là bấy nhiêu những yếu tố gây nên chỗ định vị của các chấn thương.

Các thương tổn sọ-năo và những thương tổn ngực chế ngự những bệnh cảnh nghiêm trọng (khoảng 50% các trường hợp) : không nên không nhận rơ những thương tổn hậu phúc mạc. Trên b́nh diện các thương tổn xương-khớp người ta ghi nhận rằng những thương tổn thông thường nhất liên hệ các chi dưới, khung chậu và cột sống ngực-thắt lưng. Những té ngă về phía trước với sự tiếp nhận (cẳng tay duỗi thẳng) trên các gót bàn tay, gây nên các găy Pouteau-Colles.

florida80 06-03-2019 20:56

THÔNG TIN Y HỌC VỀ RUNG THẤT (VENTRICULAR FIBRILLATION)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Rung Thất (Ventricular Fibrillation)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 60 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 21/1/2008 )

10/ SỰ KHỬ RUNG Ở BỆNH VIỆN CÓ THỂ ĐƯỢC LÀM TỐT HƠN

Theo các chuyên gia, thời hạn giữa một ngừng tuần hoàn (arret circulatoire) thứ phát một asystolie hoặc loạn nhịp, và một khử rung (défibrillation) không được vượt quá 2 phút ở bệnh viện. P.Chan (Hoa kỳ) và các cộng sự viên đă nhận diện 6789 bệnh nhân, nạn nhân của một ngừng tuần hoàn do rung thất (fibrillation ventriculaire) hoặc tim đập nhanh thất (tachycardie ventriculaire) trong 369 bệnh viện tham gia vào National Registry of Cardiopulmonary Resuscitation. Họ đă ghi nhận những đặc điểm được liên kết với việc khử rung chậm, cũng như những hậu quả lên sự sống sót của các bệnh nhân. Thời gian khử rung trung b́nh là 1 phút và 30% các trường hợp được khử rung chậm. Đó thường là những bệnh nhân da đen, các bệnh nhân được nhập viện bởi những bệnh lư không phải do tim, trong một trung tâm điều trị dưới 250 giường, trong một khoa pḥng không có monitoring, hoặc những bệnh nhân có cơn loạn nhịp ngoài giờ làm việc (17 giờ chiều đến 8 giờ sáng). Một khử rung chậm làm giảm một cách đáng kể tỷ lệ sống sót (22% so với 39,3% trong trường hợp khử rung trong ṿng 2 phút) và điều này tỷ lệ với khoảng thời hạn can thiệp.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 18/1/2008)

florida80 06-03-2019 20:56

CHẾT ĐỘT NGỘT DO RUNG THẤT : MỘT ĐIỀU TRỊ PH̉NG NGỪA NHẮM ĐÍCH.

GS Jean-Michel Haissaguerre, trưởng khoa tim, CHU de Bordeaux, ủy viên Viện hàn lâm khoa học, giải thích phương thức mới nhất dùng tần số phóng xạ (radiofréquence) nhằm tránh sự xuất hiện của những trường hợp chết đột ngột.

Hỏi : Trong một cơ tim lành mạnh, các tâm thất hoạt động như thế nào ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Cơ học của tim được thực hiện nhờ sự co bóp của các tâm nhĩ gởi máu vào trong các tâm thất, các tâm thất phóng máu (qua động mạch chủ) vào trong cơ thể. Các tam thất là những yếu tố thiết yếu nhất của cơ tim.

Hỏi : Trong trường hợp rung thất (fibrillation ventriculaire), điều ǵ xảy ra ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Các tâm thất bị kích thích một cách quá nhanh bởi một cơn băo điện (300 đến 400 đập mỗi phút), điều này làm cho chúng không c̣n có khả năng co bóp để làm tṛn chức năng của chúng.

Hỏi : Những hậu quả là ǵ ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Rối loạn nhịp tim có cùng hậu quả của một phát súng lục ! Chính v́ vậy có 50.000 tử vong mỗi năm ở Pháp. Tai ương này phần lớn không được công chúng biết đến, thường gán những tai biến này do một sự ngừng tim vĩnh viễn, mà ta chẳng làm ǵ được. Khi một người bị ngă qụy, phải nghĩ đến các rung thất một cách hệ thống bởi v́ nạn nhân có thể cứu được nhờ một sốc điện (choc électrique) của một máy khử rung (défibrillateur). Trong lúc chờ đợi cấp cứu, cần phải xoa bóp tim. Ở Pháp, ta thống kê chỉ 2% những người sống sót, trong đó vài người c̣n giữ các di chứng.

Hỏi : Ta biết được các nguyên nhân của những rung thất này hay không ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Có thể do là những hậu quả của một nhồi máu cơ tim hay một bệnh tim. Trong những trường hợp khác, đó là một rối loạn thuần điện của tim mặc dầu một cơ tim lành mạnh. Ngày nay ta biết nhiều hơn những tế bào chịu trách nhiệm. Những tế bào này tạo thành một mô thần kinh được mệnh danh là “ Purkinje ” (phần rất nhỏ của khối cơ tim), có khả năng sinh ra những xung động nhanh một cách bất thường, những tia chớp thật sự, và là nguồn gốc của những cơn băo điện này. Trong 10% các trường hợp, một yếu tố di truyền giải thích sự xuất hiện của nhiều trường hợp chết đột ngột xảy ra trong gia đ́nh.

Hỏi : Những thăm khám cho phép phát hiện những rối loạn tâm thất này là ǵ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Hiện nay ta chỉ có thể tiên đoán sự xảy ra của những rung thất này trong một thiểu số các trường hợp (30%) mỗi năm, bằng một điện tâm đồ hay một siêu âm. Những xét nghiệm này thường được thực hiện nơi những bệnh nhân được theo dơi v́ những vấn đề tim. Và ta khuyến nghị những thăm khám này cho những người đă từng là các nạn nhân của những trường hợp ngất xỉu không thể giải thích, hay có những tiền sử gia đ́nh chết đột ngột.

Hỏi : Nói chung ta điều trị những người bị đe dọa bởi những rung thất này như thế nào ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Một máy khử rung tim (défibrillateur cardiaque) được đặt vào hay những thuốc chống loạn nhịp được kê đơn, với những kết quả tốt, nhưng nơi vài bệnh nhân có một sự đề kháng đối với điều trị chống loạn nhịp.

Hỏi : Tiến bộ mới nhất để điều trị những bệnh nhân nguy cơ này với một can thiệp ít nặng nề hơn việc đặt máy khử rung tim là ǵ ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Kíp của chúng tôi ở CHU de Bordeaux đă hiệu chính một kỹ thuật mới nhằm vô hiệu hóa những tế bào dễ bị kích thích, nguồn gốc của những cơn băo điện. Phương thức nhằm đưa vào trong các tâm thất những cathéter mang các điện cực, rồi phát hiện những tế bào nguy hiểm và hủy diệt chúng bằng một ḍng điện tần số phóng xạ (un courant de radiofréquence). Tùy theo các trường hợp buổi điều trị kéo dài từ 1 đến 4 giờ, với gây mê tổng quát.

Hỏi : Công tŕnh nghiên cứu nào đă chứng minh tính hiệu quả của phương thức dùng tần số phóng xạ này ?

GS Jean-Michel Haissaguerre : Chúng tôi đă áp dụng kỹ thuật này nơi 45 bệnh nhân, rồi chúng tôi đă theo dơi họ trong nhiều năm trời. Hôm nay, các kết quả xác nhận tính hiệu quả của điều trị. Nhưng dầu sao đó vẫn là một phương thức xâm nhập (un procédé invasif) nên hy vọng của chúng tôi là phát triển những loại thuốc nhắm đích (médicaments ciblés) nhằm vô hiệu hóa một cách trực tiếp tính kích thích của những tế bào phát sinh rung thất. Những công tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành.
(PARIS MATCH 24/3 – 30/3/2011)

florida80 06-03-2019 20:57

LOẠN NHỊP TIM CÓ THẾ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ MỘT CÁCH NHẸ NHÀNG.

“ Rung nhĩ. Tích điện 300 joules. Phát sốc điện ! ” Trở thành thông thường qua các séries télévisées, câu nói này chẳng bao lâu có thể biến mất khỏi những thành ngữ thường được sử dụng bởi các thầy thuốc. Ít nhất là đối với điều trị rung nhĩ (fibrillation auriculaire), một trong những rối loạn nhịp tim thường gặp nhất, được đặc trưng bởi một co bóp nhanh và không đều của các xoang tim, nhận máu để chuyển vào các tâm thất. Thay v́ chỉ cần cho một sốc điện có cường độ mạnh, một nhóm nghiên cứu Đức-Mỹ vừa chứng tỏ, ở động vật, rằng rung nhĩ cũng có thể được làm ngừng lại bởi một loạt các sốc điện có cường độ thấp hơn.“ Nhiên hậu, mặc dầu năng lượng toàn thể được phát ra y hệt với năng lượng của một máy khử rung chuẩn (défibrillateur standard), sự việc làm giảm 84% cường độ của mỗi sốc điện có tác dụng hạn chế những tác dụng phụ, mà hàng đầu là sự đau đớn ”, Flavio Fenton, một trong những nhà nghiên cứu của đại học Cornell (Nữu Ước) tham gia vào trong công tŕnh nghiên cứu này, đă giải thích như vậy. Một viễn ảnh đáng phấn khởi đối với những bệnh nhân buộc phải chịu một cách đều đặn những khử rung điện (défibrillations électriques). Được đặt tên là LEAP (“low-energy antifibrillation pacing”), phương pháp mới này, c̣n cần phải được chứng minh ở người, cũng có thể được áp dụng để điều trị rung thất (fibrillation ventriculaire), nguyên nhân chính gây ngừng tim.“ Những thí nghiệm được tiến hành in vitro cho thấy rằng phương pháp mới này có hiệu quả đối với rung nhĩ cũng như đối với rung thất. Những trắc nghiệm sơ bộ cũng đi theo chiều hường này, nhưng chúng tôi c̣n phải thu thập các dữ kiện ”, Flavio Fenton đă xác nhận như vậy.
(SCIENCE ET VIE 10/2011)

florida80 06-03-2019 20:57

HỌC SỬ DỤNG CÁC MÁY KHỬ RUNG TỰ ĐỘNG TRONG TRƯỜNG HỢP NGỪNG TIM.

Một đạo luật dự kiến đào tạo ngắn ngày để biết sử dụng máy khử rung (défibrillateur) trên công lộ.

SANTE. Hiện nay, ở Pháp, khoảng 35.000 máy khử rung ngoài tim (défibrillateur cardiaque externe) từ nay được thiết đặt. Một con số đă bùng nổ, nếu ta so sánh nó với 9.000 máy chỉ có sử dụng trong năm 2005. Những máy khử rung này, từ nay được thiết đặt trong những nơi chiến lược của các thành phố (bưu điện, toà thị chính, nhà ga, viện bảo tàng, các cơ sở thể thao, hay các xí nghiệp...), cho phép tất cả mọi người, lúc đứng trước một người bất tỉnh sau một cơn đau tim (crise cardiaque), thực hiện một sốc điện (choc électrique) có khả năng hồi sinh bệnh nhân. Mặc dầu các cố gắng c̣n cần phải thực hiện về các thiết bị và sự phân bố trên lănh thổ, câu hỏi thật sự từ nay liên quan đến sự đào tạo. Ai có khả năng nhận diện một ngừng tim nơi một người đột ngột bị quật ngă bởi một sự khó ở và khi đó, ai có thể dám, trong trường hợp cần thiết, sử dụng một máy khử rung ? Mặc dầu những máy khử rung này được động hóa (défibrillateur automatique), với một commande vocale mô tả, cho mỗi giai đoạn, 3 hay 4 động tác phải hoàn thành, nhưng một chương tŕnh đào tạo, ngay cả ngắn ngày, không phải là vô ích, dầu đó chỉ để làm nhận thức được tính cách đơn giản của thủ thuật.

Trong khung cảnh này, một nghị quyết của Bộ Nội vụ, được công bố hôm qua trong Journal officiel, chấp thuận sự thiết đặt một nhập môn “ xử trí ngừng tim và sử dụng các máy khử rung ngoài tự động (défibrillateur externe automatisé) ”. Sự nhập môn này sẽ được tổ chức trong khung cảnh “ làm nhạy cảm dân chúng với những động tác sơ cứu ”. Sự khai tâm này nhằm mục đích làm cho dân chúng thụ đắc những kiến thức cần thiết để nhận diện những dấu hiệu cho phép nhận biết một ngừng tim và thực hiện, nơi một nạn nhân ngừng tim, những động tác cho phép làm gia tăng những cơ may sống sót ”. Lớp nhập môn này, không bắt buộc, được đảm nhận, trong một thời gian tối đa một giờ, bởi những người đào tạo sơ cứu của những cơ quan có thẩm quyền hay bởi những hiệp hội được công nhận trong sự giảng dạy cứu thương. Từ khi có nghị quyết tháng năm 2007, mọi người đều được phép sử dụng một máy khử rung tự động.

NGAY LỚP 6 ”

“ Sự thiết đặt các máy khử rung ở những nơi công cộng, trong những vùng được nhiều người lui tới (nhà ga, chợ búa, các pḥng chiếu bóng, các sân vận động, các tàu hỏa), đă cho phép vài nước chứng tỏ rằng họ có thể cứu được rất nhiều mạng người, GS Alexandre Mignon (thầy thuốc gây mê-hồi sức, bệnh viện Cochin, Paris) đă giải thích như vậy. Thí dụ, Nhật Bản vừa công bố một công tŕnh nghiên cứu tŕnh độ rất cao trong New England Journal of Medicine (thánh kinh của các tạp chí y học) vào tháng ba năm 2010, báo cáo kinh nghiệm của ḿnh ở quy mô toàn cả nước.” Từ tháng giêng năm 2005 đến tháng 12 năm 2007, hơn 300.000 trường hợp ngừng tim ở nơi công cộng đă được ghi nhận ở Nhật Bản, đối với một dân số khoảng 125 triệu người. Trong thời kỳ nghiên cứu, số các máy khử rung ở nơi công cộng đă bùng nổ, chuyển từ 9000 lên gần 90.000 máy, hoặc từ 1 trên 1 cây số vuông đến hơn 4 mỗi cây số vuông. Trong cùng thời gian, tỷ lệ sống sót không có di chứng thần kinh đă được nhân lên 2 lần nơi những bệnh nhân, chuyển từ 15% lên hơn 30%. Thời hạn trung b́nh để cho các sốc điện cũng đă được giảm gần một nửa, đặc biệt sự thực hiện sốc điện không c̣n do các đội cứu thương, mà bởi những nhân chứng ngừng tim đầu tiên.

Hiệp hội RMC BFM, được chủ tŕ bởi Isabelle Weill từ hai năm nay, đă tranh đấu từ nhiều năm nay để phát triển một băi các máy khử rung (parc de défibrillateurs) nơi công cộng, để xác định những nơi thiết đặt tối ưu và thành lập những chương tŕnh đào tạo nhanh chóng để dạy cho dân chúng sử dụng những máy này. Một chương tŕnh đào tạo ngắn ngày là đủ, GS Alexandre Mignon đă đảm bảo như vậy. Rất đơn giản trong việc sử dụng những máy khử rung này. Sự vận dụng chúng có thể được dạy ở trường ngay lớp 6, với một đào tạo 60 phút về những động tác cứu mạng, có thể được dạy lúc thi bằng lái xe, vào ngày nhập ngủ, trong các xí nghiệp..”

(LE FIGARO 5/8/2010)

florida80 06-03-2019 20:59

CÁC MÁY KHỬ RUNG TIM : KỸ THUẬT MỚI ĐỂ CÁC SỐC ĐIỆN NHẸ NHÀNG HƠN.

GS Xavier Jouven, thầy thuốc chuyên khoa tim thuốc bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, chuyên gia về các rối loạn nhịp, b́nh luận những kết quả thỏa măn của một phương pháp cải tiến để b́nh thường hóa những rối loạn nhịp.

Hỏi : Trong số nhưng rối loạn nhịp tim, những rối loạn nào thường xảy ra nhất ?
GS Xavier Jouven : Đó là những rung nhĩ (fibrillation auriculaire) do một sự co bóp hỗn loạn của các tâm nhĩ. Khi đó tim đập nhanh hơn và không đều. Máu ứ động trong các tâm nhĩ, với sự đe dọa tạo thành cục máu đông cao hơn nhiều. 1% dân số ở Pháp bị liên hệ một cách tạm thời hay măn tính. Không điều trị, biến chứng đáng sợ nhất là tai biến mạch máu năo. Các rung thất, ít gặp hơn, nhưng trầm trọng hơn nhiều. Không được cấp cứu, chúng gây nên chết đột ngột trong vài phút.

Hỏi : Tất cả chúng ta, vào một lúc nào đó, bị hồi hộp. Làm sao ta đảm bảo chẩn đoán chính xác.
GS Xavier Jouven : Vài trường hợp rung nhĩ không có triệu chứng, nhưng thường nhất, chúng được thể hiện bởi triệu chứng hồi hộp với thời gian kéo dài lâu hay mau, đôi khi được liên kết với một sự khó thở. Để xác lập chẩn đoán, nếu điện tâm đồ cổ điển không đủ, ta sử dụng một Holter (máy được bệnh nhân mang theo trên người), ghi tim đập trong 24 giờ. Khi những đợt hồi hộp tạm thời nhưng xảy ra liên tiếp, cần ghi nhiều lần để có thể bắt gặp một đợt rung nhĩ. Trong vài trường hợp, ngay cả cần phải cắm dưới da ở vai một máy ghi nhỏ, sẽ ở tại chỗ trong nhiều tháng.

Hỏi : Hiện nay đối với rung nhĩ ta có điều trị nào ?
GS Xavier Jouven : Có hai phương thức. 1. Điều trị bằng thuốc với những thuốc chống loạn nhịp phối hợp với những thuốc làm loăng máu (fluidifiant) để tránh tai biến mạch máu năo. 2. Phát một sốc điện ngoài (choc éléctrique externe) (cần gây mê tổng quát thời gian ngắn). Phương thức nhằm đặt 2 patch trên ngực để “ kẹp tim giữa hai gọng kềm ” (prendre le cœur en tenailles). Các patch này được nối với một máy khử rung ngoài (défibrillateur externe), gởi một ḍng điện có cường độ mạnh hơn. Phương cách này gây nên sự co thắt của tất cả các tế bào của tim, “ bẽ găy ” loạn nhịp. Trong 90 đến 95% các trường hợp, đồng hồ của tim khởi đầu lại với nhịp b́nh thường. Nhưng phương pháp này có những bất tiện : sốc điện có thể làm thương tổn các mô da (với những vết bỏng).

Hỏi : Lần này làm sao ta ngăn cản các rung thất đe dọa tính mạng ?
GS Xavier Jouven : Để được như thế, ta cắm một máy khử rung dưới da, nối với tim bằng những sonde điện. Trong trường hợp cần, chúng phát ra một sốc điện rất đau đớn. Chấn thương thô bạo này gây cho các bệnh nhân sự lo âu về một tái phát. Nhưng hệ thống này hiệu quả hơn nhiều so với các loại thuốc.

Hỏi : Để giảm đau do sốc điện, phương thức mới là ǵ ?
GS Xavier Jouven : Một công tŕnh nghiên cứu quốc tế rất đầy hứa hẹn vừa được thực hiện bởi những kíp quốc tế : các nhà nghiên cứu (của CNRS de Lyon), Đức và Hoa Kỳ. Thử nghiệm này đă được tiến hành đối với những trường hợp rung nhĩ. Kỹ thuật mới này, được mệnh danh là LEAP (Low-Energy Anti-Fibrillation Pacing), hoạt động theo cùng nguyên tắc của các máy khử rung cổ điển. Nhưng bằng cách phóng ra một loạt 5 sốc điện kế tiếp nhau có cường độ thấp thay v́ một sốc điện với một cường độ mạnh. Kết quả : hoạt động vô tổ chức bị ngưng lại. Tim dần dần đập lại b́nh thường. Nhưng các sốc điện được sử dụng, 7 lần yếu hơn, gây đau đớn ít hơn nhiều và ít gây tổn hại hơn đối với các mô tim. Những công tŕnh nghiên cứu đầu tiên trên động vật đă tỏ ra rất thỏa măn. Vào giai đoạn kế tiếp, ta sẽ trắc nghiệm máy khử rung mới này nơi người.

Hỏi : Phương thức mới này cũng sẽ được áp dụng đối với các máy khử rung thất (défibrillateur ventriculaire) ?
GS Xavier Jouven : Có thể. Các công tŕnh nghiên cứu tiếp theo sẽ xác nhận điều đó. Một ưu điểm khác của những công tŕnh nghiên cứu này là chúng cho phép hiểu rơ hơn cơ chế của sốc điện. Một bước tiến sẽ đưa đến sự hiệu chính những điều trị mới có hiệu quả.

(PARIS MATCH 23/2-29/2/2012)

florida80 06-03-2019 20:59

NHỮNG RỐI LOẠN NHỊP TIM : CÓ NHIỀU PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐIỀU TRỊ ĐỂ XỬ TRÍ TỐT NHỮNG LOẠN NHỊP

CARDIOLOGIE. “ Cái khó khăn chủ yếu là làm sao có thể quan sát rối loạn nhịp vào lúc mà nó xảy ra ”, GS Jean-Luc Pasquié, thầy thuốc chuyên khoa về nhịp tim (rythmologue) thuộc CHU de Montpellier đă nhấn mạnh như vậy. Một điện tâm đồ đơn giản cho phép nhận diện phần lớn các loạn nhịp, nhưng những loạn nhịp này thường nhất xảy ra một cách đoạn hồi. Vài kỹ thuật, như holter tim, ghi nhịp tim trong nhiều ngày hoặc nhiều tháng. Những trắc nghiệm lúc gắng sức (test d’effort) trong vài trường hợp cho phép làm phát khởi loạn nhịp. Điện tâm đồ có thể được bổ sung bởi một siêu âm tim để nhận diện nguồn gốc của vấn đề hay để loại bỏ khả năng của một bệnh lư tim.

Những rối loạn nhịp tim thường gặp thường nhất là hiền tính và không luôn luôn gây nên những triệu chứng. Chúng được phân chia thành hai lớp lớn tùy theo tim đập quá chậm (bradycardie) hay quá nhanh (tachycardie). Tầm quan trọng của các triệu chứng không tương quan với mức độ nghiêm trọng của loạn nhịp, nhưng chúng có thể, ngay cả khi loạn nhịp này không có nguy cơ, làm biến đổi chất lượng sống của các bệnh nhân. “ Các bệnh nhân bị rối loạn nhịp thường nhất kêu van hồi hộp, một thuật ngữ thật ra tập hợp nhiều loại cảm giác”, GS Pasquié đă nhắc lại như vậy. Tim đập quá nhanh, một cách không đều, gây nên những “coups” trong ngực và những triệu chứng này có thể kèm theo khó thở, đôi khi ngay cả khó ở (malaise) hay ngất xỉu.

Những loạn nhịp do một khiếm khuyến chức năng của tâm nhĩ là thường gặp nhất, đặc biệt là rung nhĩ (fibrillation auriculaire). Liên quan với tuổi tác, rung nhĩ bắt đầu sau 50 tuổi, đạt 5-10% những người từ 60 đến 70 tuổi và đến 20% những người trên 80 tuổi. Những phần bị thương tổn của tâm nhĩ gây nên những co bóp nhanh nhưng không hoàn toàn, điều này làm mệt tim nếu rung nhĩ kéo dài.

CHẾT ĐỘT NGỘT KHÔNG GIẢI THÍCH ĐƯỢC

Mặt khác, máu có thể ứ đọng trong các tâm nhĩ và tạo thành những cục máu đông có thể gây nên những tai biến mạch máu, nhất là trong năo. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ, nhất là những người già, một điều trị kháng đông khi đó phải được thực hiện.

Những thuốc chống loạn nhịp có thể làm giảm những triệu chứng trong phần lớn các trường hợp. Trong vài trường hợp, có thể phá hủy những vùng bị thương tổn của tâm nhĩ bằng đốt điện.“ Can thiệp này với kết quả không luôn luôn khẳng định, là nặng nề và trong 3 đến 5% các trường hợp, gây nên những biến chứng đôi khi trầm trọng, GS Antoine Leenhardt, thầy thuốc chuyên khoa nhịp tim (cardiologue rythmologue) thuộc bệnh viện Bichat (Paris) đă xác nhận như vậy. Can thiệp này chỉ được thực hiện trong những trung tâm chuyên khoa.”

Loại can thiệp này cũng được xét đến đứng trước tim nhịp nhanh bộ nối (tachycardie jonctionnelle), khi những triệu chứng gây khó chịu và không được kiểm soát tốt bởi những phương thức khác. Một khiếm khuyết dẫn truyền giữa các tâm nhĩ và tâm thất làm tim gia tốc đột ngột và mạnh. Tim nhịp nhanh cũng biến mất một cách đột ngột như khi xuất hiện mà không gây hậu quả.

Các tâm thất cũng là nguồn gốc của những rối loạn nhịp. Các ngoại tâm thu (extrasystoles), tương ứng với một co bóp sớm hay bổ sung của một tâm thất, là thường gặp nhất. Các ngoại tâm thu cho cảm giác rằng tim đă “ manqué le coup ” và có tính chất hiền tính nếu không có bệnh tim kèm theo. Tim nhịp nhanh thất (tachycardie ventriculaire) và rung thất (fibrillation ventriculaire) là hai rối loạn nhịp nghiêm trọng nhất. Khi các tâm thất co bóp quá nhanh hay khi các xung động thất thường (impulsions erratiques) ngăn cản chúng co bóp một cách hoàn toàn, chúng không c̣n có thể đảm bảo sự lưu thông máu, điều này có thể gây tử vong.

Những loạn nhịp này thường kèm theo một nhồi máu cơ tim và nói chung liên kết với bệnh động mạch vành sau tuổi 40 nhưng cũng có thể xảy ra ở những người trẻ tuổi hơn, gây chết đột ngột, thường vẫn không giải thích được và nguồn gốc có thể là gia đ́nh. Tim nhịp nhanh thất có thể được điều trị bằng thuốc, bằng triệt phá những vùng bị thương tổn hay bằng thiết đặt một implant. Rung thất (fibrillation ventriculaire), gây tử vong nếu không được làm dừng lại bằng một sốc điện. Sốc điện (choc électrique) này buộc các tế bào tim lấy lại một nhịp đập đồng bộ (un battement synchronisé), có thể được pḥng ngừa bằng một implant tim.

Các nhịp tim dầu có tiềm năng nghiêm trọng hay chỉ gây khó chịu đều có thể điều trị. Vậy điều hữu ích là cần phải thăm khám ngay khi những cảm giác hồi hộp, đập quá nhanh hay không đều kéo dài nhiều phút và xảy ra một cách đều đặn.
(LE FIGARO 17/12/2012)

florida80 06-03-2019 21:00

NHỮNG IMPLANT TIM CÀNG NGÀY CÀNG KỸ THUẬT

Vào năm 2011, 60.000 máy tạo nhịp tim (stimulateur cardiaque) đă được cấy để kiểm soát những trái tim đập quá chậm, xảy ra ngày càng nhiều bởi v́ tim nhịp chậm là một dấu hiệu lăo hóa của tim. Những implant này đă có từ những năm 1950 và cho phép gia tốc nhịp tim khi nhịp xuống quá thấp, điều này có thể gây ngất (syncope).

Từ những năm 1980, cũng có những défibrillateur implantable gây sốc điện để khởi phát trở lại những nhịp đập b́nh thường khi nhịp tim trở nên quá nhanh hay bắt đầu trở thành rung thất (fibrillation ventriculaire), nhờ thế tránh chết đột ngột. Năm qua, 9000 máy phá rung (défibrillateur) được cấy (implanté) ở Pháp. Vài trong số những implant này, những máy tạo nhịp (stimulateur) hay máy phá rung (défibrillateur) từ nay cũng có khả năng tái đồng bộ (resynchroniser) sự kết hợp (enchainement) của những xung động điện khác nhau giữa các buồng tim để đảm bảo một sự co bóp có hiệu quả trong vài trường hợp suy tim.

BATTERIE NON RECHARGEABLE

Các implant tim gồm có một hay nhiều sonde được đặt trong tim và một boitier để dẫn đường các xung động điện. Boitier này, từ nay được thu nhỏ lại, chứa một batterie, những yếu tố đo nhịp tim và những thành phần điện tử có thể định chương tŕnh (programmable), có khả năng quản lư những xung động điện cần được phát ra. Càng ngày càng có nhiều modèle có những yếu tố khác để ghi nhịp tim và truyền những thông tin đi xa, xuyên qua da. Batterie không rechargeable và boitier phải được thay sau 6 đến 10 năm. Đó cũng thường là cơ hội để kiểm tra xem các sonde có cũng cần phải thay đổi hay không.

“ Sự thiết đặt pacemaker được thực hiện dưới gây mê tổng quát, và, xuyên qua một đường xẻ dưới xương đ̣n, các sonde được đưa vào qua tĩnh mạch đến tận tim, GS Philippe Mabo, thầy thuốc chuyên khoa tim của CHU de Rennes đă giải thích như vậy. C̣n boitier được đặt dưới da hay dưới cơ khi bệnh nhân hơi gầy.” Sự điều chỉnh các tham số được thực hiện trong những lần kiểm tra đầu tiên trong hai tháng sau khi đặt. Thực hiện kiểm tra mỗi sáu tháng đối với các máy phá rung (défibrillateur) và mỗi năm đối với các máy tạo nhịp (stimulateur).

Can thiệp bao hàm nhũng nguy cơ và những biến chứng có thể xảy ra. Thí dụ có thể rằng các vi khuẩn được mang bởi ḍng máu đến bám vào các sonde trong tim và buộc thầy thuốc khoa ngoại phải lấy chúng đi, điều này đặc biệt khó khăn nếu các sonde đă được đặt lâu trước đó.

“Điều rất quan trọng là bệnh nhân phải hiểu rơ vai tṛ của máy tạo nhịp của ḿnh và học sống tốt với nó, v́ trong đa số các trường hợp, bệnh nhân sẽ giữ nó suốt đời ḿnh, GS Mabo đă nhấn mạnh như vậy. Cần một sự theo dơi tối thiểu để kiểm tra rằng máy tạo nhịp làm tṛn những chức năng của nó. Đó là không quên sự hiện diện của nó. ” Mặt khác, vài implant mới đây cho phép các bệnh nhân truyền một cách đều đặn cho thầy thuốc của ḿnh những thông tin thu được từ boitier, với những kết quả đầy hứa hẹn theo một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi kíp của GS Mabo.
(LE FIGARO17/12/2012)

florida80 06-03-2019 21:02

học: Trúng gió - cảm lạnh

UserPostedImage


Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.

Thính giả Kiệt Nguyễn, ở New Orleans, bang Louisiana, gởi email đến câu hỏi như sau:

“Kính thưa bác sĩ

Khi tôi c̣n ở Việt Nam trước đây, mỗi khi ớn lạnh, khó chịu trong người th́ người lớn nói là ‘trúng gió’ và mang ra ‘cạo gió’, ngủ qua đêm rồi hôm sau thức dậy, phần lớn là thấy khỏe khoắn trở lại.

Nay tôi ở Mỹ, mỗi khi nói bị ‘trúng gió’ th́ bị bọn trẻ cười, cho là nhà quê, có đứa c̣n nói ‘lần sau thấy gió th́ nhớ né đừng để trúng gió’. Nhưng cũng có lúc tôi thấy bọn trẻ bị cảm lạnh và nói bằng tiếng Anh là ‘catch a cold’, nếu dịch từ theo từ th́ tôi hiểu có nghĩa là ‘bắt phải cảm lạnh’, và đứa khác đùa là ‘told you – not to catch a cold’ và tôi cũng hiểu đại khái là ‘đă bảo rồi -- đừng có bắt cảm lạnh mà.’

Xin hỏi Bác sĩ:

Cảm lạnh (cold) đó có phải người ḿnh vẫn gọi là ‘trúng gió’ đó không?

Kính nhờ Bác sĩ giải thích cho."

UserPostedImage

Bác sĩ Hồ Văn Hiền giải thích:
(Cold, catching a cold and syncope)

Trúng gió

Chúng ta nói ” trúng gió”, giống như người Trung Hoa giải thích lắm chuyện bệnh tật bằng chữ "phong". Phong là gió, và trong chữ "phong" (với nghĩa là “ bệnh phong, bệnh điên cuồng” theo Đào Duy Anh) cũng có chữ 'phong" là gió trong đó. Một từ chúng ta thường nghe "thượng mă phong" ( death during sex) cũng có thể nói nôm na là "trúng gió lúc trên lưng ngựa".

Có lẽ gần với khái niệm gió gây ra bệnh của chúng ta, người tây phương cũng nghi trong không khí có ǵ đem đến gây ra bệnh. Ví dụ chúng ta biết là bệnh sốt rét do muỗi cắn chích vào cơ thể kư sinh trùng Plasmodium nhiễm vào máu rồi sinh sôi nẩy nở, phá huỷ các tế bào hồng cầu trong máu chúng ta. Nhưng đó là nhờ các khám phá mới đây. Hippocrates (460-370 TTC), ông thầy của tây y, mô tả “miasma” như là những khí độc bay từ dưới đất lên, gây ra bệnh nóng sốt, lạnh run, bệnh mà chúng ta bây giờ gọi là bệnh sốt rét mà tiếng Anh gọi là malaria. Malaria do gốc tiếng Ư có nghĩa là "không khí xấu" (mal+aria), tương tự như khi chúng ta nói "sơn lam chướng khí".


Nó như vậy để thấy, đông với tây cũng có nhiều chỗ gặp nhau trong y khoa.
‘Catch a cold” or “catch cold”.

Từ tiếng Anh "to catch a cold" do tin tưởng rằng ra lạnh làm chúng ta bệnh cảm mạo, bị cúm ("flu"). Y khoa căn cứ trên thực chứng (evidence based medicine ) hiện nay cho rằng nghĩ như vậy là sai. Người ta từng cho một đám thanh niên khoẻ mạnh t́nh nguyện ra ngoài trời băng giá và thấy so sánh với nhóm control, chẳng bị cảm cúm ǵ nhiều hơn nhóm kia.

Theo y khoa chính thống (mainstream) th́ chỉ có các siêu vi bệnh cúm, bệnh cảm (rhinovirus, influenza virus) mới làm cho bạn cảm, cúm. Đi mưa bị ướt đầu, gội đầu không làm cho bạn cảm cúm. Cho nên, lúc phụ huynh đem em bé khám bệnh v́ sốt cao, bác sĩ bảo đem nó tắm nước ấm đi cho bớt nóng sốt, th́ ông nội ông ngoại tức th́ cản lại, sợ trúng gió, trúng nước.


Tuy nhiên, tôi nghĩ thực tế không đơn giản như vậy. Nếu chúng ta đang khoẻ mạnh, nhưng trong mũi chúng ta mang sẵn virus cảm cúm, nếu chúng ta ra lạnh, các mạch máu trong mũi, trong họng chúng ta co lại, nhiệt độ trong đường hô hấp giảm xuống làm virus (đang ở sẳn trong đó) sinh sôi nẩy nở lẹ hơn và gây bệnh thật sự.

Bởi vậy, trong một thí nghiệm ở Cardiff, Anh, người ta cho một số người nhúng chân vào nước đá 20 phút và những người này bị cảm nhiều gấp đôi so với người khong nhúng chân vào nước lạnh. Một ví dụ khác, người mắc bệnh suyễn có phế quản nhạy cảm với nhiệt độ không khí hít vào. Nếu ra lạnh, không quấn khăn quàng cổ, mặc áo ấm đầy đủ, có thể lên cơn suyễn (cold- induced asthma), khó thở, ho.. giống như bị cảm.


UserPostedImage
Nguyên nhân có thể gây "trúng gió"

Về vấn đề "trúng gió" th́ cũng phức tạp như vậy. Thường chúng ta gặp một người bề ngoài đang mạnh khoẻ đột nhiên chóng mặt, "xây xẩm", méo mặt, hay té xỉu, bất tỉnh nhân sự, th́ chúng ta nói "trúng gió".

Tất nhiên, có thể là


- Tim đập loạn nhịp (arrhythmia) làm máu không lên kịp tới đầu, cơn đau tim đột ngột (heart attack), tai biến mạch máu năo

- Thường hơn cả là chỉ v́ bệnh nhân bị syncope, ngất xỉu tạm thời vài giây, do hệ thần kinh đối giao cảm hoạt động quá nhiều, tim đập chậm lại, mạch máu dăn nở ra, áp huyết hạ xuống. Nằm xuống, máu lên đầu lại đầy đủ, khoẻ lại như thường.

Tuy nhiên có nhiều trường hợp mà người ta chứng minh là "gió" là thủ phạm đích thực. Ví dụ có trường hợp bệnh nhân dị ứng với protein con ngựa, bệnh nhân chỉ đến gần con ngựa, hay trong gió có "mùi” của nó, và bị phản vệ (anaphylactic reaction), ngất xỉu, shock. Cũng như vậy, người dị ứng với đậu phộng có thể phản ứng chỉ v́ người bên cạnh mở gói đậu phộng ra ăn, gió bay "hơi" đậu phộng qua. Cho nên trên máy bay, người ta không dọn món ăn có đậu phộng nữa.

Mề đay do lạnh (cold urticaria)

Ngoài ra, một số người bị ứng mề đay với lạnh (cold urticaria). Những người này có thể bị mề đay ngứa lúc ra ngoài thời tiết lạnh, gió lạnh, lúc chảy mồ hôi, gió thổi bốc hơi nước mồ hôi làm da lạnh, lúc ăn nước đá, cà rem. Mở tủ lạnh, ngăn đóng đá cũng có thể gây triệu chứng. Nguy hiểm nhất là, nếu nhảy vào hồ tắm lạnh đột ngột, họ có thể bị shock phản vệ (tụt huyết áp, hypotension) và chết nếu không cứu kịp thời.

Định bệnh: đặt nước đá trên một vùng da nhỏ, để 4-5 phút. Lấy ra, đợi 10 phút xem mề đay có nổi lên hay không.


Chữa trị: chất kháng histamin cyproheptadin (*trước đây hay dùng để trẻ em ăn ngon miệng, lên cân).

florida80 06-03-2019 21:03

Tăng Chất Potassium (Kali) Và Cắt Giảm Muối Ăn
Để Giảm Nguy Cơ Đột Quỵ
(Increase potassium and cut salt to reduce stroke risk)
Lynn Ly phỏng dịch theo Nhật Báo BBC
(htXp://www.bbc.co.uk/news/health-22025341)



UserPostedImage
Trái cây, như chuối, và hầu hết các loại rau cải và các loại đậu (pulses) có nhiều chất potassium (kali)


Nghiên cứu đăng trên Tạp chí Y học Anh đưa đề nghị là tăng chất potassium (kali) trong chế độ ăn uống của chúng ta cũng như cắt giảm lượng muối sẽ làm giảm huyết áp và nguy cơ đột quỵ.

Một nghiên cứu cho thấy là ăn thêm 2-3 bữa ăn tráng miệng bằng trái cây hoặc rau quả mỗi ngày th́ có lợi là có nhiều chất potassium (chất kali).

Dung nạp một lượng muối thấp hơn sẽ làm gia tăng lợi ích hơn nữa, các nhà nghiên cứu cho biết.

Một tổ chức từ thiện về đột quỵ nói: một chế độ ăn uống lành mạnh là ch́a khóa để giảm bớt nguy cơ đột quỵ.

Trong khi sự gia tăng lượng potassium (kali) trong chế độ ăn uống đă được phát hiện là có tác động tích cực đối với huyết áp, nó cũng đă được phát hiện không có ảnh hưởng xấu đến chức năng thận hoặc nồng độ hormone, cuộc nghiên cứu đă cho kết luận vậy.

Kết quả là, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đă ban hành bản qui định đầu tiên về việc dung nạp liều lượng potassium (kali), đề nghị người lớn nên tiêu thụ hơn 4g potassium /kali (hoặc 90 100mmol) mỗi ngày.

Nghiên cứu của BMJ về tác động của liều lượng potassium/kali, được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Chương Tŕnh Thực Phẩm Thế Giới của Liên Hợp Quốc, Trường Cao Đẳng Imperial tại London và trường Y Khoa Warwick , cùng một số những các trường khác / cơ quan khác, đă xem xét 22 thử nghiệm và 11 nghiên cứu mà có 128.000 người khỏe mạnh tham gia .


Quote:
Lynn chú thích
BMJ là tổ chức nguyên cứu Y Khoa - Khoa học chuyên về hỗ trợ các bác sĩ cho ra quyết định trị liệu tốt hơn cho bệnh nhân




Những kết quả cho thấy là việc gia tăng chất potassium (kali) trong chế độ ăn uống từ 3-4g một ngày đă làm giảm huyết áp ở người lớn.

Việc dung nạp chất potassium (kali) cao lên cũng được liên kết đến nguy cơ đột quỵ được hạ thấp xuống 24% ở những người lớn.

Các nhà nghiên cứu cho biết chất potassium (kali) có thể cũng có những lợi ích về huyết áp cho trẻ em, nhưng cần có thêm nhiều dữ liệu nghiên cứu tiếp nữa.

DUNG DỊCH MUỐI ĂN .

Một nghiên cứu riêng về việc dung nạp lượng muối vào cơ thể, được dẫn đầu bởi các nhà nghiên cứu tại Viện Y tế dự pḥng Wolfson, Queen Mary, Đại học London, đă phân tích những kết quả của 34 cuộc nghiên cứu trước đây mà liên quan đến hơn 3.000 người.

Nguyên cứu đă phát hiện việc giảm dung nạp muối trong ṿng bốn tuần hoặc nhiều tuần đă khiến cho huyết áp giảm xuống đáng kể ở cả người bị cao huyết áp hay người b́nh thường. Điều này xảy ra cho cả nam giới và phụ nữ, không phân biệt chủnng tộc.

Những mức độ giảm huyết áp được biết đến để giảm nguy cơ đột quỵ và bệnh tim.

Graham MacGregor, giáo sư y khoa tim mạch tại Queen Mary, người dẫn đầu cuộc nghiên cứu, cho biết việm giảm dung nạp muối 1 cách "khiêm tốn" tương đương với giảm một nửa lượng muối chúng ta tiêu thụ mỗi ngày.

"Tại Anh Quốc, trung b́nh lượng muối trong chế độ ăn uống của chúng ta là 9.5g, do đó, chúng ta đang nói về việc xuống thành 6g, hoặc nếu bạn rất cẩn thận, bạn có thể giảm xuống đến 5g như đă đề nghị, nhưng việc này rất khó khăn v́ số lượng muối cũng đă có trong thực phẩm khi chúng ta mua.

"Bánh ḿ là nguồn muối lớn nhất trong chế độ ăn uống của chúng ta."

MỤC TIÊU LÂU DÀI

Ông đă nói thêm rằng việc tiếp tục giảm dung nạp muối ăn thành 3g mỗi ngày sẽ có ảnh hưởng lớn hơn trên huyết áp và nên trở thành mục tiêu dài hạn cho việc dung nạp muối vào cơ thể.

Việc khuyến cáo mọi người ăn nhiều trái cây và rau cải có chứa chất potassium /kali cũng quan trọng không kém, ông nói.

"Muối và chất potassium hoạt động có tính cách đối lập nhau . V́ vậy, một sự kết hợp việc dùng ít muối thấp và gia tăng chất potassium /kali cao lên trong chế độ ăn uống của chúng ta có ảnh hưởng lớn hơn hơn là chỉ thay đổi một trong 2 những yếu tố vừa đề cập."

Clare Walton, nhân viên nghiên cứu thông tin của Hiệp hội Tai biến mạch máu năo (Stroke Association), nói rằng huyết áp cao là yếu tố nguy cơ lớn nhất gây đột quỵ.

"Chúng tôi biết rằng việc thay đổi chế độ ăn uống của bạn có thể đi một chặng đường dài để ǵn giữ huyết áp của bạn dưới tầm kiểm soát.

"Nghiên cứu này cho thấy rằng việc giảm lượng muối ăn và ăn nhiều thực phẩm giàu chất potassium (kali) như chuối, rau đậu có thể hạ huyết áp và giảm nguy cơ đột quỵ".

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo rằng người lớn không nên tiêu thụ nhiều hơn 5g muối một ngày (khoảng một th́a cà phê).

Viện Y tế và Chăm Sóc quốc gia Anh (The UK National Institute for Health and Care Excellence=NICE) khuyến cáo rằng việc dung nạp lượng muối ăn nên được giảm đến 3g một ngày ở người lớn trở nên b́nh thường phổ biến hơn vào năm 2025.

Lynn Ly (05/04/2013)

florida80 06-03-2019 21:04

Những Ảnh Hưởng Của Bưởi Và Nước Ép Trái Bưởi Trên Một Số Thuốc
(The Effects of Grapefruit and its Juice on Certain Drugs)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin của bộ Y Tế Canada (Health Canada)
( ww.hc-sc.gc.ca/hl-vs/iyh-vsv/food-aliment/grapefruit-pamplemousse-eng.php )


VẤN ĐỀ (ISSUE)

Một số loại thuốc có thể gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc đôi khi đe dọa tính mạng nếu sử dụng thuốc kết hợp với trái bưởi hoặc nước ép trái bưởi

BỐI CẢNH / TRƯỜNG HỢP (BACKGROUND)

Ăn trái bưởi hoặc uống nước ép trái bưởi (bưởi tươi hay bưởi đông lạnh) có thể gia tăng, hoặc làm suy giảm (dù tính cách làm suy giảm ít xảy ra), tác dụng của một số loại thuốc. Có một số chất trong trái bưởi gây trở ngại chiều hướng cơ thể tiếp nhận một số loại thuốc.

Những ảnh hưởng này được biết là do gây ra bởi sự kết hợp giữa trái bưởi hay nước ép trái bưởi với một số loại thuốc và các sản phẩm y tế được sử dụng trong việc điều trị những t́nh huống được liệt kê như sau :

•Đau thắt lồng ngực (Angina)

•Chứng bồn chồn, lo âu ( Anxiety)

•Ung thư (Cancer)

•Động Kinh ,co giật (Convulsions)

•Bệnh trầm cảm (Depression)

•Nam giới bị rối loạn cương dương (Erectile dysfunction)

•Trào ngược tiêu hóa , trào ngược dạ dày (Gastrointestinal reflux)

•Cao huyết áp (High blood pressure)

•Cao mỡ trong máu ( High lipid (cholesterol) levels )

•Bệnh HIV / AIDS (HIV/AIDS)

•Những bệnh Nhiễm trùng (Infections)

•Loạn nhịp tim (Irregular heart rhythms)

•Đào thải cơ quan nội tạng được gán ghép vào cơ thể ( Organ graft rejections)

•Những vấn đề về tâm thần (Psychotic problems)


Loại cam chua chẳng hạn như trái Seville, hay nước ép của nó, có thể có ảnh hưởng tương tự như trái bưởi hay nước ép trái bưởi . Hầu hết các loại trái cây thuộc gịng họ cam quưt, chẳng hạn như chanh vỏ xanh , chanh vỏ vàng, những loại cam ngọt tự nhiên và quưt th́ lại không có ảnh hưởng nhu trái bưởi. Tuy nhiên, tangellos, loại bưởi lai , cũng có thể gây ảnh hưởng trở ngại dược tính của thuốc.

TRÁI BƯỞI VÀ NƯỚC ÉP TRÁI BƯỞI CÓ PHẢN ỨNG VỚI MỘT SỐ LOẠI THUỐC RA SAO ?

Trái bưởi có những chất mà có thể gây ảnh hưởng / gây trở ngại đến phương cách cơ thể hấp thụ và chuyển hóa một số loại thuốc . Sự ảnh hưởng này gia tăng dược tính thuốc cao hơn b́nh thường khi lưu chuyển trong ḍng máu của bạn, mà đôi khi có thể cho kết quả nghiêm trọng hay những phản hồi bất lợi đe dọa đến tính mạng.

Tối thiểu một ly nước ép trái bưởi ( khoảng 8 oz = 250 ml) có thể gia tăng mức độ thuốc trong máu và những ảnh hưởng có thể kéo dài trong ba ngày hoặc lâu hơn. V́ vậy, ngay cả khi bạn uống nước ép trái bưởi vào buổi sáng và đến tối trước khi đi ngủ mới uống thuốc, th́ mức độ của thuốc trong máu của bạn vẫn có thể bị ảnh hưởng .

Những ảnh hưởng này có khác biệt giữa người này và người kia, loại thuốc này với thuốc kia, và giữa các cách tạo ra nước ép trái bưởi. Điều này dẫn đến sự gia tăng không thể phỏng đoán về mức độ thuốc trong máu, mà trong một số trường hợp có thể gây ra ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng.

HĂY GIẢM THIỂU TỐI ĐA HUNG HIỂM CHO BẠN (MINIMIZING YOUR RISK)

Hăy thực hiện các biện pháp pḥng ngừa sau đây để giảm thiểu nguy cơ tác dụng phụ khi ăn trái bưởi hay uống nước ép trái bưởi:

•Nếu bạn đang uống thuốc để trị liệu bất kỳ căn bệnh nào liệt kê ở trên , đừng uống nước ép trái bưởi hoặc ăn bưởi dưới bất kỳ h́nh thức pha chộn nào cho đến khi bạn tham vấn với bác sĩ và dược sĩ của bạn về tiềm năng những phản ứng bất lợi đối với loại thuốc bạn uống


•Tránh dùng bất cứ thuốc cùng chung với nước bưởi, trái bưởi cho đến khi bạn đă tham vấn với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.


•Hăy đọc nhăn hiệu dán trên thực phẩm và dán trên các sản phẩm thiên nhiên về sức khỏe để đảm bảo là chúng không chứa tính chất của trái bưởi hoặc nước ép trái bưởi , hoặc loại cam Seville.


•Luôn luôn tường thuật bất kỳ phản ứng phụ của thuốc cho bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn biết ngay lập tức.


CHÍNH PHỦ CANADA BẢO VỆ SỨC KHỎE CỦA BẠN THẾ NÀO ?

Bộ Y Tế Canada (Health Canada) đă ban hành một số tài liệu truyền thông để nhắc nhở các bác sĩ , nhân viên Y tế về những tương tác có thể xảy ra giữa trái bưởi và các loại thuốc. Ngoài ra, Bộ Y Tế Canada đang làm việc với các nhà sản xuất dược phẩm mà có dược phẩm bị ảnh hưởng bất lợi với trái bưởi, để đảm bảo rằng các thông tin cần thiết được ghi chú rơ ràng trên nhăn hiệu dược phẩm. Một tư vấn công cộng đă được ban hành về trái bưởi và ảnh hưởng của nó trên một số loại thuốc.

CẦN THÊM THÔNG TIN ?

Hăy liên lạc với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ nghi vấn ǵ về sự tương tác có thể xảy ra giữa các loại thuốc bạn đang dùng đối với trái bưởi.

Tường thuật , báo cáo tất cả các phản ứng phụ hoặc tương tác thuốc với bưởi xin liên lạc:

Adverse Reaction Information Unit
Marketed Health Products Directorate
Health Products and Food Branch
Health Canada, Tunney's Pasture, Locator 0201C1
Ottawa, Ontario, K1A 1B9
Telephone: (613) 957-0337 or Toll-free: 1-866-234-2345
Facsimile: (613) 957-0335 or 1-866-678-6789
or visit our website at Drugs and Health Products

(All information below will be available in the Web version only)

Phản ứng phụ hoặc tương tác thuốc với bưởi cũng có thể được báo cáo cho Trung tâm ADR khu vực sau đây:

British Columbia
BC Regional ADR Centre
c/o BC Drug and Poison
Information Centre
1081 Burrard St.
Vancouver BC V6Z 1Y6
Telephone: 604-806-8625
Fax: 604-806-8262
adr@dpic.bc.ca

Ontario
Ontario Regional ADR Centre
LonDIS Drug Information Centre
London Health Sciences Centre
339 Windermere Rd.
London ON N6A 5A5
Telephone: 519-663-8801
Fax: 519-663-2968
adr@lhsc.on.ca

New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island and Newfoundland
Atlantic Regional ADR Centre
Queen Elizabeth II Health
Sciences Centre
Drug Information Centre
Rm. 2421, 1796 Summer St.
Halifax NS B3H 3A7
Telephone: 902-473-7171
Fax: 902-473-8612
rxkls1@qe2-hsc.ns.ca

Saskatchewan
Sask ADR Regional Centre
Dial Access Drug Information Service
College of Pharmacy and Nutrition
University of Saskatchewan
110 Science Place
Saskatoon SK S7N 5C9
Telephone: 306-966-6340 or 800-667-3425
Fax: 306-966-6377
vogt@duke.usask.ca

Québec
Québec Regional ADR Centre
Drug Information Centre
Hôpital du Sacré-Coeur de Montréal
5400, boul. Gouin ouest
Montréal QC, H4J 1C5
Telephone: 514-338-2961 or 888-265-7692
Fax: 514-338-3670
cip.hscm@sympatico.c a

Những nguồn thông tin cho các Bác Sĩ, Dược Sĩ và Nhân Viên Y Tế:

The Compendium of Pharmaceuticals and specialities (CPS). Lilac Section: Clin Info-Drug Administration and Grapefruit Juice.

Lynn Ly (11-04-2012)

florida80 06-03-2019 21:05

Thuốc Cai Nghiện Hút Thuốc Lá Liên Quan Đến
Nguy Cơ Tim Mạch, Trầm Cảm và Ư Tưởng Tự Sát
('Quit smoking' drug linked to heart risk )
Lynn Ly phỏng dịch bản tin từ trang web Health của BBC News
http://www.bbc.co.uk/news/health-14015089


Theo BBC New , ngày 4 tháng 7, 2011

Các nhà nghiên cứu cho biết là một loại thuốc được người hút thuốc sử dụng để giúp họ bỏ thuốc lá đang làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim (heart attacks) và các vấn đề tim mạch nghiêm trọng khác.

Một nhóm nghiên cứu quốc tế đă cứu xét lại những cuộc nghiên cứu liên quan đến hơn 8.000 người hút thuốc lá, và đă phát hiện người sử dụng thuốc Champix bị phát bệnh nhiều hơn những người dùng loại thuốc ngụy tạo khác (the other dummy drugs)

Việc cứu xét này, được đăng tải trên Tạp chí Hiệp hội Y tế Canada (the Canadian Medical Association Journal, www.cmaj.ca/content/183/12/1359 ), đề nghị người nghiện hút thuốc không nên sử dụng thuốc để cai nghiện .

Tuy nhiên, các nhà sản xuất Pfizer nói rằng thuốc giúp cai nghiện là "một chọn lựa hỗ trợ quan trọng" (important option) để trợ giúp người nghiện bỏ hút thuốc lá, và các chuyên gia đă "nghiêm trọng hóa" việc hút thuốc như đó là 1 yếu tố chính về nguy cơ bệnh tim .

Thuốc Champix (varenicline)được chỉ định trong hơn 955,000 toa thuốc tại Anh Quốc vào năm ngoái (2010). Hoạt tính của thuốc là cắt giảm cơn thèm thuốc, nhưng trong quá khứ thuốc có liên quan đến bệnh trầm cảm và những ư tưởng tự sát.

"NHỮNG LỢI ÍCH SO VỚI NHỮNG HUNG HIỂM RỦI RO"

Việc cứu xét này, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại trung tâm Wake Forest Baptist Medical thuộc Bắc Carolina, trường đại học Y khoa Johns Hopkins - Maryland, và trường Đại học Anh Quốc Eat Anglia (the UK's University of East Anglia) , đă cứu xét 14 cuộc nghiên cứu nhắm vào các vấn đề tim mạch ở những người dùng thuốc cai nghiện

Tất cả đơn vị được loại trừ những người có tiền sử bệnh tim, và được kéo dài từ bảy tuần đến một năm. Phần lớn những người tham gia là nam giới ở độ tuổi dưới 45.

Trong số 4.908 người dùng thuốc Champix (được gọi là Chantix ở Mỹ), 52 người có trải nghiệm về vấn đề tim mạch nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim (heart attack) hay chứng loạn nhịp tim / nhịp tim bất thường (arrhythmia) so với 27 người trong số 3308 người dùng các loại thuốc ngụy tạo (dummy drugs).

Cơ quan Quản lư thực phẩm và thuốc men Hoa Kỳ (FDA) đă ra cảnh báo được in ra trên tờ giấy thông tin nho nhỏ về nguy cơ những ư tưởng tự sát và mới gần đây đă bổ xung vào tờ thông tin về nguy cơ tim mạch đối với những người đă có bệnh tim sau khi xem xét một nghiên cứu trên 700 người.

Trên tạp chí, các nhà nghiên cứu cho biết: "Các bác sĩ lâm sàng nên cẩn thận cân bằng giữa những rủi ro nhiêm trọng về tim mạch có liên quan với việc sử dụng thuốc varenicline so với các lợi ích được biết đến của thuốc cai nghiện thuốc lá."

Bác sĩ Yoon Loke của trường đại học East Anglia, người đă thực hiện việc cứu xét, đă đồng ư về các con số liên quan là nhỏ, nhưng nói lên khả năng là các cuộc nghiên cứu đă chỉ xem xét ở những người khỏe mạnh - và ông cho rằng nguy cơ có thể lớn hơn cho những người hút thuốc mà đă có vấn đề về tim mạch .

Ông bổ xung thêm : "Có rất nhiều những chọn lựa khác để trợ giúp người ta cai nghiện thuốc lá mà không đ̣i hỏi dùng thuốc cai nghiện"

HĂY THAM VẤN VỚI BÁC SĨ CỦA BẠN

Doireann Maddock, một y tá nhiều thâm niên về tim mạch tại Tổ Chức Tim Mạch của Anh Quốc (British Heart Foundation), cho biết: "Hút thuốc lá là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh tim. Trong thực tế, người hút thuốc đă nhân đôi nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (heart attack) so với những người chưa bao giờ hút thuốc, và việc cai bỏ hút thuốc là điều quan trọng duy nhất nhất mà bạn có thể làm để cải thiện sức khỏe tim mạch của bạn."

Bà nói sự phát hiện trong nghiên cứu là "một mối quan ngại cần lưu ư" , nhưng cần thiết có thêm những nghiên cứu tiếp theo sau đó trước khi cho kết luận chắc chắn loại bỏ thuốc cai nghiện hút thuốc.

"Những người đang sử dụng thuốc varenicline để giúp họ bỏ thuốc lá th́ không nên ngừng sử dụng nó bởi v́ tự nghiên cứu một ḿnh, ngược lại nên tṛ chuyện với bác sĩ của họ về việc này và về các biện pháp đă có sẵn để chọn lựa lại."

Một phát ngôn viên của Pfizer, công ty sản xuất thuốc cai nghiện, cho biết công ty không đồng ư với giải thích của các dữ liệu "trong nghiên cứu, cho biết đă có " hạn chế ".

Ông nói thêm là: "Champix là một lựa chọn điều trị quan trọng đối với những người hút thuốc muốn bỏ thuốc lá . Bệnh nhân nên tham khảo ư kiến với các bác sĩ của họ để xác định những loại thuốc thích hợp cho họ."

Cơ Quan Qui Định Về Các Sản Phẩm Chăm Sóc Sức Khoẻ (The Medicines Healthcare products Regulatory Agency = MHRA), cơ quan giám sát an toàn của các loại thuốc được sử dụng ở Anh, tuyên bố là họ đă nhận được 306 báo cáo về các phản ứng phụ của thuốc liên quan đến vấn đề tim mạch do thuốc cai nghiện kể từ khi được đưa ra thị trường trong năm 2006 - và có 17 trường hợp tử vong trong số đó.

Tuy nhiên, họ cũng đă nhấn mạnh rằng các báo cáo đó đă không chứng minh được một liên kết đến thuốc cai nghiện, và các yếu tố cơ bản khác có thể đă dự phần gây ra tác hại.


Quote:
Lynn chú thích:

Cả thảy có hơn 950,000 loại toa thuốc về cai nghiện hút thuốc lá ở Anh Quốc vào năm trước (2010) khi bản tin này đưa ra .

Hiện tại , th́ có khá nhiều liệu pháp trong việc điều trị cai nghiện hút thuốc lá để lựa chọn. Việc dùng thuốc cai nghiện đang được lưu ư v́ luôn cho phản ứng phụ và 1 số tác hại nhưng các cuộc nghiên cứu vẫn chưa cho chứng minh đầy đủ để đi đến khẳng định là nên loại bỏ chất nào trong thuốc, hoặc loại bỏ loại thuốc cai nghiện nào, hay cấm chỉ định dùng loại thuốc cai nghiện trong trường hợp nào



Lynn Ly (04-07-2011)

florida80 06-03-2019 21:06

TẬP THỂ DỤC GÂY HEN SUYỄN
(EXERCISE INDUCED ASTHMA)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ



Kiểu tập thể dục gây Hen Suyễn (Asthma) c̣n được gọi là thể dục thúc đẩy sự co thắt phế quản (EIB = bronchospasm). Sự co thắt phế quản là một trong những loại bệnh hen suyễn gây ra các vấn đề hô hấp như ho, thở kḥ khè (wheezing) hay co thắt lồng ngực (chest tightness) trong khi hoặc sau khi tập thể dục.

Những người bị loại hen suyễn này có những đường ống khí rất nhạy cảm. Thở nhanh / thở gấp / sự tăng thông khí (fastbreathing = hyperventilation) trong khi tập thể dục khiến cho các đường dẫn khí vào phổi hạ nhiệt và khô đị . Sự thay đổi nhanh chóng ở nhiệt độ không khí và độ ẩm khiến cho các ống khí thắt chặt lại và trở nên nhỏ hơn. Những ống khí nhỏ làm cho hô hấp khó khăn hơn. Ô nhiễm không khí, phấn hoa, hay bào tử nấm mốc (mold spores) được hít vào phổi trong khi tập thể dục cũng có thể gây ra các vấn đề về hô hấp.

Nếu bạn bị bệnh hen suyễn măn tính, dị ứng, các vấn đề về xoang mũi (sinus) hoặc có tiền sử gia đ́nh bị dị ứng, bạn có thể có nguy cơ bị t́nh trạng nàỵ .

NHỮNG DẤU HIỆU (SIGNS)

Những vấn đề về hô hấp khởi phát sau khi bạn bắt đầu tập thể dục hoặc 5 đến 20 phút sau khi ngừng tập thể dục. Các dấu hiệu thường gặp nhất là:
•Kḥ khè (Wheezing)

•Ho (Coughing)

•Mệt mỏi (Tiredness)

•Thở hổn hển , khó thở (Shortness of Breath)

•Co thắt lồng ngực / Lồng ngực như bị bó chặt (Chest Tightness)


THỬ NGHIỆM (TESTING)

Bác sĩ sẽ hỏi bạn về khả năng hô hấp của bạn và làm xét nghiệm, như kiểm tra tim mạch và hơi thở của bạn. Các xét nghiệm sau đây này cũng có thể được sử dụng:
•Thử nghiệm thực hiện các kiểu thể dục có tính cách thử thách va` đo hơi thở của bạn trong khi bạn đi bộ hoặc chạy trên máy chạy bộ (treadmill), hoặc ddang dda.p loa.i xe đạp thể dục.

• Thử nghiệm sự chủ động gia tăng thông khí Eucapnic ( Eucapnic voluntary hyperventilation test = EVH) được thực hiện băng cách hít thở nhanh vào trong một ống đo lường lượng không khí đi vào và đi ra khỏi phổi.


ĐIỀU TRỊ (TREATMENT)

Sự co thắt phế quản (EIB) có thể được điều trị bằng thuốc trước khi tập thể dục. Thuốc đặt trong một ống hít hơi được hít vào phổi 15 phút trước khi tập thể dục. Thuốc này nhanh chóng mở rộng các đường ống dẫn khí và giữ cho chúng mở rộng ra khoảng từ 4 đến 6 giờ. Nếu thuốc hít trước khi tập thể dục không hiệu guả hoặc nếu vấn đề hô hấp trở nên trầm trọng hơn, hăy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Bạn có thể cần thay đổi loại thuốc.

KIỂM SOÁT CÁC DẤU HIỆU CỦA BẠN (CONTROLLING YOUR SIGNS)

Không nên để loại bệnh hen suyễn này ngăn cản các hoạt động mà bạn thích hoặc việc luyện tập thể dục. Một số bài tập và thể thao có thời gian nghỉ giữa chừng sẽ ít gây ra những vấn đề hô hấp hơn, như bóng chày (baseball), bóng rổ / bóng chuyền (volleyball), tennis, trượt tuyết xuống đồi dốc , và golf, có thể dễ dàng hơn để thực hiện. Dưới đây là những cách khác làm giảm thiểu các dấu hiệu hen suyễn của bạn:
•Hăy làm nóng người bằng cách thực hiện các động tác co giăn (stretching) hoặc đi bộ chậm chậm từ 5 đến 10 phút trước khi tập thể dục ở mức độ trung b́nh (moderate exercise = thể dục ở mức độ không đ̣i hỏi tận dụng sức lực quá mức) .

•Tự cho ḿnh một khoảng thời gian nghỉ ngơi 5 phút khi có dấu hiệu hen suyễn phát khởi .

•Tập thể dục trong nhà khi thời tiết bên ngoài lạnh và khô, hoặc nếu có cảnh báo về sự ô nhiễm không khí hay ô nhiễm bầu khí quyển, hoặc có cảnh báo về số lượng phấn hoa tăng cao.

•Hô hấp bằng mũi trong khi luyện tập thể dục nhẹ nhàng. Mũi làm ấm và bổ sung thêm độ ẩm cho không khí hơn thở bằng miệng.

•Dùng khăn quàng hoặc mặt nạ che mũi và miệng của bạn để làm ấm không khí trước khi không khí đi vào phổi.

•Nói chuyện với bác sĩ của bạn về phương cách kiểm soát các dấu hiệu bị dị ứng như nghẹt mũi, hắt hơi, ngứa mắt. Dị ứng có thể làm cho dấu hiệu hẹn suyễn trở nên tồi tệ hơn.



Lynn Ly (18/09/2012)

florida80 06-03-2019 21:07

XUẤT HIỆN MỘT DẠNG KƯ SINH TRÙNG SỐT RÉT KHÁNG THUỐC ARTEMISININ


Theo Nhật Báo BBC , Rebecca Morelle tường thuật (02-05-2013).
Lynn Ly phỏng dịch

Loại thuốc chính dùng chữa trị sốt rét (artemisinin) dường như không có tác dụng đối với một dạng kư sinh trùng sốt rét mới.

Artemisinin là một loại thuốc hàng đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét. Nó được sử dụng trên toàn thế giới, và có thể loại trừ căn bệnh lây nhiễm này chỉ trong vài ngày.

Tuy nhiên những báo cáo về sự kháng thuốc bắt đầu xuất hiện trong khu vực phía Tây nước Cambodia vào năm 2008, và sự kháng thuốc này hiện giờ lan tràn đến những vùng khác trong khu vực phía Đông Nam Châu Á .

Để điều tra, các nhà khoa học đă xắp xếp trật tự các gien của hơn 800 kư sinh trùng gây bệnh sốt rét được thu thập từ khắp nơi trên thế giới .

Họ đă nhận thấy rằng một số chủng loại hiện diện tại Cambodia có sự khác biệt đáng kể so với những chủng loại hiện có, và những chủng loại mới này đă có thể chịu đựng được sự điều trị bằng thuốc Artemisinin .

Những nhà nghiên cứu vẫn chưa biết các kư sinh trùng đang đề kháng những thuốc này ra sao .

Tuy nhiên họ cho biết rằng sự am hiểu về đặc điểm cấu trúc di truyền của kư sinh trùng sẽ giúp họ nhanh chóng phát hiện và lần theo dấu vết các chủng loại này nếu chúng tiếp tục lây lan.

Lynn Ly (02-05-2013)

florida80 06-03-2019 21:07

XUẤT HIỆN MỘT DẠNG KƯ SINH TRÙNG SỐT RÉT KHÁNG THUỐC ARTEMISININ


Theo Nhật Báo BBC , Rebecca Morelle tường thuật (02-05-2013).
Lynn Ly phỏng dịch

Loại thuốc chính dùng chữa trị sốt rét (artemisinin) dường như không có tác dụng đối với một dạng kư sinh trùng sốt rét mới.

Artemisinin là một loại thuốc hàng đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét. Nó được sử dụng trên toàn thế giới, và có thể loại trừ căn bệnh lây nhiễm này chỉ trong vài ngày.

Tuy nhiên những báo cáo về sự kháng thuốc bắt đầu xuất hiện trong khu vực phía Tây nước Cambodia vào năm 2008, và sự kháng thuốc này hiện giờ lan tràn đến những vùng khác trong khu vực phía Đông Nam Châu Á .

Để điều tra, các nhà khoa học đă xắp xếp trật tự các gien của hơn 800 kư sinh trùng gây bệnh sốt rét được thu thập từ khắp nơi trên thế giới .

Họ đă nhận thấy rằng một số chủng loại hiện diện tại Cambodia có sự khác biệt đáng kể so với những chủng loại hiện có, và những chủng loại mới này đă có thể chịu đựng được sự điều trị bằng thuốc Artemisinin .

Những nhà nghiên cứu vẫn chưa biết các kư sinh trùng đang đề kháng những thuốc này ra sao .

Tuy nhiên họ cho biết rằng sự am hiểu về đặc điểm cấu trúc di truyền của kư sinh trùng sẽ giúp họ nhanh chóng phát hiện và lần theo dấu vết các chủng loại này nếu chúng tiếp tục lây lan.

Lynn Ly (02-05-2013)

florida80 06-03-2019 21:09

LOÀI CHUỘT GERBILS BỊ ĐIẾC ĐĂ NGHE LẠI ĐƯỢC SAU KHI CHỮA TRỊ BẰNG TẾ BÀO GỐC
(DEAF GERBILS 'HEAR AGAIN' AFTER STEM CELL CURE)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC


Theo James Gallagher Health and science reporter, BBC News
12/09/2012

Các nhà nghiên cứu Anh cho biết họ đă thực hiện một bước tiến lớn trong việc điều trị chứng điếc sau khi các tế bào gốc đă được sử dụng để khôi phục lại thính giác ở động vật ngay ở lần đầu thí nghiệm.

Một nghiên cứu trong các báo cáo trên tạp chí Nature (wXw.nature.com/nature/journal/vaop/ncurrent/full/nature11415.html )cho biết : Một phần khả năng thích giác có biểu hiện tiến bộ khi các dây thần kinh trong tai, truyền âm thanh vào trong năo, khi được tái tạo ở loài chuột gerbils

Để có được cùng một sự cải thiện ở những người bị điếc sẽ là một sự thay đổi từ t́nh trạng không thể nghe thấy ǵ đến có thể nghe một cuộc tṛ chuyện. Tuy nhiên, việc điều trị cho con người vẫn c̣n là một viễn cảnh xa xôi.

Nếu bạn muốn nghe radio hoặc có một cuộc tṛ chuyện với một người bạn, tai của bạn phải hoán chuyển các sóng âm thanh trong không khí thành tín hiệu điện từ (electrical signal) mà năo có thể hiểu được tín hiệu đó . Điều này xảy ra ở tại sâu bên trong bộ phận tai trong, nơi những rung động di chuyển những sợi lông nhỏ và sự di chuyển này tạo ra một tín hiệu điện từ.

Tuy nhiên, trong khoảng 1/10 người bị mất thính giác hoàn toàn , tế bào thần kinh tiếp nhận tín hiệu bị hư hại . Việc này cũng giống như thả dùi cui sau chặng đầu tiên của một cuộc chạy đua tiếp sức.

Mục đích của các nhà nghiên cứu tại Đại học Sheffield là thay thế những tế bào thần kinh "baton-dropping" (baton-dropping =spiral ganglion neurons = tế bào thần kinh hạch xoắn ốc ) bằng những tế bào mớị

Họ đă sử dụng tế bào gốc từ một phôi thai người (human embryo), tế bào có khả năng trở thành bất kỳ loại tế bào nào trong cơ thể con người từ dây thần kinh, bắp thịt , da đến thận.

Một hợp chất hóa học được thêm vào các tế bào gốc mà chuyển đổi tế bào gốc thành các tế bào tương tự như các tế bào thần kinh hạch xoắn ốc. Đây là cách tiêm chích tinh vi vào bên trong tai của 18 con chuột gerbils bị điếc. Qua 10 tuần khả năng nghe của các con chuột gerbils được cải thiện. Trung b́nh là 45% khả năng thính giác của chúng đă được phục hồi vào lúc cuộc nghiên cứu kết thức.

Tiến sĩ Marcelo Rivolta nói: "Điều này có nghhĩa là từ t́nh trạng bị điếc, khi bạn không thể nghe thấy một tiếng động của xe cam nhông hoặc xe tải trên đường, đến bạn có thể nghe được một cuộc tṛ chuyện. Việc này chưa phải là cách trị liệu khỏi hẳn bệnh điếc, họ sẽ không có thể nghe được tiếng th́ thầm, nhưng họ chắc chắn sẽ có thể để duy tŕ một cuộc tṛ chuyện trong một căn pḥng."

Khoảng 1/3 trong số những con chuột gerbils đă hồi đáp thực sự tốt về cách điều trị này với con số phục hồi tăng lên đến 90% về khả năng thính giác , trong khi chỉ có dưới 1/3 trong số những con chuột gerbils th́ như không có phản ứng ǵ cả .

Những con chuột Gerbils được sử dụng v́ chúng có thể nghe âm thanh trong một phạm vi tương tự như người, không giống như những loài chuột khác mà có thể nghe âm thanh ở tần số cao hơn.

Các nhà nghiên cứu phát hiện việc cải thiện thính giác bằng cách đo sóng năo (brainwaves). Loài chuột Gerbils cũng đă được thử nghiệm trong ṿng chỉ có 10 tuần. Nếu điều này trở thành một phương pháp điều trị cho người th́ hiệu quả sẽ cần phải được chứng nghiệm trong thời gian dài hơn .

Cũng c̣n có những các câu hỏi xung quanh sự an toàn và đạo đức của các phương pháp điều trị tế bào gốc mà sẽ cần phải được giải quyết.

'RẤT ĐÁNG KHÍCH LỆ'

Giáo sư Dave Moore, giám đốc của Viện Nghiên cứu Y học của Hội đồng Nghe Nghiên cứu ở Nottingham (the Medical Research Council's Institute of Hearing Research in Nottingham), đă nói với BBC: "Thật là một thời điểm quan trọng, phát hiện này thực sự là một bước tiến bộ lớn." Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng sẽ có khó khăn trong việc áp dụng thành tích này ở con người . Ông nói: "Vấn đề thực sự lớn nhất là việc đưa tế bào gốc vào bộ phận của tai trong, nơi tê bào gốc sẽ hoạt động tốt. Tế bào gốc cực kỳ nhỏ và rất khó khăn để đưa vào và đó sẽ là một điều cam kết đáng lo ngại "

Tiến sĩ Ralph Holme, người đứng đầu nghiên cứu hóa sinh của cơ quan từ thiện về khiếm thính (the charity Action on Hearing Loss), cho biết: "Nghiên cứu này là rất đáng khích lệ và cung cấp cho chúng tôi hy vọng thực sự rằng việc này sẽ có thể để sửa chữa nguyên nhân thực sự của một số t́nh trạng mất thính giác trong tương lai

Đối với hàng triệu người bị giảm thính lực đang bị bào ṃn chất lượng sống th́ điều này chưa thể đến sớm hơn"

Lynn Ly (12/09/2012)

florida80 06-03-2019 21:10

BỆNH TIỂU ĐƯỜNG LIÊN KẾT ĐẾN UNG THƯ VÚ Ở PHỤ NỮ SAU MĂN KINH
( Diabetes Link To Breast Cancer In Post-Menopausal Women )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC

Theo Báo BBC , 13 /09/ 2012

Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi măn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 cho biểu hiện có nguy cơ ung thư vú cao hơn 27% so với b́nh thường, các chuyên gia tuyên bố.

Một nhóm nghiên cứu quốc tế, viết trên Tạp Chí về Ung Thư của Anh Quốc (the British Journal of Cancer), đă kiểm tra 40 nghiên cứu riêng biệt khi quan sát tiềm năng liên kết giữa ung thư vú và bệnh tiểu đường.

Bị béo ph́ hoặc dư thừa thể trọng (trong lượng cơ thể) có liên quan đến cả hai t́nh trạng (sau khi măn kinh và tiểu đường loại 2).

Tuy nhiên, các chuyên gia về ung thư cũng cho rằng có thể có một kết nối trực tiếp giữa cả hai.

Có hơn 56.000 phụ nữ bị ung thư vú tham gia vào những nghiên cứu này .

Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi măn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 đă bị gia tăng 27% hung hiểm về ung thư vú. Tuy nhiên, không có sự liên kết đối với phụ nữ ở thời tiền măn kinh (Pre-Menopause) hoặc những người có bệnh tiểu đường loại 1.

Các nhà nghiên cứu cũng đề nghị rằng chỉ số tỷ lệ về trọng lượng và chiều cao (BMI=body mass index) mà cao , thường liên kết với bệnh tiểu đường, có thể là một yếu tố góp phần cơ bản.

HOẠT ĐỘNG CỦA HORMONE / NỘI TIẾT TỐ

Giáo sư Peter Boyle, chủ tịch Hiệp Hội Quốc tế về Nghiên Cứu Pḥng Ngừa (the International Prevention Research Institute) , trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: "Chúng tôi vẫn chưa biết cơ chế ẩn tàng lư do tại sao bệnh tiểu đường loại 2 có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú . Nói khác đi, ư nghĩ cho rằng bị dư thừa trọng lượng thường liên quan đến bệnh tiểu đường loại 2, và ảnh hưởng do thay đổi hoạt động hormone có thể chịu một phần trách nhiệm đối với tiến tŕnh mà dẫn đến sự phát triển ung thư vú. Tuy nhiên , cũng không thể loại trừ một số yếu tố liên quan đến bệnh tiểu đường mà có thể được tham gia vào quá tŕnh nàỵ."

Martin Ledwick, người y tá trưởng về thông tin tại Viện Nghiên Cứu Ung Thư Anh Quốc ( Cancer Research UK ), đă nói " Nghiên cứu này không chứng minh rơ ràng có mối quan hệ nguyên nhân và kết quả giữa bệnh tiểu đường và nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sau măn kinh. Tuy nhiên như chúng ta đă biết chỉ số tỷ lệ về trọng lượng và chiều cao (high BMI) cao có thể góp phần tăng nguy cơ của cả hai : bệnh tiểu đường loại 2 và bệnh ung thư vú, điều này có nghĩa là phụ nữ nên cố gắng duy tŕ tốt trọng lượng cơ thể để được khoẻ mạnh "

Lynn Ly (17/09/2012)

florida80 06-03-2019 21:10

GEN KHUYẾT TẬT LIÊN QUAN ĐẾN CƠN ĐAU THẮT LƯNG
(Gene flaw linked to low back pain)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC

Theo Báo BBC , 21 /09/ 2012

Các nhà khoa học đă xác định một loại khuyết tật gen có liên quan đến những vấn đề của đĩa đệm cột sống là một nguyên nhân phổ biến của đau vùng dưới thắt lưng (low back pain).

Nghiên cứu của Anh Quốc, được công bố trong sách Niêm Giám Những Bệnh Thấp Khớp (the Annals of Rheumatic Diseases), đă quan sát 4.600 người và t́m thấy gen PARK2 có liên quan đến những vấn đề đĩa đệm cột sống do tuổi tác .

A third of middle-aged women have problems with at least one spinal disc - and the condition is known to be inherited in up to 80% of patients.

Một phần ba trong tổng số phụ nữ trung niên có vấn đề vế đĩa đệm cột sống ít nhất một và t́nh trạng được biết đến là được di truyền th́ lên 80% trong số người bệnh.

Các chuyên gia cho biết việc phát hiện loại gen nay có thể dẫn đến các phương pháp điều trị mới mà đang được tiến hành thực hiện.

Chứng bệnh đau lưng làm Anh Quốc phí tổn 7 tỷ Euros hằng năm v́ chi phí nghỉ việc do bệnh và chi phí điều trị, nhưng những nguyên nhân của t́nh trạng này không được hiểu thật trọn vẹn .

Ở chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (Lumbar Disc Degeneration = LDD), đĩa đệm cột sống bị mất nước và mất đi bề dày, và các đốt sống (vertebrae) bên cạnh chúng phát triển tăng trưởng xương được gọi là osteophytes, dẫn đến đau vùng dưới thắt lưng .

Những nhà nghiên cứu của trường cao đẳng King tại London (The King's College London)đă tiến hành Chụp H́nh Cộng Hưởng Từ Trường (MRI scans) tất cả những người trong cuộc nghiên cứu này và quan sát sự khác biệt trong sự thành lập di truyền của chúng.

Họ phát hiện ra các biến thể (variants) của gen PARK2 xuất hiện có hiệu lực ở những người bị thoái hóa đĩa đệm và sự ảnh hưởng đến tốc độ mà t́nh trạng của họ bị xấu đi.

NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG

Các nhà nghiên cứu, được tài trợ bởi Wellcome Trust và Arthritis Research của Anh Quốc, nói rằng hiện nay cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để t́m hiểu làm thế nào gen ảnh hưởng đến t́nh trạng chứng bệnh.

Nhưng họ đề nghị là có thể làm ngừng hoạt động của gen này ở những người bị chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (LDD).

Và họ nói rằng chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng có thể là yếu tố môi trường - chẳng hạn như chế độ ăn uống và lối sống có thể tạo ra những ǵ đă được biết như là những biến đổi biểu sinh ( epigenetic changes) đối với gen.

Các nhà nghiên cứu nói rằng một khi cơ chế được hiểu rơ tường tận, phát hiện của họ có thể dẫn đến việc tiến hành những phương pháp điều trị mới cho chứng bệnh đau dưới thắt lưng.

Tiến sĩ Frances Williams, thuộc bộ phận nghiên cứu song sinh và dịch tễ học di truyền (genetic epidemiology) tại trường Cao đẳng King tại London, ông đă làm việc về nghiên cứu này, cho biết: "Chúng tôi biết rằng những người bị ṃn đĩa đệm cột sống là có nguy cơ gia tăng từng phần về chứng đau dưới thắt lưng, nhưng những đĩa đệm cốt sống của người b́nh thường th́ rất khó để có được để nghiên cứu như vậy cho đến bây giờ kiến thức của chúng ta về sinh học của con người b́nh thường dă không đầy đủ.

"Công việc trong tương lai của các nhà nghiên cứu đĩa đệm để xác định vai tṛ của gen PARK2 sẽ phải thực hiện, chúng tôi hy vọng sẽ làm sáng tỏ một trong hầu hết các nguyên nhân quan trọng của chứng đau vùng dưới thắt lưng.

"Đúng là khả thi nếu chúng ta có thể xây dựng trên những phát hiện này và nâng cao kiến ​​thức của chúng ta về t́nh trạng đau lưng, chúng ta một ngày có thể có phát triển mới, phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho bệnh đau lưng gây ra bởi t́nh trạng phổ biến này".

Giáo sư Alan Silman, giám đốc y tế tại Arthritis Research của Anh Quốc , cho biết: "Chứng thoái hóa đĩa đệm cột sống vùng thắt lưng là một nguyên nhân phổ biến của đau dưới thắt lưng, và nó đang được biết có tới 80% các trường hợp là do cơ sở di truyền, nhưng đây là những thời điểm đầu của một gen vừa được xác định là có liên quan đến cơn đau thường xuyên và t́nh trạng bị vô hiệu hóa.

"Đúng là một khởi đầu đầy hứa hẹn và cung cấp cho chúng ta với các đầu mối đầu tiên về căn bản di truyền của t́nh trạng này, và với nghiên cứu sâu xa hơn, có khả năng có thể dẫn đến sự phát triển về việc điều trị hiệu quả hơn".

Lynn Ly (21/09/2012)

florida80 06-03-2019 21:13

PHƯƠNG PHÁP "ĐƠN GIẢN" ĐỂ G̀N GIỮ SỨC KHỎE:
Uống 1 ly Nước Ấm vào Buổi Sáng khi thức dậy
(Nguồn: MyiLife)


ĐIỀU G̀ XẢY RA VỚI CƠ THỂ KHI BẠN "UỐNG NƯỚC ẤM" LÚC ĐÓI VÀO MỖI SÁNG?

Nhiều người thường bắt đầu ngày mới với một tách trà nóng hay cà phê. Nhưng bạn có biết rằng, uống một cốc nước lọc ấm mỗi sáng sẽ rất có lợi cho bạn.

Uống nước ấm khi dạ dày trống rỗng vào mỗi buổi sáng có nhiều tác dụng tích cực đối với cơ thể của bạn, bao gồm cả thúc đẩy tiêu hóa, loại bỏ độc tố khỏi cơ thể, giảm đau, cải thiện lưu thông...

Dưới đây là những ǵ sẽ xảy ra khi bạn uống nước ấm mỗi sáng khi đang đói:

1) Giải độc cho các cơ quan trong cơ thể

Uống một cốc nước nóng vào buổi sáng có thể loại bỏ các độc tố nguy hiểm từ cơ thể của bạn. Nước và các chất lỏng khác có tác phân hủy thức ăn trong dạ dày và thúc đẩy tiêu hóa. Bởi vậy, ngay cả sau bữa ăn, thay v́ uống nước lạnh, bạn hăy uống nước ấm để cải thiện quá tŕnh tiêu hóa.

2) Cải thiện sự trao đổi chất

Nếu bạn bị đau dạ dày, hăy uống một cốc nước ấm vào buổi sáng trước khi ăn sáng. Điều này sẽ cải thiện sự trao đổi chất và cơ thể của bạn sẽ hoạt động đúng cách. Hơn nữa, uống nước ấm lúc này sẽ làm dịu các chứng đau dạ dày và giúp bạn cảm thấy dễ chịu.

3) Giúp giảm đau

Những cơn đau do chuột rút trong thời ḱ kinh nguyệt có thể được xoa dịu bằng cách uống nước ấm. Trên thực tế, đây là một phương thuốc tự nhiên mà vẫn có tác dụng. Nước ấm làm giăn các cơ bắp của dạ dày và giúp làm dịu cơn đau. Uống nước ấm không chỉ tốt cho những cơn đau do chuột rút trong ḱ kinh nguyệt mà c̣n có tác dụng đối với bất ḱ cơn đau do chuột rút ở thời điểm nào v́ nước ấm khi vào cơ thể giúp cải thiện lưu thông mao mạch và làm thư giăn các cơ bắp.

4) Giúp giảm cân

Uống một cốc nước ấm vào buổi sáng có thể giúp bạn giảm cân nhanh hơn. Lư do là bởi v́ nước ấm làm tăng nhiệt độ của cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể. Điều này dẫn đến khả năng đốt cháy nhiều calo hơn. Uống nước ấm cũng có tác dụng tích cực đối với hoạt động thận và các cơ quan bài tiết nên sẽ giảm t́nh trạng tích nước trong cơ thể, dẫn đến tăng cân.

5) Làm chậm quá tŕnh lăo hóa

Không ai thích lăo hóa sớm và nhanh già, đặc biệt là phụ nữ. May mắn thay, nguy cơ này có thể tránh được bằng cách uống nước ấm mỗi sáng. Độc tố trong cơ thể thúc đẩy quá tŕnh lăo hóa, nhưng uống nước ấm mỗi sáng lại giúp loại bỏ độc tố ra ngoài một cách hiệu quả. Nhờ đó, việc làm này cũng có tác dụng làm chậm quá tŕnh lăo hóa. Ngoài ra, uống nước ấm c̣n cải thiện độ đàn hồi của da, giúp bạn luôn có làn da sáng, khỏe mạnh và giảm nếp nhăn.

florida80 06-03-2019 21:14

THUỐC ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU CƠ TIM CÓ THỂ LÀM GIẢM TỔN THƯƠNG MÔ TIM
(HEART ATTACK DRUG MAY REDUCE TISSUE DAMAGE)
Lynn Ly phỏng dịch bài viết wXw.bbc.co.uk/news/health-22655582


Theo Nhật Báo BBC ngày 27, tháng 5, 2013 .

Một loại thuốc mới có thể giúp giảm sự tổn thương cho cơ thể sau một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim (heart attack), đột quỵ (stroke) hoặc một phẫu thuật lớn (major surgery) đă được triển khai bởi các nhà khoa học Anh.

Những thử nghiệm trên các con chuột cho thấy hợp chất bảo vệ tim khi lưu lượng máu đột ngột được phục hồi sau một khoảng thời gian mà các mô (tissue) đă đang bị thiếu dưỡng khí oxygen.

MitoSNO vẫn chưa được thử nghiệm trên người, nhưng có thể dẫn đến một loại thuốc hoàn toàn mới.

Các nhà nguyên cứu đă công bố kết quả thử nghiệm trên tạp chí Nature Medicine.

Một trong những vấn đề sau một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim là sự tổn thương gây ra cho các mô tim khi lưu lượng máu được phục hồi đột ngột sau một thời gian dài thiếu vắng dưỡng khí oxygen.

Sự lưu chuyển máu chảy trở lại vào các mô tim thường kích hoạt việc sản xuất của các phân tử có hại (harmful molecules), được gọi là các gốc tự do (free radicals), những phân tử này được tạo ra bên trong ti thể (mitochondrion) - nguồn năng lượng của tế bào.


Quote:
Chú thích theo định nghĩa Y Khoa tiếng Việt :

mitochondrion = "Ti Thể" là bào quan phổ biến ở các tế bào nhân chuẩn có lớp màng kép và hệ gene riêng . Ti thể được xem là trung tâm năng lượng của tế bào v́ là nơi chuyển hóa các chất hữu cơ thành năng lượng tế bào có thể sử dụng được là ATP (ATP = Adenosine Triphosphate như là nguồn năng lượng tự nhiên (nature's energizer)



Các loại thuốc mới có tác dụng như "1 công tắc điện làm ngưng" tạm thời các ti thể (mitochondria) trong một vài phút để ngăn chặn một sư gia tăng các gốc tự do.

Trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă thử nghiệm hợp chất trên một con chuột mẫu bị nhồi máu cơ tim.

Đă có những suy giảm rơ rệt trong tổng diện tích về mô tim bị tổn thương ở chuột mà được áp dụng hợp chất thuốc so với với các phương pháp kiềm chế khác .

Các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ kiểm nghiệm hợp chất thuốc mới này của họ trong thử nghiệm trên sơ khởi ở người.

"MitoSNO như một công tắc điện làm ngừng một cách hiệu quả ở các ti thể, nó làm chậm lại sự kích hoạt trong những phút quan trọng đầu tiên khi lưu lượng máu chảy lại và bảo vệ mô tim từ những tổn thương tiếp theo sau đó", tiến sĩ Mike Murphy thuộc Đơn vị thuộc Hội đồng Nghiên cứu Sinh học Ti Thể Y Khoa (Medical Research Council Mitochondrial Biology Unit), là trưởng nhóm cuộc nghiên cứu đă nói vậy.

Chúng tôi nghĩ rằng một tiến tŕnh tương tự xảy ra trong các t́nh huống khác mà mô tim bị thiếu oxygen trong một thời gian kéo dài, ví dụ như sau một cơn đột quỵ hoặc trong quá tŕnh phẫu thuật lớn, nơi động mạch chính bị kẹp để tránh bị mất máu.

Chúng tôi hy vọng rằng nếu thử nghiệm MitoSNO trên người thành công th́ cuối cùng có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác của y học."

Bàn thảo và ư kiến về nghiên cứu này từ Tổ chức Tim Mạch của Anh Quốc (the British Heart Foundation), tổ chức tài trợ một phần tài trợ nghiên cứu, cho biết loại thuốc này xuất hiện đầy hứa hẹn.

"Thuốc này có khả năng điều trị người ngay lập tức sau khi một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim ngay lúc lưu lượng máu chảy về tim được khôi phục như là một phần trong phác đồ điều trị thông thường, " cố vấn nghiên cứu Shannon Amoils đă nói vậy.

Điều này có thể có nghĩa là người sống sót sau cơn đau tim / nhồi máu cơ tim được giảm thiểu gánh nặng về suy tim (heart failure) t́nh huống mà đối với nhiều người là một t́nh trạng suy nhược và đau buồn."

Lynn Ly (27/05/2013)

florida80 06-04-2019 18:58

CHOLESTEROL



TỎI VÀ CHOLESTEROL

Mặc dầu tỏi được quảng cáo rộng răi như là tác nhân làm giảm cholesterol, nhưng một nghiên cứu được công bố tuần này đă không t́m thấy bằng chứng cho thấy rằng tỏi có tác dụng tốt hơn một placebo trong việc giảm nồng độ lipid trong máu.

Công trinh nghiên cứu 6 tháng trên 192 người trưởng thành với nồng độ cholesterol tăng nhe,đă trắc nghiệm tỏi sồng và các chất bổ sung có tỏi.Công tŕnh nghiên cứu được công bố trong The Archives of Internal Medicine .Các nhà nghiên cứu đă chia những người tham gia thành 4 nhóm để tiêu thụ hoặc tỏi sống,hoặc tỏi trong thuốc dưới dạng bột goi là Garlicin, hoặc tỏi trong nhăn hiệu b́nh dân Kyolic 100,hoặc một placebo.Liều lượng tương đương với một củ tỏi uống một ngày một lần,sáu ngày mỗi tuần trong ṿng 6 tháng.

Các nhà nghiên cứu đă xét nghiệm LDL cholesterol,HDL cholesterol, triglycerides, và tỷ số cholesterol toàn thể-HDL,nhưng đă không t́m thấy sự khác nhau đáng kể về mặt lâm sàng và thống kê giữa những người sử dụng tỏi và những người nhận một placebo
(INTERNAL HERALD TRIBUNE 1/3/2007)

florida80 06-04-2019 18:58

DẦU OLIVE CÓ TÁC DỤNG TỐT ĐỐI VỚI CHOLESTEROL

Một công tŕnh nghiên cứu từ nhiều trung tâm nghiên cứu ở châu Âu được tiến hành trên 200 người t́nh nguyện. Những người này được cho uống trong 3 tuần lễ 25 millilitres dầu olive mỗi ngày (một muỗng canh gồm 3 loại dầu, loại trừ những chất béo khác.) Nghiên cứu đă mang lại một kết luận lư thú : tất cả các dầu olive deu có khả năng làm gia tăng nhanh chóng nồng độ HDL (cholestérol tốt) nhưng hiệu quả nhất là các dầu olive có nồng độ polyphénol (chất chống oxi hóa có tác dụng bảo vệ tim) cao nhất. Về mặt này, mức độ tinh lọc của dầu có tính chất quyết định: cần những dầu olive tinh chất hảo hạng.
(LA LIBRE MATCH 14/6-20/6/2007)

florida80 06-04-2019 19:02

CHOLESTEROL TĂNG CAO VÀ CHẾT V̀ BỆNH TIM DO THIẾU MÁU CỤC BỘ

Tăng cholestérol-huyết được liên kết với tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ (maladie ischémique du cœur), ở người già cũng như ở những người thuộc lứa tuổi trung b́nh, và điều này độc lập với huyết áp. Đó là kết luận của một phân tích méta trên 61 công tŕnh nghiên cứu với tổng cộng 55.000 trường hợp tử vong do bệnh huyết quản (34.000 v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ, 12.000 do tai biến mạch máu năo và 10.000 do những nguyên nhân khác), chủ yếu ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Các tác giả đă đi đến kết luận là cholestérol toàn thể được liên kết một cách dương tính với tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ, ở đàn ông và phụ nữ, ở lứa tuổi trung b́nh hoặc cao, dầu huyết áp là bao nhiêu. Tỷ số cholestérol toàn thể/HDL dường như là chỉ dấu tiên đoán quan trọng nhất của tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ. Việc không có mối liên hệ độc lập giữa cholestérol và tử vong do tai biến mạch máu năo, nhất là ở lứa tuổi cao hay ở một mức huyết áp cao, nên là đối tượng của những nghiên cứu sâu rộng hơn, các tác giả đă đánh giá như vậy. Dầu thế nào đi nữa, các công tŕnh nghiên cứu gợi ư rằng các statines không những chỉ làm giảm số các biến cố động mạch vành mà c̣n làm giảm cả số tai biến mạch máu năo nơi các bệnh nhân thuộc mọi lứa tuổi có những trị số huyết áp khác nhau.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 14/12/2009)

florida80 06-04-2019 19:02

CÔNG TR̀NH NGHIÊN CỨU MỚI VỀ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LÀM SỮNG SỐT CÁC THẦY THUỐC

Trong nhiều thập niên nay, các nhà nghiên cứu đă tin rằng nếu bệnh nhân đái đường hạ thấp nồng độ đường huyết xuống mức b́nh thường, họ sẽ không c̣n bị nguy cơ cao chết v́ bệnh tim nữa. Nhưng một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ nơi 10.000 bệnh nhân đái đường loại 2, với tuổi trung niên hoặc cao hơn, đă nhận thấy rằng việc hạ thấp nồng độ đường huyết thật ra làm gia tăng nguy cơ tử vong, các nhà nghiên cứu đă báo cáo như vậy.

Các nhà nghiên cứu đă loan báo rằng họ đă đột ngột ngừng phần nghiên cứu mà các kết quả gây ngạc nhiên đang đặt lại vấn đề phải xử trí làm sao căn bệnh hiện đang tác động lên 21 triệu người Mỹ. Các nhà nghiên cứu của công tŕnh đă nhấn mạnh rằng các bệnh nhân vẫn nên tiếp tục thăm khám các thầy thuốc của họ trước khi xét đến việc thay đổi thuốc men.

Trong số các người tham gia công tŕnh nghiên cứu thuộc nhóm mà nồng độ đường huyết được hạ xuống mức gần b́nh thường, có 54 trường hợp tử vong nhiều hơn là nhóm trong đó có nồng độ đường được kiểm soát ít nghiêm ngặt hơn. Các bệnh nhân đă tham gia công tŕnh nghiên cứu với thời gian trung b́nh được 4 năm th́ các nhà nghiên cứu đă ra lệnh ngừng chế độ hạ đường huyết tích cực và áp dụng nơi các bệnh nhân này một chế độ hạ đường huyết ít nghiêm ngặt hơn.

Các kết quả không muốn nói là đường huyết là không có ư nghĩa. Việc hạ đường huyết có thể bảo vệ chống lại bệnh thận, sự đui mù và việc cắt cụt các chi. Nhưng những điều vừa được t́m thấy mang lại một yếu tố hoài nghi về cái đă từng là một giáo điều : rằng hạ đường huyết càng thấp th́ càng tốt hơn, và rằng hạ nồng độ đường xuống mức b́nh thường cứu được mạng người. Các chuyên viên y tế đă sửng sốt.

«Những điều vừa được t́m thấy gây bối rối và xôn xao”, James Dove, chủ tịch của American College of Cardiology đă nói như vậy. “Trong 50 năm, chúng ta đă nói về việc làm giảm nồng độ đường huyết xuống rất thấp. Mọi điều trong tài liệu y học đều gợi ư rằng đây là điều đúng đắn cần phải làm”

Irl Hirsch, một nhà nghiên cứu bệnh đái đường thuộc đại học Washington, đă nói rằng những kết quả của công tŕnh nghiên cứu sẽ khó mà giải thích cho vài bệnh nhân đă trải qua không biết bao nhiêu năm và đă thực hiện những cố gắng lớn lao qua chế độ ăn uống và thuốc men, nhằm làm hạ và duy tŕ nồng độ đường huyết xuống. Những bệnh nhân này sẽ không muốn nới lỏng cảnh giác, nhà nghiên cứu đă nói như vậy.

“Điều này sẽ tương tự như những ǵ mà các phụ nữ đă cảm thấy khi họ nghe những tin tức về estrogens», Hirsch đă nói như vậy. “Bảo những bệnh nhân này làm cho nồng độ đường huyết tăng lên sẽ rất là khó khăn”. Ông đă nói thêm rằng những tổ chức như American Diabetes Association và American Association of Clinical Endocrinologists sẽ ở vào trong t́nh trạng lúng túng khó xử. Những chỉ dẫn của các Hiệp hội này yêu cầu các nồng độ đường huyết càng gần với b́nh thường chừng nào th́ tốt chừng đó. Và vài công ty bảo hiểm trả cho các bác sĩ tiền phụ trội nếu các bệnh nhân đái đường của họ giữ được nồng độ đường huyết ở mức rất thấp.

Lư thuyết nồng độ đường huyết thấp đă ăn sâu đến độ khi Viện Tim, Phổi, Huyết Quốc Gia và Viện Quốc Gia Đái Đường và Các Bệnh Tiêu Hóa và Thận đề nghị công tŕnh nghiên cứu vào những năm 1990, họ đă giải thích rằng đó là vấn đề đạo đức. Mặc dầu hầu hết đều cho rằng nồng độ đường huyết thấp hơn là tốt hơn, nhưng không ai đă nghiêm chỉnh trắc nghiệm ư tưởng này. V́ vậy công tŕnh nghiên cứu sẽ nêu nghi vấn xem những nồng đường huyết rất thấp nơi những bệnh nhân với đái đường loại 2 (dạng bệnh gây bệnh cho 95% những người bị bệnh đái đường), sẽ có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh tim và cứu sống sinh mạng hay không. Vài người đă nói rằng, dầu cho công tŕnh nghiên cứu có ư nghĩa đạo đức, sẽ không thể thực hiện được. Họ nghi ngờ rằng những người tham gia (tuổi trung b́nh 62, đă bị đái đường trong khoảng 10 năm, đă có nồng độ đường huyết cao hơn b́nh thường, và đă có bệnh tim hay những bệnh lư khác, như cao huyết áp và cholesterol cao, khiến những người này có thêm nguy cơ bị bệnh tim) sẽ có thể đạt được những nồng độ đường huyết thấp như thế.

Công tŕnh nghiên cứu đă trắc nghiệm đồng thời 3 loại điều trị : kiểm soát đường huyết tích cực hay ít tích cực hơn, kiểm soát cholesterol tích cực hay ít tích cực hơn và kiểm soát huyết áp tích cực hay ít tích cực hơn. Phần cholesterol và huyết áp của công tŕnh nghiên cứu đang được tiếp tục. Các nhà nghiên cứu đă đặt câu hỏi không biết đă có thứ thuốc nào hay những phối hợp thuốc nào đă là nguyên nhân của tỷ lệ tử vong cao. Họ đă không t́m thấy ǵ hết. Cũng đă không có một nguyên nhân khác thường gây tử vong trong nhóm được điều trị tích cực. Hầu hết các trường hợp tử vong trong hai nhóm là do nhồi máu cơ tim.

Măi đến nay, các lư do giải thích tỷ lệ tử vong cao hơn là phỏng đoán. Rơ ràng là những người không bị bệnh đái đường khác với những người bị bệnh đái đường và cố làm hạ đường huyết xuống. Có thể là các bệnh nhân bị những hậu quả không chủ ư do dùng quá nhiều thuốc có thể tương tác một cách bất ngờ, Steve Nissen, trưởng khoa tim mạch của Cleveland Clinic đă nói như vậy.

Hoặc là, cũng có thể rằng các người tham gia đă làm giảm quá nhanh đường huyết của họ. Cách nay nhiều năm, các nhà nghiên cứu đă khám phá rằng việc giảm đường huyết quá nhanh nơi các bệnh nhân đái đường thật sự có thể làm trầm trọng các bệnh huyết quản ở mắt, ông đă phát biểu như vậy. Nhưng việc làm giảm các nồng độ chậm hơn đă bảo vệ các huyết quản này.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 8/2/2008)

florida80 06-04-2019 19:03

MỘT LOẠI VI KHUẨN ĂN CHOLESTEROL

Hiện diện trong ruột già, vi trùng này làm cho cholestérol không thể hấp thụ được bởi cơ thể con người.

Ruột già của chúng ta là một canh cấy thật sự. Có khoảng 100 tỉ vi khuẩn cùng nhau sinh sống trong mỗi gam phân, hoặc khoảng cùng số lượng neurone trong năo bộ của chúng ta.

Quần thể vi khuẩn dồi dào này trong ruột, được tạo thành suốt trong hai năm đầu của đời sống, là cần thiết cho sự vận hành tốt của cơ thể. “Người ta có thể nói rằng đó là một cơ quan nói riêng, mà thành phần là chuyên biệt cho mỗi cá nhân”, Philippe Gérard thuộc pḥng thí nghiệm sinh thái và sinh lư học của hệ tiêu hóa ở trung tâm Inra, đă nhấn mạnh như vậy.

Nhà vi trùng học này đă tiết lộ hôm qua, nhân một cuộc họp báo, rằng một vài trong số các vi khuẩn này, có tính chất lạ lùng là làm hủy hoại cholestérol (mà sự thặng dư gây đọng mỡ trong các động mạch) thành coprostanol, một chất mà cơ thể không thể hấp thụ được và do đó được thải ra trong phân. “Sự kiện này đă được biết từ lâu, nhưng đến măi ngày nay, không ai đă thành công nhận diện ra loài hay các loài vi khuẩn có liên quan trong quá tŕnh sinh hóa học này ở người”, Philippe Gérard đă nói tiếp như vậy.

Cái trở ngại chính là các vi khuẩn của ống tiêu hóa không có thể tồn tại trong một môi trường giàu oxygène. Các vi khuẩn sẽ chết ngay khi được đem ra khỏi ruột non của kư chủ và chỉ có 20% các vi khuẩn này là có thể cấy được trong pḥng thí nghiệm.

MỘT TỶ VI KHUẨN CHO MỖI GAM PHÂN.

Trong một bài báo được công bố mới đây trong tạp chí Applied and Environmental Microbiology, nhóm nghiên cứu được điều khiển bởi Philippe Gérard đă giải thích làm sao họ đă cô lập được một trong các vi khuẩn “giết cholestérol” này, bằng cách cấy trong phân được làm phong phú với óc bê được làm đông lạnh. Đó là giống D8 của loài Bacteroides Dorei, (chiếm 20% quần thể vi khuẩn ruột). “ Sự kiện loài vi khuẩn này rất khác với giống Eubacterium đă được nhận diện ở chuột, heo và babouin, dường như chỉ rơ rằng nhiều họ vi khuẩn có liên hệ trong việc làm thoái hóa cholestérol của ruột người”, nhà nghiên cứu phát biểu như vậy.

Khám phá này phải chăng sẽ dẫn đến việc hiệu chính một thuốc mới chống lại cholestérol ? Điều này ít có thể xảy ra vào ngay lúc này. Thật vậy, hầu hết cholestérol nguồn gốc thức ăn đều được hấp thụ ở ruột non. Cholestérol dầu có được thoái biến thành coprostanol bởi vi khuẩn hay không, phần cholestérol đi đến đại tràng dầu sao cũng được thải ra theo phân.

Tuy nhiên, trong những năm 1980, một công tŕnh nghiên cứu của Nhật Bản đă chứng tỏ rằng một nồng độ coprostanol cao trong phân liên kết với một nồng độ cholestérol thấp hơn trong máu.

Theo Philippe Gérard, “người ta không thể loại trừ rằng một phần cholestérol được thoái biến trong phần dưới của ruột non, nơi đây người ta đếm được 1 tỷ vi khuẩn trong 1 gam phân. Đó là 100 lần ít hơn trong ruột già, nhưng điều đó có thể cũng đủ để giải thích các kết quả của công tŕnh nghiên cứu Nhật Bản”.
LE FIGARO 13/3/2008

florida80 06-04-2019 19:04

CHOLESTEROL “TỐT” CÓ LỢI CHO TRÍ NHỚ

Những nồng độ cholesterol “tốt” quá thấp được liên kết với một sự thiếu hụt hay sa sút nhận thức vào tuổi 60, theo một công tŕnh được công bố bởi các nhà nghiên cứu, chủ trương một đời sống lành mạnh hơn.

Một nồng độ bất b́nh thường cholestérol có thể là một yếu tố nguy cơ của bệnh Alzheimer không? Nếu câu trả lời chưa được rơ ràng, một công tŕnh nghiên cứu của Pháp, được công bố ngày 30 tháng 6, trong tạp chí chuyên khoa Arteriosclerosis, Thrombosis and Vascular Biology, vừa cho thấy rằng một nồng độ cao cholestérol “tốt” (c̣n được gọi là HDL-cholestérol) sẽ là một đồng minh cần thiết của chất lượng trí nhớ nơi những người trên 60 tuổi

Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă đề xuất một mối liên kết giữa sự kiện có một nguy cơ tim mạch và sự biến đổi của các chức năng nhận thức (fonctions cognitives) (ở mức trí nhớ) với tuổi tác, như thế tạo nên một nguy cơ bị bệnh Alzheimer. Cũng cùng cách như vậy, theo những công tŕnh nghiên cứu khác, bệnh đái đường và chứng béo ph́ sẽ làm dễ sự xuất hiện của một chứng sa sút trí tuệ như thế. Tuy nhiên, khó xác lập một mối liên hệ đặc biệt giữa các bất thường của nồng độ các chất mỡ trong máu và nguy cơ bị chứng sa sút trí tuệ bởi v́ “profil lipidique” của các bệnh nhân thường bị biến đổi bởi nhiều yếu tố, trong đó có chính căn bệnh.

Ước muốn làm sáng tỏ vấn đề, nhóm nghiên cứu của Archana Singh-Manoux đă quyết định theo dơi từ năm 1999 và 2004 một nhóm 3.700 các viên chức người Anh ở lứa tuổi 60, tất cả đều có khả năng về trí tuệ. Mục đích là đánh giá một cách song hành tiến triển của profil lipidique (cholestérol toàn thể, HDL và LDL, triglycérides) và hoạt động của trí nhớ. Để thực hiện điều này, những phân tích máu đă được thực hiện hai lần cách nhau 5 năm. Những trắc nghiệm về trí nhớ cũng được thực hiện : những người t́nh nguyện phải nêu lên tối đa các chữ trong số 20 chữ được tŕnh bày vài giây phút trước đó. Người không có khả năng nêu lên hơn 4 chữ được cho là thiếu hụt chức năng nhận thức (déficit cognitif). Quên thêm hơn hai chữ giữa hai câu thể hiện một suy đồi nhận thức thật sự (déclin cognitif).

CÓ MỘT HOẠT ĐỘNG VẬT LƯ ĐỀU ĐẶN

Sau cùng, những kết quả là không chối căi được. Đối với những người có một nồng độ cholestérol “ tốt ” thấp (dưới 0,4 g/L), nguy cơ thiếu hụt trí lực (déficit intellectuel) gia tăng 27%, so với những người có một nồng độ trên 0,6g/L. 5 năm sau, sự liên kết này lại càng rơ hơn. Các viên chức với một nồng độ cholestérol “ tốt ” ít cao vẫn c̣n có nhiều nguy cơ bị thiếu hụt năng lực trí lực hơn. Cũng giống hệt những người mà nồng độ đă giảm trong 5 năm. Những người này có một nguy cơ gia tăng bị suy thoái trí tuệ so với những người bảo tồn những nồng độ cao HDL (trên 0,6g/L).

Như thế nhóm nghiên cứu của Archana Singh-Manoux, nữ giám đốc nghiên cứu của Inserm (đơn vị 687) đă phát hiện sự hiện hữu của một sự thiếu hụt, thậm chí một sự suy sụp nhận thức nơi những người 60 tuổi khi nồng độ cholestérol “ tốt ”, HDL (lipoprotéine de haute densité), là quá thấp trong máu, với trị số dưới 0,4 g/L (b́nh thường, đối với đàn ông 0,4 đến 0,65g/L và đối với đàn bà, từ 0,5 đến 0,8g/L). “ Công tŕnh nhiên cứu này phát hiện mối liên hệ rơ rệt giữa những nồng độ thấp của cholestérol “ tốt ” và sự xuất hiện một sự sa sút nhận thức, kể cả có tính đến những yếu tố khác khả dĩ dẫn đến một sự sa sút trí tuệ (démence) (các biến cố tim mạch, tiêu thụ rượu) ”, Archana Singh-Manoux đă b́nh luận như vậy.

Sự suy thoái nhận thức (déclin cognitif) là giai đoạn đầu tiên hướng về chứng sa sút trí tuệ (démence), mặc dầu không phải tất cả những người có các rối loạn về trí nhớ đều rơi vào bệnh Alzheimer. Công tŕnh này tán đồng những lời khuyến nghị về các chế độ ăn uống đơn giản nhằm làm dễ những nồng độ cao hơn cholestérol “ tốt ”. Ăn ít thịt mỡ và thịt lợn, ăn nhiều cá hơn, thay thế các chất béo bảo ḥa nguồn gốc động vật (bơ, ḷng đỏ trứng gà, phó mát) bằng những chất mỡ không bảo ḥa, có nguồn gốc thực vật như vài loại dầu. Loại bỏ các acide béo trans được t́m thấy trong các sản phẩm kỹ nghệ (món ăn được làm sẵn, fastfood, bánh quy...). Và có một hoạt động vật lư đều đặn. Để duy tŕ một trí nhớ có chất lượng tốt.
Nguồn : LE FIGARO (2/7/2008)

florida80 06-04-2019 19:04

CÀ PHÊ VÀ CHOLESTEROL

Cà phê bị gán cho một vai tṛ trong việc làm gia tăng nồng độ của cholestérol. Cần phải uyển chuyển hơn điều khẳng định này và xác định rơ rằng điều đó tùy thuộc vào cách pha chế. Hai diterpène hiện diện trong dầu cà phê (huile de café), cafestol và kahweol, có thể là nguyên nhân của sự gia tăng này. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng sự tiêu thụ cafestol hàng ngày làm gia tăng nồng độ cholestérol trong máu, nhưng sự gia tăng này ít hơn trong trường hợp tiêu thụ lâu dài. Do đó những công tŕnh nghiên cứu ngắn hạn có thể dẫn đến việc đánh giá quá cao về tác động của cà phê lên nồng độ của cholestérol. Về kahweol, vai tṛ của nó trong hiện tượng này không được rơ ràng lắm. Sự liên kết của cafestol với kahweol có tác động lên nồng độ cholestérol hơn là kahweol đơn độc .

Một cà phê, trong đó bột cà phê được cho tiếp xúc lâu dài với nước sôi và không được lọc (như trong trường hợp cà phê Thổ hay Hy lạp), chứa những diterpènes này với nồng độ cao, trái với cà phê được lọc hay một “espresso”. Vậy v́ lư do thận trọng, đối với những bệnh nhân bị cao huyết áp và tăng cholestérol-huyết, tốt hơn là nên tránh những cách pha chế đầu và theo cách pha chế sau.
(LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008)

Thời Sự Y Học Số 94 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 26/9/2008

florida80 06-04-2019 19:05

THUỐC CHỒNG CHOLESTEROL: MỘT GÈNE CÓ LIÊN QUAN TRONG SỰ PHÁT SINH CÁC BIẾN CHỨNG

Đau cơ sau khi sử dụng statines có thể được làm dễ bởi một biến thể di truyền (un variant génétique).

Những nhà nghiên cứu Pháp và Anh đă nhận diện một biến thể di truyền có liên hệ trong sự xuất hiện các thương tổn cơ, trong trường hợp điều trị bởi các liều lượng cao statines (New England Journal of Medicine, 21/8/2008). Các statines được cho để chống lại sự thặng dư “ cholestérol xấu ” (LDL) trong máu, một trong những yếu tố nguy cơ của các tai biến mạch máu năo và nhồi máu cơ tim. Statines phong bế sự tạo thành cholestérol trong gan bởi cơ thể.

Các Statines rất được ưa chuộng bởi các thầy thuốc người Pháp, đă cho toa 5 triệu người trong năm 2.005. Nhưng trong những trường hợp hiếm hoi (1 bệnh nhân trên 10.000) , khi statines được cho với liều lượng chuẩn (20-40 mg simvastatine mỗi ngày), thuốc có thể gây nên các bệnh cơ (myopathie), đó là các đau nhức cơ, và chứng co rút (crampe), với sự gia tăng một vài loại men. Những tác dụng không được mong muốn này gia tăng với những liều lượng cao hơn.

Nghi là có một thành phần di truyền trong hiện tượng này, nhóm nghiên cứu của centre national de génotypage được điều khiển bởi Mark Lathrop và nhóm của đại học Oxford ở Anh đă so sánh hai nhóm các bệnh nhân được điều trị : nhóm 85 người gồm những nạn nhân bị thương tổn cơ do điều trị bởi statines, một nhóm khác 90 người không bị chứng bệnh cơ này. Họ đă phát hiện một biến thể di truyền (un variant génétique) trên nhiễm sắc thế 12, liên kết với những biến chứng này. Biến thể di truyền này hiện diện nơi 15% dân số.

Những bệnh nhân mang biến thể di tuyền và được điều trị với các liều mạnh thuốc statines có nguy cơ phát triển bệnh cơ 4 lần cao hơn so với những người không mang biến thể di truyền này.
(LE FIGARO 27/8/2008)

florida80 06-04-2019 19:05

CHỈ MỘT VIÊN THUỐC ĐỂ CHỐNG LẠI CÁC BỆNH TIM MẠCH

PHARMACOLOGIE. Một viên thuốc chứa một chất kháng cholestérol, 3 loại thuốc chống cao huyết áp và aspirine, có thể làm giảm 50% nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột qụy.

Một viên thuốc duy nhất để ngăn ngừa các bệnh tim mạch đối với những người trên 50 tuổi ? Quan niệm này đă được nêu lên từ nhiều năm nay, bây giờ bắt đầu trở thành hiện thực. Thật vậy, các thầy thuốc Ấn Độ vừa công bố trên site Internet của tạp chí y khoa The Lancet các kết quả của một thử nghiệm, được thực hiện với một polypill chứa 5 chất có hoạt tính chống lại các bệnh tim mạch.

Những trắc nghiệm này xác nhận rằng chỉ một viên thuốc cũng có hiệu quả như 5 loại thuốc được kê toa một cách độc lập. Các tác giả, cũng đă tŕnh bày những công tŕnh này hôm thứ hai, nhân hội nghị thường niên American College of Cardiology ở Orlando (Florida), đánh giá rằng một viên thuốc như thế, được cho để pḥng ngừa, có thể làm giảm gần một nửa các trường hợp tai biến tim và các cơn đột qụy. Những thử nghiệm khác, với quy mô lớn hơn, vẫn phải được tiến hành để xác nhận những kết quả này. Những bệnh tim mạch, hiện đang bùng nổ trong các nước đang phát triển, vẫn là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong trong các nước phương Tây, mặc dầu có sự giảm bớt do việc điều trị tốt hơn (cao huyết áp, tăng cholestérol-huyết, chứng nghiện thuốc lá). Sự ngăn ngừa này, được căn cứ trên sự sử dụng nhiều thứ thuốc, đă đặt ra vấn đề tuân thủ điều trị, không hoàn toàn được tôn trọng một cách đúng đắn. Và điều này có thể được cải thiện bằng cách uống một viên thuốc duy nhất. Thử nghiệm điều trị này (được tài trợ bởi Pḥng bào chế Ấn Độ Cadilla Pharmaceuticals) đă được tiến hành ở Ấn Độ, trong 50 trung tâm y tế, trên 2.053 người tham dự, tuổi từ 45 đến 80, đă không bao giờ bị bệnh tim mạch, nhưng chỉ có một yếu tố nguy cơ (cao huyết áp, cholestérol cao…).

THIẾU CÁC CÂU TRẢ LỜI TINH TẾ

Mục đích là để đánh giá sự dung nạp của điều trị phối hợp này và xác định xem viên thuốc phối hợp này có tác dụng lên nguy cơ tim mạch giống như mọi loại thuốc được uống riêng rẻ hay không. Thử nghiệm đă so sánh polypill với 8 protocole điều trị khác (statine dùng đơn độc, aspirine dùng đơn độc, bêta-bloquant dùng đơn đọc) trên huyết áp, trên nồng độ cholestérol hay trên nhịp tim. Viên thuốc chứa những liều lượng thấp của 3 loại thuốc chống cao huyết áp (12,5 mg thiazide, 50 mg atenolol và 5mg ramipril) cũng như 20 mg simvastatin (một thuốc kháng cholesterol), và 100 mg aspirine (với tác dụng kháng đông).

Các kết quả đă cho thấy nồng độ cholestérol giảm với mức độ quan trọng nơi những người được điều trị bởi polypill cũng như nơi những người chỉ dùng statine đơn độc. Cũng như thế đối với huyết áp khi dùng các thuốc chống cao áp đơn độc. Tính chất lưu thông của máu được cải thiện bởi polypill giống như với aspirine dùng riêng rẻ. Các tác dụng phụ của polypill cũng giống với các tác dụng gây nên bởi mỗi thành phần được dùng riêng rẻ. “Chúng tôi ước đoán rằng polypill có lẽ có khả năng làm giảm 60% các bệnh tim và 50% các đột qụy, B.S Salim Yusuf, thuộc Population Health Research Institute của Université McMaster (Canada) đă đánh giá như vậy. Ư tưởng những người có thể chỉ uống một viên thuốc để làm giảm nhiều nguy cơ tim có thể cách mạng hóa sự ngăn ngừa các bệnh tim mạch”.

Hiện nay, thử nghiệm lâm sàng đă chỉ đánh giá sự cải thiện các hằng số sinh học với điều trị phối hợp này. Bây giờ cần phải tiến hành những điều tra quy mô lớn để đánh giá tác dụng lên tỷ lệ mắc bệnh và trên tỷ lệ tử vong.

Trong những nước giàu có, những viên thuốc như thế có thể đơn giản hóa sự pḥng ngừa. “Khái niệm này không phải là không hấp dẫn, G.S Nicolas Danchin thuộc bệnh viện Georges -Pompidou khẳng định như thế. Vấn đề là c̣n phải chứng tỏ rằng thuốc không có các tác dụng phụ lúc dùng lâu dài và rằng điều đó cho phép cải thiện sự tuân thủ điều trị.” Việc pḥng ngừa là một chương tŕnh dài hạn. “Vấn đề của viên thuốc phối hợp này, đó là nó không đáp ứng một cách tinh tế những vấn đề chính xác của mỗi người, B.S Yves Benacin (thầy thuốc chuyên khoa tim, Paris) đă giải thích như vậy. Nhưng có lẽ đó là một giải pháp cho những người có nguy cơ không tuân thủ điều trị một cách đều đặn, và dĩ nhiên đó là một giải pháp cho các nước đang phát triển.” Tuy nhiên đừng quên rằng một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục đều đặn 5 lần mỗi tuần, làm giảm một cách không chối cải được cholestérol, huyết áp, đường huyết và tăng sức cho trái tim.
(LE FIGARO 1/4/2009)

florida80 06-04-2019 19:06

VÀO LỨA TUỔI NÀO CẦN PHẢI ĐỊNH LƯỢNG CHOLESTEROL ?

Chính vào cuối thế kỷ XIX mà các nhà bảo hiểm Hoa Kỳ đă phát minh ra y khoa tiên liệu (médecine prédictive). Trong lúc gom góp những dữ kiện của những người được bảo hiểm, các nhà dịch tễ học và các nhà thống kê của các công ty bảo hiểm lớn này đă xác lập những mô h́nh tiên đoán tử vong (modèle de prédiction du décès). Những mô h́nh tiên đoán này nhanh chóng trở nên tinh tế hơn để được áp dụng cho bệnh tim mạch. Chính như thế mà ư niệm về yếu tố nguy cơ (facteur de risque) của bệnh tim mạch đă được tạo ra.

Ở Pháp cũng như ở những nơi khác, chính 4 yếu tố nguy cơ chủ yếu giải thích hơn ¾ các biến cố động mạch vành cấp tính ; đó là thuốc lá, các dyslipidémie, cao huyết áp và bệnh đái đường. Sự tăng cholestérol-huyết thường xảy ra v́ lẽ khoảng ¾ các bệnh nhân được nhập viện v́ hội chứng động mạch vành cấp tính ở Pháp có một sự gia tăng của cholestérol xấu của họ.

HAI T̀NH HUỐNG PHÁT HIỆN

Vấn đề phát hiện những yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch là xưa rồi và b́nh thường phải được áp dụng cho toàn thể những yếu tố nguy cơ có một mối liên hệ nhân quả với chứng xơ mỡ động mạch huyết quản. Sự định lượng của cholestérol và các fractions của nó được căn cứ trên một kỹ thuật sinh học đơn giản để thực hiện trên một mẫu nghiệm máu được lấy lúc nhịn đói. Hai t́nh huống quan trọng phát hiện cholestérol được thực hiện ở Pháp. Một mặt, thầy thuốc có thể gặp một bệnh nhiễm sắc thể thường tính trội (maladie autosomique dominante), bệnh tăng cholestérol-huyết gia đ́nh dị hợp tử (hypercholestérolémi e familiale hétérozygote). Bất thường sinh học lipit này hiện diện nơi một trên 500 trường hợp sinh ở Pháp. Sự gia tăng cholestérol-huyết hiện diện ngay lúc sinh và các trị số của cholestérol-huyết tăng cao dần dần với tuổi tác của các bệnh nhân. Đó là một bệnh di truyền hung dữ đối với các động mạch và điều trị vệ sinh-ăn uống và/hoặc thuốc men phải bắt đầu càng sớm càng tốt. Do đó, trong bệnh tăng cholestérol-huyết gia đ́nh, sự định lượng phải được thực hiện càng sớm càng tốt nơi trẻ em, ngay khi có một cơ hội để thực hiện sự lấy máu. Việc t́m kiếm những bệnh nhân trẻ này trong dân chúng là dễ dàng v́ lẽ đó là những gia đ́nh đă có những tai biến tim mạch xảy ra sớm và có những tăng cao quan trọng của cholestérol trong huyết tương. Những trị số cholestérol toàn thể 1,80 g/l nơi trẻ em 10 tuổi được xem như là bệnh lư. Nơi những gia đ́nh này, sự định lượng của cholestérol sẽ được thực hiện đều đặn và sự theo dơi sẽ chú y t́m kiếm một sự gia trọng của các trị số và những định vị của bệnh tim mạch.

Cũng như đối với những yếu tố nguy cơ khác, sự xác định của cholestérol nơi người trưởng thành là một bộ phận cơ bản của sự pḥng ngừa tim mạch. Mỗi người trưởng thành hơn 18 tuổi phải được hưởng vào một lúc nào đó một bilan sinh học lipit toàn bộ. Xét nghiệm máu này sẽ gồm có cholestérol xấu, cholestérol tốt và các triglycéride. Sự định lượng này sẽ được lập lại mỗi năm năm nếu không có một bất thường hay nhanh hơn nếu những yếu tố nguy cơ khác xuất hiện hay nếu một bệnh đến làm phức tạp sự điều trị. Những trị số cholestérol toàn thể 2,20g/l nơi người trưởng thành buộc phải theo dơi đều đặn nơi thầy thuốc gia đ́nh. Nơi bệnh nhân đă có một biến cố tim mạch, chính thường trong lúc nhập viện mà chẩn đoán tăng cholestérol-huyết được thực hiện. Đó là một t́nh huống rất tai hại đối với tiên lượng v́ lẽ sự điều trị tăng cholestérol-huyết vài năm trước có lẽ đă cho phép tránh được biến cố tim mạch cấp tính này.

Những bệnh nhân người Pháp có được may mắn được tiếp cận tương đối dễ dàng với những thầy thuốc gia đ́nh và với các dịch vụ pḥng ngừa trong khung cảnh y khoa lao động hay chiến dịch phát hiện đại chúng. Tai biến tim mạch không phải là một định mệnh an bài và toàn bộ những người can thiệp y và cận y sẵn sàng phục vụ cho các công dân đề pḥng ngừa, phát hiện và điều trị các yếu tố nguy cơ để tránh một cách tối đa các biến có tim mạch.
(LE FIGARO 26/4/2010)

florida80 06-04-2019 19:07

CHOLESTEROL : CHÚ Ư CÁC ĐƯỜNG CÓ TÁC DỤNG NHANH.

Khác với những loại đường có tác dụng chậm (các thức ăn có bột và bánh ḿ toàn phần) có lợi cho sức khỏe, các loại đường có tác dụng nhanh dùng quá mức, kẹo, kem... đă được nhận diện như là những yếu tố làm dễ sự xuất hiện của một bệnh đái đường. Các nhà dịch tễ Hoa Kỳ vừa chứng minh rằng chúng cũng chịu trách nhiệm một profil lipide xấu liên kết với nguy cơ xơ mỡ động mạch. Được chỉ đạo bởi GS Jean Welsh của đại học Emory (Atlanta), một công tŕnh nghiên cứu, được tiến hành giữa năm 1999 và 2006, đă theo dơi hơn 6000 người trưởng thành thuộc hai giới tính. Những kết quả cho thấy rằng sự tiêu thụ đường có tác dụng nhanh càng cao, th́ HDL-cholestérol, “ cholestérol tốt ” càng giảm. Ngược lại, các triglycéride và LDL-cholestérol, “cholestérol xấu ” càng gia tăng. Từ 30 năm nay và mặc dầu không có lợi ích dinh dưỡng, thành phần các loại đường được thêm vào các thực phẩm không ngừng gia tăng. Đứng trước điều chứng thực này, các giới hữu trách Hoa Kỳ đă lên tiếng báo động. OMS khuyến nghị giới hạn phần đường có tác dụng nhanh tối đa là 10% của cung cấp toàn bộ calo mỗi ngày.
(PARIS MATCH 8/7-14/7/2010)

florida80 06-04-2019 19:07

CHOLESTEROL : LỢI ÍCH ĐƯỢC BÁO TRƯỚC CỦA MỘT STATINE.


Quote:
Điều thiết yếu :

Không nên chờ đợi đă bị một tai biến tim mạch rồi mới hưởng một thuốc làm giảm cholestérol.
Rosuvastatine (Crestor) làm giảm 43% nguy cơ trong hai năm.


Dịch bệnh tim mạch (épidémie cardiovasculaire), bởi v́ nó vẫn hoàn toàn thầm lặng rất dài lâu, là một thách thức đối với y khoa. “ Trong suốt quá tŕnh nghiên cứu, chúng tôi hiểu tốt hơn rằng mảng xơ mỡ (plaque d’athérome) bắt đầu được tạo thành ngay lúc ta c̣n rất trẻ. Nhưng tiến triển này có thể vẫn hoàn toàn không thấy được trong nhiều chục năm. Khi dấu hiệu đầu tiên xuất hiện, đôi khi đă quá muộn màng bởi v́ đó là nhồi máu cơ tim hay một cục máu đông gây nên một tai biến mạch máu năo ”, GS Ernst Rietzschel, thuộc Đại học Gand (Bỉ), đă giải thích như thế.

Chữ dịch bệnh (épidémie) phải chăng làm cho các bạn choáng ? Nhưng làm sao gọi cách nào khác, một tập hợp các bệnh mà các nguyên nhân đều thông thường và giết chết 54% các phụ nữ châu Âu (và 42% những trường hợp chết sớm, trước tuổi 75) và 43% các người đàn ông, ngay trước cả ung thư, các tai nạn và những nguyên nhân tử vong khác ? Chỉ riêng ở châu Âu, cứ mỗi phút có 8 người chết v́ nguyên nhân tim mạch. Đó là một gánh nặng to lớn đối với xă hội. Chính những người thường hoạt động lại ra đi một cách đột ngột. Nhưng cũng có phí tổn to lớn trong việc điều trị bệnh nhân, ở Bỉ hơn 4 tỉ, và gần 200 tỉ trên b́nh diện châu Âu.

TRÁNH SỰ VỠ CỦA MẢNG XƠ MỠ.

Tuy vậy, sự nghiên cứu và y khoa t́m ra được các giải pháp : như là, từ những năm 70, tỷ lệ tử vong đă sụt giảm một nửa. Nhờ những biện pháp cải thiện chế độ ăn uống, ngừng thuốc lá và những biến đổi lối sống khác, nhưng cũng nhờ tác dụng thuốc lên cholestérol. Thật vậy 3/4 những người đàn ông từ 51 đến 55 tuổi bị, ở những mức độ khác nhau, chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose), tiến triển bên trong của các động mạch do sự tích tụ dần dần lipide, glucide phức hợp, máu và những sản phẩm máu, các mô mỡ, những lắng đọng vôi và những chất khoáng khác. Thiết diện của các động mạch do đó bị thu hẹp lại từ bên trong, nhưng nhất là, một mảng xơ mỡ được tạo thành chứa những chất phế thải này. Mảng xơ mỡ này, mà thành càng ngày càng trở nên mảnh khảnh, có thể vỡ đột ngột. Các chất bên trong mảng đột ngột được phóng thích vào trong tuần hoàn máu, có thể gây nên một cục máu đông, và chính cục máu đông này có thể gây nên một nhồi máu cơ tim, một tai biến mạch máu năo hoặc...không ǵ cả.

Khi những bệnh nhân, đă bị một tai biến mạch máu, được xử trí kịp thời và đă sống sót, ta chống lại sự trầm trọng hóa của mảng xơ mỡ, nhất là nhờ các thuốc của lớp các statines. Nhưng người ta ngày càng mở rộng sự sử dụng của những loại thuốc statine này trước khi xảy ra tai biến mạch máu, để tai biến xảy ra muộn hơn và kể cả không xảy ra bao giờ. Đó là trường hợp với rosuvastatine (Crestor), một loại thuốc vừa chứng tỏ tính hiệu quả của nó lên một profil ít thông thường của các bệnh nhân : những bệnh nhân có một nồng độ LDL (cholestérol xấu) b́nh thường nhưng lại có một profil nguy cơ tim mạch cao (tuổi, giới tính, tính di truyền, cao huyết áp, bệnh đái đường, chứng nghiện thuốc lá, chứng béo ph́) làm cho những bệnh nhân này có một nguy cơ 5% bị tai biến chết người trong 10 năm. Do đó đă thúc đẫy cơ quan dược phẩm châu Âu mở rộng sự sử dụng của rosuvastatine đối với loại bệnh nhân đặc biệt này.
(LE SOIR 7/9/2010)

florida80 06-04-2019 19:08

CHOLESTEROL : KHI NÀO PHẢI ĐIỀU TRỊ ?


Quote:
NHỮNG ĐIỂM MỐC

MỠ. Cholestérol, từ chữ Hy lạp cổ chole-(“mật ”) và stereos (“ rắn”), có tên này là do nó đă được khám phá dưới dạng rắn trong những sỏi mật vào năm 1758 bởi thầy thuốc và nhà hóa học Pháp François Poulletier de la Salle.

HÓA HỌC. Phân tử khá phức tạp về phương diện hóa học này, mà công tŕnh nghiên cứu đă mang lại 3 giải Nobel cho các nhà nghiên cứu đă quan tâm đến nó, là một lipide (do đó nó được xếp vào trong số các chất mỡ) tuyệt đối cần thiết cho cơ thể. Cholestérol là một trong những chất ciment thiết yếu của các màng tế bào và cũng là chất cơ bản của nhiều vitamine và hormone. Và nó không phải là chất mỡ duy nhất lưu thông trong máu của chúng ta. Sự thặng dư của nó có thể tỏ ra có hại. Nhưng tính độc hại của cholestérol là do các chất chuyên chở (véhicule) hơn là do chính bản thân cholestérol.

L VA LDL. Đó là những chữ viết tắt của các “ công ty vận tải ” của cholestérol trong máu. Không có những protéine này, cholestérol, v́ không tan trong nước, nên không thể đi vào trong những tế bào để được sử dụng ở đó. LDL có nhiệm vụ giao cholestérol vào trong các cơ quan và các mô từ gan và ruột, là những nơi nó được sản xuất. HDL quét sạch cholestréol dư thừa và mang nó đến gan để làm thoái biến.

CÂN BẰNG. Khi sự quân b́nh giữa hai cách này, phân bố và loại bỏ, bị phá vỡ, các chất ứ đọng có thể được tạo thành bên trong các thành động mạch. Mối liên hệ giữa nồng độ cholestérol trong máu và sự gia tăng nguy cơ tim-mạch dường như ngày nay được xác lập rơ.

STATINES. Một trong những tranh căi hiện nay có liên quan đến vai tṛ của các thuốc được gọi là statines. Những chất làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant) này được sử dụng để làm giảm nồng độ cholestérol trong máu. Việc sử dụng và các chỉ định không tạo được sự nhất trí.

Có thể tác động một cách hiệu quả để pḥng ngừa những tai biến tim-mạch.

ARTERES. Sự thặng dư cholestérol là nguyên nhân đầu tiên của chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose), chịu trách nhiệm mỗi năm ở Pháp 200.000 bệnh tim do thiếu máu cục bộ (nhồi máu cơ tim hay các hội chứng động mạch vành) và 80.000 tai biến mạch máu năo. Cần thiết cho cơ thể, cholestérol được vận chuyển trong máu dưới dạng lipoprotéine phức hợp : LDL, hay “ cholestérol xấu ”, có nhiệm vụ vận chuyển cholestérol từ gan đến các mô, và HDL, hay “ cholestréol tốt ”, có nhiệm vụ mang cholestérol từ các mô về gan, ở đây cholestérol được dùng trở lại hay bị loại bỏ. Khí quá mức, LDL đọng lại trên các động mạch, trong khi HDL tăng cao lại bảo vệ chống lại chứng xơ mỡ động mạch. Các phần tử khác, VLDL, vận chuyển các triglycéride nhưng cũng chuyên chở một ít cholestérol.


LDL là tác nhân quan trọng của sự tạo thành các mảng xơ mỡ (plaque d’athérome), một quá tŕnh liên tục suốt cả cuộc đời. “ Những động mạch của những người trẻ tuổi chết vào năm 20 hay 30 tuổi đă cho thấy những đường rạch mỡ (stries graisseuses). Trừ phi theo chế độ ăn chay một cách nghiêm ngặt ngay tuổi ấu thơ, dường như khó thoát được các đường rạch mỡ này ”, GS Jean Ferrières, thầy thuốc chuyên khoa tim, CHU de Toulouse, đă nhấn mạnh như vậy. Ta hiểu càng ngày càng rơ ràng các mảng xơ mỡ này được cấu tạo như thế nào. Các phần tử LDL tích tụ trong lớp nông của các thành động mạch, ở đây được oxy hóa dần dần và bị ăn bởi các đại thực bào ; những đại thực bào này được biến đổi thành những tế bào bọt (cellule spumeuse) chứa đầy cholestérol. Mảng được tạo thành như thế trở nên hóa sợi và viêm. “ Lúc lớn lên, mảng làm tắc động mạch và hạn chế sự cung cấp máu vùng hạ lưu, điều này gây nên cơn đau thắt ngực hay viêm động mạch. Nếu mảng không vững và vỡ, một huyết khối (thrombus) được tạo thành lúc tiếp xúc với máu và có thể bít động mạch, gây nên nhồi máu hay một tai biến mạch máu năo ”, GS Michel Krempf, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU de Nantes đă tóm tắt như vậy.

“ V́ mối liên hệ giữa nguy cơ tim-mạch và nồng độ LDL trong máu liên tục, nên phải giảm nồng độ LDL khi nguy cơ tim mạch càng cao. Nguy cơ này được tính bằng cách xét đến tuổi tác, giới tính, huyết áp, các tiền sử t́m-mạch, chứng nghiện thuốc lá và bệnh đái đường của bệnh nhân, GS Eric Bruckert, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU Pitié-Salpetrière (Paris) đă giải thích như vậy. Có một sự nhất trí tuyệt đồi về sự cần thiết phải làm hạ cholestérol của những người có nguy cơ tim mạch cao. Và không có lư do phải điều trị những người có nguy cơ thấp mà xác suất tai biến tim-mạch trong mười năm là dưới 10%. Quyết định tế nhị hơn đối với những người có nguy cơ ở mức trung gian. Như vậy, có vẻ dường như hợp lư khi điều trị một người đàn ông 60 tuổi bị bệnh đái đường, mặc dầu cholestérol của ông ta không cao lắm, và không điều trị một phụ nữ 30 tuổi nhưng không có yếu tố nguy cơ nào khác một nồng độ cholestérol hơi cao ”, ông ta nói tiếp như vậy. Trong thực hành, ta xem như là có thể chấp nhận được một nồng độ cholestérol toàn thể quanh 2g/L và LDL quanh 1,3g/L. Nhưng nơi một người có nguy cơ cao, ta t́m cách để có được một LDL dưới 1g/l , và 0,70g/l trong pḥng ngừa thứ cấp sau một nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu năo.

Mới đây, tạp chí y khoa độc lập Cochrane kêu gọi thận trọng trong việc kê đơn statines, thuốc làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant), nơi những người có nguy cơ tim-mạch thấp, nhấn mạnh những hạn chế của các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trong 10 năm về sự đóng góp của các thuốc chống cholestérol quan trọng này trong sự pḥng ngừa nguyên phát các tai biến tim mạch. Điều này làm phát động trở lại cuộc tranh luận, mặc dầu, GS Bruckert đánh giá, “ công tŕnh nghiên cứu này chỉ nói lại điều mà tất cả chúng ta đă nói : trong pḥng ngừa nguyên phát, nơi những người có nguy cơ thấp, tỷ suất lợi ích/nguy cơ của statine không được tốt ”. Nơi những người có nguy cơ cao, statine, do làm hạ thấp nồng độ LDL, làm giảm 30% nguy cơ tai biến tim mạch, nhưng đôi khi với cái giá bị đau cơ. Statine làm giảm sự tổng hợp cholestérol, nhưng việc khám phá những tác dụng kháng viêm cũng gợi ư những cách tác dụng khác.

THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG.

C̣n về HDL, các công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng một nồng độ tăng cao có một tác dụng bảo vệ, nhưng chuyển hóa của nó là phức hợp hơn nhiều so với chuyển hóa của LDL. Những kết quả đầu tiên của anacetrapib, một thứ thuốc đang được thử nghiệm có tác dụng làm gia tăng HDL do ức chế sự biến đổi nó thành VLDL, dường như đầy hứa hẹn.

Tuy nhiên sự biến đổi các thói quen ăn uống vẫn là cơ sở của điều trị đối với những người có nguy cơ ở mức độ vừa phải. Sự biến đổi này nhằm giảm các thức ăn giàu mỡ bảo ḥa (graisses saturées), nhất là nguồn gốc động vật, như bơ, phó mát, thịt mỡ (ngoại trừ cá).. và sử dụng dầu thực vật giàu mỡ không bảo ḥa (graisses insaturées). “ Đó thật sự là một chiến lược quan trọng, được bắt đầu ngay thời kỳ ấu thơ, nhằm tránh một phần lớn những vấn đề liên quan đến sự thặng dư cholestérol ”, GS Bruckert đă nhấn mạnh như vậy. Những dịch bệnh béo ph́ hiện nay, do làm gia tăng các triglycéride, cũng làm gia tăng LDL trong máu và báo hiệu một dịch bệnh đái đường, nguy cơ chống lại những tiến bộ đă đạt được và hẳn đưa đến một chính sách pḥng ngừa tích cực hơn.
(LE FIGARO 14/3/2011)

florida80 06-04-2019 19:09

BƯỚC ĐỀU PHẢI CHĂNG CÓ THỂ CẢI THIỆN HY VỌNG SỐNG ?

Pesseur André Vacheron
Président honoraire de l’Académie nationale de médecine

Quote:
15 phút hoạt động vật lư mức độ nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, theo một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố năm 2011.
150 phút bước mỗi tuần được khuyến nghị đề pḥng ngừa những nguy cơ tim mạch.


T́nh trạng bất hoạt vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá nhiều calorie, làm dễ sự tăng thể trọng, chứng béo ph́, cao huyết áp, những bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường.

Sự nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité : từ chữa latin “ sedere ” nghĩa là ngồi) là một trong những tai ương của thế giới ngày nay. Thời gian trôi qua trước một màn ảnh ordinateur hay máy truyền h́nh đă trở thành một chỉ dấu cổ điển của t́nh trạng không hoạt động này. Đối với Tổ chức y tế thế giới, những người thực hiện dưới 30 phút mỗi ngày hoạt động vật lư ở mức trung b́nh có thể được xem như bất hoạt về mặt vật lư. T́nh trạng bất hoạt vật lư (inactivité physique) gia tăng với tuổi tác, bị làm trầm trọng bởi những yếu tố xă hội học và tâm lư học. Con người hiện đại không biết bước, chỉ biết xê dịch bằng xe hơi, các cầu thang cơ học và các thang máy.

T́nh trạng không hoạt động vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá giàu calories, làm dễ sự gia tăng thể trọng (surpoids), chứng béo ph́, cao huyết áp, những t́nh trạng bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường. Đó là một yếu tố độc lập của tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong tim mạch. Ở những người bị bệnh đái đường, hoạt động vật lư cải thiện sự bắt giữ glucose bởi các tế bào cơ, gia tăng tính nhạy cảm đối với insuline và làm dễ sự kiểm soát đường huyết. Đó là một yếu tố quan trọng của điều trị. Ngày nay ta biết rằng những hiện tượng viêm làm dễ sự phát triển chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose).

SỰ TĂNG CAO CỦA CHOLESTEROL TỐT.

Một hoạt động vật lư đều đặn làm giảm những chỉ dấu (marqueur) của hiện tượng viêm. Nó cũng làm giảm sự ngưng kết của các tiểu cầu (agrégation des plaquettes) máu và nguy cơ bị huyết khối (thrombose). Hoạt động vật lư làm gia tăng “ cholestérol tốt ” HDL, có tác dụng bảo vệ thành mạch máu. Nó tạo điều kiện để làm giảm t́nh trạng tăng thể trọng, bệnh béo ph́ và sự nhàn rổi không hoạt động, cũng là những yếu tố nguy cơ làm xuất hiện các ung thư.

Câu trả lời xác định cho câu hỏi ban đầu một lần nữa vừa được xác nhận bởi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố trong Lancet ngày 1 tháng 10 năm 2011.

Các tác giả (Chi Pang Wen và các cộng sự viên) đă theo dơi hàng năm từ năm 1996 đến 2008 (trung b́nh 8 năm) một tập hợp 416.175 người (199.265 đàn ông và 216.910 phụ nữ) tuổi tối thiểu 20. Bảng câu hỏi ban đầu liên quan đến lối sống và hoạt động vật lư của những người được tuyển mộ. Hoạt động được đánh giá theo cường độ liên quan với những tương đương chuyển hóa : nhẹ như bước thông thường, vừa phải như chạy jogging, trung b́nh như bước nhanh, mạnh như chạy bộ, và theo lượng, số phút mỗi tuần.

Trong 8 năm, so sánh với những người không hoạt động, tỷ lệ tử vong toàn thể của những người có một hoạt động vật lư nhẹ (đi bộ b́nh thường) đă giảm 14%, tỷ lệ tử vong tim mạch giảm 19%, tỷ lệ tử vong động mạch vành 25%, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo giảm 12%, tỷ lệ tử vong do bệnh đái đường 1%, tỷ lệ tử vong do ung thư 10%.

Sự giảm tử vong toàn bộ tỷ lệ với thời gian hoạt động vật lư hàng ngày và cường độ của nó : 15 phút hoạt động vật lư nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, lợi ích gia tăng với thời gian và cường độ của hoạt động mỗi ngày.

Công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan đă có tính đến nhiều yếu tố có khả năng gây nhầm lẫn, những chỉ dấu của một t́nh trạng sức khỏe cơ bản tốt và những kết quả của nó đă không khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, trọng lượng, sự hiện diện của một cao huyết áp hay bệnh đái đường.

Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh lợi ích, trong pḥng ngừa tim mạch, của việc bước ít nhất 30 phút mỗi ngày hay 150 phút mỗi tuần. Công tŕnh nghiên cứu của Wen và các cộng sự viên chứng tỏ rằng hoạt động vật lư hàng ngày, ngay cả nhẹ, cũng có lợi ích. Thế mà hoạt động như thế không khó thực hiện cũng chẳng tốn kém ǵ...
(LE FIGARO 2/4/2012)

florida80 06-04-2019 19:13

CÁC LOẠI THUỐC CHỐNG CHOLESTEROL LÀM GIẢM BỆNH TRẦM CẢM.

Một công tŕnh nghiên cứu, vẫn c̣n cần được xác nhận, cho thấy rằng các statines làm giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm.

SANTE. Các statines, họ các loại thuốc nhằm làm giảm nồng độ cholestérol, đều đặn được gán cho những lợi ích khác với những lợi ích mà ta quan sát thấy trên hệ tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu mới, được công bố hôm 21/2 vừa qua trong The Journal of Clinical Psychiatry đă kết luận rằng các statines cũng làm giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm.

Một nhóm nghiên cứu của Hoa Kỳ đă theo dơi trong 6 năm một nhóm 965 bệnh nhân có một bệnh về tim và được tuyển mộ trong nhiều bệnh viện khác nhau của Californie. Trong số những bệnh nhân này, 65% đă dùng statines để điều trị bệnh. Những thuốc này cho phép làm giảm nồng độ cholestérol xấu và cải thiện tiên lượng ở những bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch. Thật vậy, đó là những loại thuốc được kê đơn nhiều nhất trên thế giới.

Những dữ kiện trước đây gợi ư một sự giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm khi sử dụng statines. Tuy nhiên, các kết quả của vài công tŕnh nghiên cứu lại mâu thuẫn nhau. Do đó để biết rơ hơn, các tác giả đă đánh giá mối liên hệ giữa statines và những rối loạn khí chất (trouble de l’humeur) ở 965 bệnh nhân này theo tiến triển của thời gian. Các triệu chứng trầm cảm được đánh giá mỗi năm nhờ Patient Health Questionnaire, một bảng câu hỏi (auto-questionnaire) cho phép đo lường những triệu chứng khác nhau trong hai tuần trước đó : sự rầu rĩ, mệt, giảm ḷng tự tin, những ư nghĩ tự tử...

Các tác giả đă chứng thực rằng vào lúc tuyển mộ, các bệnh nhân sử dụng statines có một điểm số trầm cảm (score de dépression) trung b́nh thấp hơn những người không sử dụng, và sự khác biệt này được xác nhận, thậm chí gia tăng, suốt trong thời kỳ theo dơi. Những người dùng statines càng ngày càng ít bị trầm cảm trong khi những người không sử dụng thấy nguy cơ này gia tăng. Sau 6 năm, 28% những người được điều trị bởi statines sau cùng ít nhất đă bị một đợt trầm cảm nhẹ hay trầm trọng hơn, so với 40% những người không sử dụng. Ngoài ra, ở 776 bệnh nhân không có những triệu chứng trầm cảm vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu, nguy cơ trầm cảm đă giảm 38% trong trường hợp dùng statines so với những bệnh nhân không bị trầm cảm lúc khởi đầu và không sử dụng statines. Dĩ nhiên, các tác giả đă tính đến những dị biệt về profil được quan sát giữa những bệnh nhân được điều trị hay không, đó là giới tính, chứng nghiện thuốc lá, sự hiện diện của những bệnh lư khác hay tŕnh độ học vấn.

Đối với các tác giả, những kết quả đáng phấn khởi này ăn khớp với những kết quả của những công tŕnh nghiên cứu quan sát trước đây. Thế mà những bệnh nhân bị những bệnh tim mạch có nguy cơ bị một bệnh trầm cảm hơn dân chúng nói chung. Nếu mối liên hệ này được xác nhận, những hậu quả có thể quan trọng trên phương diện y tế công cộng.

“ NHIỀU SAI LỆCH ”

GS Mary Whooley, đồng tác giả của các công tŕnh nghiên cứu ở Đại học San Francisco, đánh giá rằng “ hiệu quả này có thể được giải thích bởi tác dụng của statines chống lại chứng xơ mỡ động mạch ở năo bộ, dường như làm gia tăng nguy cơ bị trầm cảm ”. Tuy nhiên GS Mary nhắc lại rằng đó chỉ là những dữ kiện quan sát. “ Những dữ kiện này không cho phép xác lập một mối liên hệ nhân quả và dĩ nhiên đ̣i hỏi được xác nhận bởi những công tŕnh khác. Thế mà cho đến nay, những thử nghiệm này đă không cho thấy lợi ích tâm lư của các statines ở những người sử dụng ”, bà đă công nhận như vậy.

BS Philippe Giral, thuộc khoa nội tiết của hôpital de la Pitié-Salpetrière (Paris) về phần ông tỏ ra dè dặt hơn nhiều về những kết quả này. “ Trong công tŕnh nghiên cứu này có nhiều sai lệch mà nhiều điều chỉnh của phân tích thống kê không thể xóa bỏ, như việc thiếu tirage au sort các bệnh nhân. Trong cùng loại công tŕnh nghiên cứu, các statine đă cho thấy rằng chúng làm giảm nguy cơ găy cổ xương đùi hay cả nguy cơ xuất hiện ung thư. Tất cả những kết quả này đă bị phủ nhận bởi những công tŕnh nghiên cứu khác ! ” ông ta đă minh định như vậy. Những công tŕnh nghiên cứu khác với quy mô lớn hơn là cần thiết để xác nhận hay phủ nhận những dữ kiện này.
(LE FIGARO 27/3/2012)

florida80 06-04-2019 19:17

UNG THƯ BÀNG QUANG (BLADDER CANCER)

Lynn Ly tổng hợp thông tin về Thư Ung Thư Bàng Quang
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 25 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (6/5/2007)

7/ BỆNH LẬU VÀ UNG THƯ BÀNG QUANG

Bệnh lậu (gonococcie hay blennorragie), là một nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục, có tần số gây bệnh gia tăng từ vài năm nay, với số giống gốc (souches) lậu cậu đề kháng với kháng sinh gia tăng. Theo một công tŕnh nghiên cứu trên 51.000 người đàn ông, nguy cơ bi ung thư bàng quang sẽ 2 lần cao hơn trong trường hợp có tiền sử bệnh lậu.

Phản ứng viêm tại chỗ và sự tồn lưu của cặn nước tiểu sau khi tiểu tiện giải thích sự liên kết giữa nhiễm trùng thường gây đau đớn này và nguy cơ xuất hiện u bàng quang.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)

florida80 06-04-2019 19:18

UNG THƯ BÀNG QUANG : MỘT CHẨN ĐOÁN MỚI BẰNG NH̀N HUỲNH QUANG

Giáo Sư Thierry Lebret, thầy thuốc chuyên khoa tiết niệu của bệnh viện Foch de Suresnes, b́nh luận những tiến bộ về ung thư bàng quang, được tŕnh bày nhân hội nghị chuyên đề mới đây về các ung thư niệu-sinh dục ở San Francisco.

Hỏi: Người ta ít nói về ung thư bàng quang. Có phải loại ung thư này hiếm xảy ra chăng?
Giáo sư Thierry Lebret : Trái lại là khác ! Về mức độ thường xảy, th́ đó là ung thư đứng hàng thứ 4 ở đàn ông và đứng hàng thứ 7 ở phụ nữ.Tính tổng cộng, người ta thống kê được 10.000 trường hợp ung thư bàng quang mới mỗi năm ở Pháp.

Hỏi: Có những người có bẩm chất bị ung thư bàng quang và có những yếu tố nguy cơ đặc biệt không?
Giáo sư Th.L : Không có khuynh hướng gia đ́nh trong sự phát sinh ung thư này.Thuốc lá là nguyên nhân chính của sự phát triển các khối u bàng quang. Bàng quang là một cơ quan đặc biệt dễ bị gây thương tổn bởi các hợp chất hóa học. Thuốc lá giải thích sự khác nhau về tần số mắc bệnh giữa hai giới tính. Nhiễm độc thuốc lá ở đàn ông phổ biến hơn đàn bà. Cũng không nên quên vài độc chất nghề nghiệp, như thuốc nhuộm (thí dụ aniline) và vài dẫn xuất hóa học được dùng trong chế tạo cao su và các chất cách nhiệt (isolants de chauffage)

Hỏi: Nếu được phát hiện kịp thời, đó có phải là một ung thư mà ta thuờng chữa lành?
Giáo sư Th.L: Nh́n toàn bộ, ung thư bàng quang được chữa lành trong 80% các trường hợp. Nhưng điều chủ yếu là sự phát hiện sớm và chất lượng của chẩn đoán.

Hỏi: Những triệu chứng thường thấy nhất của ung thư bàng quang là ǵ?
Giáo sư Th.L : Hầu như luôn luôn chính sự xuất hiện của máu trong nước tiểu báo động bệnh nhân. Bất thường này không nhất thiết phải tương quan với một khối u bàng quang và cũng có thể chỉ do một nhiễm trùng đường tiết niệu, sỏi hay một thương tổn của thận. Dầu sao đi nữa, việc chứng nhận nước tiểu hồng hay đỏ, có hay không có cục máu đông, đều cần phải được thăm ḍ. Những triệu chứng khác có thể được biểu hiện, như muốn đi tiểu không cưỡng được hoặc đi tiểu quá nhiều lần, đôi khi đau bụng.

Hỏi: Ung thư bàng quang được chẩn đoán như thế nào?
G.S Th.L : Bắt đầu bằng t́m kiếm trong nước tiểu những tế bào bất thường (frottis urinaire) nhưng xét nghiệm duy nhất cho phép dẫn đến chẩn đoán cuối cùng là nội sợi soi bàng quang (fibroscopie vésicale).

Hỏi : Thăm ḍ này được tiến hành như thế nào?
G.S Th.L: công cuộc thăm ḍ này chỉ cần 5 phút, được thực hiện ở pḥng khám và chủ yếu là đưa vào đường tiết niệu những vi sợi quang học (microfibres optiques), được đẩy ngược ḍng cho đến bàng quang để thăm ḍ. Việc làm nhỏ dụng cụ quang học đă cho phép làm cho khám nghiệm này rất ít đau đớn và chịu đựng được tốt bởi các ông cũng như các bà. Trong bàng quang, khi có một khối u, khối u này thường xuất hiện dưới dạng một polype màu dâu tây, phải được lấy đi vài ngày sau đó.

Hỏi : Cho đến nay, những kết quả nào đă thu được với phương cách cổ điển này và những điều bất lợi nào đă buộc phải hiệu chính một trắc nghiệm mới ?
G.S Th.L : Vào lúc cắt bỏ, chúng tôi có thể loại bỏ hoàn toàn 70% các khối u bàng quang. Sau đó, sự phân tích dưới kính hiển vi mô được lấy ra sẽ hướng dẫn bước tiếp theo của điều trị. Nếu khối u ở nông, trường hợp thông thường nhất, th́ động tác giải phẫu sẽ dừng lại ở đó. Người ta sẽ hoàn tất cuộc giải phẫu bằng cách tiêm vào bàng quang các chất chống ung thư, mỗi tuần một lần, trong 6 tuần. Nghi thức điều trị này cho phép chữa lành bệnh, không tái phát 2 trên 3 trường hợp. Nhưng tiếc thay, và rất thường xảy ra với loại ung thư này, các vi thương tổn (microlésions) không nh́n thấy được, vẫn hiện diện trong những nơi khác của bàng quang, và về sau sẽ là mầm mống của tái phát và của sự phát triển ung thư không được để ư đến. Một phần lớn của tiên lượng của ung thư này là trong khả năng lấy đi toàn bộ các thương tổn ngay trong lần giải phẫu bằng nội soi đầu tiên.

Hỏi: Kỹ thuật mới này là ǵ và được thực hiện như thế nào?
G.S Th.L: Một giờ trước khi thủ thuật, người ta sẽ tiêm vào bàng quang một chất không gây đau. Chất này sẽ gắn một cách đặc hiệu vào tất cả các thương tổn hiện diện, dầu cho bé nhỏ thế nào đi nữa. Sau đó, dưới cái nh́n của nhà ngoại khoa, các thương tổn này sẽ xuất hiện dưới dạng huỳnh quang, nếu phẫu thuật viên nh́n bàng quang bằng ánh sáng màu xanh. Trắc nghiệm này là một cuộc cách mạng thật sự trong chẩn đoán sớm bệnh ung thư bàng quang bởi v́ ung thư càng khám phá sớm, th́ cơ may chữa lành càng lớn.

Hỏi: Những công tŕnh nghiên cứu nào đă chứng tỏ hiệu quả của trắc nghiệm mới này?
G.S Th.L: Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă xác nhận kỹ thuật này, vừa nhận được sự chấp thuận sử dụng của 27 nước châu Âu. Trong những thể ung thư hung hăn nhất và khó nh́n thấy nhất (các ung thư tại chỗ : carcinomes in situ), tỷ lệ được phát hiện, trước khi có trắc nghiệm này là dưới 50%. Từ nay tỷ lệ này tăng lên 95% dưới ánh sáng xanh ! Điều này cũng muốn nói rằng tỷ lệ chữa lành của những ung thư bàng quang hẳn phải c̣n gia tăng và số các trường hợp tái phát sẽ giảm rất rơ rệt.

Hỏi: Nếu các thương tổn ung thư bàng quang tiến triển hơn (20-25% các trường hợp), có những tiến bộ trong điều trị không?
G.S Th.L: Khi ung thư thâm nhiễm sâu hơn vào thành bàng quang, phải dự kiến cắt bỏ toàn bộ cơ quan và thay thế bằng một đoạn ruột được khuôn theo. Một tiến bộ quan trọng: ngày nay các kỹ thuật thay thế, mà trước kia dành cho đàn ông, từ nay cũng được đề nghị cho phụ nữ. Kỹ thuật này cho phép đảm bảo cho bệnh nhân không bị chứng són đái (incontinence urinaire) sau khi mổ, phù hợp với một hoạt động xă hội b́nh thường, mà không làm biến đổi sơ đồ của cơ thể. Nguồn: PARIS MATCH 20/3 - 26/3/2008

florida80 06-04-2019 19:19

CÁC THỢ HỚT TÓC CÓ NGUY CƠ GIA TĂNG BỊ UNG THƯ BÀNG QUANG

Việc sử dụng các chất nhuộm (colorants) và những sản phẩm hoá học khác sẽ gây nên một nguy cơ gia tăng cho các thợ hớt tóc, theo Trung tâm quốc tế nghiên cứu về ung thư, có cơ sở ở Lyon. Các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi cơ quan này của OMS đă được báo cáo bởi tạp chí The Lancet Oncology trong số tháng 4. Một nguy cơ đặc biệt bị ung thư bàng quang, mặc dầu thấp nhưng có thật, đă được nêu lên trong báo cáo. Nguy cơ này dường như ở phụ nữ ít rơ rệt hơn. Các chất hoá học được sử dụng bởi các thợ hớt tóc đă được phân tích. Trong số các chất này, có những chất như ortho-toluidine, được sử dụng trong việc chế tạo các sắc tố và được xếp loại là chất gây ung thư.

Ngược lại, các chuyên gia không xác lập mối liên hệ với các nguy cơ mắc phải ung thư khả dĩ xảy ra nơi những người tự nhuộm tóc. Ở Châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ, có khoảng 35% các phụ nữ và 10% các ông tự nhuộm lấy tóc của ḿnh.
(LE MONDE 27/3/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 153 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (21/12 /2009)

10/ UNG THƯ BÀNG QUANG : COI CHỪNG THUỐC LÁ.

Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ, được tiến hành ở New Hampshire trong 20 năm, nơi hơn 2000 bệnh nhân, chỉ rơ rằng ung thư bàng quang tiến triển hằng định, chủ yếu là do thuốc lá. Thuốc lá nhân nguy cơ mắc phải ung thư bàng quang lên 5 lần nơi người hút thuốc, so với những người không hút thuốc. Nguy cơ vẫn tồn tại dài lâu sau khi đă ngừng hút thuốc. Nguy cơ giảm rơ rệt trong 5 năm đầu sau khi ngừng hút thuốc nhưng vẫn trên mức chuẩn cho đến 20 năm sau khi ngừng hút.
(PARIS MATCH 10/12-16/12 /2009)


All times are GMT. The time now is 20:46.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.23620 seconds with 9 queries