![]() |
Nhớ Sàig̣n quá....
t́nh cờ gặp lại những h́nh ảnh thân thương của Sàig̣n ngày ấy. Qua bản nhạc Con Đường T́nh Ta Đi với giọng ca của Sỉ Phú. |
12 Attachment(s)
Tiếp theo...
Ngày 29-4-1975. Một nhân viên CIA (có lẽ là O.B. Harnage) đang giúp những người di tản VN đi lên một chiếc trực thăng Air America trên sân thượng ṭa nhà số 22 đường Gia Long, cách Ṭa ĐS Mỹ nửa dặm. Những người đi tị nạn đang chờ bên hồ bơi trong ṭa đại sứ và họ đang ngồi chờ đợi trực thăng đưa ra hạm đội Những người di tản này đang chờ trực thăng tới bốc đi Những người may mắn được lên trực thăng ngay trong sân ṭa đại sứ Mỹ |
5 Attachment(s)
Tiếp theo...
Tại Cơ Quan Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (DAO) - Sài G̣n Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bảo vệ băi đáp cho trực thăng trong việc di tản nhân viên Mỹ , Việt trong sân DAO |
11 Attachment(s)
Tiếp theo...
Tại Phi trường Tân Sơn Nhất - Sài G̣n Ngày 4 - 4 - 1975, tại căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất. Người của phái bộ Mỹ đưa 250 trẻ em mồ côi tại Việt Nam đi lên chiếc máy bay C-5A Galaxy Các phụ nữ người của phái bộ Mỹ tại Sài G̣n đang thắt dây an toàn trong máy bay C-5A Galaxy cùng với các trẻ em mồ côi tại Việt Nam. Họ chuẩn bị trên đường tới căn cứ Không Quân Clark tại Philippines Chiếc C-5A Galaxy này chở 250 trẻ em và 50 người của Phái bộ Mỹ. Đă bị rơi cách đường băng một dặm sau khi hệ thống điều ḥa áp xuất bị hỏng Chiếc máy bay C-5A Galaxy, là loại lớn nhất Ngày 4 - 4 ? 1975, những người lính Mỹ đang t́m những em bé trong chuyến bay C-5A Galaxy bị rớt Và chỉ c̣n 120 em nhỏ sống sót Ngày 5 - 4 - 1975, Tổng Thống Ford đang bồng em bé cô nhi Việt Nam tại Mỹ. Những người phụ nữ Mỹ cưu mang 216 em bé cô nhi Việt Nam . Chiếc máy bay quân sự Mỹ đưa 216 cô nhi Việt Nam ra khỏi Việt Nam để vào Hoa Kỳ |
11 Attachment(s)
Tiếp theo...
Bà Tisdale c̣n giữ cuốn album h́nh mà những ngày chạy khỏi Việt Nam. Hai tấm này là h́nh những em cô nhi lớn hơn giúp đặt các em nhỏ hơn vào trong giỏ để chuẩn bị lên máy bay Ngày 22 4?1975 , người đàn bà này đang dẩn mấy em nhỏ lên chiếc máy bay C-130 tại Tân Sơn Nhất. Ngày 23 - 4 - 1975, tại phi trường Tân Sơn Nhất Những em bé con lai đang trên may bay đưa về Mỹ Họp báo tại phi trường TSN Chiều ngày 28 - 4 - 1975, tên việt cộng Nguyễn Thành Trung đă dẫn một đoàn A-37 oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất phá hủy một số máy bay tại đây Nguyễn Thành Trung cũng là người thả bom Dinh Độc Lập trước ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức Ngày 30 - 4 - 1975, máy bay bốc cháy tại phi trường Tân Sơn Nhất |
6 Attachment(s)
Ảnh hiếm về kế sinh nhai ở Sài G̣n năm 1950.
Chở khách bằng xe ngựa, lái đ̣ qua sông… là những nghề quen thuộc ở Sài G̣n năm 1950, giờ chỉ c̣n là dĩ văng. Một người đánh xe ḅ chở gỗ trên phố Rue Viénot (nay là đường Phan Bội Châu), Sài G̣n năm 1950. Xe ḅ vẫn là một phương tiện vận tải quan trọng ở Sài G̣n thời thuộc địa. Xe ngựa chở khách trên phố Rue Viénot. Bà mẹ bế con, tay cầm một con cá bước về chiếc thuyền của gia đ́nh ḿnh ở bến Bạch Đằng. Người phụ nữ bán ngao. Hai cha con làm nghề chài lưới trên sông Sài G̣n. |
6 Attachment(s)
Tiếp theo...
Bến đ̣ bên sông Sài G̣n. Gánh hàng ăn vỉa hè dành cho người lao động. Trong một cửa hiệu bán đồ khô. Người phụ nữ bán tranh bên đại lộ Charner (đường Nguyễn Huệ). Người lái xích lô. Xích lô chở khách tại khu vực bến xe trước chợ Bến Thành. |
12 Attachment(s)
Tiếp theo...
Tại những chiếc Hàng Không Mẫu Hạm trên biển đông.HKMH USS MIDWAY Trực thăng Sea Stallion rời USS Midway hướng về Sài G̣n cứu thêm người trong những ngày tháng 4 năm 1975 đồng đội chào tiễn biệt, chúc chuyến bay may mắn Trực thăng của Việt Nam Cộng Ḥa liên tục đáp xuống HKMH USS MIDWAY vào những ngày 29-30 tháng 4 năm 1975 Trực thăng Huey của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa trên tàu HKMH Midway bị xô xuống biển nhường chổ cho người dân di tản . Chiếc trực thăng đă bị đẩy xuống biển Một Thuyền Đánh Cá chở người Di Tản được tàu Midway tiếp cứu Tàu HQ 500 đă đưa người di-tản ra khỏi Sài G̣n |
12 Attachment(s)
Tiếp theo...
Tại những chiếc Hàng Không Mẫu Hạm trên biển đông Đêm 29 - 4 - 1975, chuyến di tản của chiến hạm HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa chữa,chở theo trên 5000 người, rời cầu tàu trong với bao nhiêu là khó khăn, hăi hùng, nguy hiểm. |
12 Attachment(s)
Tiếp theo...
Sau những tai nạn như sập xà lan ngoài Hải Phận Quốc Tế, người chết và bị thương, cảnh hổn loạn ngoài biển đông vào giờ thứ 25 những chiếc tàu ma không người lái zig zag ngoài biễn khơi cuối cùng trực thăng Hoa Kỳ phải bắn ch́m trước khi gây tai nạn, những trực thăng di tản t́m cách đậu vào xà lan chật hẹp và có thể nổ tung khi cánh quạt đụng vào lưới thép bọc bao cát cao quá đầu, những thuyền bè đầy nhóc binh sĩ di tản từ chiến trường Xuân Lộc t́m cách cập vào xà lan để lên tàu Mỹ Ngày 30 - 4 - 1975 , việt cộng tiến vào, những người Mỹ cuối cùng với đoàn người di tản đă được những chiếc trực thăng của TQLC Mỹ đưa ra HKMH đang chờ ngoài biển khơi. Chiến tranh VN đă chính thức đi qua Hộ tống hạm USS Kirk FF-1087, tiến vào Côn Sơn ngày 1 tháng 5, 1975, nơi 30 chiến thuyền. Hàng chục ghe đánh cá và tàu buôn của Nam Việt . Một số tư liệu lịch sử cho rằng đă có đến 30000 người dân tị nạn đang chờ được đưa ra khỏi Việt Nam Một chiếc tàu đưa những người tị nạn Việt Nam đến Chiến Hạm USS Kirk Một sử gia của Bộ Y tế Hải quân Mỹ, Jan Herman, người ghi lại câu chuyện của con tàu Kirk: HKMH Kirk đi gấp rút trong đêm và đến đảo Côn Sơn th́ trời vừa sáng ngày 1- 5-1975. Nơi Côn Sơn đang hổn loạn v́ có khoảng 30 ngàn người tị nạn đang tuyệt vọng trên đường ra khỏi Việt Nam. Những con tàu nhồi nhét đầy người . Không thể nh́n được bên dưới ḷng tàu, nhưng ở trên boong tàu th́ người người chặt cứng san sát nhau". Không đếm được chính xác có bao nhiêu người trên những con tàu. Lời của đô đốc Donald Whitmire, chỉ huy chiến dịch di tản đă nói : "Chúng ta đă quên họ rồi... Và nếu chúng ta không cứu được một số nào hay tất cả, chắc chắn họ sẽ bị giết chết hết". Người Thủy Thủ của USS Kirk săn sóc đứa bé Việt Nam trong chuyến hành tŕnh di tản Đúng 12 giờ trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975 đoàn tàu làm lễ hạ cờ Việt Nam Cộng Ḥa, và dựng cờ Hoa Kỳ. Hạm trưởng Jacobs phái qua mỗi tàu một sĩ quan để nhận bàn giao quyền hành. Giây phút khai tử của đoàn tàu Hạ cờ VNCH bàn giao tàu chiến cho sĩ quan Mỹ để vào Subic Bay, Phillipines. Hạm trưởng Việt Nam Cộng Ḥa trong h́nh là Thiếu Tá Phạm Đ́nh San. Lính và thường dân trên tàu Chí Linh HQ-11 chào cờ lần cuối trước khi trao quyền chỉ huy cho Hải Quân Hoa Kỳ để có thể vào căn cứ Subic Bay Các phóng viên ngoại quốc phỏng vấn Thiếu Tá Phi Công Lư Bửng |
6 Attachment(s)
Chùm ảnh: Khám phá tàn tích của Văn miếu ở Huế ( VC đă phá hoại rất nhiều trong dịp Tết Mậu Thân...)
Khi c̣n nguyên vẹn, Văn miếu Huế là một quần thể kiến trúc bề thế với gần 20 công tŕnh lớn. Nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận xă Hương Long, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Văn miếu Huế (c̣n gọi là Văn Thánh Huế) là di tích gắn với nền khoa cử của nhà Nguyễn, đồng thời cũng là một công tŕnh kiến trúc đặc sắc của kinh thành Huế xưa. Ảnh: Linh Tinh Môn ở bờ sông trước Văn miếu Huế. Theo sử sách, khi các chúa Nguyễn mở mang khai phá phương Nam, Văn Miếu đầu tiên ở Huế được lập tại làng Triều Sơn, đến năm 1770 được dời đến xă Long Hồ. Đến thời vua Gia Long, Văn miếu mới được xây dựng ở vị trí hiện tại vào năm 1808, Văn miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ, tức miếu thờ cha mẹ của Khổng Tử. Ảnh: Đại Thành Môn, cổng dẫn vào trung tâm Văn miếu. Ngoài việc thờ Khổng Tử, Văn miếu Huế c̣n thờ Tứ Phối: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử, cùng Thập Nhị Triết. Bên cạnh đó, nơi đây c̣n thờ các Tiên Hiền và Tiên Nho, những người có công trong việc phát triển đạo Nho. Ảnh: Từ Đại Thành Môn nh́n ra sông Hương. Suốt thời Gia Long trị v́, triều đ́nh nhà Nguyễn chỉ mở các khoa thi hương nên không có tấm bia tiến sĩ nào được dựng ở Văn Miếu. Đến thời Minh Mạng mới mở các khoa thi hội, nên bia tiến sĩ cũng bắt đầu được dựng. Ảnh: Hai dăy nhà Tây Vu, Đông Vu. Từ năm 1831 – 1919, năm có khoa thi Hội cuối cùng dưới thời vua Khải Định, trên 30 tấm bia đá đă được dựng tại Văn miếu Huế, ghi họ tên, tuổi tác và quê quán của 293 vị tiến sĩ. Ảnh: Bia tiến sĩ trong Văn miếu. |
7 Attachment(s)
Tiếp theo...
Từ năm 1831 – 1919, năm có khoa thi Hội cuối cùng dưới thời vua Khải Định, trên 30 tấm bia đá đă được dựng tại Văn miếu Huế, ghi họ tên, tuổi tác và quê quán của 293 vị tiến sĩ. Ảnh: Bia tiến sĩ trong Văn miếu. Có nhiều cái tên nổi tiếng được khắc ghi ở đay, như: Phan Thanh Giản; Phan Đ́nh Phùng; Tống Duy Tân; Nguyễn Thượng Hiền; Nguyễn Khuyến; Chu Mạnh Trinh; Ngô Đức Kế; Huỳnh Thúc Kháng; Vũ Phạm Hàm… Văn Miếu Huế đă được tu sửa, làm mới một số đồ thờ và xây dựng thêm một số công tŕnh phụ vào các năm 1818, 1820, 1822, 1830, 1840, 1895, 1903. Khi c̣n nguyên vẹn, Văn miếu Huế là một quần thể kiến trúc bề thế với gần 20 công tŕnh lớn như: Văn Miếu (điện thờ), Đông vu, Tây vu, Thần trù, Thần khố, Hữu Văn Đường, Duỵ Lễ Đường, nhà Thổ Công, Đại Thành Môn, Văn Miếu Môn, quan Đức Môn, Linh Tinh Môn, la thành, bến vua ngự… Đến năm 1947, khi tái chiếm Huế và đồn trú tại Văn miếu, quân đội Pháp đă tàn phá nặng nề di tích này. Nhiều thập niên sau đó, Văn miếu Huế rơi vào cảnh hoang phế và đổ nát. Ngày nay, Văn miếu Huế chỉ c̣n một số công tŕnh như Linh Tinh môn, Văn Miếu môn, Đại Thành môn, Đông vu, Tây vu, hai nhà bia trước sân miếu, hệ thống bia tiến sĩ… Ảnh: Bia đá trong một nhà bia ở Văn miếu Huế. Nhiều ṭa nhà trong khuôn viên Văn miếu chỉ c̣n lại nền móng. |
8 Attachment(s)
Tiếp theo...
Trên chiếc hộ tống hạm Chí Linh, thủy thủ đoàn phải vứt bỏ súng đạn để được chính quyền Philippines cho phép vào hải phận Vào chiều tối ngày 1 tháng 5 tất cả đă được lên chiếc tàu này có sự bào vệ của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đó là chiếc GREEN FOREST trực chỉ xuôi nam về Subic BayCăn cứ Quân Sự của Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân sau khi cập bến Subic Bay. Một số tàu có vận tải lớn hơn và đi xa hơn đă đậu sẵn và tất cả được chuyễn sang chiếc tàu mới Chiếc AMERICAN RACER có thể chuyên chở đến 5,000 người Trưa ngày 01 tháng 05 năm 1975. Từng đoàn tàu hướng về Phi Luật Tân. Đă bỏ lại sau lưng những bom đạn, những chiến tranh và quê hương thân yêu. Và tiếp tục những ngày tháng sắp đến cho cuộc đời vô định với những tối tăm bao phủ trước mặt..Những chiếc trực thăng này đang đậu trên USS Midway Đoàn chiến thuyền Nam Việt nối đuôi theo chiếc USS Kirk tiến vào Subic Bay, Philippines Nhưng có một ngoại lệ...Ngay lúc đó thuyền trưởng chiếc USS Kirk, đă nhận được một mệnh lệnh bí mật phải quay mũi trở lại Việt Nam Những ngày cuối cùng của các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa Những Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n chiến đấu trong ngày cuối cùng Ngày 28 tháng 4 năm 1975 những Chiến Sĩ Biệt Động Quân VNCH vừa đánh vừa rút dần vào trong thành phố . Trên cầu Văn Thánh cửa ngơ vào Sài G̣n trưa ngày 30 - 4 - 1975 |
6 Attachment(s)
Sân bay Tân Sơn Nhất trước 1975 qua ảnh của lính Mỹ
Trước 1975, Tân Sơn Nhất không chỉ là một sân bay dân sự lớn của khu vực mà c̣n là một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Nhà ga hành khách của sân bay Tân Sơn Nhất năm 1969. Tên chính thức của sân bay lúc này là “Phi cảng Sài G̣n – Tân Sơn Nhất”. Ảnh: George Lane. Khung cảnh trong nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất, 1967. Ảnh: Bill Mullin. Hành khách chuẩn bị lên máy bay tại sân bay Tân Sơn Nhất, 1971. Ảnh: Douglas Elgin. Máy bay của hăng hàng không Continental trên sân bay Tân Sơn Nhất, 1965. Ảnh: Gary Mathews. Khu đỗ máy bay trực thăng quân sự ở căn cứ Tân Sơn Nhất, gần đường Cộng Ḥa. Ảnh: Douglas Elgin. Cổng vào căn cứ trực thăng Tân Sơn Nhất trên đường Cộng Ḥa, 1967. Ảnh: Eaindy. |
10 Attachment(s)
Tiếp theo...
Lính VNCH và phóng viên ngoại quốc đang t́m chổ núp khi đạn cối của cộng sản xuống cầu Tân cảng ngày 28 - 4 - 1975 Trưa 30 - 4 - 1975, Người Chiến Sĩ Biệt Động Quân vẫn c̣n cố gắng liên lạc với cấp chỉ huy của ḿnh NGÀY QUỐC HẬN 30-4-1975 1 GIỜ TRƯA NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975. Các anh Biệt Động Quân vẩn chiến đấu đến giờ thứ 25 khi Dương Văn Minh đả tuyên bô đầu hàng 30 - 4 - 1975, tại trung tâm huấn luyện Quang Trung. Quân phục bỏ lại trên đường ngổn ngang NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bị bức tử, người lính bị bẻ găy súng. |
6 Attachment(s)
Tiếp theo...
NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bị bức tử,người lính bị bẻ găy súng. Nhiều vị Tướng Lănh VNCH đă tự sát . Bảy Người Lính Dù mà trưởng toán là Thiếu Úy Hoàng Văn Thái tụ họp tại một bùng binh trong Chợ Lớn, và họ chọn lựa sự buông súng trong danh dự khi tự kết liễu đời ḿnh sau khi hát xong bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Ḥa . Họ xếp thành ṿng tṛn, mỗi người tay trong tay một quả lựu đạn, mở chốt một lượt. Một tiếng nổ chát chúa tiễn biệt họ ra đi v́ danh dự . Sự tự sát tập thể của 9 Quân Nhân Nhảy Dù . Theo lời tường thuật của anh Trung úy Cảnh sát Nguyễn Văn Đ́nh định cư ở Houston chứng kiến tại hiện trường sự tự sát tập thể của 9 Quân Nhân Nhảy Dù họ nằm trong toán bảo vệ Đài Phát Thanh và Đài Truyền H́nh. Khi lệnh buông súng ban ra toán quân nhân này đă xă súng bắn vào nhau, xác thân họ tan nát . Sự ra đi nhuốm Màu Máu Anh Hùng nhất, đáng kính nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Những người đại diện cho nước Mỹ Graham Martin - Đại Sứ của Mỹ tại Việt Nam Cộng Ḥa Đại Sứ Mỹ Graham Martin trên Chiến Hạm Blue Ridge, Ông ta nói : "This is how I saw American honor"... Danh Dự nước Mỹ đâu phải vầy!!! Bởi còn danh dự gì nữa khi bán đứng đồng minh chống cộng của thế giới Tự Do cho cộng sản. Henry Kissenger đặc phái viên của Tổng thống Mỹ kư tắt Hiệp định Paris - hiệp định bán đứng Việt Nam Cộng Ḥa TT Richard Nixon TT Gerald Ford Ngày 25-3-1975 , cuộc họp của Graham Martin, Frederick Weyand, Henry Kissinger , Gerald Ford (xem theo chiều thuận kim đồng hồ) Bốn ông đang họp về Việt Nam Cộng Ḥa ... Để bỏ rơi , bán đứng một người bạn đồng minh Việt Nam Cộng Ḥa của Thế Giới Tự Do cho cộng sản . |
10 Attachment(s)
Tiếp theo....
Cuộc đời của các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa tại Việt Nam sau 30/4/1975 Sau ngày 30-4-1975 , cộng sản trả thù , hàng ngàn trại tù của cộng sản giam giữ hàng trăm ngàn và giết chết những chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa . Nổi thống khổ bi ai kinh hoàng của người dân Việt Nam tháng tư 1975, trên Quốc Lộ số 1 bao ngàn người chết v́ chạy nạn, bao ngàn người chết v́ chính trị, trên nửa triệu người vượt biên t́m tự do đă không may mắn bỏ ḿnh trên biển cả...Qua bao thăng trầm thế sự xin hảy sống sao cho xứng danh người VN tốt !!! |
10 Attachment(s)
Xem những h́nh ảnh thương tâm của những người lính thương phế binh VNCH
Soldiers of South VN before 1975 - now living under communist regime Những Người Lính Năm Xưa Tao bị thương hai chân, Cưa ngang đầu gối ! Vết thương c̣n nhức nhối. Da non kéo chưa kịp lành... Ngày " Giải phóng Miền nam " Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa trẻ sơ sanh...! Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện " Trong ḷng tao chết điếng, Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK ! Súng " Trung cộng " hay súng của " Nga " ? Lúc này tao đâu cần chi để biết. Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do Miền nam -Nước Việt, Mang chữ " NGỤY " thương binh. Nên " Người anh,em phía bên kia..." Đối xử với tao không một chút thân t́nh...! Mày biết không ! Tao t́m đường về quê nh́n không thấy ánh b́nh minh. Vợ tao: Như " Thiên thần" từ trên trời rơi xuống... Nh́n hai đứa con ngồi trong căn cḥi gió cuốn, Bụi đất đỏ mù bay ! Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay, Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong cơn gío lốc. Cái hay là: Vợ tao dấu đi đâu tiếng khóc. C̣n an ủi cho tao,một thằng lính què ! Tao đóng hai cái ghế thấp,nhỏ bằng tre, Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo... Cho heo ăn thật là "Thoải mái" ! Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi Bông trổ trắng ngần ! Lên liếp trồng rau,thân tàn tao làm nốt. Phụ vợ đào ao sau vườn,rồi thả nuôi cá chốt. Đời lính gian nan sá ǵ chuyện gío sương... Xưa, nơi chiến trường Một thời ngang dọc. Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn khóc"! Vậy mà bây giờ... Nh́n tao...nuớc mắt bả...rưng rưng ! Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng. Kể từ ngày, mày "Được đi Cải tạo"! Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời... Có giúp được ǵ cho nhau đâu khi: Tất cả đều tả tơi ! Rồi đến mùa "H.O" Mầy đi tuốt tuột một hơi. Hơn mười mấy năm trời... Không thèm quay trở lại Kỷ niệm đời Chiến binh Một thời xa ngái. Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn hiu ! Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam Mầy sẽ là "Việt kiều"! C̣n "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy. Tao đếch biết ! Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với tương... C̣n rượu đế tự tay tao nấu Cứ thế, hai thằng ḿnh uống cho đến...điếc ! Trang Y Hạ Năm xưa chồng tôi là người lính,Nơi vùng lửa đạn,Mồ hôi anh đă đổ,Từ Hố Ḅ B́nh Dương, B́nh Long,Đến Thừa Thiên, Quảng Trị.Rồi một ngày anh gục ngă,Tại chiến trường Tây Ninh.Tôi góa phụ xuân xanh,Con thơ chưa tṛn tuổi,Tiễn đưa anh lần cuối,Về nghĩa trang quân đọi Biên ḤaĐă bao nhiêu năm qua,....Bây giờ,Tôi ở nơi xa,Đă có cuộc đời khác.Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn khóc,Thương tiếc xa xăm.Tôi về t́m mộ bia anh giữa chập chùng cỏ dại cây hoang,Để thắp một nén nhang,Nhớ người lính của một thời chinh chiến,Nhớ người chồng của một thuở gối chăn.Năm xưa chồng tôi là người lính,Một lần hành quân,Anh đă bị thương,Máu anh loang ướt vạt cỏ ven đường.Ôi, mảnh đất không tên,Đă giữ chút máu xương người lính trẻ.Đă bao nhiêu năm qua,Bây giờ,Anh thương binh tàn tạ.Sống trên quê hương đôi khi vẫn thấy ḿnh xa lạ,Bạn bè anh,Kẻ mất người c̣n,Kẻ quên người nhớ,Kẻ vô t́nh giữa ḍng đời vất vả.Năm xưa chồng tôi là người lính,Nồng nhiệt tuổi đôi mươi,Lần đầu tiên ra chiến trường,Anh mất tích không t́m thấy xác.Mẹ anh khóc cạn khô ḍng nước mắt,Ḷng tôi nát tan.Đă bao nhiêu năm,Vẫn không có tin anh,Anh ơi, dù quê hương ḿnh đă hết chiến tranh,Tàn cơn khói lửa,Nhưng không phải là một quê hương như anh ước mơ.Anh đă biết chưa?Hỡi người tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!!Năm xưa chồng tôi là người lính,Sống sót trở về sau cuộc đao binh,Sau những tháng năm tù tội,Bây giờ anh không c̣n trẻ nữa.Ĺa xa quê hương,Sống ở xứ người.Những năm thánh chinh chiến đă đi qua,Nhưng vết thương đời c̣n ở lại,Trong ḷng anh,Trong ḷng những người lính năm xưa. Nguyễn Thị Thanh Dương Nếu có ai biết người tác giả bài này th́ xin cho gữi một lời cám ơn, v́ vẫn c̣n thương nhớ đến những người đă hy sinh cho Miền Nam chúng ta.Đến ngày nay, đă hơn 35 năm qua dễ mấy ai c̣n nhớ đến họ.Xin thắp một nén nhang cho những bạn bè đă nằm xuống trong cuộc chiến vừa qua. *** NHỮNG NGÔI MỘ PHỦ LÁ CỜ VÀNG Tôi đă thấy những ngôi mộ phủ lá cờ vàng, Trong nghĩa trang c̣n tươi màu đất mới, Quê hương Việt Nam một thời lửa khói, Người lính quên ḿnh v́ lư tưởng tự do. Các anh hiên ngang chết dưới màu cờ, Bỏ lại vợ hiền, đàn con thơ dại, Những vành khăn tang bàng hoàng chít vội, Nước mắt nào cho đủ tiễn đưa anh? Có thể anh là người lính độc thân, Chưa có người yêu, lên đường nhập ngũ, Ngày mẹ già nhận tin anh báo tử, Tuổi đời già thêm v́ nỗi đớn đau. Có thể anh vừa mới có người yêu, Hẹn cưới nhau khi tàn mùa chinh chiến, Tiền đồn xa chưa một lần về phép, Anh đă ra đi măi măi không về. Súng đạn vô t́nh làm lỡ hẹn thề, Người yêu anh đă có t́nh yêu mới, Khi trên mộ anh chưa tàn hương khói, Trách làm ǵ!. Thời con gái qua mau. Hỡi người tử sĩ dưới nấm mồ sâu, Tiếc thương anh lá cờ vàng ấp ủ, Nghĩa trang quân đội những ngày nắng gió, Ṿng hoa tang héo úa chết theo người. Những ngôi mộ phủ lá cờ vàng. Xa rồi, Xác thân anh đă tan vào cát bụi, Nhưng lịch sử vẫn c̣n ghi nhớ măi, Miền Nam Việt Nam cuộc chiến đấu hào hùng. Nguyễn Thị Thanh Dương |
10 Attachment(s)
Tiếp theo...
Anh chưa hề thua trận Anh chưa hề rơi gươm Tháng Tư, anh găy súng Bỏ cuộc trong hờn căm. Cuộc chơi đầy gian lận, Tàn nhẫn và đau thương Cuộc chơi đầy nước mắt Nước mắt tràn quê hương Cuộc chơi nhiều phản trắc Đồng minh cũng bỏ rơi Cuộc chơi đầy chết chóc Chiến trường, anh lẻ loi Tháng tư, anh găy súng Bóng tối ngập quê nhà Ḥa b́nh cho tan nát Thống nhất tạo chia xa Tháng tư, anh găy súng Miền Nam buồn xác xơ Đổi đời, dân than khóc Lầm than trên quê xưa Bạn bè dăm bảy đứa Lác đác t́m tin nhau Coi ai c̣n, ai mất Giữa cuộc đời hư hao Tháng tư buồn da diết Tháng tư, người mất nhau Ngày tháng tư thật chậm Đếm thời gian, ḷng đau Anh vẫn là hào kiệt Hy sinh cho quê hương Dù mang thân ngă ngựa Anh vẫn c̣n tâm hồn !!! Lê Văn Thắng (4/2010) Thân tặng các bạn đồng môn khóa 10B/72. Các bạn Phạm Ḥa, Dong Quang Le, Tuấn râu, Quách Năm và các bạn mới gặp lại. Huynh Trưởng Vĩnh Thao khóa 9 B/72 Ba mươi lăm năm ngày ấy ta chia tay, Cung kiếm bên ḿnh nay đành dang dở. Chinh chiến tàn sầu mộng kiếp chinh nhân, Đâu c̣n nữa sa trường quân mạc tiếu Ba mươi lăm năm ngày ấy ta xa nhau, Tang bồng hồ thỉ tung cánh cuộc đời ta, Vẫy vùng muôn phương mộng chốn giang hồ, Anh biên giới, tôi vùng sông nước, Anh cao nguyên, tôi băng rừng lội suối, Dâng hiến non sông cả cuộc đời . Ba mươi lăm năm ngày ấy đă xa, Ba mươi lăm năm ngày ấy, ta lại gặp, Bạc con tim, bạc cả mái đầu, Cười rung nhẹ nuốt hận thương đau, Ba mươi lăm năm ngày ấy đă xa, Ba mươi lăm năm ngày ấy, ta lại gặp, Mời Anh cạn chén bồ đào, Giang san một mối người xưa đâu rồi? Lệ rơi, cạn chén nghẹn ngào Say t́nh huynh đệ say đời buồn đau, Anh đi gởi tấm thẻ bài, Là đây kỷ vật năm nào Anh trao Mời anh cạn chén quang bôi, Bạc đầu chiến sỹ, nay đời nổi trôi Ba mươi lăm năm ấy ta đă gặp, Đừng quên nhé, anh em ta lại gặp, Đủ bạn bè thương nhớ lại đầy vơi… |
12 Attachment(s)
Tiếp theo...
" ĐÂY LÀ TIẾNG NÓI NƯỚC VIỆT NAM PHÁT THANH TỪ THỦ ĐÔ SAIG̉N ..." Cho đến nay tiếng nói ấy vẫn c̣n Vang vọng măi trong trái tim Ngựi Lính . Là h́nh ảnh của một thời ổn định Là tiền đồn của Thế Giới Tự Do Của miền Nam nước Việt rất ấm no Là thành luỹ mang hồn thiêng sông núi . Người Lính trẻ đă một thời giong ruổi Đem t́nh người, t́nh lính trấn biên cương Vẫn một ḷng chung thủy với quê hương Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng . Người Lính chúng tôi tuy không Sinh Vi Tướng Cũng hiên ngang chấp nhận Tử Vi Thần Trọn một ḷng chỉ v́ Nước ,v́ Dân Dâng hiến cả đời ḿnh cho Tổ Quốc . Từ Quảng Trị rét căm mùa gió bấc Đến Cà Mau mưa lũ ngập đồng sâu Vết giày Saut lội bất cứ nơi đâu Để mang lại Tin Yêu và Lẽ Sống . Người Lính chúng tôi mang trái tim hào phóng Của tuổi đời đẹp nhất : lúc đôi mươi Làm nguồn vui nơi tuyến đầu lửa bỏng Trong gian truân vẫng nồng ấm nụ cười . Dù đôi lúc có hoang mang , phẫn nộ Hay chán chường v́ dấu ấn chiến tranh Nhưng nỗi buồn cũng tan biến rất nhanh Khi đối diện với kẻ thù ngoài mặt trận . Rồi cũng đến lúc chào thua số phận Khi tàn vong đành Nước mất , Nhà tan V́ thế cùng , lực tận , chỉ thở than : Thân nhược tiểu, xót thầm , ôi ngang trái ! Người Lính chúng tôi không hề chiến bại ! Chỉ chào thua định mệnh đă an bài Bởi cô thế đành nương thân hải ngoại Chờ b́nh minh quang phục của ngày mai . HUY VĂN Khi tôi chết trên bước đường lưu lạc Xin mọi người đừng quấn mảnh khăn tang Phủ thân tôi danh dự lá cờ vàng Ba sọc đỏ nối liền Trung Nam Bắc Khi tôi chết đừng chôn tôi xuống đất Lạnh đáy mồ biết ai đến viếng thăm Những đêm trăng bên mộ xác tôi nằm Hồn ẩn hiện thẩn thờ khi đêm xuống Khi tôi chết đừng chôn bên thữa ruộng Trên cánh đồng sỏi đá của miền Trung Nơi ngàn thu những chiến sĩ anh hùng Đă yên giấc dưới bóng cờ chiến đấu Khi tôi chết đốt tôi thành bụi trấu Răi tro tàn trên biển Thái B́nh Dương Để những ngày trôi giạt mất quê hương Được an ủi linh hồn người xa xứ Khi tôi chết tên không vào chiến sử Như bao người v́ tổ quốc hy sinh Đừng ghi tôi vào bia mộ hiển linh Cho tôi được an ḷng trong cỏi chết SVSQ Lê Chiến khóa 8/72 |
| All times are GMT. The time now is 16:06. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.