VietBF

VietBF (https://vietbf.com/forum/index.php)
-   School | Kiến thức 2006-2019 (https://vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=273)
-   -   Your's Health (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=1234581)

florida80 06-29-2019 20:37

Nếu mắt bạn kém, nh́n không rơ, bạn có thể nhờ người nhà xem xét bàn chân hộ. Đồng thời, nhờ bác sĩ khám chân cho bạn ít nhất mỗi năm 1 lần.

Mỗi ngày bạn rửa chân với xà-bông nhẹ và nước ấm, sau đó dùng lotion chống khô da thoa chân giúp da chân khỏi khô (da khô dễ tổn thương và nhiễm trùng). Bạn tránh dùng nước nóng, và nhớ dùng tay thử trước, xem nước nóng đến mức độ nào trước khi nhúng chân vào bồn tắm. Đừng đi chân đất bạn ạ, dù ở nhà, và nên đi giầy thật vừa vặn hầu tránh bị trầy lở chân, hoặc có những chỗ chai cứng gây do giầy. Bạn nhớ bỏ giầy ra ít nhất 1 lần mỗi ngày. Khi mang giầy mới, những ngày đầu, bạn chỉ nên mang giầy tối đa 1 tiếng mỗi ngày để khỏi phồng da chân. Có nhiều loại giầy được chế tạo đặc biệt để bảo vệ chân, tốt cho chân của người tiểu đường. Nếu không, bạn có thể dùng các giầy thể thao cũng tốt. Trước khi xỏ chân vào giầy, bạn nhớ xem xét cẩn thận, t́m các vật lạ trong giầy có thể làm thương tổn chân bạn. Vớ nên thay mỗi ngày. Dùng những loại vớ đặc biệt giúp tránh phồng da càng tốt. Khi cắt móng chân, bạn nên cắt ngang các móng chân, thay v́ cắt vanh tṛn. Cắt vanh tṛn theo ngón chân dễ phạm phải thịt.

Với bệnh tiểu đường, có nhiều vấn đề về bàn chân chúng ta phải cần đến podiatrist (bác sĩ chuyên săn sóc bàn chân). Podiatrist giúp cắt bỏ các chỗ da bàn chân dầy cứng, những móng chân mọc bất thường, đâm sâu vào thịt. (Các vị có Medi-Medi nay phải gia nhập các tổ hợp y tế mới đi khám podiatrist được.)

6. Các biến chứng nhiễm trùng khác:

Ngoài những nhiễm trùng ở chân, người tiểu đường cũng dễ bị nhiễm trùng ở những nơi khác trong cơ thể, v́ sức kháng cự của cơ thể giảm. Một vài bệnh nhiễm trùng, do vi trùng hay nấm, ít xảy ra ở người b́nh thường, hay xảy ra nơi người tiểu đường. Chẳng hạn, bệnh lao, bệnh nấm âm đạo (gây ngứa âm đạo), bệnh viêm tai ngoài rất nguy hiểm do vi trùng Pseudomonas.

Như ta thấy, bệnh tiểu đường đưa đến nhiều biến chứng quan trọng. Sự chữa trị cẩn thận ngoài mục đích làm giảm các triệu chứng do tiểu đường gây ra (mệt mỏi, xuống cân, tiểu nhiều, tiểu đêm, khát nước, ...), c̣n nhắm ngăn ngừa các biến chứng.

Xin hẹn gặp lại tuần tới, chúng ta sẽ bàn đến việc chữa trị tiểu đường.

florida80 06-29-2019 20:38

TIỂU ĐƯỜNG LOẠI 2



Tuần trước chúng ta đă t́m hiểu bệnh tiểu đường loại 1, xảy ra cho trẻ em và người trẻ tuổi. Tuần này chúng ta bàn về bệnh tiểu đường loại 2 (Diabetes mellitus type 2), hay xuất hiện ở người lớn nặng cân, nhất là người Á đông chúng ta.

Xin ôn lại một chút, đường (carbohydrates) là một trong những chất biến dưỡng căn bản của cơ thể, có trong cơm gạo, bánh ḿ, thức ăn ngọt, ..., các chất biến dưỡng căn bản khác là chất đạm (protein), chất mỡ (lipids), sinh tố (vitamins), muối khoáng (minerals).

Gần như mọi tế bào của cơ thể ta đều cần có chất đường để hoạt động. Nhưng muốn sử dụng được chất đường vào những hoạt động cần thiết của ḿnh, các tế bào cần đến insulin. Insulin giúp đưa đường từ máu vào trong các tế bào, và điều ḥa lượng đường trong máu để đường trong máu không bao giờ lên quá cao. Insulin tiết bởi các tế bào beta trong tụy tạng (pancreas), một cơ quan nằm ở bụng trên, phía sau bao tử. Khi các tế bào beta này của tụy tạng không tiết đủ chất insulin, đường trong máu lên cao, v́ không thể vào trong các tế bào. Hoặc dù chất insulin có đủ, song v́ một lư do nào đó, tế bào không sử dụng được chất insulin, đường cũng tăng cao trong máu.

Do thế, tiểu đường được chia thành hai loại: loại 1 (loại thiếu chất insulin trong cơ thể) và loại 2 (loại có insulin trong cơ thể, nhưng tế bào không dùng được insulin). Hơn 90% số người tiểu đường mang bệnh tiểu đường loại 2, và ở Mỹ, tổng số tiền dùng chữa trị cho tất cả người bệnh tiểu đường loại 2 khoảng đến 14% ngân sách y tế quốc gia.

Cơ chế

Tiểu đường loại 2 thường xảy ra ở người trên tuổi 40, song gần đây, cũng xuất hiện không ít ở trẻ con và người trẻ, v́ ngày càng nhiều trẻ con và người trẻ béo mập hơn trước.

Khoảng 6.4% dân số toàn cầu bị tiểu đường loại 2, đây là một con số rất lớn. Thêm vào đấy, có thể rất nhiều người khác mang bệnh nhưng không biết ḿnh đang mang bệnh, tại một số vùng trên thế giới, tỉ lệ người bị tiểu đường song không biết ḿnh đang mang bệnh lên đến 50%.

80% số người bị tiểu đường loại 2 béo mập (obese) hoặc nặng cân hơn b́nh thường (overweight). Khi đo lượng insulin trong máu những người nặng cân và bị tiểu đường, người ta thấy insulin trong máu b́nh thường, hoặc có khi c̣n cao hơn b́nh thường.

Có đủ insulin trong người, mà vẫn bị tiểu đường? Chỉ v́, muốn dùng được insulin, trên mặt các tế bào phải có đủ những chỗ tiếp nhận insulin, gọi là “insulin receptors”. Trên mặt các tế bào mỡ của những vị bị tiểu đường loại 2 không có đủ những chỗ tiếp nhận hầu insulin có thể bám vào để tác động, đưa đường từ ngoài máu vào bên trong tế bào. Nên cơ chế chính gây tiểu đường loại 2 ở những vị béo mập là do các tế bào mỡ thiếu những chỗ tiếp nhận insulin, và sự chữa trị chính là xuống cân.

Sự di truyền trong trường hợp tiểu đường loại 2 c̣n mạnh hơn loại 1. Nếu có anh em sinh đôi bị tiểu đường loại 2, người kia trước sau ǵ cũng bị tiểu đường cùng loại. Nếu có bố mẹ bị tiểu đường loại này, gần như 1/3 con cái sinh ra sau này cũng bị tiểu đường, hoặc có những thử máu bất thường.

Một vài loại thuốc có tác dụng chống lại tác dụng của insulin (thuốc chứa chất steroid như Prednisone), hoặc ngăn cản sự tiết insulin từ tụy tạng (thuốc cao áp huyết như Atenolol, Inderal, các thuốc lợi tiểu thiazide diuretics, thuốc chữa kinh phong Dilantin, ...) cũng có thể bất ngờ làm đường tăng cao trong máu. Khi đi khám bác sĩ, bao giờ cũng vậy, bạn nhớ đem tất cả các thuốc dùng ở nhà đến cho bác sĩ xem.

Ai dễ bị tiểu đường loại 2?

Từ tuổi 45 trở đi, tiểu đường loại 2 dễ xuất hiện. Đấy là với người Mỹ trắng, với những người thuộc các thành phần sau, tiểu đường loại 2 có thể đến sớm hơn:

- Người nặng cân (có chỉ số khối lượng cơ thể BMI từ 25 trở lên, riêng với người Á đông chúng ta, chỉ số khối lượng cơ thể BMI từ 23 trở lên).

- Có bố, mẹ, anh, chị, em ruột mang bệnh tiểu đường.

- Người Á đông, da đen, da đỏ, người gốc Hispanic, dân vùng đảo Thái B́nh Dương.

florida80 06-29-2019 20:39

Bị tiểu đường lúc mang thai, hoặc sanh con nặng trên 9 pounds (4.1 kg).

- Có cao áp huyết (áp huyết 140/90 trở lên).

- Người có lượng mỡ triglycerides trong máu cao 250 trở lên

- Đời sống ít thể dục thể thao.

- Người có bệnh mạch máu.

Nặng cân được xem là một trong những yếu tố quan trọng dễ đưa đến tiểu đường. V́ vậy, hiện Medicare, MediCal (ở các tiểu bang khác gọi là Medicaid), các bảo hiểm muốn các bác sĩ hành nghề trên đất Mỹ dùng hồ sơ điện tử (Electronic Medical Record), và sử dụng sự tinh nhạy của điện toán để tính ra chỉ số khối lượng cơ thể (Body Mass Index, viết tắt BMI) cho tất cả người bệnh bước chân vào pḥng mạch. (Khả năng điện toán của hồ sơ điện tử c̣n giúp chúng ta rất nhiều việc khác nữa, chẳng hạn bác sĩ có thể bảo nó nhắc ḿnh bao giờ sẽ phải thử máu lại cho người bệnh, bao giờ cần đưa người bệnh đi khám mắt, soi ruột già lại, …). Hiện nền y tế Hoa Kỳ đang chuyển hướng, từ “fee-for-service” (trả tiền cho dịch vụ cung ứng bởi bác sĩ, nhiều khi không ai kiểm soát được dịch vụ ấy có xứng đáng với số tiền bác sĩ được trả hay không) sang “quality of care” (chăm sóc có phẩm chất) dùng các phương tiện điện tử hiện đại. Với hồ sơ điện tử, bác sĩ sẽ phải làm việc có qui củ, chăm sóc cho người bệnh kỹ lưỡng hơn.

Đi khám bác sĩ, bạn nên hỏi bác sĩ BMI của ḿnh bao nhiêu để c̣n sớm lo liệu, nếu ở mức 23 trở lên (cho người Á đông chúng ta, không phải người Á đông, chỉ số này là 25 trở lên), bạn nên nỗ lực ăn bớt đi, vận động nhiều hơn để xuống cân. (Tiểu đường ở người Á đông chúng ta rất nhiều, nên nay cùng một chiều cao, chúng ta phải thon gọn hơn người da trắng, da đen, Hispanic.)

Triệu chứng

Nhiều trường hợp bệnh tiểu đường loại 2, giống bệnh cao áp huyết, lặng lẽ tàn phá cơ thể ta, không gây triệu chứng khiến ta chú ư. Nhiều vị t́nh cờ thử máu, khi đi khám bác sĩ hay mua bảo hiểm sức khỏe, giật ḿnh thấy đường trong máu ḿnh sao cao thế.

Triệu chứng do căn bệnh nếu có, cũng từ từ, không đột ngột như trong trường hợp tiểu đường loại 1. Người bệnh đi tiểu hoài, cả ban đêm, uống nước luôn v́ thấy khát quá, ăn không ngơi do thấy ngon miệng. Có vị xuống cân, mệt mỏi. Một khi triệu chứng xuất hiện, thường, tiểu đường đến đă vài năm.

Định bệnh

Cũng như tiểu đường loại 1, bệnh tiểu đường loại 2 được định theo tiêu chuẩn của American Diabetes Association (ADA, Hiệp Hội Tiểu Đường Hoa Kỳ), bằng 1 trong 4 cách sau:

- Đường máu đo sau khi nhịn đói ít nhất 8 tiếng cao hơn 125 mg/dl

- Trị số HbA1C (biểu thị lượng đường trung b́nh trong máu chúng ta trong ṿng 3 tháng qua) bằng hay cao hơn 6.5.

- Người bệnh có triệu chứng của tiểu đường và đường máu đo lúc không nhịn đói thấy cao trên 200 mg/dl

- Oral glucose tolerance test (OGTT) bất thường: sau khi cho ăn đường glucose 1.75 g/kg (tối đa 75 g), 2 tiếng sau đo đường máu, thấy vẫn cao hơn 200 mg/dl

Nếu nghi bệnh tiểu đường, chúng ta dùng một trong 4 cách định bệnh trên, và nếu thử lại lần nữa, vẫn bất thường như vậy, người bệnh được xem có bệnh tiểu đường. Cần thử 2 lần, chúng ta mới dám nói đúng là có bệnh tiểu đường.

Xin hẹn đến tuần tới, chúng ta sẽ bàn tiếp đến các biến chứng của bệnh tiểu đường. (Trong lúc chờ đợi, mỗi ngày, đi làm về, nhân trời hè c̣n sáng, bạn thực hiện ngay một chương tŕnh ngừa tiểu đường cho ḿnh chẳng có ǵ khó: đi bộ nhanh mỗi ngày, ít nhất 30 phút, ít nhất 5 ngày một tuần. Bị tiểu đường khổ lắm!)

florida80 06-29-2019 20:41

BỆNH TIỂU ĐƯỜNG

(Diabetes mellitus)



Trong các chỉ thị Medicare đưa xuống những tổ hợp y tế chăm sóc sức khỏe cho các vị cao niên gia nhập tổ hợp, Medicare vẫn đặc biệt chú trọng đến người bệnh tiểu đường, muốn các bác sĩ chữa trị cho người tiểu đường cẩn thận, đúng với sách vở. (Các vị cao niên gia nhập một tổ hợp y tế thường được theo dơi và chữa trị kỹ lưỡng hơn các vị không gia nhập, v́ tổ hợp thường xuyên nhắc nhở các bác sĩ trong tổ hợp phải thi hành đúng chỉ thị của Medicare. Chính tổ hợp cũng hay gửi thư nhắc nhở người bệnh đi khám bác sĩ đều, làm những việc cần làm.)

Đủ thấy bệnh tiểu đường là một căn bệnh quan trọng, khám phá sớm và chữa trị đúng, sẽ ngăn ngừa được những biến chứng ảnh hưởng đến phẩm chất cuộc sống của người bệnh. Trong loạt bài về bệnh tiểu đường, chúng ta sẽ t́m hiểu căn bệnh, những biến chứng do nó gây ra, những phương cách chữa trị hiện được sử dụng tại Mỹ, đồng thời những việc chúng ta cần làm cho đúng với chỉ thị của Medicare.

Tiểu đường là tiếng Việt ta vẫn thường dùng để chỉ bệnh cao chất đường trong máu. (Xin bạn nhớ luôn tên tiếng Anh, diabetes mellitus; trong nhà thương, họ không dùng tiếng Việt.) Đường lên cao hơn mức b́nh thường trong máu, nên được thận thải ra theo nước tiểu. V́ vậy trong nước tiểu có chất đường (b́nh thường nước tiểu không có đường).

Tiểu đường là bệnh nhiều người bị, nhất là người Á đông chúng ta, đang có khuynh hướng tăng trên toàn thế giới, nên được y học rất chú ư và không ngừng nghiên cứu. Trung b́nh, trong 100 người chúng ta, có 1 vị bị tiểu đường. Về lâu về dài, bệnh gây những biến chứng quan trọng ở mắt, thận, thần kinh và mạch máu. Tiểu đường cũng đưa dẫn đến bệnh hẹp tắc các động mạch vành tim (coronary artery disease). Nhiều trường hợp bệnh không gây triệu chứng, nên chúng ta không biết, t́nh cờ thử máu mới t́m ra bệnh.

Đường (carbohydrates) là một trong những chất biến dưỡng căn bản của cơ thể, có trong cơm gạo, bánh ḿ, khoai tây, các thức ăn ngọt, ... Các chất biến dưỡng căn bản khác là chất đạm (protein), chất mỡ (lipids), sinh tố (vitamins), muối khoáng (minerals).

Gần như mọi tế bào của cơ thể ta đều cần có chất đường để hoạt động. Nhưng muốn sử dụng được chất đường vào những hoạt động cần thiết của ḿnh, các tế bào cần đến một chất gọi là insulin. Insulin giúp đưa chất đường từ máu vào trong các tế bào, và điều ḥa lượng đường trong máu để đường trong máu không bao giờ lên quá cao. Insulin tiết bởi tụy tạng (pancreas), một cơ quan nằm ở bụng trên, dưới gan (liver), đằng sau bao tử (stomach).

Tụy tạng giữ 2 nhiệm vụ: tiết các diếu tố (enzymes) giúp vào sự tiêu hóa, và tiết các chất như insulin, glucagon cần cho sự biến dưỡng của các tế bào. Insulin được tiết bởi các tế bào có tên beta (beta cells) của tụy tạng. Khi các tế bào beta của tụy tạng không tiết đủ chất insulin cơ thể cần, đường trong máu lên cao, v́ không vào được trong các tế bào. Hoặc dù chất insulin có đủ, song v́ một lư do nào đó, tế bào không sử dụng được chất insulin để đưa đường vào được bên trong tế bào, đường cũng tăng cao trong máu.

Do thế, tiểu đường được chia thành hai loại: loại 1 (loại thiếu chất insulin trong cơ thể) và loại 2 (loại có insulin trong cơ thể, nhưng tế bào không dùng được insulin). Hai loại tiểu đường này có nhiều điểm khác biệt với nhau. 90% số người bị tiểu đường mang bệnh tiểu đường loại 2.

Bài này chúng ta t́m hiểu bệnh tiểu đường loại 1, bệnh tiểu đường loại 2 sẽ được bàn đến trong bài kỳ sau.

Tiểu đường loại 1

Tiểu đường loại 1 xảy ra cho các cháu bé và người trẻ, hay bắt đầu trong khoảng tuổi 4 đến 6 và khoảng tuổi 10 đến 14. Loại tiểu đường này, có lẽ do di truyền, tuy điều này chưa được hiểu rơ. Nếu có bố, mẹ, hay anh chị em ruột mang bệnh tiểu đường loại này, cơ hội để một cháu bé trong gia đ́nh có thể bị bệnh là 5-10%. Nếu có anh em song sinh mang bệnh, nguy cơ sau bị tiểu đường c̣n cao hơn nữa. Các cháu trai mang bệnh nhiều hơn các cháu gái.

Bệnh gây do sự hủy hoại của các tế bào beta có nhiệm vụ tiết insulin trong tụy tạng. V́ sao các tế bào beta này hư hỏng và không làm việc nữa, điều này c̣n nằm trong ṿng giả thuyết, chưa ai biết rơ. Có thể, v́ di truyền, các tế bào beta của tụy tạng đă "yếu" sẵn, rồi sau bị những yếu tố bên ngoài, chẳng hạn như siêu vi (virus), tấn công, nên hư hoại luôn, không c̣n khả năng tiết ra insulin.

Triệu chứng

Triệu chứng tiểu đường loại 1 của các cháu bé và người trẻ có thể biểu hiện dưới ba h́nh thái.

Thường nhất, các cháu đi tiểu nhiều, thấy khát nước luôn nên uống nước nhiều, xuống cân dù ăn nhiều, và trông không c̣n linh hoạt. Triệu chứng có thể đột ngột, có khi trong ṿng vài ngày. Một số cháu chỉ có triệu chứng mơ hồ, như xuống cân, trông có vẻ đờ đẫn, c̣n việc khát nước nhiều, đi tiểu nhiều, bố mẹ không để ư v́ nhiều cháu c̣n mang tă. (Chúng ta cần để ư các cháu có đi tiểu đêm nhiều hoặc đái dầm ra giường không, tă hay ướt và cần thay thường không.) Một số cháu nhỏ và cháu gái hay bị nấm vùng bộ phận sinh dục. Đường cao trong máu cũng khiến các cháu nh́n không rơ.

Cũng có cháu trước giờ vẫn khỏe mạnh, không có triệu chứng, nay đột nhiên hôn mê, bị một t́nh trạng gọi là diabetic ketoacidosis. Khi đưa vào bệnh viện và thử máu, mới thấy đường lên quá cao trong máu. Đo lượng insulin trong máu, thấy chất insulin trong máu rất thấp hoặc không thấy có insulin ǵ cả. Các cháu dưới 6 tuổi, chưa biết diễn tả nhiều, chưa biết tự đi lấy nước uống, và những cháu trong các gia đ́nh có lợi tức và tŕnh độ học thức thấp, ít để ư đến vấn đề sức khỏe, dễ bị t́nh trạng này.

H́nh thái thứ ba của bệnh tiểu đường loại 1 là h́nh thái bệnh không gây triệu chứng ǵ cả, các cháu vẫn khỏe mạnh, và bệnh được t́m ra khi các cháu có dịp đi bác sĩ khám tổng quát. H́nh thái bệnh này ít hơn so với hai h́nh thái bệnh trên.

Định bệnh

Bệnh tiểu đường được định theo tiêu chuẩn của American Diabetes Association (ADA, Hiệp Hội Tiểu Đường Hoa Kỳ), bằng 1 trong 4 cách sau:

- Trị số HbA1C (biểu thị lượng đường trung b́nh trong máu chúng ta trong ṿng 3 tháng qua) bằng hay cao hơn 6.5.

- Đường máu đo sau khi nhịn đói ít nhất 8 tiếng cao hơn 125 mg/dl

- Người bệnh có triệu chứng và đường đo lúc không nhịn đói thấy cao trên 200 mg/dl

- Oral glucose tolerance test (OGTT) bất thường: sau khi cho ăn đường glucose 1.75 g/kg (tối đa 75 g), 2 tiếng sau đo đường máu, thấy vẫn cao hơn 200 mg/dl

- Nếu nghi bệnh tiểu đường, chúng ta dùng một trong 4 cách định bệnh trên, và nếu thử lại lần nữa, vẫn bất thường như vậy, người bệnh được xem có bệnh tiểu đường.

Chữa trị

Một khi cháu bé hoặc người trẻ đă được định ra có bệnh tiểu đường loại 1, sự chữa trị là dùng thuốc chích insulin, để thay thế cho chất insulin không có đủ trong cơ thể. Thuốc uống không chữa được bệnh tiểu đường loại 1.

Bài kỳ sau, chúng ta sẽ t́m hiểu bệnh tiểu đường loại 2, loại bệnh tiểu đường người lớn chúng ta hay bị.

florida80 06-29-2019 20:42

VẬN ĐỘNG



B.S NGUYỄN VĂN ĐỨC



Mùa hè, ngày dài, thuận tiện cho chúng ta vận động. Chúng ta khỏi than như trong mùa đông, đi làm về trời đă tối mịt, c̣n làm ǵ được nữa.

Tác dụng tốt của vận động

Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, vận động có ảnh hưởng rất tốt cho sức khỏe, về nhiều mặt. Gần như cơ quan nào của cơ thể ta cũng ủng hộ sự vận động.

1. Hệ thống tim mạch:

Vận động rất tốt để ngừa và chữa bệnh cao áp huyết. 13 khảo cứu được làm, cho thấy vận động đúng mức và thường xuyên 5 đến 7 ngày mỗi tuần, có thể giúp áp suất tâm thu (systolic blood pressure, nôm na là “số trên”) giảm trung b́nh 11.3 mm Hg, và áp suất tâm trương (diastolic blood pressure, nôm na “số dưới”) giảm trung b́nh 7.5 mm Hg.

Con tim người quen vận động sẽ bơm máu tới nuôi các cơ quan hữu hiệu hơn và với một sức ít hơn. Con tim b́nh thường, vào mỗi nhịp co bóp, đẩy ra chỉ được 70 cc (phân khối) máu, song một con tim quen vận động, to hơn, khỏe hơn, vào mỗi nhịp co bóp, đẩy ra được đến 130 cc máu, tức hơn 60 cc máu. Đă vậy, máu cũng đến các bắp thịt nhiều hơn, khiến các bắp thịt lâu mỏi. Nhờ thế, tập luyện đều đặn, sức vận động của ta ngày lại càng tăng lên, dẻo dai, lâu mệt.

2. Bệnh tiểu đường:

Tiểu đường có hai loại, 1 và 2. Loại 2 thường xảy ra ở người trên 40 tuổi, cơ chế chính gây bệnh là sự kháng insulin (insulin resistance), khiến chất insulin không thể đưa đường từ ngoài máu vào trong các tế bào, và v́ vậy, đường tăng cao trong máu. (Insulin là chất tiết bởi tuyến tụy tạng, có nhiệm vụ giúp đưa chất đường từ máu vào trong các tế bào, và điều ḥa lượng đường trong máu để đường máu không bao giờ lên quá cao). Sự kháng insulin này ở người tiểu đường chịu khó vận động đều, có thể giảm đến 40%, căn bệnh dễ kiểm soát hơn. Các thuốc chữa tiểu đường loại 2 như metfor-min và glitazones cũng chỉ làm giảm sự kháng insulin này được có 20-25%, như vậy, vận động so ra, c̣n tốt hơn thuốc.

Các vị có tiểu đường loại 2, và con cái (tiểu đường loại 2 có tính di truyền rất mạnh, bố mẹ mang bệnh, con cái sau dễ bị), cần hiểu rơ vai tṛ của vận động trong việc chữa và ngừa tiểu đường.

3. Bệnh khớp thoái biến:

Điều đáng buồn, các khớp của cơ thể ta, như bánh xe, sẽ ṃn dần theo năm tháng. Theo thời gian, chúng ta khó tránh bệnh khớp thoái biến (dege-nerative joint disease, c̣n gọi osteoarthritis). Tuy là bệnh khớp, song căn bệnh cũng làm giảm sức mạnh, sự dẻo dai, tầm hoạt động (range of motion), cũng như khả năng thích ứng (fitness) của các bắp thịt. Sự tập luyện có thể giúp chúng ta đi đứng vững vàng hơn, đồng thời tăng cường khả năng thích ứng của ta với các công việc hàng ngày.

Khi vận động, người có bệnh khớp thoái biến ở gối hoặc ở các khớp khác giữ nhiệm vụ nâng đỡ sức nặng cơ thể, không nên chạy (running), nhưng có thể đi bộ, đạp xe đạp, hoặc bơi lội.

4. Bệnh cao mỡ trong máu:

Vận động có tác dụng làm giảm chất mỡ cholesterol xấu (hay được gọi tắt LDL), và mỡ triglycerides trong máu, đồng thời làm tăng mỡ cholesterol tốt (gọi tắt HDL), như vậy giúp nguy cơ bị bệnh tim mạch của ta nhẹ bớt.

5. Bắp thịt:

Ta sung sức, bắp thịt ta mạnh mẽ nhất trong khoảng tuổi trên dưới 30 trở xuống, rồi bắt đầu yếu dần sau tuổi 40. Khối lượng các bắp thịt giảm đi 20% vào tuổi 65. Cách luyện tập với một sức cản (resistance training, như tập tạ) làm chậm lại tiến tŕnh thoái hóa bắp thịt, tăng sự mềm dẻo, giúp thăng bằng khi đi đứng, đồng thời duy tŕ sự toàn vẹn của các khớp. Như vậy, luyện tập thường xuyên là yếu tố rất quan trọng để ngừa và chữa bệnh khớp thoái biến.

Sự bất động (immobilizat-ion) và không hoạt động (inactivity) sẽ khiến các bắp thịt ngắn lại, không dăn dài được tối đa và mất đi khả năng hấp thu các chấn động (shock-absor-bing capacity) đỡ cho các khớp. Nằm măi trên giường, hoặc bất cứ h́nh thức bất động nào khác rất tai hại cho bắp thịt và khớp. Thêm vào đó, sự bất động dễ đưa đến t́nh trạng máu đọng trong các tĩnh mạch ở chân, rồi có thể bắn lên phổi gây chết người. (Hiểu như vậy, bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy mới mổ hay sanh có một ngày, các bác sĩ đă vội dục bạn ngồi dậy trên giường, sau đó cố bước xuống giường đi quanh).

florida80 06-29-2019 20:43

6. Xương

Xương cũng sẽ tiêu mất dần theo thời gian, nhất là ở phụ nữ đă măn kinh, trở thành xốp mềm, dễ găy. Vận động giúp xương cứng chắc, chậm mất. Thêm vào đó, người quen vận động lại ít khi té ngă, v́ phản ứng lẹ làng với các biến chuyển chung quanh, nhờ các phản xạ thần kinh bắp thịt sẵn tốt, nên xương ít bị tổn thương. Rơ ràng, vận động đóng góp một phần rất lớn vào việc chống bệnh rỗng xương (osteoporosis) và ngăn ngừa xương khỏi găy.

7. Tiến tŕnh lăo hóa:

Theo tháng năm, mọi người chúng ta sẽ già dần, do tiến tŕnh lăo hóa (aging process). Nhiều vị trông lỏng lẻo hơn, bệ xệ hơn, chậm chạp hơn rất nhanh. Nhưng có những người trông vẫn trẻ lâu, nhanh nhẹn, việc ǵ thoắt cái cũng xong, như thời gian không mấy ǵ ảnh hưởng đến họ.

Nhiều bằng chứng cho thấy sự vận động thay đổi hoặc làm chậm đi tiến tŕnh lăo hóa, giúp bắp thịt gân cốt cứng chắc, dẻo dai, nhanh nhẹn dài lâu, mỡ ít đọng vào những nơi nó hay đọng khi ta có tuổi.

8. Tinh thần:

Vận động cũng giúp giảm căng thẳng, khó chịu, nóng nảy. Người quen vận động tinh thần sảng khoái, tự tin, khả năng tri thức tinh tiến. Vận động cũng là phương thuốc rất tốt, không gây phản ứng phụ, để ngừa và chữa những trường hợp buồn sầu nhẹ (mild depression).

Vận động

bao nhiêu cho đủ?

Vận động quá tốt như vậy, nhưng vận động thế nào mới là đủ, để đạt những kết quả kể trên? Đời người ngắn ngủi, công việc bề bộn, chạy theo cuộc sống hàng ngày đủ bở hơi tai, bạn nghĩ, làm sao c̣n th́ giờ vận động. Bạn đă từng làm một quyết định quan trọng, tự hứa sẽ để th́ giờ vận động mỗi ngày một tiếng đồng hồ, cụ thể bằng cái vé đi tập trong “health club”, mua mất mấy trăm. Song mộng ước vẫn hoàn mộng ước, đến “health club” vài lần rồi thôi, cái vé bạn quăng đâu mất.

Vận động không khó khăn và mất nhiều th́ giờ như bạn tưởng. Nhiều lúc, bạn ngồi trước truyền h́nh, loáng cái đă mất cả tiếng, phim hay th́ mê man hai ba tiếng. Đốt điếu thuốc lá, ngồi ngẫm nghĩ việc đời, vèo cái hết nửa tiếng (trong lúc bà xă lắc đầu ngán ngẩm, nh́n bạn đốt tiền và sức khỏe theo khói thuốc lá). Vận động cho đủ, thực ra, không mất nhiều th́ giờ. Căn bản, chỉ cần 30 phút mỗi ngày, và không nhất thiết phải vào “health club” hay mua máy móc ǵ đặc biệt để tập. (Biết đâu chờ mua máy có khi mất hết mấy năm, mua xong về lại cất xó.)

Những vận động khiến cơ thể ta mang sức nặng (weight-bearing exercise) như đi bộ tốt nhất, song nếu v́ lư do nào đó khiến bạn không đi bộ được, th́ đạp xe tại chỗ (stationary cycling) hay bơi lội cũng rất tốt. Mỗi ngày bạn bỏ ra nửa tiếng đi bộ nhanh, với bà xă hay ông xă cho vui, rảo bước để nhịp tim lên đến 117-135 nhịp mỗi phút nếu bạn mới trên dưới 40, 104-120 nhịp mỗi phút nếu bạn 60 tuổi trở lên (bắt mạch ở cổ tay hoặc bên cổ trong 15 giây, rồi nhân lên cho 4). Cố làm vậy 6-7 ngày mỗi tuần bạn nhé, không ít ra cũng 4-5 ngày mỗi tuần. C̣n đạp xe đạp, cứ để trước truyền h́nh, vừa đạp vừa xem, nửa tiếng đồng hồ cũng qua rất nhanh, vèo cái là xong. Không đi bộ, đạp xe hoặc bơi lội liền một lúc được nửa tiếng, bạn có thể thu xếp tập làm 3-4 lần trong ngày, mỗi lần 10 phút. “Eo ôi, thử rồi, mỗi lần tập thấy mệt ghê, tập tiếp không nổi!”. Mới bắt đầu vận động, bạn chưa quen, mau mệt, đừng tập cho cố rồi nản và bỏ, song tập vừa sức, chỉ một thời gian ngắn, bạn sẽ thấy sức lực tăng tiến, dẻo dai, bạn tập tăng dần, cho đến lúc nhịp tim lên tới mức mong muốn nêu trên. (Đang có vấn đề sức khỏe quan trọng nào, cẩn thận, bạn hỏi ư kiến bác sĩ của bạn trước.) Tập riết, trong người khỏe khoắn, đâm ghiền, hôm nào bận không tập được tiếc lắm.

Ngoài những khi vận động chính thức như vậy, những lúc khác bạn vẫn có thể t́m được cơ hội vận động thêm, chẳng hạn trong sở, thay v́ đi thang máy, bạn leo thang thường, đi làm, đi chợ, thay v́ đậu gần, bạn đậu xe xa xa, rồi rảo bước vào chợ, nhường chỗ đậu gần cho những vị già lăo. (Nhiều người c̣n trẻ khỏe nhưng làm biếng, xin giấy chứng của bác sĩ để đậu xe ở chỗ dành cho những vị già lăo, tàn tật không đi bộ xa được, thực không nên!)

Về cách tập cho bắp thịt, gân xương thêm dẻo dai vững chắc, cũng dễ thôi. Ngồi đâu, bạn vẫn có thể vươn vai, duỗi dài tay chân, chú trọng đến những bắp thịt ở vai, đùi và nếu ở nhà, xem phim trước máy truyền h́nh, bạn có thể cầm mấy tạ nhỏ độ 5-10 cân (pound) dơ lên hạ xuống. Không có, bỏ tạm mấy cục gạch vào trong một sắc tay cũ giả làm tạ cũng được. Hứng thú, bạn muốn t́m hiểu những cách tập chi tiết hơn, các sách, băng dạy tập thể dục rất nhiều, bạn có thể vào hiệu sách tha hồ chọn mua. Xin nhớ, sức mạnh và sự mềm dẻo của bắp thịt, gân xương là hai yếu tố quan trọng giúp ta đỡ té ngă, găy xương và có lẽ sẽ giúp ta ngừa được cả bệnh khớp thoái biến.

Xin chúc tất cả mọi người chúng ta một mùa hè vui, hạnh phúc, vợ chồng con cái rủ nhau thường xuyên vận động. Thường xuyên vận động đem lại cho chúng ta sức khỏe, có sức khỏe mới vui, hạnh phuc

florida80 06-30-2019 20:20

CHÁY NẮNG



Ta đă vào hè, nắng vàng nhảy múa chóa mắt, rát da. Nắng là kẻ thù của làn da.

Tia cực tím (ultraviolet) làm hại da trong ánh nắng được phân làm ba loại, tùy vào độ dài sóng (wavelength) của nó: UVA I (340-400 nm), UVA II (320-340 nm) và UVB (290-320 nm). Tia cực tím B (UVB) là thủ phạm chính gây các vết đỏ đau rát trên da ta, khi da tiếp xúc với chúng nhiều quá; hiện tượng này ta gọi cháy nắng (sunburn). C̣n các tia cực tím A cũng độc hại cho da, khiến da chóng mất nét tươi mát, ta trông mau già.

Một thuốc chống nắng tốt có thể ngăn được tia cực tím B (UVB), và ít nhất một phần các tia cực tím A.

Ngừa cháy nắng

Cháy nắng rất hay xảy ra, không những khiến ta đau rát, khó chịu, c̣n báo hiệu da đang phải tiếp xúc với tia cực tím nhiều quá, dễ đưa đến ung thư da, và c̣n khiến da ta mau già, xấu, thủy tinh thể trong mắt ta mau đục (bệnh cataract). Thỉnh thoảng cháy nắng có thể gây những vết phỏng nặng, sâu.

Những người trắng trẻo, tóc màu nhạt, v́ da có ít sắc tố melanin dễ cháy nắng hơn người da sậm màu; có người ra nắng chưa đến 15 phút, da đă cháy. Nơi chốn chúng ta sinh sống cũng ảnh hưởng đến cháy nắng, người ở vùng gần xích đạo nắng chói, và trên núi cao dễ cháy nắng (đi chơi trên vùng núi cao chúng ta nên cẩn thận). Những vị đang dùng các thuốc NSAIDs (chống viêm không có chất steroid như Advil, Motrin, Aleve, ...), quinolones (như thuốc cipro, levaquin), tetracyclines, psoralens, thiazides, furosemide, amiodarone, phenothiazines dễ cháy nắng; đang uống những loại thuốc này chúng ta cẩn thận tránh ánh nắng, và dùng những biện pháp bảo vệ da kỹ hơn.

Cháy nắng khó chữa cho mau lành hẳn, da sớm b́nh thường trở lại như trước. Tốt nhất chúng ta ngừa sao khỏi bị cháy nắng.

Nắng gắt từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều hại cho da nhất, v́ trong thời khoảng này, tia cực tím trong ánh nắng mạnh nhất.

Bất đắc dĩ phải đi đâu, làm việc ngoài trời trong thời khoảng này, ta mặc quần áo dài tay dài chân may với chất liệu sít sao (tighly woven). Quần áo bằng bông, loại unbleached cotton, và lụa (silk) tốt, v́ bông và lụa cản tia cực tím (ultraviolet) độc hại trong ánh nắng rất hữu hiệu. Tránh mặc quần áo bằng polyester crepe và bleached cotton, v́ chúng dễ để tia cực tím chiếu xuyên qua.

Quần áo mặc rộng răi, không nên bó sát người, và màu đậm tốt hơn màu lạt. Ta giữ quần áo khô, không để chúng ướt, v́ quần áo ướt mất bớt đến một phần ba (1/3) khả năng ngăn cản tia cực tím của chúng.

Nhớ đội mũ rộng vành, hầu che chở luôn mặt, mắt, tai, gáy. Kính mát cũng rất tốt, cản ánh nắng khỏi vào mắt ta gây bệnh đục thủy tinh thể (cataract), đồng thời bảo vệ vùng da quanh mắt. Nên chọn loại kính mát to, cong, úp sát quanh hai mắt (wraparound sunglasses), chúng giúp nhiều hơn, nắng bên ngoài khó mà vào mắt.

Nên dùng kem, nước bôi chống nắng (sunscreen), loại “broad-spectrum” (hấp thụ hoặc phản chiếu cả tia cực tím A lẫn B) có SPF (sun protection factor) từ 30 trở lên, ở những chỗ da không có quần áo che, bất cứ khi nào bạn ra ngoài trời nắng trên 20 phút. SPF là một đơn vị tính sẵn, viết trên chai thuốc, càng cao, thuốc càng có sức ngăn các tia cực tím. Người có nước da trắng trẻo, người ra nắng lâu, hoặc đến chơi vùng nhiều nắng (băi biển, trượt tuyết trên núi) cần kem, nước bôi chống nắng có SPF cao hơn 30.

Thường, dùng kem, nước bôi chống nắng, chúng ta không thoa dày đủ. Một người bận áo tắm ngoài băi biển chẳng hạn, cần đến khoảng 1 oz (30 ml) kem, nước bôi chống nắng mỗi lần thoa mới gọi là đủ.

Chúng ta nhớ thoa kem hoặc nước bôi kỹ (và đủ nữa) 15-30 phút trước khi ra ngoài, chú trọng những vùng mặt, bàn tay, tay và chân.

Gió, khí nóng, hơi ẩm và độ cao đều có thể làm giảm sức ngăn nắng của thuốc. Thuốc chống muỗi, sâu bọ bôi cùng lúc trên da cũng vậy. Cho chắc ăn, chúng ta thoa kem, nước bôi chống nắng cứ mỗi 2-3 tiếng, và sau lúc bơi lội hoặc chảy mồ hôi nhiều.

Cẩn thận hơn, chúng ta vào website www.epa.gov/sunwise/uvindex.html xem chỉ số UV mỗi ngày (UV index, định lượng từ 0 đến 11+, càng cao càng nguy hiểm) để trù định trước có nên ra ngoài đi chơi vào một ngày đặc biệt nào hay không.

florida80 06-30-2019 20:21

Chữa cháy nắng

Cháy nắng gây những vết da đỏ không đau, hoặc nặng hơn, da sưng lên, đau rát, có khi thành những bọng nước. Thường các vết thương bắt đầu xuất hiện 3 đến 5 giờ sau khi chúng ta ở ngoài nắng tiếp xúc nhiều với tia cực tím, nặng nhất trong khoảng 12-24 tiếng, và bớt dần sau 72 tiếng.

Một khi da đă ít nhiều đỏ, rát v́ cháy nắng, khó có cách nào, thuốc nào giúp da mau lành đẹp trở lại như trước. Đành chờ thời gian vậy thôi, có khi đến nhiều tháng, năm. Nghệ chỉ khiến da vàng choét, trông ghê, không ăn thua ǵ đâu bạn ạ.

Đau rát, ta có thể tạm dùng các nước bôi chống khô da, đắp nước lạnh, thoa thuốc có tác dụng giúp giảm đau tại chỗ (như một kem steroid nhẹ, kem Benadryl), dùng thuốc xịt trong chứa chất thuốc tê nhẹ như Solarcaine, Dermaplast, và uống Tylenol hoặc những thuốc chống viêm không có chất steroid như Motrin, Advil, Aleve, v.v..

Nhớ tránh ra nắng lại trong lúc da c̣n đang bịnh, chúng ta hẵng chờ nó bớt đi cái đă, hết đỏ, đau.

Ánh nắng là kẻ thù của làn da, không những gây cháy nắng, c̣n khiến da già nhanh, mất mịn màng, ta khó kéo dài nét tươi trẻ. Ta đă vào hè, nắng gắt. Nên cẩn thận tránh nắng được càng nhiều càng tốt, nhất là trong khoảng 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Cũng rất cần ăn mặc kỹ lưỡng lúc có việc đi đâu, dùng đủ và thường xuyên kem hoặc nước bôi chống nắng khi ở ngoài nắng lâu. Đồng thời, đường đời nhiều lối, khi có thể, ta nên chọn lối có bóng mát mà đi.

florida80 06-30-2019 20:21

ĐAU LƯNG DƯỚI



B.S NGUYỄN VĂN ĐỨC



80% chúng ta, trong đời, thế nào cũng có lúc đau lưng dưới (low back pain). Hàng năm, ở Mỹ, cứ 100 người lớn trong hạn tuổi đi làm, đến 50 người đau lưng. Tiền mất mỗi năm về mọi mặt cho chứng đau lưng lên tới 20-50 tỷ Mỹ-kim (tiền mất v́ không sản xuất, tiền chữa trị, tiền bồi thường nghề nghiệp, ...). Và đau lưng dưới là một trong những vấn đề khiến người bệnh đi thăm bác sĩ nhiều nhất. Bệnh xảy ra nhiều nhất trong hạn tuổi 20 đến 40, song nặng hơn ở người cao niên.

Cột sống, một cơ cấu quan trọng, là nền tảng các cử động của cơ thể chúng ta. Cột sống vừa vững chắc vừa mềm dẻo. Hai đặc tính tương phản này khiến cột sống chịu đựng được các sức tác động vào nó do những hoạt động hàng ngày gây ra. Cột sống gồm 33 đốt sống, được hỗ trợ bởi một hệ thống nâng đỡ phức tạp gồm các đăi sụn (discs), dây chằng (ligaments), bắp thịt (muscles), mang nhiệm vụ giữ các đốt sống luôn ở đúng vào các vị thế của chúng, giúp cột sống hoạt động linh hoạt.

Nguyên nhân

Vô số nguyên nhân gây ra chứng đau lưng dưới. Ngoài những nguyên nhân hiển nhiên như các chấn thương làm găy cột sống, sau đây là một vài nguyên nhân dễ hiểu khác:

- Các bệnh nhiễm trùng cột sống: do các vi trùng thông thường, hay do vi trùng bệnh lao.

- Các bệnh ung thư: ung thư mọc ngay tại cột sống hoặc từ chỗ khác đến cột sống. Gần như bệnh ung thư của mọi cơ quan, cuối cùng đều có thể bằng cách này hay cách khác, mon men đến cột sống: ở gần th́ lan sang, ở xa theo máu đến cột sống.

- Bệnh ph́nh nở động mạch chủ ở bụng (abdominal aortic aneurysm): một bệnh nguy hiểm, làm chết mau chóng khi chỗ ph́nh nở th́nh ĺnh bể vỡ.

- Bệnh các cơ quan trong bụng: thận, cơ quan tiêu hóa, cơ quan sinh dục phụ nữ, ...

- Đau lưng do nguyên nhân tinh thần: bệnh căng thẳng tâm thần (anxiety), sầu buồn (depression), giả vờ (malingering), chán công việc làm.

Tuy nhiên, cũng may, cứ 100 người đau lưng dưới, chỉ có ít hơn 5 người (ít hơn 5%) đau lưng do những bệnh nguy hiểm. C̣n hơn 95 vị kia, đau lưng gây do những nguyên nhân lành, v́ cột sống có vấn đề hoặc v́ sự suy yếu của hệ thống nâng đỡ cột sống.

Chúng ta nên để ư những yếu tố sau để cảnh giác, nghĩ đến các nguyên nhân nguy hiểm (như găy xương, nhiễm trùng, ung thư, chèn ép thần kinh tọa) của đau lưng:

- Người đang hay đă bị ung thư trong quá khứ.

- Xuống cân không có lư do rơ rệt, hoặc sốt, nóng lạnh, nổi hạch, ...

- Khi nằm nghỉ, thay v́ bớt đau, lại đau nhiều hơn, hoặc đau dữ dội về đêm.

- Tiêu tiểu bất thường: bí tiểu, són phân hoặc nước tiểu.

- Tê vùng hậu môn và háng: triệu chứng của “hội chứng đuôi ngựa” (cauda equina syndrome), báo hiệu nhiều thần kinh của cột sống phía dưới bị chèn ép, thường là do ung thư.

- Chân yếu và tê: đây là triệu chứng báo hiệu một thần kinh sống đang bị chèn ép.

- Té ngă hoặc tai nạn.

- Đau hơn 4 tuần.

Nếu không có những triệu chứng kể trên (báo hiệu có thể một bệnh nguy hiểm nào đó gây đau lưng), đau lưng thường do những nguyên nhân lành. 90 phần trăm các trường hợp đau lưng cấp tính do nguyên nhân lành sẽ dần thuyên giảm trong ṿng 2-4 tuần lễ. [Về bệnh đau lưng dưới lành, không do những nguyên nhân độc, một số yếu tố khiến người này hay bị hơn người khác: hút thuốc lá; béo mập; phụ nữ; làm nghề lao động nặng, hoặc làm việc văn pḥng ít có cơ hội vận động; chịu nhiều căng thẳng tinh thần trong công việc; có học thức thấp; không hài ḷng với công việc ḿnh làm; mang bệnh tâm thần; người có bảo hiểm Workers'Comp-ensation (bảo hiểm đền bồi cho những bệnh gây do công việc làm)].

florida80 06-30-2019 20:22

Từ cổ trở xuống, giữa các đốt sống, có một hệ thống thần kinh (nerves) tỏa ra khắp cơ thể, điều khiển sự cử động, đồng thời giúp cơ thể thâu nhận các cảm giác. Nếu cột sống sụp, hoặc một đĩa sụn giữa hai đốt sống ph́nh bự ra (bulging, herniated), một dây thần kinh sống (thường là thần kinh tọa) có thể bị chèn ép. Thêm vào cái đau do vấn đề của chính cột sống, ta c̣n thêm cái nhức và các triệu chứng khác của t́nh trạng thần kinh sống bị chèn ép (đau chuyền xuống một bên chân, chân tê hoặc yếu, ...).

Triệu chứng

Triệu chứng tùy vào nguyên nhân gây ra cái đau.

Những trường hợp đau lưng dưới do nguyên nhân lành thường đau nhiều ban ngày khi ta hoạt động, bớt về đêm khi ta nghỉ ngơi. Một số hoạt động hoặc tư thế khiến cái đau nặng hơn, thí dụ ngồi lâu, cong cúi, xoay người sang bên, ... Cái đau ở giữa, hoặc một hay hai bên lưng, thường không lan xuống mông hoặc chân. Tuy có chuyển động và đi lại khó khăn do đau, song thực ra, chân ta không bị yếu, tê. Ta không nóng sốt, và tiêu tiểu vẫn b́nh thường.

Nếu cái đau của bạn nhiều hơn về đêm, không ảnh hưởng bởi các hoạt động hoặc tư thế, lan xuống mông, chân, chân bạn yếu, tê, hoặc bạn thêm nóng sốt, tiêu tiểu bất thường, ..., bạn nên cho bác sĩ biết để bác sĩ cảnh giác, t́m hiểu nguyên nhân gây ra cái đau của bạn kỹ hơn.

Thăm khám và chụp phim

Thế nào bạn cũng nóng ḷng, muốn được chụp phim ngay. Nhưng trong đa số các trường hợp đau lưng cấp tính, với lần thăm khám đầu, phim chụp thường không cần thiết, nếu ta không nghi găy xương, v́ không giúp ǵ thêm vào sự định bệnh hay chữa trị.

Xin bạn để bác sĩ hỏi bệnh bạn kỹ và thăm khám bạn tỉ mỉ trước đă. Chúng ta chớ vội chụp phim. Phim chụp ra có thể b́nh thường, song bác sĩ không thể bảo rằng v́ phim chụp b́nh thường nên bạn không đau. Phim chụp, Cat scan, hay MRI có thể bất thường, nhưng không chắc ǵ cái bất thường này là nguyên nhân gây cái đau của bạn. Cột sống người trên 30, giống một cây nhiều tuổi. Cây nhiều tuổi mọc thêm chồi thêm nhánh, da cây sần sùi. Cột sống cao tuổi cũng sần sùi, có những chồi xương mọc thêm ra, các đĩa sụn giữa các đốt sống có thể méo mó, ph́nh bự (bulging). Nếu phim chụp, Cat scan, hoặc MRI cho thấy những bất thường này, thường đây chỉ là những thay đổi b́nh thường của cột sống theo tuổi tác, không chắc ǵ chúng là nguyên nhân gây đau.

Bác sĩ nên để ư những triệu chứng báo hiệu người bệnh có thể đau lưng v́ những bệnh nguy hiểm. Hỏi bệnh kỹ, thăm khám tỉ mỉ, thêm vào đó, với một tinh thần cảnh giác cao, bác sĩ sẽ ít khi sót một vấn đề nguy hiểm khiến người bệnh đau lưng. 90% người bị đau lưng cấp tính sẽ bớt dần trong ṿng 1 tháng. Sau thời gian này, nếu bạn vẫn c̣n đau đến độ chưa làm việc được b́nh thường trở lại, bác sĩ sẽ thăm khám bạn lại và t́m hiểu nguyên nhân tại sao cái đau của bạn c̣n dữ thế, và nếu cần, chúng ta chụp phim vào lúc này vẫn chưa muộn.

florida80 06-30-2019 20:23

CHỮA TRỊ ĐAU LƯNG CẤP TÍNH



Đa số các trường hợp đau lưng dưới cấp tính (vài ngày, vài tuần) do các nguyên nhân lành sẽ mau chóng thuyên giảm trong 2 đến 4 tuần hay sớm hơn. Sự chữa trị giúp chúng ta đỡ đau và khó chịu, trong lúc chờ cái lưng tự nó hồi phục.

Có nên nằm nghỉ?

Trước các bác sĩ vẫn khuyên người bệnh nằm nghỉ vài ngày. Nay cách chữa này xưa rồi, v́ người ta thấy nằm nghỉ chỉ làm đau lưng lâu lành hơn.

Chúng ta vẫn nên hoạt động và đi làm như thường, hoặc trở lại công việc càng sớm càng tốt. Nghỉ ngơi lâu ở nhà sẽ khiến thân xác bạc nhược, tinh thần rời ră, hết muốn đi làm nữa, và lưng cũng thấy đau hoài. (Nhiều người có bảo hiểm Workers' Compensation đền bù cho những thương tích xảy ra do công việc làm, thấy đau lưng ở nhà không đi đến sở vẫn có tiền, thôi cứ đau lưng dài dài cho sướng!)

Chỉ nên tạm tránh những tư thế hay hoạt động tạo nhiều sức tác động (stress) trên cột sống, khiến chúng ta đau thêm. Thí dụ, nếu đau nhiều, chúng ta không nên ngồi đâu lâu quá 20 phút mà không đứng dậy, đi lại đôi chút. (Dù không bị đau lưng, ta cũng chẳng nên ngồi đâu lâu quá 50 phút mà không ngọ nguậy, thay đổi tư thế, đứng lên đi đi lại lại).

Chúng ta cũng nhớ, khi nâng nhắc vật ǵ nặng, giữ thân ḿnh cho thẳng, qú gối thay v́ cong lưng, đưa sát vật nặng vào người (ngang tầm vùng rốn), từ từ nâng lên. Cũng chớ nên xoay người khi đang nâng nhắc vật nặng.

Thuốc dùng

Đau thường được phân làm 3 mức độ: nhẹ (mild), vừa (moderate) và nặng (severe).

Đau lưng dưới nếu chỉ nhẹ đến vừa, chúng ta có thể uống acetaminophen (Tylenol) để chống đau. Thuốc acetaminophen an toàn nhất, ít gây tác dụng phụ.

Nếu đau từ vừa đến nặng, chúng ta dùng “thuốc chống viêm không có chất steroid” như Aleve, Advil, Nuprin, Motrin (mua bên ngoài không cần toa bác sĩ), ... Thuốc nên uống lúc bụng no, v́ có thể làm khó chịu bao tử.

Đau quá, các thuốc chống đau loại mạnh có chất nha phiến như Tylenol số 2, số 3, Vicodin, ..., nếu cần đến, chỉ nên dùng trong một thời gian ngắn vài ngày, chúng có thể gây nghiện.

Các cách chữa khác

- Xoa nắn cột sống (spinal manipulation): đây là cách chữa các chiropractor họ làm, tuần một vài lần. Cách chữa này tốn kém hơn, mất th́ giờ hơn. Ta nên tránh phương pháp chữa trị này nếu bạn có triệu chứng đau lan xuống chân, có thể do thần kinh bị chèn ép (radiculopathy). Sau 1 tháng, nếu cái đau của bạn vẫn không thuyên giảm, xoa nắn cột sống không nên được tiếp tục.

- Shoe insoles: dùng miếng lót đặt trong giầy đi cho êm, nếu chúng ta làm những công việc phải đứng lâu.

Các đai lưng (lumbar corsets) dùng được, nhưng chỉ với mục đích pḥng ngừa sao cho đau lưng đừng tái phát, cho những người phải làm những công việc có thể tạo nhiều sức tác động (stress) trên lưng, không có kết quả trong việc chữa trị đau lưng cấp tính.

- Châm cứu: châm cứu cũng giúp một số người đau lưng dưới cấp tính, song cho đến nay không có nhiều khảo cứu về việc dùng châm cứu để chữa trị đau lưng dưới cấp tính

florida80 06-30-2019 20:23

Thể dục

Khi đau lưng thuyên giảm, chúng ta nên bắt đầu tập ngay những thể dục năng động giúp cơ thể dẻo dai (aerobic conditioning exercises) như đi bộ, bơi lội, vận động dưới nước (water exercise), đạp xe đạp tại chỗ (stationary biking), ngay cả chạy chậm chậm (jogging).

Trong ṿng 2 tuần đầu kể từ lúc bị đau lưng, có thể tập tăng dần lên đến 20-30 phút mỗi ngày. Lưng có c̣n hơi đau hơn một chút vẫn không sao. Nếu đau nhiều hơn một chút nữa, chúng ta đổi thay thể dục đang tập đôi chút, hoặc chuyển sang môn thể dục khác. Rồi, vài tuần sau, khi lưng đă bớt đau, tập thêm những thể dục giúp các bắp thịt của thân ḿnh thêm dẻo dai (conditioning exercises for trunk muscles).

Những điều không nên làm:

- Không nên dùng những máy tập đặc biệt dùng tập cho lưng.

- Không nên tập những thể dục làm dăn (stretching) các bắp thịt lưng, thí dụ như cong cúi.

Tóm lại, hàng ngày, ta dùng cột sống của ta vào đủ mọi công việc, vặn vẹo nó, bắt nó nghiêng bên này ngả bên kia, gập đàng trước, ngửa đàng sau. Bởi vậy, thế nào cũng có lúc nó đau, nhất là vùng lưng dưới (nhưng cũng may, thường nó sẽ mau chóng ra đi). Ta ǵn giữ lưng bằng cách năng vận động, giữ thân thể khỏe mạnh (xin nhớ, thân khỏe, lưng sẽ khỏe theo), luôn có một tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu nghề.

florida80 06-30-2019 20:24

ÁNH NẮNG HẠI CHO DA



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

8748 E. Valley Blvd., Ste H

Rosemead, CA 91770

Tel: (626) 288-3306

(www.hqtysvntd.org)



Truyện cổ Nhật-Bản kể, xưa có bà cụ già may mắn gặp được ḍng suối trường sinh. Cụ uống ngụm nước suối, chợt trẻ lại thành gái đôi tám. Người chồng theo lời vợ chỉ dẫn, chống gậy ra đi, cũng gặp ḍng suối trường sinh. Uống một ngụm, ông trẻ lại thời trai tráng. Ông mừng quá, uống thêm ngụm nữa, rồi ngụm nữa.

Lâu không thấy chồng về, người vợ nóng ruột đi t́m. Đến bên ḍng suối, nàng nghe tiếng khóc trẻ thơ. Nh́n vào mắt đứa bé nằm trên cỏ, biết là chồng ḿnh, nàng xót xa bế... chồng về. Từ nay, ngày ngày nàng sẽ săn sóc, chăm chút cho đứa bé và chờ... 20 năm nữa.

Trẻ măi không già, vẫn là mộng ước của mọi người chúng ta. Nhưng nào ai cản được sức tàn phá của thời gian. Có điều cùng tuổi, người trông trẻ, kẻ trông già hơn. Một phần cũng v́ làn da.



Sao da ta không trẻ măi?



Có ǵ không già theo thời gian, thưa bạn. Làn da chúng ta cũng già theo thời gian (chronologic aging). Trẻ con có làn da tươi sáng, mướt mát, với rất ít những vết bất thường trên da. Càng cao tuổi, da càng xấu hơn. Tuổi tác làm da ngày thêm khô, có những vết nhăn nhỏ (vết hằn của những ưu tư, tính toán?). Đồng thời da cũng lỏng hơn (laxity), không c̣n chắc như khi c̣n trong tuổi đôi tám. Đấy là chưa kể nhiều loại bệnh da cũng từ từ xuất hiện, khi ta cao tuổi đời.

Điều ít ai biết là ánh sáng góp phần không ít vào việc làm làn da của ta chóng già. Da già đi v́ ánh sáng được gọi là photoaging. Ánh sáng mặt trời khiến da sần sùi, mất nét tươi mịn. Ánh sáng tạo trên da những chỗ nham nhở, hoặc đậm màu hơn hoặc nhạt màu hơn chỗ da b́nh thường. Ánh sáng cũng có tác dụng làm mất chất mỡ dưới da, tạo những vết nhăn lớn. Rồi những chỗ có các mạch máu ph́nh nở, cho h́nh ảnh những tia máu đỏ dưới da.

Tiếp tục tiếp xúc với ánh sáng mặt trời năm này sang năm khác, da sẽ có thêm những vết bớt màu nâu, những vùng trắng h́nh giọt nước ở tay chân, do thiếu sắc tố melanin tại những vùng này. Da trở nên mỏng yếu, dễ bị bầm, trầy xước, dù với những chấn thương không đáng kể. Những chỗ trầy xước lại lâu lành. Các lỗ chân lông trông cũng to hơn. Các hạch dưới da tiết chất nhờn sebum (một chất có tác dụng giữ cho da khỏi khô) ph́nh nở lớn, tạo những mụn màu vàng vàng rải rác trên da mặt.

Người da màu sáng có những thay đổi của da gây do ánh sáng mặt trời (photoaging) sớm hơn, trong khi những người có làn da sậm màu sẽ muộn có những thay đổi của da gây do ánh sáng hơn. Da của người có da bánh mật, sậm màu, khi thay đổi v́ tiếp xúc dài lâu với ánh nắng mặt trời trông bủng vàng, c̣n da người có nước da sáng, khi già đi v́ ánh nắng mặt trời, sẽ ửng đỏ và hiện những tia máu nhỏ dưới da.

Vô số những thay đổi khác làm xấu da bạn cũng là do ánh sáng mặt trời. Ánh sáng mặt trời c̣n có tác dụng gây ung thư da, trong đó có loại ung thư rất độc gọi là melanoma (loại ông John McCain, Thượng nghị sĩ vùng nắng chói Arizona bị). Bạn không ngờ ánh nắng mặt trời lại tai hại cho làn da đến thế

florida80 06-30-2019 20:25

Làm thế nào để “trông” trẻ lâu?



Không có cách nào để ngừa cho da khỏi già theo thời gian (chronologic aging). Họa chăng, chúng ta may mắn gặp được ḍng suối trường sinh và trẻ lại (nhưng chỉ nên uống một ngụm, chớ nên tham uống đến ba ngụm nước suối!).

Khô da do có tuổi gây ngứa chữa bằng cách dùng các lotion giúp da bớt khô (emolllients) như Keri lotion, Vaseline lotion. Nhiều vết hay bướu bất thường mọc đây đó trên da, làm lộ cái già của da, có thể cắt bỏ hoặc tẩy được bằng nhiều phương pháp trị liệu khác nhau.

Cũng may, da già, và cả ung thư da, do ánh sáng mặt trời có thể ngừa được. Bằng cách tránh tiếp xúc với ánh nắng càng nhiều càng tốt, ở bất cứ tuổi nào. (Thường, chúng ta lo cho da chúng ta, song quên mất da của con em: “Kệ, cho chúng nó chạy chơi ngoài nắng cho khỏe, trong nhà quẩn chân, chúng nó quậy quá”.)

Ra nắng, ta cố che hết mọi chỗ (thế mới biết phụ nữ các nước Ả-rập họ khôn thật, trùm từ đầu đến chân). Ánh nắng gắt khoảng 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều hại cho da nhất, ta thu xếp công việc để tránh ra ngoài vào những lúc này. Nếu bất đắc dĩ phải ra ngoài, làm việc ngoài trời khoảng thời gian này, ta mặc quần áo dài tay dài chân may với chất liệu sít sao (tighly woven). Quần áo bằng bông, loại unbleached cotton, và lụa (silk) tốt, v́ bông và lụa cản tia cực tím (ultraviolet) độc hại trong ánh nắng rất hữu hiệu. Tránh mặc quần áo bằng polyester crepe và bleached cotton, v́ chúng dễ để tia cực tím chiếu xuyên qua. Quần áo mặc rộng răi, không nên bó sát người, và màu đậm có thể tốt hơn màu nhạt. Ta giữ quần áo khô, không để chúng ướt, v́ quần áo ướt mất bớt đến một phần ba (1/3) khả năng ngăn cản tia cực tím của chúng.

Nên dùng kem chống nắng, loại có SPF (sun protection factor) từ 15 trở lên, trên những chỗ da không có quần áo, bất cứ khi nào bạn ra ngoài trời nắng trên 20 phút. Dùng kem cả vào những ngày ít nắng nhiều mây, v́ 80% những tia cực tím quỉ quyệt, từ trời cao, vẫn lén chui qua được các tầng mây, xuống săm soi trên da thịt chúng ta. Bạn thoa kem kỹ, 15-20 phút trước khi ra ngoài, chú trọng những vùng mặt, bàn tay, tay và chân. Bạn bơi lội, hoặc chảy mồ hôi nhiều, cứ 2 tiếng, nên thoa kem lại, v́ kem trên da gặp nước sẽ trôi mất bớt.

Nhớ đội mũ rộng vành, hầu che chở luôn mặt, mắt, tai, gáy. Kính mát cũng rất tốt, cản ánh nắng khỏi vào mắt bạn gây bệnh mắt cườm (cataract), đồng thời bảo vệ vùng da quanh mắt. Bạn chọn loại kính mát to, cong, úp sát quanh hai mắt (wraparound sunglasses), chúng giúp nhiều hơn, nắng bên ngoài khó mà vào mắt bạn.

Nhiều vết bất thường trên da gây do ánh nắng làm xấu da bạn, khiến bạn trông già, chữa trị được với nhiều cách. Chẳng hạn dùng chất nitrogen để đốt những chỗ sần sùi hoặc những vết bớt mầu nâu trên da, dùng tia sáng Laser để chữa những vùng da nám hoặc có những tia máu nhỏ dưới da. Nhiều phương pháp giải phẫu có thể lấy bớt những chỗ da thừa, chảy xệ. Một số chất đặc biệt, khi được chích vào những vết nhăn, sẽ giúp vết nhăn mờ đi. Một số thuốc thoa trên mặt, như trichloro-acetic acid và alpha-hydroxy acids, có tác dụng tái tạo lại lớp trên cùng của da, khiến da bạn trông khá hơn.

Một thuốc khác có chứa chất tretinoin (Retin-A, hay được dùng để chữa mụn trứng cá trên mặt) cũng được xem có tác dụng tốt đối với da, khiến da trông láng lẩy hơn. Dùng đều mỗi ngày, thuốc làm mờ những vết nhăn xấu xí, những vết nám vô duyên lỗ rỗ trên da. Da cũng trông bớt bủng vàng khi dùng đều thuốc có chất tretinoin mỗi ngày. Tiếc thay, những thành quả đạt được bởi chất thuốc tretinoin sẽ mất đi nếu ta ngưng dùng nó. Thuốc hay tạo phản ứng phụ ở chỗ thoa thuốc làm da ngứa, khô, đỏ, nhưng những phản ứng bất lợi này có thể sẽ bớt dần sau vài tuần. Bạn có thể dùng những lotion có tính chất giữ cho da khỏi khô (moisturizer) ở những chỗ da ngứa, khô, đỏ để đỡ khó chịu trong lúc chờ các phản ứng gây do thuốc thoa từ từ thuyên giảm.

Thực, đời khó vẹn toàn. Ánh sáng mặt trời rất cần cho sự sống, lại là kẻ thù của làn da chúng ta. Tránh ánh nắng càng nhiều càng tốt, sẽ giữ được làn da mịn màng, tươi mát lâu hơn, kéo dài nét tươi trẻ.

Nắng vàng rực rỡ, ta đă sang Hè. Càng nắng, càng nên ăn mặc cẩn thận, và khi có thể, ta chọn chỗ có bóng mát mà đi.

florida80 06-30-2019 20:25

ÁNH SÁNG Ở MỌI NƠI



BÁC SĨ THÁI MINH TRUNG



Kỳ này, mới quí độc giả đọc một bài viết rất ư nghĩa của Bác sĩ Thái Minh Trung, chuyên khoa Tâm Thần.

Bác sĩ Nguyễn Văn Đức



Xin kể cho các bạn nghe một giấc mơ:

Có một làng nọ, dân làng bị cái bịnh bẩm sinh là không thể ngước đầu lên được. Họ chỉ biết nh́n dưới đất. Những ǵ họ thấy nhiều nhất là những bóng đen di chuyển. Ngoài ra họ chỉ biết nh́n thế giới phản ảnh trên mặt hồ với những gợn sóng lợn cợn làm h́nh ảnh đó thay đổi từng giây từng phút. Những người dân làng sống trong đau khổ và sợ hăi. Thế giới của họ thường mang màu đen không có h́nh dạng cố định của những chiếc bóng. Ngoài ra họ than rằng không có ǵ vững bền khi nh́n những cái bóng mấp máy phản ảnh trên mặt hồ.

Có một người thấy cái bóng phản ảnh đó lấp lánh coi đẹp quá, muốn đem về cất giữ. Người đó múc nước chứa cái bóng lấp lánh. Khi múc nước đem đi được một đoạn, người đó đổi hướng đi th́ cảnh đẹp biến mất và bóng người đi kế bên hiện ra. Người đó tức quá, đổ thừa là tại người đi kế bên đánh cắp vật quư của ḿnh. Hai người lời qua tiếng lại đưa đến căi lộn và ấu đă với nhau. Họ than số phận hẩm hiu quá, muốn cái ǵ cũng không được, lại c̣n bị người khác phá rối. Tội nghiệp thay, v́ tật bẩm sinh, những người dân làng này đâu có biết rằng bóng theo người và biến đổi theo người!

Chúng ta không khác nào những người dân làng kia. Cái tật bẩm sinh của chúng ta là chỉ thấy được cái bóng vật chất của cuộc đời. Trong sự mê lầm này, ta đă mất biết bao nhiêu nước mắt để khóc than cho số phận nhiều đen hơn đỏ của ta. Nếu nước mắt nhân loại qua bao thế hệ có thể chứa được th́ có thể lấp đầy biển khơi. Trong lúc ta đau khổ tột cùng ta mất trí khôn, tạo sự đau khổ cho người chung quanh ta. Rồi ta bị trả đũa lại bằng những lời nói hành động làm ta đau khổ thêm. Đau khổ v́ thế mà tràn lan ra khắp mọi nơi, như ngọn lửa dữ gặp rừng khô.

Ta quen sống trong thế giới vật chất hay biến đổi nên cho rằng cuộc đời mong manh là một sự thật phải chấp nhận. Ta phản ứng với sự đời biến đổi bằng đam mê mù quáng. Ta muốn bám giữ cái giây phút khoái lạc trong một chốc mà không cần biết tương lai ra sao, không cần biết lợi hại cho ta và người quanh ta. Ta như kẻ bần cùng bị nghiện x́ ke, đem hết số tiền c̣n lại mua một giây phút vui ngắn ngủi. Ta cho đó là hanh phúc. Khi ta bị đánh cắp vật ta thích, ta sanh ra ḷng hận thù. Mặc dù ta biết cái giây phút hưởng thụ không tồn tại măi nhưng ai rút ngắn nó đi th́ ta đâm ra thù người đó. Hạnh phúc ta là sự mơ màng. Ta đă làm quen đau khổ từ kiếp nào rồi nên dù bị khổ nhưng không dám nh́n sự thật và làm khác hơn.

florida80 06-30-2019 20:28

Tại sao ta bị mắc kẹt trong ngục tù vật chất? Từ nhỏ ta bị “nhồi sọ” rằng những cái ǵ tai nghe mắt thấy sờ mó được là sự thật. Ông bà ta tin như thế, cha mẹ ta tin như thế nên ta cho đó là sự thật hiển nhiên ai cũng phải chấp nhận. Một khi tin như vậy th́ thế giới quan của ta bị hạn chế ở những ǵ ta tin và lần lần ta mất khả năng nh́n rộng ra hơn. Khoa học ngày nay hiểu rằng vật chất chỉ là một dạng của năng lượng ánh sáng. Năng lượng có thể biến từ dạng này sang dạng khác, từ dạng hữu h́nh qua vô h́nh. Khi ta chỉ nh́n thấy một dạng hữu h́nh mà thôi th́ sẽ đau khổ khi cái ta mong đợi không c̣n đó nữa.

Cái hạn chế không thể nh́n ngoài cái hiểu biết của ḿnh được Phật giáo gọi là cố chấp. Cố chấp càng nhiều th́ vô minh càng dầy, che mất lối ra. Người bị màn vô minh che có thái độ họ cho rằng họ biết tất cả và có thể giải quyết tất cả bằng kiến thức (hạn hẹp) của họ mà không cần học hỏi thêm. Thái độ đó rất nguy hiểm v́ dễ sanh ra chế độ độc tài áp bức. Lúc đó con người bị mù quáng làm nhiều điều sai trái mà vẫn cho là ḿnh đúng và bắt người khác phải theo ḿnh. Khi thái độ này c̣n tồn tại trên quả địa cầu th́ sẽ có nhiều Hitler trong tương lai. Con người bằng xương bằng thịt có thể dễ diệt trừ chớ cái ư nghĩ cố chấp rất khó trị tận gốc. Khi thiếu ánh sáng nhận thức, cố chấp sẽ như đội quân cảm tử ở Iraq, toán này bị giết th́ toán khác sanh ra, lan tràn nhanh như cỏ dại vậy. Giết lẫn nhau là hậu quả đau thương khi con người cố chấp vào ư nghĩ ḿnh hoàn toàn đúng và cho đối phương là hoàn toàn sai nên cần bị tiêu diệt.

Thiên Chúa giáo trị cố chấp bằng cách giúp cho nhân loại nhận thức rằng cái ư muốn cá nhân khi phát triển tột cùng sẽ đưa thế giới đến tận thế. Những ư muốn cá biệt này sẽ gây ra rất nhiều mâu thuẫn thật khó hàn gắn lại được. Đó là “tội lỗi” của con người khi họ giành quyền làm Thượng Đế. Thiên Chúa giáo đề cao ư muốn công bằng của Thượng Đế. Cái nh́n hạn chế của con người không thể nào sánh bằng cái nh́n vượt không gian, thời gian của Thượng Đế. Nhiều người nhân cách hóa Thượng Đế mà không hiểu rằng Ngài hiện diện trong ánh sáng nhận thức. Sự hy sinh của Chúa Jesus trên thập tự tượng trưng cho sự hy sinh cái tôi riêng biệt hạn chế (nguồn gốc của cố chấp) để trở về Ánh Sáng Nguyên Thủy. Chúa hy sinh trên thập tự để mở đường nhận thức, giúp ta trở về Ánh Sáng Nguyên Thủy. Chúa chỉ có thể sống lại trong ta khi ta khai mở tâm hồn ta để tiếp đón ánh sáng của sự khôn ngoan và t́nh thương đồng loại.

Khi tín ngưỡng một cách mù quáng, con người bóp nghẹt sự sống bao la của Đạo - Con đường (the Way) - mà các bậc thánh nhân như Phật và Jesus hướng dẫn. Khi biến tôn giáo thành tín ngưỡng, con người nhét cái ư nghĩa sâu xa vô giới hạn trong nhà tù của định nghĩa. Khi Đạo bị dính trong chữ nghĩa th́ sự khoan dung và hiểu biết bao la rất khó mà phát triển. Con người sẽ tranh chấp trên chữ nghĩa đúng sai và sẽ phân tôn giáo ra nhiều nhánh. Con người có tín ngưỡng này chê bai tín ngưỡng khác và nhân danh tôn giáo mà gây ra chiến tranh. Sự đối lập này có thể xảy ra trong cùng một tôn giáo hay giữa các tôn giáo khác nhau. Làm như thế họ đi sâu vào thế giới của những cái bóng.

Sự thờ phụng mù quáng là một h́nh thức cố chấp ngoài đời đem vào tôn giáo. Thí dụ như khi nghe ở núi nào có cục đá có h́nh tượng Phật hay nơi nào đó có tượng Đức Mẹ khóc, thiên hạ đổ xô đi xem v́ họ nghĩ rằng những tượng đó linh thiêng. Họ không biết rằng với sự thờ phụng mù quáng, họ đă đi lạc đường. Họ đă đóng khung sự vô hạn trong cục đá hay bức tượng vô tri. Khi làm như vậy họ mất khả năng nh́n thấy Ánh Sáng bao la trên toàn vũ. Sự linh thiêng thật sự là khả năng cởi mở trao đổi và tha thứ, bỏ qua những ǵ sái ư ta. Sự linh thiêng đó khó mà có thể xảy ra ngoài tâm hồn ta được.

Bạn có biết không ta là những dân làng trong giấc mơ khi ta không chịu tập ngẩng đầu lên. V́ ta có tật bẩm sinh chỉ thấy những cái bóng của cuộc đời, ngẩng đầu lên làm ta đau đớn lúc ban đầu. Nhưng rồi cái đau đó không nghĩa lư ǵ khi ta bắt đầu nhận thức cái thế giới bền vững của Ánh Sáng. Ngẩng đầu lên là như thế nào? Khi các bạn theo ḍng suy nghĩ lăng xăng chấp “tôi đúng, mọi người sai” là lúc bạn nh́n xuống thế giới đau khổ. Khi bạn cố gắng để tư tưởng lắng động qua cách thiền tỉnh thức hay cầu nguyện trong im lặng th́ dần dần bạn sẽ cảm nhận được sự Hiện Diện Qua Ánh Sáng. Khi mang ánh sáng vào tâm thức bạn sẽ vững đi trên con đường đạo. Lúc đó bạn không nhờ cậy Phật, Chúa bên ngoài mà tự ḿnh cảm nhận rơ hướng đi.

florida80 06-30-2019 20:28

Bạn ơi có biết chăng:

Ta đuổi theo bóng

Bóng càng xa nhanh

Ta khổ theo bóng

Bóng càng đáng ghét

Hăy dừng lại đây

Giây phút tĩnh lặng

Rồi ta chợt tỉnh

Giấc mộng ngàn đời

Ánh sáng là bóng

Bóng là ánh sáng

Một đêm không trăng

Ánh Sáng có mặt

T́nh yêu chan chứa

Hiểu biết vô bờ

Là Phật hay Chúa?

Phật, Chúa mỉm cười.



(Bài trích sách “Những giấc mơ t́m về tỉnh thức” của Bác sĩ Thái Minh Trung.)

florida80 06-30-2019 20:29

ĂN NHIỀU HÀNH VÀ TỎI CÓ THỂ

GIÚP NGĂN NGỪA BỆNH UNG THƯ



MILAN, Italy (WebMD) - Một cuộc nghiên cứu mới cho thấy rằng ăn nhiều hành và tỏi có thể giúp ngăn ngừa bệnh ung thư.

Các nhà nghiên cứu ở Ư nhận thấy những người ăn theo chế độ dinh dưỡng có nhiều hành, tỏi và các thứ rau cùng họ với cây hành - như củ kiệu, tỏi tây (leek), hẹ - th́ giảm được nhiều nguy cơ mắc vài loại bệnh ung thư hơn những người tránh ăn những thứ này.

Nhà nghiên cứu Carlotta Galeone, thuộc viện Istituto di Ricerche Farmocologiche Mario Negri ở Milan, và các đồng nghiệp nói rằng những phúc lợi về sức khỏe của hành và tỏi đă được nói tới trong nhiều thế kỷ đă qua, nhưng chưa có những nghiên cứu đầy đủ để chứng minh những phúc lợi đó.

Trong cuộc khảo sát của họ, các nhà nghiên cứu đă dùng những số liệu từ vài cuộc nghiên cứu về bệnh ung thư ở Ư và Thụy Sĩ để t́m kiếm sự liên hệ giữa sự tiêu thụ hành và tỏi và bệnh ung thư tại vài nơi trong thân thể, như miệng, thanh quản (larynx), thực quản (esophagus), ruột kết (colon), vú, buồng trứng (ovary), và thận.

Nói tổng quát, trong số những người đă mắc bệnh ung thư th́ họ có mức tiêu thụ hành từ số 0 cho tới 14 phần (portion) mỗi tuần lễ; trong khi đó, những người không mắc bệnh ung thư th́ đă thường ăn hành ở mức từ 0 cho tới 22 phần mỗi tuần.

Sự tiêu thụ tỏi cũng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư, ngoại trừ những người mắc những bệnh ung thư vú, buồng trứng và tuyến tiền liệt.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng sự tiêu thụ hành ở mức vừa phải có vẻ làm giảm nguy cơ mắc những bệnh ung thư ruột kết, thanh quản, và buồng trứng.

Những hiệu ứng bảo vệ cũng mạnh hơn trong số những người ăn nhiều hành nhất so với những người ăn ít nhất. Những người ăn nhiều hành nhất cũng giảm nguy cơ mắc những bệnh ung thư trong miệng và thực quản so với những người ăn ít nhất.

Sự tiêu thụ tỏi ở mức vừa phải cũng giúp giảm nguy cơ mắc những bệnh ung thư ruột kết và thận

florida80 06-30-2019 20:29

ĂN NHIỀU HÀNH VÀ TỎI CÓ THỂ

GIÚP NGĂN NGỪA BỆNH UNG THƯ



MILAN, Italy (WebMD) - Một cuộc nghiên cứu mới cho thấy rằng ăn nhiều hành và tỏi có thể giúp ngăn ngừa bệnh ung thư.

Các nhà nghiên cứu ở Ư nhận thấy những người ăn theo chế độ dinh dưỡng có nhiều hành, tỏi và các thứ rau cùng họ với cây hành - như củ kiệu, tỏi tây (leek), hẹ - th́ giảm được nhiều nguy cơ mắc vài loại bệnh ung thư hơn những người tránh ăn những thứ này.

Nhà nghiên cứu Carlotta Galeone, thuộc viện Istituto di Ricerche Farmocologiche Mario Negri ở Milan, và các đồng nghiệp nói rằng những phúc lợi về sức khỏe của hành và tỏi đă được nói tới trong nhiều thế kỷ đă qua, nhưng chưa có những nghiên cứu đầy đủ để chứng minh những phúc lợi đó.

Trong cuộc khảo sát của họ, các nhà nghiên cứu đă dùng những số liệu từ vài cuộc nghiên cứu về bệnh ung thư ở Ư và Thụy Sĩ để t́m kiếm sự liên hệ giữa sự tiêu thụ hành và tỏi và bệnh ung thư tại vài nơi trong thân thể, như miệng, thanh quản (larynx), thực quản (esophagus), ruột kết (colon), vú, buồng trứng (ovary), và thận.

Nói tổng quát, trong số những người đă mắc bệnh ung thư th́ họ có mức tiêu thụ hành từ số 0 cho tới 14 phần (portion) mỗi tuần lễ; trong khi đó, những người không mắc bệnh ung thư th́ đă thường ăn hành ở mức từ 0 cho tới 22 phần mỗi tuần.

Sự tiêu thụ tỏi cũng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư, ngoại trừ những người mắc những bệnh ung thư vú, buồng trứng và tuyến tiền liệt.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng sự tiêu thụ hành ở mức vừa phải có vẻ làm giảm nguy cơ mắc những bệnh ung thư ruột kết, thanh quản, và buồng trứng.

Những hiệu ứng bảo vệ cũng mạnh hơn trong số những người ăn nhiều hành nhất so với những người ăn ít nhất. Những người ăn nhiều hành nhất cũng giảm nguy cơ mắc những bệnh ung thư trong miệng và thực quản so với những người ăn ít nhất.

Sự tiêu thụ tỏi ở mức vừa phải cũng giúp giảm nguy cơ mắc những bệnh ung thư ruột kết và thận

florida80 06-30-2019 20:30

Ngoài ra, hiệu ứng chống ung thư cũng gia tăng khi tiêu thụ nhiều tỏi hơn. Qua sự khảo sát những số liệu. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những người ăn nhiều tỏi nhất th́ giảm nguy cơ mắc tất cả những bệnh ung thư, ngoại trừ hai bệnh ung thư vú và tuyến tiền liệt - hai bệnh này phần lớn liên quan tới những vấn đề thuộc kích thích tố và hệ thống sinh sản, theo lời các nhà nghiên cứu.

Họ nói rằng sự tiêu thụ hành và tỏi có thể được coi là một dấu hiệu của một lối sống lành mạnh và của một chế độ dinh dưỡng bao gồm nhiều thứ thảo mộc và rau có tiềm năng chống bệnh ung thư. (n.m.)

florida80 06-30-2019 20:31

BÁC SĨ CHÍNH



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
8748 E. Valley Blvd., Ste. H
Rosemead, CA 91770
(626) 288-3306

Trong hệ thống y tế Hoa Kỳ, hiện có hai người bác sĩ phối hợp với nhau để chăm sóc sức khỏe cho người bệnh: bác sĩ chính (primary care doctor, primary care physician) và bác sĩ chuyên môn (specialist).
Danh từ "bác sĩ chính" xuất hiện khoảng hơn mười năm trước khi mô thức chăm sóc sức khỏe managed care HMO (Health Maintenance Organizations) ra đời, và người có Medi-Cal buộc phải gia nhập các tổ hợp y tế HMO, ngoại trừ các vị tàn tật thụ hưởng Medi-Cal. Song từ đầu năm nay, các vị tàn tật thụ hưởng Medi-Cal cũng phải gia nhập tổ hợp y tế HMO, không c̣n tự ư muốn đi bác sĩ nào th́ đi như trước. Tiểu bang California tiết kiệm được nhiều triệu đô la mỗi tháng nhờ việc này.
Vai tṛ của người bác sĩ chính ngày càng trở thành quan trọng khi vào đầu năm tới 2013, đến lượt các vị có Medi-Medi (vừa có Medi-Cal vừa có Medicare) cũng buộc phải gia nhập tổ hợp y tế HMO, và chính quyền tiểu bang tính, hàng năm California sẽ tiết kiệm được 1 tỉ đô la cho công quĩ khi đưa xong hết các vị Medi-Medi vào managed care HMO. Tiền thất thoát hiện thời là do người bệnh Medi-Medi tự đi nhiều bác sĩ, nên hay xảy ra những lạm dụng (abuse) và gian lận (fraud).
Trước khi có mô thức managed care HMO, người bác sĩ chính mờ nhạt, nhiều vị bệnh nhân tưởng bác sĩ chính chỉ chữa cảm, cúm, c̣n có chuyện ǵ về da, cứ chạy thẳng đến bác sĩ chuyên khoa Da, đau bụng chạy thẳng đến bác sĩ chuyên khoa Tiêu Hóa, … Thực ra không phải vậy, người bác sĩ chính được huấn luyện để làm những công việc quan trọng hơn nhiều. Bác sĩ chính không làm được việc của bác sĩ chuyên khoa, nhưng ngược lại, bác sĩ chuyên khoa cũng không làm, hoặc không làm được công việc của bác sĩ chính.

florida80 06-30-2019 20:32

Chữa trị

Trong hệ thống tổ hợp y tế HMO, người bệnh chỉ đi khám một bác sĩ, mọi chuyện đều cần đến người bác sĩ chính, nên bác sĩ chính phải chăm sóc sức khỏe cho người bệnh về mọi khía cạnh: chữa trị, thực hiện y khoa pḥng ngừa, và trong những lănh vực ngoài khả năng, làm thủ tục, viết giấy giới thiệu chuyển người bệnh đến người bác sĩ chuyên khoa.
Chữa trị là việc dễ hiểu, bạn có triệu chứng bất thường, đến khám, bác sĩ chính sẽ hỏi bệnh, thăm khám, định bệnh và chữa trị cho bạn. Nếu cần, bác sĩ chính gửi bạn đến bác sĩ chuyên khoa, sửa soạn hồ sơ, tài liệu, viết giấy giới thiệu để giúp bác sĩ chuyên khoa nhanh chóng giải quyết vấn đề giúp bạn. Đồng thời, bác sĩ chính cũng tiếp tục theo dơi vấn đề, đọc báo cáo của bác sĩ chuyên khoa gửi về, giải thích lại cho bạn và gia đ́nh những việc bác sĩ chuyên khoa muốn làm. Bác sĩ chuyên khoa quên gửi báo cáo ư (chuyện này xảy ra hoài!), bác sĩ chính sẽ cho người gọi văn pḥng bác sĩ chuyên khoa, nhờ gửi báo cáo. Mọi tài liệu sẽ được đưa lên hồ sơ bệnh lư điện tử (electronic medical record) của bạn để lưu trữ.
Trường hợp bạn vào pḥng cấp cứu hoặc nhà thương, vài ngày sau khi bạn về nhà, bác sĩ chính cần xem bạn lại, đọc các tài liệu của nhà thương để tiếp tục chữa trị bạn, và nếu cần, nhắc nhở bạn giữ hẹn với bác sĩ chuyên khoa đă xem bạn trong nhà thương. Từ nhà thương về, đi khám lại bác sĩ chính, bạn nên đem tất cả những giấy tờ nhà thương đưa bạn đến để bác sĩ chính xem, cả các thuốc họ cho.

Y khoa pḥng ngừa

Về y khoa pḥng ngừa, hệ thống HMO (Health Maintenace Organizations) là số một, v́ các tổ hợp y tế chuyên chăm sóc các vị cao niên nhận chỉ thị trực tiếp từ Medicare, nhắc nhở các bác sĩ chính trong tổ hợp phải thực hiện những pḥng ngừa đúng sách vở cho người bệnh, chu toàn nhiệm vụ Medicare giao phó. Đây là một hệ thống có kiểm soát, bác sĩ không làm đúng bổn phận, nhận được thư nhắc nhở của tổ hợp cũng khó chịu lắm (chưa kể bị mất các món tiền thưởng)!
Chẳng hạn, mỗi năm một lần, bác sĩ cần khám tổng quát và khuyên người bệnh những việc nên làm để duy tŕ và tăng tiến sức khỏe, người nào hút thuốc khuyên họ nên bỏ, cân, đo để tính ra Body Mass Index (chỉ số khối lượng cơ thể, dựa vào chiều cao và sức nặng), người nào có chỉ số này cao trên 25, tức quá cân (overweight), khuyên họ ăn uống kiêng cữ cách nào, vận động ra sao để xuống cân.
Người bệnh cần được gửi đi khám mắt để truy t́m bệnh cao áp nhăn (glaucoma), chích ngừa cúm hàng năm, và chích ngừa sưng phổi Pneumococcus một lần sau tuổi 65. Về truy t́m ung thư ruột già, bác sĩ cần khuyên người bệnh soi ruột già, hoặc thử phân t́m xem trong phân có máu. Phụ nữ cần được bác sĩ gửi đi chụp phim vú (mammogram) để truy t́m ung thư vú ít nhất 2 năm một lần, và sau tuổi 65, cần chụp phim truy t́m rỗng xương (osteoporosis), để sớm chữa trị nếu có bệnh.
Gửi người bệnh đi soi ruột già, khám mắt, chụp phim, …, bác sĩ chính cũng có bổn phận đọc các kết quả gửi về, bác sĩ chuyên khoa có quên gửi báo cáo, bác sĩ chính cho người gọi văn pḥng bác sĩ chuyên khoa nhờ gửi báo cáo. Mọi tài liệu y khoa pḥng ngừa đều được đưa lên hồ sơ điện tử của người bệnh đâu ra đấy.
Những chuyện thuộc lănh vực y khoa pḥng ngừa, bao lâu đưa người bệnh đi soi ruột già lại (10 năm sau, 5 năm sau, hay 3 năm sau tùy trường hợp), khám mắt lại, chụp phim vú lại (1-2 năm), ... rất hay sót, nhưng nay chúng ta có hồ sơ điện tử, bảo computer nó nhắc ḿnh, những chuyện này dễ thực hiện chu đáo hơn trước.
Bạn thấy, vai tṛ của người bác sĩ chính rất quan trọng, công việc của người bác sĩ chính đa dạng, cần kiến thức chuyên môn, sự tỉ mỉ, và bây giờ, cả khả năng sử dụng computer, nhờ nó nhắc chúng ta những việc cần làm. Thêm vào đó, bạn nên chọn bác sĩ chính nói cùng ngôn ngữ, dễ liên lạc để bạn không gặp khó khăn trong việc kể bệnh, nói chuyện, và khi có chuyện khẩn cấp cần liên lạc, bạn liên lạc được ngay.

florida80 06-30-2019 20:33

Chữa trị

Trong hệ thống tổ hợp y tế HMO, người bệnh chỉ đi khám một bác sĩ, mọi chuyện đều cần đến người bác sĩ chính, nên bác sĩ chính phải chăm sóc sức khỏe cho người bệnh về mọi khía cạnh: chữa trị, thực hiện y khoa pḥng ngừa, và trong những lănh vực ngoài khả năng, làm thủ tục, viết giấy giới thiệu chuyển người bệnh đến người bác sĩ chuyên khoa.
Chữa trị là việc dễ hiểu, bạn có triệu chứng bất thường, đến khám, bác sĩ chính sẽ hỏi bệnh, thăm khám, định bệnh và chữa trị cho bạn. Nếu cần, bác sĩ chính gửi bạn đến bác sĩ chuyên khoa, sửa soạn hồ sơ, tài liệu, viết giấy giới thiệu để giúp bác sĩ chuyên khoa nhanh chóng giải quyết vấn đề giúp bạn. Đồng thời, bác sĩ chính cũng tiếp tục theo dơi vấn đề, đọc báo cáo của bác sĩ chuyên khoa gửi về, giải thích lại cho bạn và gia đ́nh những việc bác sĩ chuyên khoa muốn làm. Bác sĩ chuyên khoa quên gửi báo cáo ư (chuyện này xảy ra hoài!), bác sĩ chính sẽ cho người gọi văn pḥng bác sĩ chuyên khoa, nhờ gửi báo cáo. Mọi tài liệu sẽ được đưa lên hồ sơ bệnh lư điện tử (electronic medical record) của bạn để lưu trữ.
Trường hợp bạn vào pḥng cấp cứu hoặc nhà thương, vài ngày sau khi bạn về nhà, bác sĩ chính cần xem bạn lại, đọc các tài liệu của nhà thương để tiếp tục chữa trị bạn, và nếu cần, nhắc nhở bạn giữ hẹn với bác sĩ chuyên khoa đă xem bạn trong nhà thương. Từ nhà thương về, đi khám lại bác sĩ chính, bạn nên đem tất cả những giấy tờ nhà thương đưa bạn đến để bác sĩ chính xem, cả các thuốc họ cho.

Y khoa pḥng ngừa

Về y khoa pḥng ngừa, hệ thống HMO (Health Maintenace Organizations) là số một, v́ các tổ hợp y tế chuyên chăm sóc các vị cao niên nhận chỉ thị trực tiếp từ Medicare, nhắc nhở các bác sĩ chính trong tổ hợp phải thực hiện những pḥng ngừa đúng sách vở cho người bệnh, chu toàn nhiệm vụ Medicare giao phó. Đây là một hệ thống có kiểm soát, bác sĩ không làm đúng bổn phận, nhận được thư nhắc nhở của tổ hợp cũng khó chịu lắm (chưa kể bị mất các món tiền thưởng)!
Chẳng hạn, mỗi năm một lần, bác sĩ cần khám tổng quát và khuyên người bệnh những việc nên làm để duy tŕ và tăng tiến sức khỏe, người nào hút thuốc khuyên họ nên bỏ, cân, đo để tính ra Body Mass Index (chỉ số khối lượng cơ thể, dựa vào chiều cao và sức nặng), người nào có chỉ số này cao trên 25, tức quá cân (overweight), khuyên họ ăn uống kiêng cữ cách nào, vận động ra sao để xuống cân.
Người bệnh cần được gửi đi khám mắt để truy t́m bệnh cao áp nhăn (glaucoma), chích ngừa cúm hàng năm, và chích ngừa sưng phổi Pneumococcus một lần sau tuổi 65. Về truy t́m ung thư ruột già, bác sĩ cần khuyên người bệnh soi ruột già, hoặc thử phân t́m xem trong phân có máu. Phụ nữ cần được bác sĩ gửi đi chụp phim vú (mammogram) để truy t́m ung thư vú ít nhất 2 năm một lần, và sau tuổi 65, cần chụp phim truy t́m rỗng xương (osteoporosis), để sớm chữa trị nếu có bệnh.
Gửi người bệnh đi soi ruột già, khám mắt, chụp phim, …, bác sĩ chính cũng có bổn phận đọc các kết quả gửi về, bác sĩ chuyên khoa có quên gửi báo cáo, bác sĩ chính cho người gọi văn pḥng bác sĩ chuyên khoa nhờ gửi báo cáo. Mọi tài liệu y khoa pḥng ngừa đều được đưa lên hồ sơ điện tử của người bệnh đâu ra đấy.
Những chuyện thuộc lănh vực y khoa pḥng ngừa, bao lâu đưa người bệnh đi soi ruột già lại (10 năm sau, 5 năm sau, hay 3 năm sau tùy trường hợp), khám mắt lại, chụp phim vú lại (1-2 năm), ... rất hay sót, nhưng nay chúng ta có hồ sơ điện tử, bảo computer nó nhắc ḿnh, những chuyện này dễ thực hiện chu đáo hơn trước.
Bạn thấy, vai tṛ của người bác sĩ chính rất quan trọng, công việc của người bác sĩ chính đa dạng, cần kiến thức chuyên môn, sự tỉ mỉ, và bây giờ, cả khả năng sử dụng computer, nhờ nó nhắc chúng ta những việc cần làm. Thêm vào đó, bạn nên chọn bác sĩ chính nói cùng ngôn ngữ, dễ liên lạc để bạn không gặp khó khăn trong việc kể bệnh, nói chuyện, và khi có chuyện khẩn cấp cần liên lạc, bạn liên lạc được ngay.

florida80 06-30-2019 20:34

BÁC SĨ

CHỮA TRỊ CÁCH NÀO?



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

8748 E. Valley Blvd. # H

Rosemead, CA 91770

(626) 288-3306



Chắc nhiều lúc bạn ṭ ṃ, muốn biết các bác sĩ chữa trị theo những nguyên tắc, tiêu chuẩn nào, v́ thấy có vị bác sĩ suy tính, cẩn trọng trong từng toa thuốc, có vị lại không buồn hỏi, cũng chẳng cần khám, nhưng cúi mặt biên lia lịa 5, 7 món trên những toa thuốc (toàn những thứ đắt tiền), xong c̣n hỏi: “Có cần thêm thuốc ǵ cho người nhà nữa không, tôi biên luôn”.

Nguyên tắc chữa trị đúng đắn trong y khoa kể ra không khó hiểu, chương tŕnh y khoa nào cũng dạy, sách y khoa nào cũng đề cập. V́ đây là những nguyên tắc giản đơn, hợp lư.



Tùy vào định bệnh



Đầu tiên, việc chữa trị bao giờ cũng tùy vào định bệnh. Sau khi nghe bạn kể bệnh tỉ mỉ, thăm khám cho bạn kỹ lưỡng, bác sĩ đi đến một định bệnh, rồi tùy định bệnh này là ǵ, chúng ta sẽ hoạch định cách chữa thế nào. Thí dụ, với định bệnh “Đau bụng” (Abdominal pain), bác sĩ chữa khác, với định bệnh “Đau lưng dưới” (Low back pain), cách chữa sẽ khác, và với định bệnh “Cao áp huyết” (Hypertension), cách chữa tất nhiên càng khác.

Tất cả các định bệnh đều phải có trong sách vở y khoa đàng hoàng, và phải có cả trong sách biến mỗi định bệnh thành một mă số (code) để bác sĩ gửi mă số này đến MediCal, Medicare, bảo hiểm nhờ họ trả chi phí thăm khám cho người bệnh. Thí dụ, mă số của “Abdominal pain” là 789.07, mă số của “Low back pain” là 724.2, máy computer của MediCal, Medicare, bảo hiểm khi nhận được các mă số này từ bác sĩ gửi đến, nó mới chấp nhận, và khuyên MediCal, Medicare, hăng bảo hiểm trả tiền cho bác sĩ. Nó không cần biết đến định bệnh “Abdominal pain” hay “Low back pain”, “Hypertension”, đúng mă số th́ nó nhận, không th́ thôi nó đẩy ra. Đời đâu đâu cũng là những con số.

Trong các sách y khoa, cũng như trong sách hoán chuyển định bệnh thành mă số, làm ǵ có định bệnh “Khỏe, không bệnh tật ǵ, đến xin thuốc đem về Việt Nam làm quà”, hoặc “Khỏe, không bệnh tật ǵ, đến xin trụ sinh về cho người nhà”. (Vậy mà có bác sĩ cứ làm, bạn tưởng bác sĩ này dễ, tốt, đến khi bạn mua bảo hiểm, mới ngă ngửa thấy bị bảo hiểm từ chối, v́ trong hồ sơ bệnh lư của bạn đầy bệnh, toàn những bệnh do bác sĩ bịa ra.)

Khi đă có một định bệnh rơ rệt (không phải định bệnh bịa đặt với mục đích lừa MediCal, Medicare, bảo hiểm, hầu chiều ḷng người bệnh, cho thuốc bừa băi), việc chữa trị căn bệnh cần tuân thủ 4 nguyên tắc: hữu hiệu, tránh phản ứng phụ, tiện lợi, tiết kiệm.



Tốt, hữu hiệu



Một khi đă quyết định phải chữa (nhiều vấn đề không cần phải chữa, chẳng hạn như một nốt ruồi lành, nhỏ trên da bạn), sự chữa trị cần hữu hiệu.

Bác sĩ sẽ dựa theo sách vở, chọn lựa sự chữa trị nào hữu hiệu nhất cho bạn. Sự chữa trị nhắm mục đích vừa làm giảm triệu chứng giúp bạn dễ chịu, vừa giúp bệnh mau lành và ít tái phát trong tương lai. Thí dụ, bạn bị đau lưng dưới cấp tính (acute low back pain) do hệ thống nâng đỡ cột xương sống căng, dăn, sự chữa trị không phải chỉ là dùng thuốc giảm đau, song bác sĩ cũng có bổn phận giải thích cơ chế gây ra đau lưng, và khuyên bạn những phương cách giúp đau lưng mau hết, và ít trở lại trong tương lai.

Một vấn đề bác sĩ rất hay gặp: bạn hỏi ư kiến bác sĩ về vô số những cách chữa quảng cáo rầm rộ trên báo chí, đài phát thanh, truyền h́nh, “Họ quảng cáo dữ quá, bảo đảm sẽ khỏi, không khỏi không lấy tiền”. Bác sĩ sẽ dựa vào sách vở để trả lời bạn, cách chữa nào đă được chứng minh là tốt, cách nào không. Nói chung, quảng cáo càng rầm rộ, càng đao to búa lớn kiểu “bảo đảm sẽ khỏi” (trong Y khoa Mỹ, không bác sĩ nào dám nói tiếng bảo đảm), sản phẩm họ bán càng đắt tiền, chúng ta càng cần đề pḥng chuyện tiền mất tật mang, hoặc thuốc, sản phẩm của họ mắc gấp mười so với thuốc, sản phẩm tốt ngang mua ở chỗ khác.

florida80 06-30-2019 20:35

BÁC SĨ

CHỮA TRỊ CÁCH NÀO?



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

8748 E. Valley Blvd. # H

Rosemead, CA 91770

(626) 288-3306



Chắc nhiều lúc bạn ṭ ṃ, muốn biết các bác sĩ chữa trị theo những nguyên tắc, tiêu chuẩn nào, v́ thấy có vị bác sĩ suy tính, cẩn trọng trong từng toa thuốc, có vị lại không buồn hỏi, cũng chẳng cần khám, nhưng cúi mặt biên lia lịa 5, 7 món trên những toa thuốc (toàn những thứ đắt tiền), xong c̣n hỏi: “Có cần thêm thuốc ǵ cho người nhà nữa không, tôi biên luôn”.

Nguyên tắc chữa trị đúng đắn trong y khoa kể ra không khó hiểu, chương tŕnh y khoa nào cũng dạy, sách y khoa nào cũng đề cập. V́ đây là những nguyên tắc giản đơn, hợp lư.



Tùy vào định bệnh



Đầu tiên, việc chữa trị bao giờ cũng tùy vào định bệnh. Sau khi nghe bạn kể bệnh tỉ mỉ, thăm khám cho bạn kỹ lưỡng, bác sĩ đi đến một định bệnh, rồi tùy định bệnh này là ǵ, chúng ta sẽ hoạch định cách chữa thế nào. Thí dụ, với định bệnh “Đau bụng” (Abdominal pain), bác sĩ chữa khác, với định bệnh “Đau lưng dưới” (Low back pain), cách chữa sẽ khác, và với định bệnh “Cao áp huyết” (Hypertension), cách chữa tất nhiên càng khác.

Tất cả các định bệnh đều phải có trong sách vở y khoa đàng hoàng, và phải có cả trong sách biến mỗi định bệnh thành một mă số (code) để bác sĩ gửi mă số này đến MediCal, Medicare, bảo hiểm nhờ họ trả chi phí thăm khám cho người bệnh. Thí dụ, mă số của “Abdominal pain” là 789.07, mă số của “Low back pain” là 724.2, máy computer của MediCal, Medicare, bảo hiểm khi nhận được các mă số này từ bác sĩ gửi đến, nó mới chấp nhận, và khuyên MediCal, Medicare, hăng bảo hiểm trả tiền cho bác sĩ. Nó không cần biết đến định bệnh “Abdominal pain” hay “Low back pain”, “Hypertension”, đúng mă số th́ nó nhận, không th́ thôi nó đẩy ra. Đời đâu đâu cũng là những con số.

Trong các sách y khoa, cũng như trong sách hoán chuyển định bệnh thành mă số, làm ǵ có định bệnh “Khỏe, không bệnh tật ǵ, đến xin thuốc đem về Việt Nam làm quà”, hoặc “Khỏe, không bệnh tật ǵ, đến xin trụ sinh về cho người nhà”. (Vậy mà có bác sĩ cứ làm, bạn tưởng bác sĩ này dễ, tốt, đến khi bạn mua bảo hiểm, mới ngă ngửa thấy bị bảo hiểm từ chối, v́ trong hồ sơ bệnh lư của bạn đầy bệnh, toàn những bệnh do bác sĩ bịa ra.)

Khi đă có một định bệnh rơ rệt (không phải định bệnh bịa đặt với mục đích lừa MediCal, Medicare, bảo hiểm, hầu chiều ḷng người bệnh, cho thuốc bừa băi), việc chữa trị căn bệnh cần tuân thủ 4 nguyên tắc: hữu hiệu, tránh phản ứng phụ, tiện lợi, tiết kiệm.



Tốt, hữu hiệu



Một khi đă quyết định phải chữa (nhiều vấn đề không cần phải chữa, chẳng hạn như một nốt ruồi lành, nhỏ trên da bạn), sự chữa trị cần hữu hiệu.

Bác sĩ sẽ dựa theo sách vở, chọn lựa sự chữa trị nào hữu hiệu nhất cho bạn. Sự chữa trị nhắm mục đích vừa làm giảm triệu chứng giúp bạn dễ chịu, vừa giúp bệnh mau lành và ít tái phát trong tương lai. Thí dụ, bạn bị đau lưng dưới cấp tính (acute low back pain) do hệ thống nâng đỡ cột xương sống căng, dăn, sự chữa trị không phải chỉ là dùng thuốc giảm đau, song bác sĩ cũng có bổn phận giải thích cơ chế gây ra đau lưng, và khuyên bạn những phương cách giúp đau lưng mau hết, và ít trở lại trong tương lai.

Một vấn đề bác sĩ rất hay gặp: bạn hỏi ư kiến bác sĩ về vô số những cách chữa quảng cáo rầm rộ trên báo chí, đài phát thanh, truyền h́nh, “Họ quảng cáo dữ quá, bảo đảm sẽ khỏi, không khỏi không lấy tiền”. Bác sĩ sẽ dựa vào sách vở để trả lời bạn, cách chữa nào đă được chứng minh là tốt, cách nào không. Nói chung, quảng cáo càng rầm rộ, càng đao to búa lớn kiểu “bảo đảm sẽ khỏi” (trong Y khoa Mỹ, không bác sĩ nào dám nói tiếng bảo đảm), sản phẩm họ bán càng đắt tiền, chúng ta càng cần đề pḥng chuyện tiền mất tật mang, hoặc thuốc, sản phẩm của họ mắc gấp mười so với thuốc, sản phẩm tốt ngang mua ở chỗ khác.

florida80 06-30-2019 20:36

Tránh phản ứng phụ



Không thuốc nào không gây phản ứng phụ (side effects), nếu phản ứng phụ khiến bạn khó chịu quá, bạn có thể sẽ lắc đầu chào thua bỏ thuốc. (Bạn đừng tin vào lời quảng cáo nhảm “Thuốc hoàn toàn không gây phản ứng phụ”.) Thỉnh thoảng, phản ứng phụ có thể nặng đến chết người.

Thế nên, bác sĩ sẽ tính toán trong trường hợp của bạn, chúng ta nên dùng thuốc nào th́ hơn, ta ít sợ phản ứng phụ nguy hiểm. Điều này tùy thuộc nhiều điều kiện lắm: sắc dân, tuổi tác, phái tính, các bệnh bạn đang mang, các thuốc bạn đang dùng (có thuốc dùng riêng không sao, dùng chung với một thuốc nào đó dễ gây phản ứng phụ). Khi đi khám bệnh, bạn nhớ đem tất cả các thuốc đang dùng ở nhà cho bác sĩ xem.

Để tránh phản ứng phụ có thể xảy ra cho người bệnh, bác sĩ nên luôn tự nhắc nhở ḿnh: càng ít thuốc càng tốt. (Buồn thay, một số bác sĩ làm ngược lại: càng biên nhiều thuốc càng tốt, những người bệnh thiếu hiểu biết khoái, đem thuốc về muốn cho ai th́ cho, c̣n dùng tầm bậy tầm bạ lung tung có ǵ xảy ra th́ ráng mà chịu, sống chết mặc người bệnh, miễn mỗi tháng đem MediCal, Medicare đến nộp cho thày.)



Tiện lợi



Dùng thuốc về lâu về dài, thuốc uống, chích ngày 1 lần th́ tốt, ngày 2 lần tạm được, nhưng ngày phải uống, chích đến 3 lần, th́ chắc ngay cả bác sĩ cũng khó dùng thuốc đều mà không quên.

Nhiều thuốc, như các thuốc chữa bệnh rỗng xương Actonel, Fosamax, họ chế loại mỗi tuần hoặc mỗi tháng chỉ uống 1 viên, không phải uống hàng ngày như trước.

Nếu có thể, bác sĩ nên tính toán chọn thuốc nào dùng ngày 1 lần thôi, giúp người bệnh đỡ quên uống, chích thuốc lần thứ 2, thứ 3 trong ngày.



Tiết kiệm



Nguyên tắc tiết kiệm không kém phần quan trọng so với 3 nguyên tắc hữu hiệu, tránh phản ứng phụ, tiện lợi.

Đồng tiền là núm ruột, tiền của ai cũng vậy thôi. Chữa trị tốn kém, về lâu về dài người bệnh trả tiền túi sẽ không kham nổi, hệ thống MediCal, Medicare, bảo hiểm sạt nghiệp.

Xa nhiều năm trước, thuốc MediCal biên toa bao nhiêu món mỗi tháng cũng được, thế rồi người ta thi nhau lạm dụng, biên toa thuốc bừa băi, cứ như thuốc từ trên trời rớt xuống, bao nhiêu cũng có. MediCal bèn giới hạn mỗi tháng 6 món thôi. Nhiều năm nay, lại bắt những vị có MediCal vào các tổ hợp y tế, nhờ các nhóm tư nhân HMO quản trị, kiểm soát mọi chi tiêu, lời ăn lỗ chịu, nhờ đó mỗi năm tiết kiệm được triệu triệu đô-la cho tiểu bang Cali chúng ta. Kể từ đầu năm 2006, thuốc của các vị vừa có MediCal vừa có Medicare (gọi là Medi-Medi) MediCal giao cho Medicare trông coi, mà Medicare là của tư nhân họ thầu, họ kiểm soát khá hơn, cho thuốc tháng một, những món thuốc đắt tiền, các vị Medi-Medi phải trả từ 1 đến 3 đồng, không c̣n “free” như trước. Mỗi tháng họ lại gửi về các vị một bản báo cáo tiền thuốc dùng trong tháng. Có lẽ những biện pháp này đă giới hạn được phần nào những lạm dụng về thuốc, một h́nh thức lạm dụng tinh vi và xảy ra nhiều nhất trong y khoa.

Các thuốc dùng nếu tác dụng tốt, hữu hiệu ngang nhau, bác sĩ nên chọn thuốc nhẹ tiền hơn. Cụ thể là các thuốc brand name và generic, chúng có tác dụng hữu hiệu ngang nhau, chúng ta nên dùng thuốc generic giá hạ hơn. Không phải lúc nào của rẻ cũng của ôi, của đắt tiền mới là của tốt, nhiều khi c̣n ngược lại. Bắt buộc phải dùng thuốc đắt tiền (như các thuốc bao tử Prevacid, Nexium, đến 3-4 đồng một viên), sau một thời gian, căn bệnh hoặc triệu chứng ổn định, bác sĩ nên đổi sang những thuốc nhẹ tiền hơn.

Không riêng ǵ những thuốc đắt tiền, với những thuốc khác cũng vậy, mỗi khi xem lại người bệnh, bác sĩ đều nên thẩm định lại tất cả các vấn đề, xem vấn đề nào của người bệnh đă giải quyết xong không c̣n cần đến thuốc chữa nữa, bỏ bớt thuốc đi. Việc này sẽ giúp người bệnh tránh bớt các phản ứng phụ do dùng nhiều thuốc quá, thuốc nọ đánh thuốc kia trong cơ thể, và cũng giảm thiểu tốn kém trong sự trị liệu. Nhất là đang trong thời buổi kinh tế khó khăn, đồng tiền eo hẹp, mọi người chúng ta ai cũng nên ư thức việc này, tiêu đúng th́ tốt, tiêu tốn quá nên tránh.

Bây giờ, bạn đă hiểu các nguyên tắc chữa trị bác sĩ nào cũng được dạy trong trường, chỉ người bác sĩ có chịu sử dụng những nguyên tắc này trong lúc hành nghề hay không, hay v́ lư do tài chánh làm mờ mắt nên đă cố t́nh quên những điều ḿnh được dạy dỗ trong trường rồi. Bạn sẽ không c̣n ngạc nhiên thấy có vị bác sĩ suy tính, cẩn trọng trong từng toa thuốc, có vị không buồn hỏi, cũng chẳng buồn khám, cúi mặt biên lia lịa 5, 7 món trên những toa thuốc (toàn những thứ đắt tiền), xong c̣n hỏi: “Có cần thêm thuốc ǵ cho người nhà nữa không, tôi biên luôn”.

florida80 06-30-2019 20:37

BỆNH CẢM

(Common cold)



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

8748 E. Valley Blvd., Ste. H

Rosemead, CA 91770

(626) 288-3306



Bệnh cảm thường (common cold) là bệnh nhẹ đường hô hấp trên, rất hay xảy ra, trẻ em 5 đến 7 lần một năm, c̣n người lớn chúng ta cũng 2-3 lần một năm.

Chúng ta cần phân biệt cảm với các bệnh cúm (flu), viêm họng (pharyngitis), viêm ống phổi (acute bronchitis), viêm xoang do vi trùng (acute bacterial sinusitis), viêm mũi do dị ứng (allergic rhinitis), ho gà (pertussis). Trong các bệnh vừa kể, viêm mũi do dị ứng hay khiến chúng ta lẫn lộn với cảm nhất.

Có đến trên 200 loại siêu vi (virus) có thể gây bệnh cảm.

Siêu vi cảm ẩn trong nước mũi, nước miếng người bệnh. Chúng ta nhiễm cảm khi bắt tay người bệnh có dính siêu vi cảm, rồi vô t́nh đưa lên mắt, mũi chúng ta, hoặc chúng ta rờ phải các đồ vật chung quanh người bệnh có dính siêu vi. (Nhiều siêu vi cảm có thể sống vài tiếng đồng hồ bên ngoài cơ thể ta.) Bệnh cũng truyền từ người bị cảm sang ta khi những hạt nước nhỏ li ti có chứa siêu vi, bắn ra từ mũi, miệng họ trong lúc họ ho, hắt hơi...

Cảm không dữ bằng cúm, song cũng có thể gây các biến chứng viêm các xoang quanh mũi, viêm tai giữa, khiến suyễn trở lại, bệnh phổi, bệnh tim có sẵn nặng hơn.



Triệu chứng



Thời gian từ lúc mới lây bệnh đến lúc bệnh phát ra ngắn, chỉ khoảng 24-72 tiếng đồng hồ. Khác với cúm (triệu chứng rất đột ngột và nặng), triệu chứng cảm nhẹ và từ từ hơn.

Triệu chứng thay đổi tùy người, nhưng nói chung, khi bị cảm, chúng ta hay chảy mũi, nghẹt mũi, hắt x́, rát họng, ho, nhức đầu, thấy trong người ớn lạnh, uể oải không khỏe. Cúm gây sốt cao, c̣n cảm thường không gây sốt, hoặc chỉ sốt nhẹ.

Rát họng khó chịu nhất trong ngày đầu, trong khi chảy mũi, nghẹt mũi, hắt x́ nặng nhất khoảng ngày thứ 2 và thứ 3. Ho thường làm phiền chúng ta nhất khoảng ngày thứ 4, 5.

Cảm thường chỉ kéo dài từ 3 đến 7 ngày, tuy nhiều người đến 2 tuần sau mới khỏi hẳn. Cảm không khiến ta mệt dữ như cúm.

Ngoài các triệu chứng vừa kể, khi thăm khám bạn, bác sĩ không thấy có những dấu chứng ǵ lạ lắm.

florida80 06-30-2019 20:38

BỆNH CẢM

(Common cold)



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

8748 E. Valley Blvd., Ste. H

Rosemead, CA 91770

(626) 288-3306



Bệnh cảm thường (common cold) là bệnh nhẹ đường hô hấp trên, rất hay xảy ra, trẻ em 5 đến 7 lần một năm, c̣n người lớn chúng ta cũng 2-3 lần một năm.

Chúng ta cần phân biệt cảm với các bệnh cúm (flu), viêm họng (pharyngitis), viêm ống phổi (acute bronchitis), viêm xoang do vi trùng (acute bacterial sinusitis), viêm mũi do dị ứng (allergic rhinitis), ho gà (pertussis). Trong các bệnh vừa kể, viêm mũi do dị ứng hay khiến chúng ta lẫn lộn với cảm nhất.

Có đến trên 200 loại siêu vi (virus) có thể gây bệnh cảm.

Siêu vi cảm ẩn trong nước mũi, nước miếng người bệnh. Chúng ta nhiễm cảm khi bắt tay người bệnh có dính siêu vi cảm, rồi vô t́nh đưa lên mắt, mũi chúng ta, hoặc chúng ta rờ phải các đồ vật chung quanh người bệnh có dính siêu vi. (Nhiều siêu vi cảm có thể sống vài tiếng đồng hồ bên ngoài cơ thể ta.) Bệnh cũng truyền từ người bị cảm sang ta khi những hạt nước nhỏ li ti có chứa siêu vi, bắn ra từ mũi, miệng họ trong lúc họ ho, hắt hơi...

Cảm không dữ bằng cúm, song cũng có thể gây các biến chứng viêm các xoang quanh mũi, viêm tai giữa, khiến suyễn trở lại, bệnh phổi, bệnh tim có sẵn nặng hơn.



Triệu chứng



Thời gian từ lúc mới lây bệnh đến lúc bệnh phát ra ngắn, chỉ khoảng 24-72 tiếng đồng hồ. Khác với cúm (triệu chứng rất đột ngột và nặng), triệu chứng cảm nhẹ và từ từ hơn.

Triệu chứng thay đổi tùy người, nhưng nói chung, khi bị cảm, chúng ta hay chảy mũi, nghẹt mũi, hắt x́, rát họng, ho, nhức đầu, thấy trong người ớn lạnh, uể oải không khỏe. Cúm gây sốt cao, c̣n cảm thường không gây sốt, hoặc chỉ sốt nhẹ.

Rát họng khó chịu nhất trong ngày đầu, trong khi chảy mũi, nghẹt mũi, hắt x́ nặng nhất khoảng ngày thứ 2 và thứ 3. Ho thường làm phiền chúng ta nhất khoảng ngày thứ 4, 5.

Cảm thường chỉ kéo dài từ 3 đến 7 ngày, tuy nhiều người đến 2 tuần sau mới khỏi hẳn. Cảm không khiến ta mệt dữ như cúm.

Ngoài các triệu chứng vừa kể, khi thăm khám bạn, bác sĩ không thấy có những dấu chứng ǵ lạ lắm.

florida80 06-30-2019 20:39

Chữa trị



Sự chữa trị bệnh cảm thường (common cold), trong những trường hợp không có biến chứng, gồm các phương cách giúp chúng ta dễ chịu, trong lúc chờ cho cơn cảm đi qua.

Trụ sinh (antibiotics) vừa tốn kém, lại chẳng ăn thua, không làm cảm sợ và đi mau hơn. Trụ sinh chỉ diệt được vi trùng (bacteria), không có kết quả trong những bệnh gây do siêu vi trùng (virus) như bệnh cảm, bệnh cúm. Chúng... “siêu” hơn vi trùng, nên không sợ trụ sinh. (Các tài liệu y học, vẫn luôn đưa lời kêu gọi, yêu cầu các bác sĩ không nên dùng trụ sinh để chữa cảm, cúm). Việc sử dụng trụ sinh chỉ cần thiết, khi đă có các biến chứng (complications) do vi trùng, như viêm tai giữa (otitis media), viêm các xoang quanh mũi (sinusitis), ... Các khảo cứu cho thấy, nếu dùng sớm, trụ sinh cũng không ngăn ngừa được các biến chứng. Và một khi biến chứng xảy ra, vi trùng đă kháng, đă lờn mặt loại trụ sinh đang sử dụng; dĩ nhiên lúc đó chúng ta cần đổi trụ sinh, có khi phải dùng một loại trụ sinh khác độc hại hơn, đắt tiền hơn, làm thủng túi tiền chúng ta.

Ta dùng Tylenol hay các thuốc Advil, Nuprin, Aleve, … (mua không cần toa bác sĩ) để bớt nhức đầu, rát cổ, ớn lạnh.

Các thuốc ho như Robitussin DM, Robafen DM có thể giúp chúng ta bớt ho; các thuốc uống như Sudafed, Genaphed và các thuốc xịt mũi như Afrin, Dristan dùng vài ngày giúp chúng ta bớt nghẹt mũi; các thuốc xịt ipratropium, cromolyn giúp chúng ta đỡ chảy mũi.

Bạn đang bị cảm (hay cúm), nóng ḷng muốn “chích thuốc” để cảm mau hết. Đúng theo sách vở, các siêu vi cảm đâu có sợ kim chích, làm ǵ có thuốc chích để cảm cuốn gói đi nhanh hơn. Bạn đừng tin vào ai dụ bạn, bảo chích thuốc hoặc dùng trụ sinh cảm sẽ mau hết. (Để lần sau bạn bị cảm, lại đến nộp tiền khám bệnh, chích thuốc tầm bậy tầm bạ, hoặc để có toa thuốc trụ sinh cho người bác sĩ đó một cách vô lư.)

Chúng ta khó tránh cảm 2-3 lần mỗi năm, v́ khác với cúm đă có cách ngừa (chích ngừa, thuốc xịt Flumist), cảm chưa có cách pḥng ngừa hữu hiệu. Nhưng xin đừng sợ lắm, cảm là bệnh nhẹ thôi, thường sẽ mau chóng ra đi. Đa số các trường hợp cảm, chúng ta có thể tự chữa lấy ở nhà, không cần đến bác sĩ. Chúng ta đừng tin vào ai dụ chích thuốc hoặc dùng trụ sinh để chữa cho mau hết cảm, chỉ tốn tiền vô ích, có khi c̣n hại.

florida80 06-30-2019 20:40

BỆNH CẢM Ở NGƯỜI LỚN



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

8748 E. Valley Blvd., Ste. H

Rosemead, CA 91770

(626) 288-3306



Thu, đông là mùa của cảm (cold) và cúm (flu). Bệnh cúm đặc biệt, chúng ta cũng sẽ có một bài riêng về nó, c̣n ở đây chúng ta bàn về bệnh cảm ở người lớn.

Chúng ta chẳng ai xa lạ với bệnh cảm, v́ ai cũng bị nó hành rất nhiều lần kể từ ngày c̣n nhỏ, và bây giờ vẫn phải gặp nó 2-3 lần mỗi năm, song nhiều người chúng ta vẫn chưa biết rơ, vẫn giữ những ư nghĩ sai lầm về nó. Chẳng hạn, cảm phải chữa bằng trụ sinh mới mau hết, hoặc vừa nhiễm cảm, triệu chứng c̣n nhẹ, nên đi bác sĩ liền để bác sĩ cho thuốc ngăn nó đừng trở nên nặng; trụ sinh không chữa được cảm, và có cơn cảm nhẹ, ho ít, rồi tự nó chóng hết, có cơn cảm nặng khiến ho liên miên suốt ngày đêm, hoặc ho lâu 2-3 tuần, bác sĩ chẳng có tài nào ngăn được nó đừng trở nặng. (Bác sĩ bị cảm th́ cũng phải chịu vậy thôi, không có thuốc ǵ đặc biệt giúp chính ḿnh mau hết cảm, chỉ có cách chờ cơn cảm nếu nó thương t́nh th́ tự nó bỏ đi sớm, nó không thương, nó bắt ho suốt ngày đêm hoặc ho lâu bác sĩ cũng đành khổ với nó!) Thế nên, bị cảm nhẹ, đo nhiệt không thấy nóng sốt, bạn có thể tự chữa ở nhà, đi bác sĩ tốn tiền tội cho bạn.

Bệnh cảm thường (common cold) là bệnh nhẹ đường hô hấp trên, rất hay xảy ra, trẻ em 5 đến 7 lần một năm, c̣n người lớn chúng ta cũng 2-3 lần một năm.

Có đến trên 200 loại siêu vi (virus) có thể gây bệnh cảm. Siêu vi cảm ẩn trong nước mũi, nước miếng người bệnh. Chúng ta nhiễm cảm khi bắt tay người bệnh có dính siêu vi cảm, rồi vô t́nh đưa lên mắt, mũi chúng ta, hoặc chúng ta rờ phải các đồ vật chung quanh người bệnh có dính siêu vi. (Nhiều siêu vi cảm có thể sống vài tiếng đồng hồ bên ngoài cơ thể ta.) Bệnh cũng truyền từ người bị cảm sang ta khi những hạt nước nhỏ li ti có chứa siêu vi, bắn ra từ mũi, miệng họ trong lúc họ ho, hắt hơi, ... Không phải tại ta ra ngoài không mặc đủ ấm nên nhiễm cảm.

Cảm không dữ bằng cúm, song cũng có thể gây các biến chứng viêm các xoang quanh mũi, viêm tai giữa, khiến suyễn trở lại, bệnh phổi, bệnh tim có sẵn nặng hơn.

Triệu chứng cảm

Thời gian từ lúc mới lây bệnh đến lúc bệnh phát ra ngắn, chỉ khoảng 24-72 tiếng đồng hồ. Khác với cúm (triệu chứng rất đột ngột và nặng), triệu chứng cảm nhẹ và từ từ hơn.

Triệu chứng thay đổi tùy người, nhưng nói chung, khi bị cảm, chúng ta hay chảy mũi, nghẹt mũi, hắt x́, rát họng, ho, nhức đầu, thấy trong người ớn lạnh, uể oải không khỏe. Cúm gây sốt cao, c̣n cảm thường không gây sốt, hoặc chỉ sốt nhẹ.

Rát họng khó chịu nhất trong ngày đầu, trong khi chảy mũi, nghẹt mũi, hắt x́ nặng nhất khoảng ngày thứ 2 và thứ 3. Ho thường bắt đầu làm phiền chúng ta khoảng ngày thứ 4, 5.

Cảm thường kéo dài khoảng 10 ngày, người hút thuốc lá lâu khỏi hơn, khoảng 13 ngày. Một số người đến 2 tuần sau mới khỏi hẳn. Cũng có người tuy khỏe rồi, vẫn ho lai rai vài tuần sau khi cảm. Cảm không khiến ta mệt dữ như cúm.

Ngoài các triệu chứng vừa kể, khi thăm khám bạn, bác sĩ không thấy có những dấu chứng ǵ lạ lắm.

florida80 06-30-2019 20:41

Chữa trị cảm

Sự chữa trị bệnh cảm thường (common cold), trong những trường hợp không có biến chứng, gồm các phương cách giúp chúng ta dễ chịu, trong lúc chờ cho cơn cảm đi qua.

Trụ sinh (antibiotics) vừa tốn kém, lại chẳng ăn thua, không làm cảm sợ và đi mau hơn. Trụ sinh chỉ diệt được vi trùng (bacteria), không có kết quả trong những bệnh gây do siêu vi (virus) như bệnh cảm, bệnh cúm. Chúng “siêu” hơn vi trùng, nên không sợ trụ sinh. (Các tài liệu y học, và cả cơ quan y tế CDC của chính phủ Mỹ vẫn luôn đưa lời kêu gọi, yêu cầu các bác sĩ không nên dùng trụ sinh để chữa cảm, cúm.) Việc sử dụng trụ sinh chỉ cần thiết, khi đă có các biến chứng (complications) do vi trùng, như viêm tai giữa (otitis media), viêm các xoang quanh mũi (sinusitis), ... Các khảo cứu cho thấy, nếu dùng sớm, trụ sinh cũng không ngăn ngừa được các biến chứng. Và một khi biến chứng xảy ra, vi trùng đă kháng, đă lờn mặt loại trụ sinh đang sử dụng, dĩ nhiên lúc đó chúng ta cần đổi trụ sinh, có khi phải dùng một loại trụ sinh khác gây nhiều tác dụng phụ hơn, đắt tiền hơn. (Người ta cũng nhận thấy, cộng đồng nào sử dụng nhiều trụ sinh, số vi trùng kháng thuốc trụ sinh trong cộng đồng đó cũng nhiều hơn các cộng đồng khác, chứng tỏ việc dùng trụ sinh bừa băi không những hại cho ḿnh, mà c̣n hại cho cả những người chung quanh.)

Ta dùng Tylenol hay các thuốc Aspirin, Advil, Nuprin, Aleve, … (mua không cần toa bác sĩ) để bớt nhức đầu, rát cổ, ớn lạnh.

Các thuốc uống như Sudafed, Genaphed và các thuốc xịt mũi như Afrin, Dristan dùng vài ngày giúp chúng ta bớt nghẹt mũi; các thuốc xịt Ipratropium, Cromolyn giúp chúng ta đỡ chảy mũi. Những thuốc chữa dị ứng như Claritin, Loratadine, Clarinex, Allegra, Zyrtec không ăn thua, uống vào nước mũi vẫn chảy ṛng ṛng. Những thuốc mạnh hơn như Benadryl, Chlor-Trimeton giúp bớt chảy mũi, song làm khô luôn môi, miệng, mắt, và ở các vị cao niên, có thể nguy hiểm, gây bí tiểu, dật dờ, trí óc mất sáng suốt.

C̣n ho? Ho ít chúng ta không cần uống thuốc ho, khi ho nhiều, các thuốc ho chứa chất dextromethorphan hay guaifenesin như Robitussin DM, Robafen DM giúp chúng ta bớt ho chút nào hay chút nấy, lúc ho dữ quá, chúng cũng chẳng giúp bao nhiêu, uống thường c̣n có thể khiến chúng ta mệt. Các thuốc ho chứa chất Codein không giúp cái ho do cảm, và gây nhiều tác dụng phụ hơn thuốc ho Robitussin DM, Robafen DM. American College of Chest Physicians không cổ vơ việc dùng thuốc ho khi bị cảm, theo họ, ho cứ để cho ho, nhất là khi ho có đàm, v́ ho là cơ chế tốt của cơ thể giúp chúng ta tống xuất bớt đàm nhớt dơ trong bộ hô hấp ra ngoài, không để chúng ứ đọng trong phổi gây sưng phổi.

Bạn đang bị cảm (hay cúm), nóng ḷng muốn “chích thuốc” để cảm mau hết. Đúng theo sách vở, các siêu vi cảm đâu có sợ kim chích, làm ǵ có thuốc chích để cảm cuốn gói đi nhanh hơn. Bạn đừng tin vào ai dụ bạn, bảo chích thuốc hoặc dùng trụ sinh cảm sẽ mau hết, tốn tiền vô ích, có khi c̣n hại. (Bạn nên hỏi lại, “Thuốc chích tên ǵ thế bác sĩ nhỉ, xin viết xuống đây cho tôi biết, để tôi t́m đọc trên internet xem thuốc chích này có thực chữa cảm không”, hoặc, “Tài liệu nào nói trụ sinh trị cảm, xin bác sĩ vui ḷng cho xem”.)

Chúng ta khó tránh cảm 2-3 lần mỗi năm, v́ khác với cúm đă có cách ngừa (chích ngừa, thuốc xịt Flumist), cảm chưa có cách pḥng ngừa hữu hiệu. Nhưng xin đừng sợ lắm, cảm là bệnh nhẹ thôi, thường sẽ mau chóng ra đi. Đa số các trường hợp cảm, chúng ta có thể tự chữa lấy ở nhà, không cần đến bác sĩ. C̣n thuốc ho, muốn dùng lúc ho nhiều không ngủ được hoặc sợ ho làm phiền người khác, bạn thử các thuốc ho Robitussin DM, Robafen DM (mua không cần toa bác sĩ), chúng giúp được chút nào hay chút nấy, không giúp th́ thôi. Nếu nóng sốt, hoặc ho dữ trên 10 ngày chưa thấy bớt, bạn nên đi khám bác sĩ xem có bị biến chứng của cảm như viêm xoang quanh mũi (sinusitis), viêm ống phổi cấp tính (acute bronchitis), hoặc suyễn trở lại. Viêm xoang quanh mũi cần đến trụ sinh.

Tóm lại, cảm là bệnh rất thường xảy ra, nên nhiều tiền bạc đă được đổ ra để nghiên cứu. Nhưng càng nghiên cứu, người ta càng thấy việc chữa cảm không có nhiều lựa chọn: nghỉ ngơi, và nếu cần, dùng thuốc Tylenol, Aspirin, hoặc Advil, Nuprin, Aleve cho đỡ nhức đầu, rát cổ, ớn lạnh, dùng thuốc Sudafed, Genaphed, Afrin, Dristan cho bớt nghẹt mũi, dùng các thuốc xịt Ipratropium, Cromolyn cho bớt chảy mũi (các thuốc mạnh như Benadryl, Chor-Trimeton giúp bớt chảy mũi, song gây nhiều tác dụng phụ); ho nhiều thử dùng thuốc ho Robitussin DM hay Robafen DM xem nó có giúp chăng, không giúp th́ thôi, ho cứ để ho, chúng ta kiên nhẫn chờ cảm qua đi ho sẽ hết (thường khoảng 10 ngày nếu không hút thuốc lá). Chúng ta không nên nhờ bác sĩ cho thuốc ho khác “mạnh” hơn, chúng cũng chẳng giúp mà c̣n có thể gây các tác dụng phụ khó chịu, nguy hiểm. Cảm đi ho sẽ tự hết, không phải v́ dùng thuốc ho này mạnh hơn thuốc ho nọ (và càng không phải v́ trụ sinh).

Ngày nay, với phương tiện truyền thông internet, chúng ta dễ dàng t́m hiểu nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe chúng ta, chẳng hạn, chúng ta có thể vào các websites www.uptodate.com, www.webMD.com để đọc những tài liệu về các bệnh tật thông thường hay xảy ra. Nâng cao kiến thức về mọi mặt, bao giờ cũng tốt cho bản thân chúng ta và gia đ́nh.

florida80 06-30-2019 20:42

BỆNH CẢM Ở TRẺ EM



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

8748 E. Valley Blvd., Ste. H

Rosemead, CA 91770

(626) 288-3306



Nhiều vị phụ huynh thấy con em ḿnh mới chảy mũi, ho chút, vội lấy thuốc chảy mũi, thuốc ho, thậm chí có khi cả trụ sinh, cho các em uống. Rồi thấy trẻ không bớt, vài ngày lại dắt trẻ đi bác sĩ.

Những thuốc này thực ra không giúp ǵ các em cả, mà c̣n có thể nguy hiểm.

Cảm thường (common cold) là bệnh xảy ra nhiều nhất ở Mỹ, gây do siêu vi (virus), không phải tại trời lạnh hay ta tiếp xúc với khí lạnh. Trẻ em bị cảm nhiều lần hơn người lớn chúng ta và triệu chứng cũng kéo dài lâu hơn, trung b́nh 14 ngày. Trẻ dưới 6 tuổi nhiễm cảm 6-8 lần mỗi năm, có em từ tháng 9 tới tháng 4, tháng nào cũng bị. Người lớn chúng ta cảm 2-4 lần một năm (có triệu chứng trung b́nh 10 ngày).

Đến trên 200 loại siêu vi (virus) có thể gây bệnh cảm. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng nhiều vào hai mùa thu và đông.

Siêu vi cảm ẩn trong nước mũi, nước miếng người bệnh. Chúng ta nhiễm cảm khi bắt tay người bệnh có dính siêu vi cảm, rồi vô t́nh đưa lên mắt, mũi, hoặc chúng ta rờ phải các đồ vật chung quanh người bệnh có dính siêu vi. (Một số siêu vi cảm có thể sống cả ngày trên mặt bàn, nắm đấm mở cửa, đồ chơi trẻ em.) Bệnh cũng truyền từ người bị cảm sang ta khi những hạt nước nhỏ li ti có chứa siêu vi, bắn ra từ mũi, miệng họ trong lúc họ ho, hắt hơi, ... Bệnh lây truyền mạnh nhất trong ṿng 2-4 ngày đầu.

Cảm không dữ bằng cúm (flu), song cũng có thể gây các biến chứng viêm các xoang quanh mũi, viêm tai giữa, khiến suyễn trở lại, bệnh phổi, bệnh tim có sẵn nặng hơn.

florida80 06-30-2019 20:42

Triệu chứng

Thời gian từ lúc mới lây bệnh đến lúc bệnh phát ra ngắn, chỉ khoảng 24-48 tiếng đồng hồ (1-2 ngày). Khác với cúm (triệu chứng rất đột ngột và nặng), triệu chứng cảm nhẹ và từ từ hơn.

Với trẻ em, triệu chứng đáng kể nhất là nghẹt mũi. Trẻ cũng có thể chảy mũi, nước mũi trong, hoặc có màu vàng, xanh. Trẻ có thể sốt trên 100.4 độ F (38 độ C) trong 3 ngày đầu.

Những triệu chứng khác của trẻ bị cảm: đau cổ họng, ho, bẳn tính, khó ngủ, kém ăn. Màng mũi trẻ trông đỏ, và cổ trẻ có thể nổi hạch.

Triệu chứng thường nặng nhất trong 10 ngày đầu, một số trẻ chảy, nghẹt mũi, ho quá 10 ngày. Có trẻ triệu chứng đang bớt dần th́ dính ngay một cơn cảm thứ nh́ (do một siêu vi khác), nhất là trong hai mùa thu và đông, nên có vẻ như bị cảm kéo dài lâu quá, nhiều tuần hay có khi nhiều tháng, mà thực ra là do những cơn cảm tấn công liên tiếp. Điều này chúng ta chẳng nên quan ngại, nếu không thấy trẻ có những biến chứng kể dưới.

Bệnh viêm mũi do dị ứng (allergic rhinitis) gây triệu chứng nhiều khi chúng ta hay lẫn lộn với cảm, nhưng trong trường hợp viêm mũi do dị ứng, trẻ thấy ngứa mũi và mắt, trong khi cảm th́ không.

Biến chứng của cảm

Cảm thường nhẹ nhàng đi qua không gây biến chứng, nhưng có thể gây biến chứng cho 5-19% trẻ bị cảm:

- Nhiễm trùng tai (ear infection): do vi trùng (bacteria) hay siêu vi (virus, nên nhiều trường hợp nhiễm trùng tai cũng không cần đến trụ sinh); ta nghi trẻ có nhiễm trùng tai nếu thấy trẻ sốt trên 100.4 độ F sau 3 ngày đầu (thường sau 3 ngày kể từ khi bắt đầu bị cảm, trẻ không c̣n sốt, nhiệt độ xuống dưới 100 lại).

- Suyễn: cảm có thể khiến trẻ thở kḥ khè (wheezing), hoặc làm suyễn nặng hơn ở trẻ trước giờ vẫn bị suyễn.

- Viêm xoang (sinusitis): nếu nghẹt mũi không thấy thuyên giảm sau 10 ngày bị cảm.

- Sưng phổi: chúng ta nghi trẻ sưng phổi nếu trẻ sốt sau 3 ngày kể từ khi bắt đầu có triệu chứng cảm, lại ho nhiều và thở nhanh.

Chữa trị

Cảm ở trẻ em chữa khác với cảm ở người lớn chúng ta.

Trái với sự tin tưởng của nhiều người, các thuốc chảy mũi, nghẹt mũi, ho hoàn toàn không có hiệu quả với trẻ em. Đặc biệt với các cháu nhỏ dưới 6 tuổi, chúng c̣n có thể gây những phản ứng phụ nguy hiểm.

Trụ sinh cũng vậy, không giúp ǵ trong việc chữa cảm, chỉ cần dùng khi có biến chứng do vi trùng, như nhiễm trùng tai, viêm xoang, sưng phổi. Chúng ta nên bỏ thói quen xấu trữ thuốc trụ sinh trong nhà, rồi tự dùng bừa băi cho ḿnh hoặc cho người quen thân. (Bác sĩ cũng nên bỏ thói quen không tốt, cho bừa trụ sinh để chữa cảm, hoặc cho trụ sinh mà chẳng có chỉ định ǵ cả, chỉ để làm vừa ḷng người bệnh. Trong y khoa hoàn toàn không có chỉ định sử dụng trụ sinh theo kiểu cho trụ sinh đem về, muốn làm ǵ th́ làm!) Việc dùng trụ sinh lung tung sẽ tạo những ḍng vi trùng kháng thuốc nơi chính ḿnh, và rồi những vi trùng này lây lan sang những người chung quanh, ra cả ngoài cộng đồng, rủi có lúc chúng làm loạn, sẽ rất khó trị chúng với trụ sinh.

Nếu thấy trẻ khó chịu v́ nóng sốt, với các trẻ trên 3 tháng, ta có thể dùng acetaminophen (Tylenol) hạ nhiệt giúp trẻ dễ chịu, với các trẻ trên 6 tháng, ta có thể dùng thuốc ibuprofen (Advil, Motrin) để hạ nhiệt. Nếu trẻ tuy sốt, song vẫn thoải mái chơi đùa như thường, chúng ta không cần dùng thuốc cho trẻ. Không nên dùng thuốc aspirin cho các cháu dưới 18 tuổi, v́ aspirin có thể gây hội chứng Reye nguy hiểm đưa đến chết người.

Dụng cụ làm ẩm không khí (humidifier) giúp các cháu đỡ nghẹt, chảy mũi. Nước muối saline cũng tốt; với các cháu nhỏ, chúng ta có thể nhỏ nước muối vào mũi cháu, rồi dùng dụng cụ hút bớt đàm nhớt trong mũi cháu ra, các cháu lớn hơn, chúng ta có thể bơm xịt nước muối vào mũi cháu.

Có con cực, nhất là khi các cháu bịnh. Trong hai mùa thu và đông, có cháu tháng nào cũng cảm, xong cơn này qua luôn cơn khác. Theo những hiểu biết mới, sự chữa cảm ở trẻ em bây giờ rất giản dị: không thuốc chảy mũi, nghẹt mũi, không thuốc ho, chỉ cần acetaminophen hay ibuprofen (nếu thấy trẻ có vẻ khó chịu v́ sốt), humidifier, nước muối nhỏ hay xịt vào mũi, cùng t́nh thương và sự kiên nhẫn của bố mẹ. Trụ sinh chỉ cần đến khi có biến chứng do vi trùng. Nhà chúng ta nên có nhiệt kế (thermometer) để theo dơi nhiệt độ của trẻ, nếu sau 3-5 ngày trẻ vẫn c̣n sốt trên 100.4 độ F (38 độ C), nghi có biến chứng do cảm, chúng ta nên cho bác sĩ biết (để tay lên trán trẻ rồi đoán có sốt hay không chẳng đủ đâu).

Cúm (flu) c̣n dữ hơn cảm (cold) nhiều, mùa này chúng ta nên đưa các cháu đi ngừa cúm, kẻo các cháu bị cúm, sẽ cực gấp mấy.

florida80 06-30-2019 20:48

BỆNH CẢM Ở TRẺ EM



Mùa này đang có cúm (flu), mà cảm (cold) cũng nhiều.

Một số vị phụ huynh thấy con em ḿnh chảy mũi, ho chút, vội lấy thuốc chảy mũi, thuốc ho, thậm chí có khi cả trụ sinh trữ sẵn ở nhà, cho các em uống.

Những thuốc này thực ra không giúp ǵ các em cả, mà c̣n có thể nguy hiểm.

Cảm thường (common cold) là bệnh xảy ra nhiều nhất ở Mỹ, gây do siêu vi (virus), (chẳng phải tại trời lạnh ta không mặc áo ấm!). Trẻ em bị cảm nhiều lần hơn người lớn chúng ta và triệu chứng cũng kéo dài lâu hơn, trung b́nh 14 ngày. Trẻ dưới 6 tuổi nhiễm cảm 6-8 lần mỗi năm, có em từ tháng 9 tới tháng 4, tháng nào cũng bị. Người lớn chúng ta cảm 2-4 lần một năm (có triệu chứng trung b́nh 10 ngày).

Đến trên 200 loại siêu vi (virus) có thể gây bệnh cảm. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng nhiều vào hai mùa thu và đông.

Siêu vi cảm ẩn trong nước mũi, nước miếng người bệnh. Chúng ta nhiễm cảm khi bắt tay người bệnh có dính siêu vi cảm, rồi vô t́nh đưa lên mắt, mũi, hoặc chúng ta rờ phải các đồ vật chung quanh người bệnh có dính siêu vi. (Một số siêu vi cảm có thể sống cả ngày trên mặt bàn, nắm đấm mở cửa, đồ chơi trẻ em.) Bệnh cũng truyền từ người bị cảm sang ta khi những hạt nước nhỏ li ti có chứa siêu vi, bắn ra từ mũi, miệng họ trong lúc họ ho, hắt hơi (khi ho, hắt hơi, chúng ta nhớ quay mặt đi, che miệng, mũi bằng khuỷu tay, không phải bằng bàn tay, để tránh lây bệnh cho người khác), ... Bệnh lây truyền mạnh nhất trong ṿng 2-4 ngày đầu.

Cảm không dữ bằng cúm (flu), song cũng có thể gây các biến chứng viêm các xoang quanh mũi, viêm tai giữa, khiến suyễn trở lại, bệnh phổi, bệnh tim có sẵn nặng hơn.

florida80 06-30-2019 20:49

Triệu chứng

Thời gian từ lúc mới lây bệnh đến lúc bệnh phát ra ngắn, chỉ khoảng 24-48 tiếng đồng hồ (1-2 ngày). Khác với cúm (triệu chứng rất đột ngột và nặng), triệu chứng cảm nhẹ và từ từ hơn.

Với trẻ em, triệu chứng đáng kể nhất là nghẹt mũi. Trẻ cũng có thể chảy mũi, nước mũi trong, hoặc có màu vàng, xanh. Trẻ có thể sốt trên 100.4 độ F (38 độ C) trong 3 ngày đầu.

Những triệu chứng khác của trẻ bị cảm: đau cổ họng, ho, bẳn tính, khó ngủ, kém ăn. Màng mũi trẻ trông đỏ, và cổ trẻ có thể nổi hạch.

Triệu chứng thường nặng nhất trong 10 ngày đầu, một số trẻ chảy, nghẹt mũi, ho quá 10 ngày. Có trẻ triệu chứng đang bớt dần th́ dính ngay một cơn cảm thứ nh́ (do một siêu vi khác), nhất là trong hai mùa thu và đông, nên có vẻ như bị cảm kéo dài lâu quá, nhiều tuần hay có khi nhiều tháng, mà thực ra là do những cơn cảm khác nhau tấn công liên tiếp. Điều này chúng ta chẳng nên quan ngại, nếu không thấy trẻ có những biến chứng kể dưới.

Bệnh viêm mũi do dị ứng (allergic rhinitis) gây triệu chứng nhiều khi chúng ta hay lẫn lộn với cảm, nhưng trong trường hợp viêm mũi do dị ứng, trẻ thấy ngứa mũi và mắt, trong khi cảm th́ không.

Biến chứng của cảm

Cảm thường nhẹ nhàng đi qua không gây biến chứng, nhưng có thể gây biến chứng cho 5-19% trẻ bị cảm:

- Nhiễm trùng tai (ear infection): do vi trùng (bacteria) hay siêu vi (virus, nên nhiều trường hợp nhiễm trùng tai cũng không cần đến trụ sinh); ta nghi trẻ có nhiễm trùng tai nếu thấy trẻ sốt trên 100.4 độ F sau 3 ngày đầu (thường sau 3 ngày kể từ khi bắt đầu bị cảm, trẻ không c̣n sốt, nhiệt độ xuống dưới 100 lại).

- Suyễn: cảm có thể khiến trẻ thở kḥ khè (wheezing), hoặc làm suyễn nặng hơn ở trẻ trước giờ vẫn bị suyễn.

- Viêm xoang (sinusitis): nếu nghẹt mũi không thấy thuyên giảm sau 10 ngày bị cảm.

- Sưng phổi: chúng ta nghi trẻ sưng phổi nếu trẻ sốt sau 3 ngày kể từ khi bắt đầu có triệu chứng cảm, lại ho nhiều và thở nhanh.

Chữa trị

Cảm ở trẻ em chữa khác nhiều với cảm ở người lớn chúng ta.

Trái với sự tin tưởng của nhiều người, các thuốc chảy mũi, nghẹt mũi, ho hoàn toàn không có hiệu quả với trẻ em. Đặc biệt với các cháu nhỏ dưới 6 tuổi, chúng c̣n có thể gây những phản ứng phụ nguy hiểm.

Trụ sinh cũng vậy, không giúp ǵ trong việc chữa cảm, chỉ cần dùng khi có biến chứng do vi trùng, như nhiễm trùng tai, viêm xoang, sưng phổi. Chúng ta nên bỏ thói quen xấu trữ thuốc trụ sinh trong nhà, rồi tự dùng bừa băi cho ḿnh hoặc cho người quen thân. (Bác sĩ cũng nên bỏ thói quen không tốt, cho bừa trụ sinh để chữa cảm, hoặc cho trụ sinh mà chẳng có chỉ định ǵ cả, chỉ để làm vừa ḷng người bệnh. Trong y khoa hoàn toàn không có chỉ định sử dụng trụ sinh theo kiểu cho người bệnh trụ sinh đem về, muốn làm ǵ th́ làm!) Việc dùng trụ sinh lung tung sẽ tạo những ḍng vi trùng kháng thuốc nơi chính ḿnh, và rồi những vi trùng này lây lan sang những người chung quanh, ra cả ngoài cộng đồng, rủi có lúc chúng làm loạn, sẽ rất khó trị chúng với trụ sinh.

Nếu thấy trẻ khó chịu v́ nóng sốt, với các trẻ trên 3 tháng, ta có thể dùng acetaminophen (Tylenol) hạ nhiệt giúp trẻ dễ chịu, với các trẻ trên 6 tháng, ta có thể dùng thuốc ibuprofen (Advil, Motrin) để hạ nhiệt. Nếu trẻ tuy sốt, song vẫn thoải mái chơi đùa như thường, chúng ta không cần dùng thuốc cho trẻ. Không nên dùng thuốc aspirin cho các cháu dưới 18 tuổi, v́ aspirin có thể gây hội chứng Reye nguy hiểm đưa đến chết người.

Dụng cụ làm ẩm không khí (humidifier) giúp các cháu đỡ nghẹt, chảy mũi. Nước muối saline cũng tốt; với các cháu nhỏ, chúng ta có thể nhỏ nước muối vào mũi cháu, rồi dùng dụng cụ hút bớt đàm nhớt trong mũi cháu ra, các cháu lớn hơn, chúng ta có thể bơm xịt nước muối vào mũi cháu.

Có con cực, nhất là khi các cháu bịnh. Trong hai mùa thu và đông, có cháu tháng nào cũng cảm, xong cơn này qua luôn cơn khác. Theo những hiểu biết mới, sự chữa cảm ở trẻ em bây giờ rất giản dị: không thuốc chảy mũi, nghẹt mũi, không thuốc ho, chỉ cần acetaminophen hay ibuprofen (nếu thấy trẻ có vẻ khó chịu v́ sốt), humidifier, nước muối nhỏ hay xịt vào mũi, cùng t́nh thương và sự kiên nhẫn của bố mẹ. Trụ sinh chỉ cần đến khi có biến chứng do vi trùng. Nhà chúng ta nên có nhiệt kế (thermometer) để theo dơi nhiệt độ của trẻ, nếu sau 3-5 ngày trẻ vẫn c̣n sốt trên 100.4 độ F (38 độ C), nghi có biến chứng do cảm, chúng ta nên cho bác sĩ biết (để tay lên trán trẻ rồi đoán có sốt hay không chẳng đủ đâu).

Cúm (flu) c̣n dữ hơn cảm (cold) nhiều, mùa này chúng ta nên đưa các cháu đi ngừa cúm, kẻo các cháu bị cúm, sẽ cực gấp mấy.

florida80 06-30-2019 20:51

BỆNH CAO ÁP HUYẾT
(Hypertension)



Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

8748 E. Valley Blvd., Ste. H

Rosemead, CA 91770

(626) 288-3306



Mới có Obamacare, lâu rồi bạn chưa đi bác sĩ, bạn nên đi, nhờ bác sĩ đo hộ áp huyết.

Bệnh cao áp huyết xảy ra rất nhiều. Riêng tại Mỹ (nay trên 300 triệu cư dân), khoảng 58-65 triệu người mang bệnh cao áp huyết, như vậy, tính ra khoảng 5 người ở Mỹ, có một vị cao áp huyết.

Cao áp huyết (hypertension, high blood pressure) nguy hiểm, đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu năo (stroke), chết cơ tim cấp tính (heart attack), suy tim, suy thận. Cao áp huyết c̣n rút ngắn tuổi thọ. Khổ cái, trong đa số các trường hợp, cao áp huyết không gây triệu chứng. Nhiều vị không biết ḿnh mang bệnh, t́nh cờ đi thăm bác sĩ v́ một lư do ǵ khác, được bác sĩ cho biết có cao áp huyết. Cho nên, cao áp huyết nổi danh là một “căn bệnh thầm lặng”.

Cao áp huyết là ǵ? Con tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể qua những hệ thống mạch máu gọi là động mạch. Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn. Khi máu được tim bơm đẩy, và chảy trong ḷng các mạch máu, sức ép của máu vào thành mạch máu sẽ tạo một áp suất (pressure) gọi là áp huyết (blood pressure). Áp huyết thay đổi tùy lúc, và tùy các hoạt động của cơ thể. Áp huyết xuống thấp hơn lúc ta ngủ, nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động, buồn bực hoặc trong lúc ta tập thể dục, chơi thể thao.

Áp huyết được diễn tả bằng 2 số, thí dụ: 140/90. Số trên (140) được gọi là áp suất systolic (áp suất tâm thu): sức ép của máu vào ḷng động mạch mỗi khi tim co bóp để bơm máu ra khỏi tim. Số dưới (90) được gọi áp suất diastolic (áp suất tâm trương): áp suất trong ḷng động mạch khi tim dăn ra giữa hai nhịp co bóp. Số trên tượng trưng áp suất cực đại (maximum) trong ḷng động mạch, và số dưới tượng trưng áp suất cực tiểu (minimum) trong ḷng động mạch.

Theo sự phân loại mới, áp suất systolic b́nh thường dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80. Áp huyết từ 140/90 trở lên được xem là cao (đo ít nhất vào 3-6 dịp thăm khám, cách nhau vài tuần đến vài tháng); cao độ 1: áp suất systolic: 140 đến 159, áp suất diastolic: 90 đến 99; cao độ 2: áp suất systolic: từ 160 trở lên, áp suất diastolic: từ 100 trở lên.

Những vị có áp suất systolic trong khoảng từ 120 đến 139, hoặc áp suất diastolic từ 80 đến 89, nay được xem là tiền cao áp huyết (prehypertension), sau dễ tiến đến cao áp huyết.

Như vậy, để tóm tắt:

- Áp huyết b́nh thường: áp suất systolic dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80

- Tiền cao áp huyết: áp suất systolic 120-139 hay áp suất diastolic 80-89

- Cao áp huyết:

Độ 1: áp suất systolic 140-159 hay áp suất diastolic 90-99

Độ 2: áp suất systolic từ 160 trở lên hay áp suất diastolic từ 100 trở lên.

florida80 06-30-2019 20:52

Nguyên nhân

Đến 90% các trường hợp cao áp huyết, nguyên nhân khiến bệnh xuất hiện chưa được biết rơ, hoặc nói cách khác, với tŕnh độ y khoa hiện tại, người ta chưa t́m ra được nguyên nhân gây bệnh.

Có một số yếu tố ảnh hưởng, khiến chúng ta dễ mang bệnh cao áp huyết:

- Tuổi tác: càng cao tuổi, nhất là khi trên 60, chúng ta càng dễ cao áp huyết.

- Yếu tố gia đ́nh: cao áp huyết có tính di truyền. Có cha mẹ, anh em ruột cao áp huyết, đi khám bác sĩ, bạn nhớ cho bác sĩ biết điều này bạn.

- Gịng giống: người da đen hay cao áp huyết hơn người da trắng, và bệnh cao áp huyết ở người da đen cũng nặng hơn.

- Béo mập: khi sức nặng của ta trên sức nặng lư tưởng so với chiều cao và vóc người 30% trở lên.

- Cao mỡ trong máu: người cao mỡ trong máu dễ bị cao áp huyết hơn người không cao mỡ trong máu.

- Rượu: các khảo cứu cho thấy rượu uống nhiều và thường xuyên có thể đưa đến cao áp huyết, đồng thời cũng làm tăng tỉ lệ bị tai biến mạch máu năo và bệnh thận.

- Đời sống thiếu vận động: đời sống thiếu vận động có thể đưa đến cao áp huyết. Ngược lại, thường xuyên vận động giúp ngừa bệnh cao áp huyết.

- Ăn mặn: ăn mặn, dùng thức ăn chứa nhiều muối cũng là một yếu tố có thể làm chúng ta dễ cao áp huyết. Cơ thể một số người chúng ta có khuynh hướng nhạy ứng với muối khiến áp huyết dần tăng cao.

Một số nhỏ các trường hợp cao áp huyết gây do uống rượu nhiều quá, bệnh của tuyến nội tiết, bệnh thận, chứng ngưng thở trong lúc ngủ (sleep apnea), dùng thuốc ngừa thai, dùng các thuốc giảm đau loại chống viêm không có chất steroid (nonsteroidal antiinflammatory drugs như Celebrex, Ibuprofen, Naproxen, ...) lâu ngày, v.v..



Biến chứng của cao áp huyết

Bệnh cao áp huyết nguy hiểm, v́ không chữa trị, sẽ làm hại cơ thể chúng ta nhiều cách. Áp huyết cao hơn b́nh thường khiến tim và các mạch máu phải làm việc nhiều hơn. Con tim lúc nào cũng gắng sức, sau trở thành mệt mỏi, và yếu dần. Cho đến một lúc, con tim suy yếu sẽ không c̣n bơm đủ máu, không đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan trong cơ thể, nhất là khi người bệnh vận động, gây các triệu chứng mau mệt, choáng váng, khó thở, ..., nhất là khi vận động.

Áp suất cao trong các mạch máu có thể làm tổn thương thành của các mạch máu. Những chỗ tổn thương trong ḷng các mạch máu dễ bị chất mỡ cholesterol và các tế bào tiểu cầu (platelet) luôn luôn có sẵn trong máu bám vào. Cơ chế dây chuyền này lại càng làm ḷng các mạch máu tổn thương thêm nữa và dần dần nhỏ hẹp lại. Bạn tưởng tượng, nếu các mạch máu dẫn máu đến nuôi tim càng lúc càng tổn thương và nhỏ hẹp lại, dĩ nhiên đến một ngày nào đó, sẽ không c̣n mang đủ máu đến để nuôi tim. Nếu một phần tim thiếu máu nuôi trầm trọng, phần tim đó có thể chết và gây ra hiện tượng chết cơ tim cấp tính (heart attack).

Tương tự, cao áp huyết làm tổn thương các mạch máu nuôi óc, nuôi thận, nuôi mắt, ... gây các biến chứng tai biến mạch máu năo (stroke), suy thận, giảm thị giác, ... So với người thường, người cao áp huyết, nếu không chữa, dễ bị bệnh hẹp tắc các động mạch vành tim (coronary artery disease) khiến tim đâm thiếu máu nuôi (ischemic heart disease) gấp 3 lần, dễ suy tim gấp 6 lần, và dễ bị tai biến mạch máu năo gấp 7 lần.

Bài kỳ sau, chúng ta sẽ t́m hiểu cách định ra bệnh cao áp huyết.



Kể bệnh

Nếu chúng ta mang bệnh cao áp huyết, khi đi khám bệnh, chúng ta nên kể bệnh như thế nào? Chúng ta thử nghe một vị biết cách kể bệnh, tŕnh bày cho bác sĩ nghe vấn đề cao áp huyết của ḿnh:

“Tôi đến đây hôm nay nhờ bác sĩ xem hộ tôi bệnh cao áp huyết. Tôi năm nay 54 tuổi, sang Mỹ mới 2 tháng do con tôi bảo lănh. 3 năm trước, một hôm đau bụng, tôi đi khám bác sĩ, được bác sĩ cho biết áp huyết tôi bữa đó 142 trên 90. Áp huyết đo lại 2 lần sau đó cũng vẫn cao trên 140/90. Bác sĩ kết luận là tôi có cao áp huyết nhẹ. Bác sĩ cho thử máu, thử nước tiểu, làm tâm điện đồ, chụp phim phổi (tôi nghe nói, ở bên này, người ta gọi là “chest X-ray”, dịch là phim ngực), và cho biết tôi không bị tiểu đường, cao cholesterol hay bị bệnh ǵ khác. Sau 3 tháng theo dơi và khuyên tôi bỏ thuốc lá, ăn lạt, thường xuyên vận động không có kết quả, bác sĩ cho tôi uống Amlodipine 5 mg. Áp huyết tôi xuống c̣n 132/80, bác sĩ bảo dưới 140/90 là tốt rồi và tiếp tục cho tôi uống thuốc. Tôi hết thuốc từ ngày qua Mỹ 2 tháng trước, và hiện không dùng thuốc ǵ cả. Tôi hoàn toàn không có triệu chứng ǵ bất thường. Tôi bỏ hẳn thuốc lá 3 năm trước, khi được biết bị cao áp huyết, theo lời khuyên của bác sĩ. Tôi không uống rượu thường xuyên, chỉ thỉnh thoảng cuối tuần làm vài lon bia với bạn bè cho vui”.

Chúng ta cũng nhớ cho bác sĩ biết chúng ta có hút thuốc lá, có uống rượu, hoặc đang dùng bất cứ thuốc nào không, kể cả những thuốc mua bên ngoài không cần toa bác sĩ, v́ nhiều thuốc, như thuốc ngừa thai, thuốc chữa nghẹt mũi (Actifed, Dimetapp, Sudafed, ...) có thể làm áp huyết tăng cao.

Định bệnh

Cao áp huyết là căn bệnh thầm lặng, đa số người cao áp huyết không cảm thấy ǵ cả. Một số vị có những triệu chứng mơ hồ như hồi hộp (cảm thấy tim đập mạnh), nhức đầu, chóng mặt, ... Ngược lại, nhiều người hay có những triệu chứng này lại không hề bị cao áp huyết. Bệnh thường định ra một cách t́nh cờ khi chúng ta đi khám bác sĩ v́ lư do ǵ khác.

Thế nên, nay ai cũng có Obamacare, tốt nhất, cứ 1-2 năm, dù khỏe mạnh, chẳng có triệu chứng ǵ, chúng ta cũng nên đi khám bác sĩ và nhờ đo áp huyết: mỗi 2 năm nếu áp huyết ta hoàn toàn b́nh thường, dưới 120/80, 1 năm nếu áp huyết đang trong khoảng mấp mé (prehypertension, áp suất systolic từ 120 đến 139, hoặc áp huyết diastolic từ 80 đến 89).

Với bác sĩ, định bệnh cao áp huyết thường không khó ǵ. Một người xem là có cao áp huyết, nếu áp huyết cao từ 140/90 trở lên, đo ít nhất 2 lần trong buổi thăm khám và ít nhất vào 3 dịp thăm khám khác nhau, cách nhau vài tuần đến vài tháng (người bệnh không nên dùng cà-phê, hút thuốc lá trước đó, nên ngồi nghỉ một lát, rồi áp huyết được đo ở tư thế ngồi).

Tại sao phải đo ít nhất 2 lần (rồi lấy con số trung b́nh) trong mỗi buổi thăm khám và vào ít nhất 3 dịp thăm khám khác nhau, cách nhau vài tuần đến vài tháng. V́ áp huyết của chúng ta có thể giao động, thay đổi lúc này lúc khác tùy khi chúng ta khỏe mạnh hay đau yếu, đang lo lắng hay không, nhất là khi chúng ta đi khám bác sĩ lần đầu, c̣n lạ với bác sĩ, lạ với văn pḥng, áp huyết có thể tăng cao chút. Những lần thăm khám sau, khi chúng ta thoải mái hơn khi gặp lại bác sĩ, áp huyết có thể xuống lại b́nh thường. Nhiều vị bị gán tội “cao áp huyết” khá oan uổng ngay từ buổi thăm khám đầu, và cho uống thuốc quá sớm. Trừ khi áp huyết lên cao quá, từ 160/100 trở lên, cần chữa trị sớm, c̣n trong buổi thăm khám đầu, nếu áp huyết chỉ lên cao 140/90 hay trên một chút, bác sĩ ghi vào hồ sơ định bệnh “áp huyết lên cao” (elevated blood pressure), và đo lại áp huyết người bệnh ít ra thêm 2 lần sau nữa (vài tuần, vài tháng sau), không nên dán ngay cho người bệnh nhăn hiệu “cao áp huyết” (hypertension).

Cao áp huyết là bệnh quan trọng, có thể khiến người bệnh và gia đ́nh lo lắng, rồi tiền thuốc, tiền thăm khám bác sĩ thường xuyên tốn kém, và nếu người bệnh mua bảo hiểm nhân thọ chẳng hạn, có thể phải đóng tiền bảo hiểm hàng tháng cao hơn. Đúng sách vở, mới trong 1, 2 lần thăm khám đầu, nếu áp huyết chỉ lên đến 140/90 hay hơn chút, khám không thấy ǵ lạ, ghi trong hồ sơ, chúng ta dùng định bệnh “áp huyết lên cao”, và chưa vội nói người bệnh bị “cao áp huyết”, chưa vội dùng thuốc.

T́m hiểu thêm

Sau khi xác định một người có cao áp huyết (đă đo áp huyết ít nhất 2 lần trong mỗi buổi thăm khám, vào ít nhất 3 dịp khác nhau, và thấy lúc nào cũng cao cả), để t́m xem các cơ quan bên trong cơ thể đă tổn thương do cao áp huyết hay chưa, để từ đó, sẽ hoạch định đường hướng trị liệu, bác sĩ sẽ khám kỹ mắt, tim, các mạch máu.

Đồng thời, bác sĩ cho thử máu, thử nước tiểu, làm tâm điện đồ, và chụp phim ngực (chest X-ray: chúng ta hay quen miệng gọi phim phổi). Những thử nghiệm và phim ngực này giúp bác sĩ t́m hiểu thêm được người bệnh có tiểu đường, có cao cholesterol trong máu hay không, tim, thận đă tổn thương v́ cao áp huyết hay chưa.

Những yếu tố như người bệnh có hút thuốc lá, có uống rượu, hoặc đang dùng bất cứ thuốc nào, kể cả những thuốc mua bên ngoài không cần toa bác sĩ cũng cần được biết, v́ nhiều thuốc, như thuốc ngừa thai, thuốc chữa nghẹt mũi có thể làm áp huyết tăng cao.

Đây là những yếu tố quan trọng cần nắm vững trước khi bác sĩ quyết định trị liệu bằng phương cách nào.

Cao áp huyết cần được chữa trị cẩn thận, để giảm thiểu những biến chứng, giúp ta sống lâu hơn và vui hơn. Sự chữa trị tùy vào mức độ của căn bệnh, và cũng tùy vào nhiều yếu tố khác.

Nói chung, với người dưới 60 tuổi, mục tiêu chữa trị là cần đưa áp huyết xuống dưới 140/90; người 60-79 tuổi, đưa áp huyết xuống dưới 140/90 được là lư tưởng, nhưng nếu khó đạt mục tiêu này (phải dùng nhiều thuốc và các thuốc gây tác dụng phụ khó chịu; thuốc đắt tiền quá, ...), chúng ta giữ áp huyết dưới 150/90; người 80 tuổi trở lên, chúng ta giữ áp huyết dưới 150/90.

Chữa bệnh cao áp huyết có hai cách: cách chưa cần dùng đến thuốc (nonpharmacologic therapy) và cách chữa bằng thuốc (pharmacologic therapy).

florida80 06-30-2019 20:52

Chữa chưa cần dùng thuốc

Trừ khi áp huyết lên cao quá, từ 160/100 trở lên (cao áp huyết độ 2), cần trị sớm, những trường hợp cao áp huyết nhẹ, chưa làm hư hoại cơ quan nào trong cơ thể, chúng ta có thể chữa bằng các phương cách chưa dùng đến thuốc trong vài tháng.

Các phương cách chữa trị chưa dùng đến thuốc: xuống cân nếu béo mập, ăn một thực phẩm ít mặn (không chấm nước mắm, x́ dầu, không rắc muối) và ít chất béo, bỏ thuốc lá, bớt uống rượu, thường xuyên vận động (ít nhất 30 phút mỗi ngày, ít nhất 5 ngày mỗi tuần).

Mỗi người chúng ta có một sức nặng lư tưởng so với chiều cao và vóc người. Nếu người cao áp huyết có sức nặng trên sức nặng lư tưởng, bác sĩ khuyên người bệnh t́m cách xuống cân bằng ăn kiêng (diet) và vận động (exercise). Rất nhiều trường hợp cao áp huyết, khi người bệnh béo mập xuống cân, áp huyết dần xuống dưới 140/90.

Chữa với thuốc

Chữa vài tháng với những phương cách chưa dùng đến thuốc như trên, nếu áp huyết vẫn không xuống dưới 140/90 như mong muốn, chúng ta cần dùng đến thuốc uống để chữa bệnh.

Về mặt chữa bằng thuốc, có rất nhiều điều bác sĩ cần suy tính trước khi đặt bút biên toa. (Bây giờ chính phủ không muốn bác sĩ biên toa tay nữa, mà gơ computer, chuyển thẳng toa điện tử đến computer của nhà thuốc, để tránh những sai lầm do chữ viết của bác sĩ khó đọc.) Ta cố đưa áp huyết xuống dưới 140/90 (ở người 80 tuổi trở lên, dưới 150/90), với một thuốc vừa tiền, không gây tác dụng phụ (side effects), không ảnh hưởng đến các bệnh khác chúng ta đang mang, ngày dùng chỉ một lần cho tiện.

Thuốc chữa cao áp huyết ở Mỹ có nhiều loại: Diuretics, ACE inhibitors, Angiotensin II receptor blockers, Calcium channel blockers, Beta blockers,Alpha blockers, Direct vasodilators, Centrally acting agents, v.v., tác dụng theo những cơ chế khác nhau, giá cả cũng rất khác biệt (những thuốc mới ra sau này rất đắt, Medi-Cal, bảo hiểm thường không cho). Thuốc nào cũng có mặt lợi và bất lợi, những tác dụng phụ của nó.

Nhiều thuốc cao áp huyết có tác dụng chữa được cả bệnh khác nữa, chẳng hạn các thuốc Atenolol, Propanolol, Timolol ngừa được các cơn nhức đầu một bên migraine, hai thuốc Hytrin, Cardura làm giảm các triệu chứng của bệnh to nhiếp hộ tuyến, khéo dùng thuốc, ta có thể một ná bắn hai chim, dùng một thuốc chữa cả hai bệnh. Rồi có thuốc như các thuốc trong hai nhóm ACE inhibitors, Angiotensin II receptor blockers tốt cho thận khi chúng ta bị tiểu đường, nên nếu đang có tiểu đường, nay thêm bệnh cao áp huyết, bác sĩ hay thử các thuốc này để chữa cao áp huyết cho chúng ta trước.

Thường bác sĩ chữa bằng một thuốc, nhưng nếu một thuốc không kiểm soát được áp huyết của chúng ta, bác sĩ sẽ dùng đến thuốc thứ hai, thứ ba. Hiện nay có nhiều viên thuốc phối hợp, trong chứa hai hay ba chất thuốc, rất tiện lợi khi chúng ta phải dùng đến hai hay ba thuốc để chữa bệnh.

Chúng ta nên uống thuốc đều như lời dặn ḍ của bác sĩ, không nên tự thay đổi lượng thuốc hoặc ngưng thuốc khi thấy áp huyết đă xuống lại b́nh thường, và nhớ trở lại tái khám đúng hẹn với bác sĩ. Chúng ta vẫn nên tiếp tục các phương cách chữa không dùng thuốc kể trên (xuống cân nếu béo mập, ăn một thực phẩm ít mặn, ít chất béo, bỏ thuốc lá, bớt uống rượu, thường xuyên vận động). Cao áp huyết là bệnh kinh niên, suốt đời ta cần chữa kỹ.

Sự chữa trị nào trong y khoa cũng là tính toán, ḍ dẫm, chúng ta nên để bác sĩ có dịp xem chúng ta vài lần. Dùng một thuốc cao áp huyết không hợp, gây tác dụng phụ khó chịu, chúng ta nên trở lại cho bác sĩ biết, nhờ bác sĩ điều chỉnh sự chữa trị, bớt thuốc hoặc đổi sang một thuốc khác. Chúng ta chớ vội nghe rỉ tai: “Thuốc tây ‘nóng’ lắm, chả nên dùng” (như thế th́... tội cho thuốc tây lắm, một thuốc rủi làm chúng ta khó chịu, hàng trăm thuốc khác chịu hàm oan), rồi mất tiền vào những chữa trị chẳng có sách vở nào nói đến, cho đến một sáng đẹp trời, chúng ta mở mắt thức dậy, thấy một bên người liệt v́ tai biến mạch máu năo. Muộn mất rồi!

Cao áp huyết, “căn bệnh thầm lặng”, lặng lẽ làm tổn thương các cơ quan của cơ thể và rút ngắn tuổi thọ chúng ta, có khi đưa đến “heart attack” (chết cơ tim cấp tính) gây tử vong bất ngờ. Sự chữa trị bệnh cao áp huyết cần rất nhiều tính toán và thường xuyên theo dơi bởi bác sĩ. Chúng ta chớ nên tự chữa lấy ở nhà với thuốc của người thân quen cho. (Ngược lại, vị nào đang dùng thuốc cao áp huyết cũng không nên chia thuốc cho người khác, nhưng khuyên họ đi khám bác sĩ chữa trị đàng hoàng. Ḷng tốt của ta dùng không đúng chỗ có thể hại cho người.)

florida80 07-01-2019 21:19

Công dụng của giấm ăn
42 công dụng từ giấm cho sức khỏe và đời sống

Giấm là gia vị mà các bà nội trợ thường dùng trong nấu nướng. Loại chất lỏng lên men tự nhiên này c̣n có nhiều công dụng khác ngoài việc chế biến món ăn, có thể khiến bạn bất ngờ.




1. Diệt cỏ dại: xịt giấm nguyên chất vào những nơi cỏ dại mọc. Vài ngày sau cỏ sẽ tự héo rũ và chết.
2. Tăng độ axit của đất: pha khoảng ½ tách giấm vào 4 lít nước để tưới cây cảnh.

3. Ngăn ngừa kiến: xịt giấm vào những khe cửa, đồ dùng hoặc những nơi có kiến ḅ

4. Đánh bóng xe: dùng vải mềm thấm giấm nguyên chất để lau sạch và đánh bóng lớp sơn xe.




5. Khử mùi hôi ở chó: dùng giấm chà xát lên lông chó, sau đó tắm sạch.
6. Ngăn mèo: vẩy giấm lên những nơi mà bạn không muốn con miu miu mon men tới gần.

7. Lau sàn: ḥa một tách giấm trắng với 8 lít nước nóng và dùng nước này để lau sàn nhà.

8. Làm tươi rau bị héo: ngâm rau đă héo vào hỗn hợp gồm nước và giấm theo tỷ lệ 2 tách nước / 1 muỗng canh giấm.

9. Làm dịu vết ong hoặc sứa đốt: thoa giấm vào chỗ bị đốt để giảm đau và ngứa.



10. Chữa da bị cháy nắng: dùng giấm trắng chà nhẹ lên vùng da bị bỏng nắng, lặp lại nhiều lần cho đến khi cảm giác đau rát dịu đi.

11. Làm dầu xả cho tóc: thêm một muỗng canh giấm vào nước xả tóc để gội sạch phần dầu gội c̣n bám trên tóc.

12. Làm da bớt khô và ngứa: cho 2 muỗng canh giấm vào nước tắm.

13. Trị gàu: trộn hỗn hợp gồm giấm táo, nước và dầu ôliu, mỗi thứ hai muỗng canh. Dùng hỗn hợp này mát xa da đầu, để yên từ 15 đến 20 phút rồi gội lai bằng dầu gội.

14. Làm dịu cơn đau họng: Pha 1 muỗng canh giấm táo vào 1 ly nước. Dùng nước này xúc miệng và uống.

15. Trị viêm xoang và viêm phế quản: ḥa ¼ tách giấm (có thể nhiều hơn) vào máy tạo hơi và hít hơi nước có chứa giấm.

16. Khử mùi cống trong bếp: mỗi tuần 1 lần đổ 1 tách giấm xuống cống, để yên trong khoảng 30 phút sau đó giội sạch lại bằng nước.

17. Khử mùi hành: thoa giấm vào ngón tay trước và sau khi cắt hành.

18. Làm sạch và diệt khuẩn cho thớt gỗ: dùng giấm nguyên chất để rửa thớt.



19. Tẩy sạch mủ trái cây dính ở tay: thoa giấm vào tay có dính mủ.

20. Tẩy dầu mỡ và khử mùi trên chén đĩa: ḥa 1 muỗng canh giấm với nước xà pḥng ấm rồi rửa chén đĩa.

21. Rửa sạch b́nh trà: đun sôi hỗn hợp giấm và nước, rót vào b́nh trà, các vết ố vàng cứng đầu sẽ bị tẩy sạch.

22. Làm sạch hộp đựng thức ăn: dùng bánh ḿ ngâm vào giấm rồi đặt bánh ḿ vào hộp đựng thức ăn và để qua đêm.

23. Làm sạch tủ lạnh: chùi rửa tủ lạnh bằng hỗn hợp gồm ½ nước và ½ giấm.

24. Thông cống: đổ 1 nắm bột soda xuống cống, đổ tiếp ½ tách giấm, đậy nắp cống và để yên trong khoảng 20 giây rồi dội sạch bằng nước nóng.

25. Rửa và khử mùi chai lọ: dùng giấm rửa các chai lọ để khử mùi hôi c̣n vương lại.

26. Làm sạch máy rửa chén: cho 1 tách giấm vào ṿng quay cuối để làm sạch xà pḥng c̣n bám trong ḷng máy và đồ thủy tinh. Có thể làm mỗi tháng 1 lần.

27. Tẩy sạch đồ dùng bằng thép không gỉ: dùng khăn nhúng giấm để lau chùi đồ dùng bằng kim loại.

28. Tẩy vết bẩn ở ấm, b́nh, chậu: cho 3 muỗng canh giấm và khoảng ½ lít nước vào ấm, b́nh có vết bẩn. Đặt lên bếp và đun sôi cho đến khi vết bẩn biến mất.

29. Làm sạch ḷ vi sóng: đun sôi 1 tách nước có pha thêm ¼ tách giấm trong ḷ vi sóng sẽ giúp khử mùi hôi và tẩy sạch vụn thức ăn c̣n bám trong ḷ.

30. Tẩy vết hoen gỉ ở vật bằng kim loại: ngâm vật cần tẩy vào dung dịch giấm nguyên chất

florida80 07-01-2019 21:21

31. Khử mùi nấu nướng: đặt một xoong nhỏ có hỗn hợp nước và chút xíu giấm đun riu riu trên bếp. Hơi nước tỏa ra sẽ khử được mùi thức ăn c̣n vương trong bếp.

32. Làm thông bàn ủi hơn nước: cho hỗn hợp gồm ½ giấm và ½ nước vào ngăn chứa nước. Điều chỉnh sang chế độ ủi hơi và để bài ủi dựng đứng trong khoảng 5 phút.

33. Tẩy vết cháy trên bàn ủi: đun nóng hỗn hợp giấm và muối (mỗi thứ một nửa), chà hỗn hợp này lên bề mặt bàn ủi (lúc nguội) để tẩy sạch vết cháy đen.

34. Làm mượt vải: ḥa thêm ½ tách giấm vào nước xả cuối để làm vải bớt xơ và giữ màu tốt hơn.


35. Làm sạch máy giặt: cho vào máy 1 tách giấm, khởi động chu tŕnh giặt như b́nh thường (không có quần áo) để tẩy sạch xà pḥng c̣n sót lại trong máy.

36. Tẩy vết bẩn trên quần áo: cho giấm vào chỗ có vết bẩn, ṿ nhẹ trước khi giặt.

37. Khử mùi thuốc lá ở quần áo: xả nước nóng vào bồn tắm, cho thêm 1 tách giấm rồi cho quần áo vào.

38. Làm sạch lớp đề can dính trên vải: dùng bàn chải thấm giấm chải vài nơi cần tẩy đề can hoặc ngâm quần áo với giấm trước khi giặt.

39. Chùi mắt kính: Nhỏ vào mỗi tṛng mắt kính 1 giọt giấm sau đó lau sạch lại bằng vải.

40. Giữ hoa tươi lâu: ḥa 2 muỗng giấm và 1 muỗng đường vào mỗi lít nước cắm hoa.

41. Dập lửa: đổ giấm vào ngọn lửa đang cháy bùng để đập tắt lửa

42. Làm sảng khoái tinh thần: cho 1 muỗng giấm táo vào ly nước, thêm tí đường. Vậy là bạn đă có một ly nước giải khát có ích cho cơ thể.


All times are GMT. The time now is 13:46.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.22837 seconds with 9 queries