![]() |
Lưu ư: Nếu bạn không thích xài các loại thuốc thoa hoặc xịt của Mỹ, có thể dùng thử một loại muối đặc biệt do Pháp bào chế tên là Le Crystal Natural, có bán tại hàng mỹ phẩm của các shopping lớn. Loại muối này có khả năng giết vi trùng và không làm lở da.
Mùi hôi có thể gây ra do thức ăn Bạn không lạ ǵ mùi cà ri phát ra từ người ấn Độ, hoặc mùi hành sống phát ra từ người Iran... Đối với người Việt-Nam, một số bị mùi hôi do ăn cá quá nhiều... Nh́n chung, nếu bạn bị vấn đề mùi hôi, nên kiêng ăn cá và các gia vị nặng mùi như hành, tỏi, cà ri... Tránh xúc động nhiều Một người khi ở trong trạng thái kích thích dục t́nh thường có khuynh hướng chảy mồ hôi nhiều hơn. Sự hồi hộp, lo sợ hay nóng nảy, lính quưnh... đều làm các tuyến mồ hôi hoạt động mạnh. Bạn sắp phải đi phỏng vấn t́m việc làm, sắp phải nói chuyện trước đám đông lần đầu tiên hay dự định ngỏ lời với người ḿnh yêu? Đừng quên xức thật nhiều thuốc deodorant và antisperspirant trước đó!!! |
Mẹo vặt của người châu Âu
Từ lâu, người châu Âu đă biết dùng sốt cà chua để tẩy mùi hôi từ gia súc. Một con chó bị ướt mưa và có mùi hôi khó chịu cả tuần lễ sau đó. Chẳng có ǵ khó, dùng nước lạnh pha chút sốt cà tắm con chó là mùi hôi hết ngay! Với con người, sốt cà cũng có công hiệu không kém. Cô Alice, y tá trưởng tại Bệnh viện Colorado, đă dùng thử phương pháp này với nhiều người và hết sức thành công. Cô nói: "Phương pháp này hiệu nghiệm trăm phần trăm! Bạn không cần phải đổ sốt cà chua vào đầy bồn tắm đâu, chỉ cần pha 2-3 lon vào bồn nước và ngâm chừng 15 phút". Mẹo vặt: Loại rau ng̣ lá quắn (pasley) có thể trừ được mùi hôi trong người. Ăn đều mỗi ngày chừng 5-10 cọng. Liên tục khoảng 2 tháng sẽ có kết quả thấy rất rơ. |
Heart Attacks And Drinking Warm Water
This is a very good article. Not only about the warm water after your meal, but about Heart Attacks. The Chinese and Japanese drink hot tea with their meals, not cold water, maybe it is time we adopt their drinking habit while eating. For those who like to drink cold water, this article is applicable to you. It is nice to have a cup of cold drink after a meal. However, the cold water will solidify the oily stuff that you have just consumed. It will slow down the digestion. Once this 'sludge' reacts with the acid, it will break down and be absorbed by the intestine faster than the solid food. It will line the intestine. Very soon, this will turn into fats and lead to cancer. It is best to drink hot soup or warm water after a meal. |
Common Symptoms Of Heart Attack...
- A serious note about heart attacks - You should know that not every heart attack symptom is going to be the left arm hurting. Be aware of intense pain in the jaw line . - You may never have the first chest pain during the course of a heart attack. Nausea and intense sweating are also common symptoms. 60% of people who have a heart attack while they are asleep do not wake up. - Pain in the jaw can wake you from a sound sleep. Let's be careful and be aware. The more we know, the better chance we could survive. |
Huyết Áp Thấp Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
Thường th́ chúng ta e ngại bị cao huyết áp, nhiều hơn là thấp huyết áp. V́ sợ bị rơi vào cảnh liệt hạ chi đi xe lăn v́ tai biến mạch máu năo hoặc bị suy thận suy tim, những biến chứng trầm trọng của “tên sát nhân thầm lặng” này . Tuy nhiên, nếu huyết áp quá thấp th́ lại có nhiều rủi ro cho sức khỏe, đôi khi đe dọa tới tính mệnh. Huyết áp là sức ép của máu lên ḷng động mạch khi trái tim thu bóp để đấy máu vào động mạch và khi tim trương giăn ra để tiếp nhận máu. Huyết áp được đo theo đơn vị mili mét thủy ngân (mmHg), với hai con số: số trên là huyết áp tâm thu (systolic) và số dưới là huyết áp tâm trương (diastolic). Huyết áp thay đổi tùy theo thời gian trong ngày: thấp nhất vào ban đêm khi ngủ, cao hơn khi thức dậy; buổi chiều cao hơn buổi sáng, nhất là khi đi lại, lao động chân tay, tinh thần căng thẳng. Huyết áp cũng thay đổi tùy theo tư thế cơ thể. Khi ngồi huyết áp tâm trương cao hơn nằm khoảng 5mmHg. Ngồi không dựa lưng, tâm trương cao hơn 6mmHg. Ngồi chéo cẳng chân, tâm thu tăng từ 2-8mmHg. Ngồi mà tay buông thơng, HA cao hơn là khi tay dơ cao. Cơ thể rất nhạy cảm với sự thay đổi huyết áp, đặc biệt là một số tế bào ở thành động mạch. Khi huyết áp đột nhiên tăng hoặc giảm, các tế bào này sẽ can thiệp khiến cho huyết áp trở lại mức trung b́nh để có đủ máu chuyển tới các cơ quan sinh tử như tim, năo, thận. HA ở tay trái hoặc tay phải không khác biệt mấy, tuy nhiên nếu đo lần đầu, nên đo cả hai bên để so sánh. Hiện nay các nhà chuyên môn coi huyết áp b́nh thường là bằng hoặc dưới 120/80, lư tưởng là 115/75. Thế nào là huyết áp thấp Các nhà y học cũng đồng ư với nhau là huyết áp thấp khi một trong hai kết quả bằng hoặc dưới 90 cho tâm thu, 60 tâm trương. Như vậy nếu có kết quả 115/50 th́ là huyết áp thấp. Đây là con số chung chung, với người này là thấp nhưng lại b́nh thường với người khác v́ họ không có các khó khăn dấu hiệu bệnh như chóng mặt, sỉu hoặc bất tỉnh. Người tập luyên cơ thể, các lực sĩ thường hay có huyết áp và nhịp tim hơi thấp hơn b́nh thường mà họ vẫn khỏe mạnh. Có nhiều loại thấp huyết áp khác nhau: a-Thấp với tư thế đứng (Orthostatic hypotension). Chẳng hạn khi đang nằm hoặc ngồi mà đứng lên, nhất là với động tác quá nhanh, đứng xếp hàng lănh “tem phiếu” cả nửa ngày, đứng lâu khi tắm hoa sen, đôi khi do ngồi làm việc liên tục nhiều giờ. B́nh thường, khi đổi tư thế như vậy, sẽ có khoảng từ 300-800 cc máu dồn xuống phần dưới cơ thể theo sức hút của trái đất, khiến cho năo thiếu dinh dưỡng. Con người cảm thấy xây xẩm, lảo đảo, chóng mặt. May mắn là cơ thể đă có sẵn một số đáp ứng tim mạch, thần kinh, sinh hóa để đối phó với rủi ro này. Chẳng hạn các cơ bắp ở hạ chi co hẹp, thành bụng ép vào tĩnh mạch đẩy máu từ dưới ngược lên phía trên. Do đó hậu quả của huyết áp thấp chỉ thoảng qua khoảng dăm ba giây-phút. Nếu các cơ chế này hoạt động kém hữu hiệu, hậu quả sẽ lâu dài. Hiện tượng này thường thấy ở người cao tuổi hoặc người suy nhược, nhưng đôi khi cũng có ở người trung niên khỏe mạnh khi họ ngồi lâu với cẳng chân bắt chéo rồi bất chợt đứng dậy. Nguyên nhân có thể do tác dụng của một số dược phẩm, khiếm khuyết hồi huyết tĩnh mạch, giảm khối lượng máu, suy tim, rối loạn thần kinh. Trong trường hợp này, các nhà chuyên môn coi thấp huyết áp là khi tâm thu giảm ít nhất 20mmHg, tâm trương giảm ít nhất 10mmHg sau khi đứng dậy khoảng 3 phút. |
-Thấp do rối loạn liên lạc giữa thần kinh tim-năo
Khi đứng quá lâu, huyết áp thường thấp, nhưng cơ thể có thể điều chỉnh để b́nh thường hóa. Tuy nhiên, ở một số người, nhất là giới trẻ th́ cơ chế điều chỉnh này không làm việc đúng đắn. Thay v́ báo động huyết áp thấp, thần kinh tại tim lại phát ra tín hiệu ngược lại (huyết áp cao), năo bộ bèn giảm nhịp tim và hạ huyết áp. Máu đưa xuống phần bụng và hạ chi nhiều, lên năo ít. T́nh trạng trở nên xấu và bệnh nhân cảm thấy xây xẩm, quay cuồng. c-Thấp sau bữa ăn (Postprandial hypotension) Trong ṿng 2 giờ sau khi ăn, huyết áp có thể giảm tới 20mmHg, đặc biệt là ở người tuổi cao, người đang bị cao huyết áp, có bệnh tim mạch, người già có tiền sử té ngă, người đang dùng thuốc trị cao huyết áp. Sự kiện này có thể gây ra ngất sỉu, cơn đau thắt ngực, chóng mặt, mệt, buồn nôn, mờ mắt thậm chí cả stroke nữa. Có nhiều cách giải thích: Như là sau khi ăn, máu tụ nhiều ở cơ quan nội tạng (ruột, bao tử) để giúp sự tiêu hóa thực phẩm, giảm khối lượng máu cho các bộ phận khác (năo). Hoặc là sau bữa ăn có sự giảm lượng máu từ tim đưa ra; Hoặc thấp huyết áp là do tác dụng của insulin làm giảm đường huyết kéo theo giảm huyết áp; Hoặc sự quá giăn tĩnh mạch ngoại vi. B́nh thường th́ cơ thể điều chỉnh được bằng cách tăng lượng máu bơm ra từ tim và co mạch máu ngoại vi. Nhưng ở nhiều người, cơ chế này “trục trặc”, thiểu tuần hoàn năo, khiến con người lảo đảo, quay cuồng. Nguyên nhân gây ra thấp huyết áp a-Giảm khối máu do mất nước tại các mô cơ thể v́ ói mửa, tiêu chảy, nóng sốt, dùng nhiều thuốc lợi tiểu, phỏng nặng, vận động quá mức với đổ mồ hôi. Máu lưu thông giảm, huyết áp thấp, không đủ dưỡng khí nuôi tế bào, cơ thể mệt mỏi, yếu, chóng mặt. Nếu mất nước quá nhiều và không được điều trị bệnh nhân có thể rơi vào t́nh trạng shock, nguy hiểm tới tính mạng. b-Nội ngoại xuất huyết đều giảm khối lượng máu và đưa tới thấp huyết áp. c-Trong thời gian có thai, mạch máu giăn mở, giàm sức ép của máu lên động mạch do đó áp huyết áp xuống thấp khiến cho bà bầu hay chóng mặt. May mắn là huyết áp sẽ trở lại b́nh thường sau khi sanh. d-Một số bệnh tim như suy tim, rối loạn van tim, nhịp tim chậm, cơn suy tim đều làm huyết áp xuống thấp v́ máu lưu hành ít đi. đ-Mấy bệnh nội tiết như tiểu đường, nhược hoặc cường tuyến giáp, đường huyết thấp. e-Nhiễm trùng huyết, cơn dị ứng trầm trọng, dinh dưỡng thiếu sinh tố B12, folic acid. g-Dược phẩm như thuốc lợi tiểu, thuốc giăn mạch, thuốc viagra, vài loại thuốc chống trầm cảm, thuốc chống đau, rượu. h-Bệnh Parkinson, chấn thượng sọ năo, ngộ độc hóa chất, phản ứng với thuốc, suy gan, nằm bất động quá lâu. |
Dấu hiệu, triệu chứng
Các dấu hiệu thường thấy gồm có chóng mặt, ngất sỉu, buồn ngủ, kém tập trung, buồn nôn, mờ mắt, hơi thở nhanh, da lạnh, khát nước. Khi huyết áp thấp trầm trọng, bệnh nhân có thể bị trụy tuần hoàn (shock). Điều trị Thấp huyết áp ở người khỏe mạnh mà chỉ có chóng mặt thoảng qua khi đứng lên ngồi xuống thường thường không cần đến trị liệu. Với các trường hợp nặng, điều trị nguyên nhân gây ra huyết áp thấp có thể giái quyết được vấn đề. Trường hợp huyết áp xuống rất thấp gây ra shock th́ cần được cấp cứu tại bệnh viện. Bác sĩ có thể cho dùng dược phẩm tăng khối máu (fludocortione, clonidine, viên ngừa thai); thuốc co mạch (midrodine, ritalin, vài loại chống trầm cảm) hoặc thuốc điều khiển sản xuất epinephrine/norepinephrine (ức chế beta atenolol, propanolol) để nâng huyết áp. Pḥng tránh Các phương thức sau đây được áp dụng để giảm thiều dấu hiệu triệu chứng của huyết áp thấp: 1-Uống nhiều nước để ngăn ngừa cơ thể khô nước và nâng cao huyết áp. 2-Dùng thêm muối có thể nâng cao huyết áp, nhưng cần được bác sĩ hướng dẫn để tránh rủi ro suy tim. 3-Mang tất đàn hồi để tránh máu tụ ở hạ chi, nhờ đó máu nhiều hơn ở phần trên cơ thể. 4-Tránh uống rượu v́ rượu làm mất nước và làm giăn mạch. 5-Đừng đứng quá lâu; từ từ đứng lên khi nằm hoặc ngồi. 6-Có huyết áp thấp sau khi ăn: không nên uống thuốc chống huyết áp trước khi ăn; tránh đứng bất th́nh ĺnh và nên nằm nghỉ sau khi ăn; giảm tinh bột trong phần ăn, chia phần ăn làm nhiều bữa nhỏ. 7-Với một số người, nước uống có caffeine làm co mạch nhưng nên uống vào buổi sáng để tránh khó ngủ ban đêm. 8-Nằm ngủ với gối hơi cao hơn chân có thể giảm triệu chứng bằng cách giữ lại natri, bớt tiểu đêm. 9-Khi đứng lâu: một chân co hoặc để trên ghế; lâu lâu ngồi xuống hoặc cúi ḿnh về phía trước, để tay lên đầu gối. Khi nào cần đi khám bệnh Thấp huyết áp mà lại thêm đau ngực, nhiệt độ cơ thể trên 101◦ F (38.3 ◦C), rối loạn hô hấp, tim đập không đều, tiêu chầy và nôn ói kéo dài, ho ra đàm, không ăn uống được, đều cần đi bác sĩ ngay để được khám bệnh và điều trị. |
Kết luận
Một trong những triết lư sống khá hay của người Á Đông là không thái quá mà cũng chẳng nên bất cập. Cao quá cũng có hại mà thấp quá cũng mang lại rủi ro. Cho nên cứ “Trung Dung”, cố gắng giữ huyết áp suưt soát 120/80 là tốt hơn cả. Đó là điều mong ước của mọi người. Nguyễn Ư-Đức, M.D. Texas-Hoa Kỳ |
10 chiêu chinh phục mẹ chồng
Đừng nghĩ rằng mối quan hệ giữa nàng dâu và mẹ chồng không thể hàn gắn được. Bí quyết dành cho bạn đấy! Trong thời hiện đại, mẹ chồng đă tân tiến và thoáng hơn rất nhiều. V́ thế, bất kỳ cô con dâu nào cũng có thể trở thành "bạn thân" của bà nếu biết cách cư xử. 3 chiêu dành cho cô dâu tương lai Chiêu 1: Không ít trường hợp mẹ chồng ghét con dâu v́ bà chưa muốn con trai lấy vợ. Bạn nên "bỏ nhỏ" người yêu để anh ấy tŕnh bày với bố mẹ về ư định lập gia đ́nh. Nếu biết con trai thích lấy vợ v́ muốn có nàng dâu chăm sóc bố mẹ già, có cháu để ông bà vui, hẳn mẹ chồng sẽ vui ḷng. Chiêu 2: Người yêu nên "khoe" ưu điểm của bạn với mẹ chàng. Đồng thời, bạn nên t́m hiểu tâm lư mẹ chồng và các thành viên trong gia đ́nh chàng. Điều này giúp bạn tránh sự cố bất đồng trong lần đầu hiện kiến. Chiêu 3: Những lần đến nhà chàng, hăy ăn mặc sao cho "hợp nhăn" mẹ chồng tương lai. Nếu bà ưa con dâu nền nă, chớ mặc áo hở rốn, váy quá ngắn. Muốn thế, bạn phải hỏi "gián điệp" về gu thẩm mỹ của mẹ chồng. 7 chiêu sau khi đă lên xe hoa về nhà chồng Chiêu 4: Trước khi làm bất cứ việc ǵ, bạn nên hỏi ư kiến mẹ chồng. Nếu bà không đồng ư, nên tạm giác lại, chờ cơ hội để thuyết phục bà. Đó là cách tôn trọng mẹ chồng hữu hiệu nhất. Chiêu 5: Không góp ư về nếp sống, thói quen của gia đ́nh chồng hoặc cố gắng "cải tạo" theo ư ḿnh. Tuyệt đối tránh so sánh theo hướng ca ngợi nhà ḿnh, chê bai gia đ́nh chồng. |
Chiêu 6: Người già rất thích tṛ chuyện. Sau bữa cơm tối hoặc khi đă dọn dẹp nhà cửa xong, bạn nên ngồi xem tivi , tṛ chuyện với bà ít nhất 15 phút. Đừng vội lẻn ngay về pḥng riêng với ông xă. Nếu bạn "độc chiếm" anh ấy, bà sẽ phật ư rồi đâm ra giận hờn.
Chiêu 7: Biết mẹ chồng thích ǵ, đi đâu về, bạn nên có chút quà chứng tỏ ḿnh rất quan tâm đến bà. Như thế, bà sẽ có dịp khoe với mọi người về ḷng hiếu thảo của con dâu quư. Chiêu 8: Tranh thủ mọi cơ hội có thể để khen ngợi mẹ chồng. Đặc biệt là khen trước mặt khách khứa, khiến bà mát dạ. Ngoài ra, tuyệt đối đừng phàn nàn về thói hư tật xấu của chồng trước mặt bà. Trong mắt người mẹ, con trai bà luôn nhất! Chiêu 9: Hết sức tránh những câu nói làm mẹ chồng phật ư, dù là vô t́nh. "Uốn lưỡi 7 lần" chứ không được "bô lô ba la" như ở nhà ḿnh. Chiêu 10: Thường xuyên lui tới thăm mẹ chồng nếu bạn và anh ấy đă dọn ra riêng. Đừng đợi đến khi bà gọi điện nhắc mới tạt qua là hỏng hết. Bà sẽ trách bạn là cô con dâu vô t́nh đấy! Nếu bận rộn, cách hay nhất là thường xuyên gọi điện hỏi thăm sức khoẻ của ông bà |
Chiêu 6: Người già rất thích tṛ chuyện. Sau bữa cơm tối hoặc khi đă dọn dẹp nhà cửa xong, bạn nên ngồi xem tivi , tṛ chuyện với bà ít nhất 15 phút. Đừng vội lẻn ngay về pḥng riêng với ông xă. Nếu bạn "độc chiếm" anh ấy, bà sẽ phật ư rồi đâm ra giận hờn.
Chiêu 7: Biết mẹ chồng thích ǵ, đi đâu về, bạn nên có chút quà chứng tỏ ḿnh rất quan tâm đến bà. Như thế, bà sẽ có dịp khoe với mọi người về ḷng hiếu thảo của con dâu quư. Chiêu 8: Tranh thủ mọi cơ hội có thể để khen ngợi mẹ chồng. Đặc biệt là khen trước mặt khách khứa, khiến bà mát dạ. Ngoài ra, tuyệt đối đừng phàn nàn về thói hư tật xấu của chồng trước mặt bà. Trong mắt người mẹ, con trai bà luôn nhất! Chiêu 9: Hết sức tránh những câu nói làm mẹ chồng phật ư, dù là vô t́nh. "Uốn lưỡi 7 lần" chứ không được "bô lô ba la" như ở nhà ḿnh. Chiêu 10: Thường xuyên lui tới thăm mẹ chồng nếu bạn và anh ấy đă dọn ra riêng. Đừng đợi đến khi bà gọi điện nhắc mới tạt qua là hỏng hết. Bà sẽ trách bạn là cô con dâu vô t́nh đấy! Nếu bận rộn, cách hay nhất là thường xuyên gọi điện hỏi thăm sức khoẻ của ông bà |
Làm thế nào để khỏi già ?
Tác giả: Lê Tấn Tài Khi nào các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa? Già là một điều không ai tránh khỏi. Hiện nay các viện nghiên cứu y khoa đă cho biết một cách chính xác các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa từ lúc nào. Các bác sĩ người Pháp đă t́m thấy chất lượng tinh trùng bắt đầu suy thoái từ tuổi 35, bởi thế khi người đàn ông 45 tuổi th́ một phần ba số lần mang thai sẽ dẫn đến sảy thai. Angela Epstein đă viết trong DailyMail, tuổi của các bộ phận trong cơ thể bắt đầu suy thoái như sau : 1./ Năo bắt đầu suy thoái lúc 20 tuổi. Khi chúng ta trưởng thành, các tế bào năo bị giảm dần. Và năo cũng teo nhỏ lại. Khởi đầu con người có 100 tỉ tế bào năo, nhưng đến tuổi 20 con số nầy giảm dần, và đến tuổi 40 con người mất mỗi ngày 10.000 tế bào ảnh hưởng rất nhiều đến trí nhớ và có tác dụng rất lớn đến tâm sinh lư người già. 2./ Ruột bắt đầu suy giảm từ tuổi 55. Ruột tốt có sự cân bằng giữa các vi khuẩn có ích và có hại. Vi khuẩn có ích sẽ giảm đi đáng kể sau tuổi 55, đặc biệt ở phần ruột già. Sau 55 tuổi bộ tiêu hóa bắt đầu xấu đi và sẽ gây hại cho các bệnh đường ruột. Táo bón là một bệnh thông thường của tuổi già, cũng như dịch vị từ bao tử, gan, tuyến tuỵ, ruột non bị suy giảm . |
4./ Bọng đái bắt đầu suy thoái từ tuổI 65. Người già thường mất kiểm soát bọng đái. Nó bắt đầu co lại đột ngột, ngay cả khi không đầy. Phụ nữ dễ gặp trục trặc này hơn khi chấm dứt kinh nguyệt. Khả năng chứa nước tiểu của bọng đái một người già chỉ bằng nửa so với người trẻ tuổi, khoảng 2 cốc ở tuổi 30 và 1 cốc ở tuổi 70. Điều này khiến người già phải đi tiểu nhiều hơn, và dễ nhiễm trùng đường tiểu.
5./ Vú bắt đầu thoái hóa từ năm 35 tuổi. Khi người đàn bà đến 30 tuổi th́ vú mất dần các mô và mở, sự đầy đặn và kích cở của bộ vú bị suy giảm. Khi 40 tuổi núm vú bị teo lại và vú tḥng xuống. 6./ Phổi lăo hóa từ tuổi 20. Sụn sườn vôi hóa, lồng ngực biến dạng, khớp cứng ảnh hưởng tới thở, nhu mô phổi giảm đàn hồi, giăm phế nang. Dung tích của phổi bắt đầu giảm dần từ tuổi 20. Đến tuổi 40 có nhiều người đă bắt đầu khó thở v́ các cơ bắp và xương sườn buồng phổi bắt đầu xơ cứng . 7./ Giọng nói bắt đầu yếu và khàn kể từ tuổi 65. Phụ nữ có giọng khàn và nhỏ trong khi đàn ông giọng cao và nhẹ. 8./ Mắt lăo hóa từ năm 40 và phần lớn phải mang kiếng, không c̣n nh́n rơ một vật ở xa. Khả năng tập trung của mắt kém hơn do cơ mắt yếu hơn. 9./ Tim lăo hóa từ tuổi 40. Khối lượng cơ tim giảm. Tuần hoàn nuôi cơ tim cũng giảm, suy tim tiềm tàng, huyết áp tăng dần. Sức bơm của tim giảm dần v́ các mạch máu giảm sự đàn hồi. Các động mạch cứng dần và bị mở đóng vào các thành mạch. Máu cung cấp cho tim cũng bị giảm bớt. Đàn ông 45 tuổi và đàn bà 55 dễ bị đau tim. 10./ Gan lăo hóa từ năm 70. Chức năng chuyển hóa và giải độc giảm. Tuy nhiên gan là một bộ phận gần như không chịu khuất phục tuổi tác. Người ta có thể ghép gan của một ông già 70 tuổi cho một người 20 tuổi. 11./ Thận lăo hóa năm 50. Số đơn vị lọc chất thải khỏi máu bắt đầu giảm xuống ở tuổi trung niên. 12./ Tuyến tiền liệt lăo hóa vào năm 50. Hệ thống sinh dục nam gồm có: tinh hoàn và bộ phận sinh dục phụ như đường dẫn tinh, tuyến tiền liệt, tuyến hành niệu đạo, túi tinh và dương vật. Tuyến tiền liệt thường lớn dần theo tuổi tác. Khi tuyến tiền liệt tăng kích thước sẽ ép vào niệu đạo và bàng quang, gây khó khăn cho tiểu tiện. Nó gây nên triệu chứng tiểu ngập ngừng, tiểu nhiều lần, tăng nguy cơ nhiễm trùng tiết niệu và tiểu khó. 13./ Xương lăo hóa hóa vào tuổi 35. Cho đến giữa những năm 20 tuổi, mật độ xương vẫn c̣n tăng. Trẻ em xương lớn rất nhanh, cứ mỗi 2 năm lại thay đổi toàn bộ xương củ nhưng đến tuổi 35 th́ xương đă lăo, hiện tượng mất xương bắt đầu như một quá tŕnh già cả tự nhiên. |
14./ Răng suy từ tuổi 40. Răng bị hao ṃn. Dễ bị bệnh nha chu. Niêm mạc bị teo dần.
15./ Bắp thịt lăo hóa từ năm 30. Thông thường bắp thịt khi bị lăo hoá th́ được tái tạo ngay, nhưng đến tuổi 30 th́ tái tạo ít hơn là lăo hóa. Đến tuổi 40, mỗi năm bắp thịt bị sút giảm từ 0.5 đến 2 % . V́ thế người già khó giữ thăng bằng, trở thành chậm chạp, dễ bị ngă và gẫy xương. 16./ Nghe [thính giác] giảm đi kể từ giữa năm 50. Rất nhiều người bị lăng tai kể từ năm 60. 17./ Da suy giảm kể từ năm 20. Chúng ta đă giảm dần việc sản xuất chất keo dính của da từ giữa tuổi 20. Việc thay thế các tế bào chết cũng chậm dần. 18./ Vị giác và khứu giác giảm từ năm 60. Thông thường chúng ta có thể nếm được 100.000 vị trên lưởi. Các vị này chúng ta chỉ nếm được phân nửa khi già và đến tuổi 60 th́ không c̣n ngửi và nếm một cách chính xác được nữa. 19./ Sinh sản mất khả năng từ năm 35. Khả năng sinh nở của phụ nữ bắt đầu giảm sau tuổi 35, v́ số lượng và chất lượng trứng trong tử cung giảm xuống. 20./ Tóc lăo hóa từ tuổi 30. Thông thường cứ 3 năm th́ tóc cũ sẽ được thay thế toàn bộ tóc mới. Và đến năm 35 tuổi th́ tóc không c̣n đen nhánh nữa mà ngă màu đen xám và rụng dần đi. |
Làm thế nào để làm chậm sự lăo hóa ?
Già không phải là một bệnh nhưng già tạo điều kiện cho bệnh phát sinh và phát triển; cần chú ư một số đặc điểm sau: - Người già thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc, có bệnh dễ phát hiện, nhưng cũng có bệnh rất kín đáo, tiềm tàng, nguy hiểm. - Triệu chứng ít khi điển h́nh, không ồ ạt, không rơ rệt, nên khó chẩn đoán, dễ sai lạc nếu ít kinh nghiệm. - Khả năng phục hồi sức khỏe sau các trận ốm thường chậm hơn so với người trẻ, nên sau điều trị phải có thời gian an dưỡng. Một số biện pháp làm giảm tốc độ lăo hóa: Học thuyết âm dương của y học cổ truyền chứng minh con người là một chỉnh thể giữa âm dương, giữa khí và huyết. Luôn luôn thăng bằng với nhau từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong theo một quy luật nhất định, để duy tŕ sự sống của con người được bền vững dài lâu. V́ thế muốn giảm tốc độ lăo hóa cần phải: Về tư tưởng luôn luôn lạc quan yêu đời, chủ động gạt bỏ những cái làm ảnh hưởng đến bộ năo, hạn chế tối đa nỗi cô đơn, giải quyết tốt nhất mối quan hệ xă hội và gia đ́nh, có triết lư sống đúng; phải chú ư cả 3 vấn đề: lẽ sống, lối sống và hành động sao cho khoa học văn minh để loại trừ 7 nguyên nhân gây bệnh của Đông y là : hỷ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng. Muốn được thảnh thơi phải có kiến thức, phải có hiểu biết để nh́n nhận vấn đề sao cho đúng đắn qua báo chí, đài phát thanh, truyền h́nh để làm chủ được ḿnh và giáo dục cho gia đ́nh, con cháu giảm các nỗi bực dọc và tự chăm lo cho ḿnh. Thường xuyên luyện tập đều đặn về trí tuệ và thể lực như đọc sách báo, nghe đài, xem TV, internet… đồng thời tập thể dục thể thao, đi bộ, tập thở, tĩnh tâm thư giăn, v.v… phù hợp với hoàn cảnh và sức khỏe từng người. Sinh hoạt điều độ, không làm ǵ quá sức b́nh thường, giữ ǵn trạng thái cân bằng giữa ngủ và nghỉ, giữa ăn và làm, giữa trí óc và chân tay, giữa trong nhà và ngoài trời, giữa lười và chăm, v.v… cũng rất quan trọng. Ăn uống đúng và đủ theo khả năng của ḿnh, không nên nghiện bất cứ thứ ǵ, hạn chế thịt nhất là mỡ, ăn nhiều rau quả tươi, giảm chất bột, giảm bánh kẹo, bảo đảm cân bằng thức ăn âm và dương, giữ người không béo và cũng không gầy. Nên nhớ con người là giống ăn ngũ cốc, nên thức ăn cho người phải 80% là ngũ cốc c̣n 20% là rau quả và các thứ khác, không nên ăn quá no, người già rất cần đạm ở đậu tương, vừng lạc, tôm cua, ốc hến… |
Phương Thuốc Quư của người Việt Nam
Làm thế nào để khỏi già ? Tác giả: Lê Tấn Tài Khi nào các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa? Già là một điều không ai tránh khỏi. Hiện nay các viện nghiên cứu y khoa đă cho biết một cách chính xác các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa từ lúc nào. Các bác sĩ người Pháp đă t́m thấy chất lượng tinh trùng bắt đầu suy thoái từ tuổi 35, bởi thế khi người đàn ông 45 tuổi th́ một phần ba số lần mang thai sẽ dẫn đến sảy thai. Angela Epstein đă viết trong DailyMail, tuổi của các bộ phận trong cơ thể bắt đầu suy thoái như sau : 1./ Năo bắt đầu suy thoái lúc 20 tuổi. Khi chúng ta trưởng thành, các tế bào năo bị giảm dần. Và năo cũng teo nhỏ lại. Khởi đầu con người có 100 tỉ tế bào năo, nhưng đến tuổi 20 con số nầy giảm dần, và đến tuổi 40 con người mất mỗi ngày 10.000 tế bào ảnh hưởng rất nhiều đến trí nhớ và có tác dụng rất lớn đến tâm sinh lư người già. 2./ Ruột bắt đầu suy giảm từ tuổi 55. Ruột tốt có sự cân bằng giữa các vi khuẩn có ích và có hại. Vi khuẩn có ích sẽ giảm đi đáng kể sau tuổi 55, đặc biệt ở phần ruột già. Sau 55 tuổi bộ tiêu hóa bắt đầu xấu đi và sẽ gây hại cho các bệnh đường ruột. Táo bón là một bệnh thông thường của tuổi già, cũng như dịch vị từ bao tử, gan, tuyến tuỵ, ruột non bị suy giảm . 4./ Bọng đái bắt đầu suy thoái từ tuổI 65. Người già thường mất kiểm soát bọng đái. Nó bắt đầu co lại đột ngột, ngay cả khi không đầy. Phụ nữ dễ gặp trục trặc này hơn khi chấm dứt kinh nguyệt. Khả năng chứa nước tiểu của bọng đái một người già chỉ bằng nửa so với người trẻ tuổi, khoảng 2 cốc ở tuổi 30 và 1 cốc ở tuổi 70. Điều này khiến người già phải đi tiểu nhiều hơn, và dễ nhiễm trùng đường tiểu. 5./ Vú bắt đầu thoái hóa từ năm 35 tuổi. Khi người đàn bà đến 30 tuổi th́ vú mất dần các mô và mở, sự đầy đặn và kích cở của bộ vú bị suy giảm. Khi 40 tuổi núm vú bị teo lại và vú tḥng xuống. 6./ Phổi lăo hóa từ tuổi 20. Sụn sườn vôi hóa, lồng ngực biến dạng, khớp cứng ảnh hưởng tới thở, nhu mô phổi giảm đàn hồi, giăm phế nang. Dung tích của phổi bắt đầu giảm dần từ tuổi 20. Đến tuổi 40 có nhiều người đă bắt đầu khó thở v́ các cơ bắp và xương sườn buồng phổi bắt đầu xơ cứng . 7./ Giọng nói bắt đầu yếu và khàn kể từ tuổi 65. Phụ nữ có giọng khàn và nhỏ trong khi đàn ông giọng cao và nhẹ. 8./ Mắt lăo hóa từ năm 40 và phần lớn phải mang kiếng, không c̣n nh́n rơ một vật ở xa. Khả năng tập trung của mắt kém hơn do cơ mắt yếu hơn. 9./ Tim lăo hóa từ tuổi 40. Khối lượng cơ tim giảm. Tuần hoàn nuôi cơ tim cũng giảm, suy tim tiềm tàng, huyết áp tăng dần. Sức bơm của tim giảm dần v́ các mạch máu giảm sự đàn hồi. Các động mạch cứng dần và bị mở đóng vào các thành mạch. Máu cung cấp cho tim cũng bị giảm bớt. Đàn ông 45 tuổi và đàn bà 55 dễ bị đau tim. 10./ Gan lăo hóa từ năm 70. Chức năng chuyển hóa và giải độc giảm. Tuy nhiên gan là một bộ phận gần như không chịu khuất phục tuổi tác. Người ta có thể ghép gan của một ông già 70 tuổi cho một người 20 tuổi. 11./ Thận lăo hóa năm 50. Số đơn vị lọc chất thải khỏi máu bắt đầu giảm xuống ở tuổi trung niên. 12./ Tuyến tiền liệt lăo hóa vào năm 50. Hệ thống sinh dục nam gồm có: tinh hoàn và bộ phận sinh dục phụ như đường dẫn tinh, tuyến tiền liệt, tuyến hành niệu đạo, túi tinh và dương vật. Tuyến tiền liệt thường lớn dần theo tuổi tác. Khi tuyến tiền liệt tăng kích thước sẽ ép vào niệu đạo và bàng quang, gây khó khăn cho tiểu tiện. Nó gây nên triệu chứng tiểu ngập ngừng, tiểu nhiều lần, tăng nguy cơ nhiễm trùng tiết niệu và tiểu khó. 13./ Xương lăo hóa hóa vào tuổi 35. Cho đến giữa những năm 20 tuổi, mật độ xương vẫn c̣n tăng. Trẻ em xương lớn rất nhanh, cứ mỗi 2 năm lại thay đổi toàn bộ xương củ nhưng đến tuổi 35 th́ xương đă lăo, hiện tượng mất xương bắt đầu như một quá tŕnh già cả tự nhiên. 14./ Răng suy từ tuổi 40. Răng bị hao ṃn. Dễ bị bệnh nha chu. Niêm mạc bị teo dần. 15./ Bắp thịt lăo hóa từ năm 30. Thông thường bắp thịt khi bị lăo hoá th́ được tái tạo ngay, nhưng đến tuổi 30 th́ tái tạo ít hơn là lăo hóa. Đến tuổi 40, mỗi năm bắp thịt bị sút giảm từ 0.5 đến 2 % . V́ thế người già khó giữ thăng bằng, trở thành chậm chạp, dễ bị ngă và gẫy xương. 16./ Nghe [thính giác] giảm đi kể từ giữa năm 50. Rất nhiều người bị lăng tai kể từ năm 60. 17./ Da suy giảm kể từ năm 20. Chúng ta đă giảm dần việc sản xuất chất keo dính của da từ giữa tuổi 20. Việc thay thế các tế bào chết cũng chậm dần. 18./ Vị giác và khứu giác giảm từ năm 60. Thông thường chúng ta có thể nếm được 100.000 vị trên lưởi. Các vị này chúng ta chỉ nếm được phân nửa khi già và đến tuổi 60 th́ không c̣n ngửi và nếm một cách chính xác được nữa. 19./ Sinh sản mất khả năng từ năm 35. Khả năng sinh nở của phụ nữ bắt đầu giảm sau tuổi 35, v́ số lượng và chất lượng trứng trong tử cung giảm xuống. 20./ Tóc lăo hóa từ tuổi 30. Thông thường cứ 3 năm th́ tóc cũ sẽ được thay thế toàn bộ tóc mới. Và đến năm 35 tuổi th́ tóc không c̣n đen nhánh nữa mà ngă màu đen xám và rụng dần đi. Làm thế nào để làm chậm sự lăo hóa ? Già không phải là một bệnh nhưng già tạo điều kiện cho bệnh phát sinh và phát triển; cần chú ư một số đặc điểm sau: - Người già thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc, có bệnh dễ phát hiện, nhưng cũng có bệnh rất kín đáo, tiềm tàng, nguy hiểm. - Triệu chứng ít khi điển h́nh, không ồ ạt, không rơ rệt, nên khó chẩn đoán, dễ sai lạc nếu ít kinh nghiệm. - Khả năng phục hồi sức khỏe sau các trận ốm thường chậm hơn so với người trẻ, nên sau điều trị phải có thời gian an dưỡng. Một số biện pháp làm giảm tốc độ lăo hóa: Học thuyết âm dương của y học cổ truyền chứng minh con người là một chỉnh thể giữa âm dương, giữa khí và huyết. Luôn luôn thăng bằng với nhau từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong theo một quy luật nhất định, để duy tŕ sự sống của con người được bền vững dài lâu. V́ thế muốn giảm tốc độ lăo hóa cần phải: Về tư tưởng luôn luôn lạc quan yêu đời, chủ động gạt bỏ những cái làm ảnh hưởng đến bộ năo, hạn chế tối đa nỗi cô đơn, giải quyết tốt nhất mối quan hệ xă hội và gia đ́nh, có triết lư sống đúng; phải chú ư cả 3 vấn đề: lẽ sống, lối sống và hành động sao cho khoa học văn minh để loại trừ 7 nguyên nhân gây bệnh của Đông y là : hỷ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng. Muốn được thảnh thơi phải có kiến thức, phải có hiểu biết để nh́n nhận vấn đề sao cho đúng đắn qua báo chí, đài phát thanh, truyền h́nh để làm chủ được ḿnh và giáo dục cho gia đ́nh, con cháu giảm các nỗi bực dọc và tự chăm lo cho ḿnh. Thường xuyên luyện tập đều đặn về trí tuệ và thể lực như đọc sách báo, nghe đài, xem TV, internet… đồng thời tập thể dục thể thao, đi bộ, tập thở, tĩnh tâm thư giăn, v.v… phù hợp với hoàn cảnh và sức khỏe từng người. Sinh hoạt điều độ, không làm ǵ quá sức b́nh thường, giữ ǵn trạng thái cân bằng giữa ngủ và nghỉ, giữa ăn và làm, giữa trí óc và chân tay, giữa trong nhà và ngoài trời, giữa lười và chăm, v.v… cũng rất quan trọng. Ăn uống đúng và đủ theo khả năng của ḿnh, không nên nghiện bất cứ thứ ǵ, hạn chế thịt nhất là mỡ, ăn nhiều rau quả tươi, giảm chất bột, giảm bánh kẹo, bảo đảm cân bằng thức ăn âm và dương, giữ người không béo và cũng không gầy. Nên nhớ con người là giống ăn ngũ cốc, nên thức ăn cho người phải 80% là ngũ cốc c̣n 20% là rau quả và các thứ khác, không nên ăn quá no, người già rất cần đạm ở đậu tương, vừng lạc, tôm cua, ốc hến… Cần có môi trường sống tự nhiên tốt, phần lớn các cụ sống 100 tuổi trở lên đều ở vùng núi, ở nông thôn c̣n ở thành phố th́ rất ít và gốc cũng không phải thành thị. Hiện nay môi trường sống đang bị tàn phá nghiêm trọng đó là tự hủy hoại ḿnh (chặt cây, phá rừng, chất thải, phân hóa học, thuốc trừ sâu….) đă làm mất đi cảnh thanh b́nh của thiên nhiên, là điều cũng nên hết sức tránh. Kiên tŕ áp dụng 10 bài học về sức khỏe của Nhật Bản, đất nước được mệnh danh là 'vương quốc của tuổi thọ' v́ có tuổi thọ cao nhất thế giới hiện nay. 10 bài học đó là: - Bớt ăn thịt, ăn nhiều rau - Bớt ăn mặn, ăn nhiều chất chua - Bớt ăn đường, ăn nhiều hoa quả - Bớt ăn chất bột, ăn nhiều sữa - Bớt mặc nhiều quần áo, tắm nhiều lần - Bớt đi xe, năng đi bộ - Bớt phiền muộn, ngủ nhiều hơn - Bớt nóng giận, cười nhiều hơn - Bớt nói, làm nhiều hơn - Bớt ham muốn, chia sẻ nhiều hơn. Những bài học trên có tác dụng rất lớn đối với những người bị tăng huyết áp, bệnh tim mạch, ung thư dạ dày, viêm gan… Tóm lại: Biết cách sống, ta có thể làm chậm được quá tŕnh lăo hóa, kéo dài được tuổi thọ, có thể điều chỉnh được chiếc đồng hồ sinh học trong con người chúng ta chạy chậm lại, ta cũng có thể giữ bộ máy cực kỳ tinh vi của ta được bền vững lâu dài hơn. Nguồn: batkhuat.net |
Rượu thuốc: "Bạn tốt" của quư ông
Rượu thuốc là thức uống bổ dưỡng cho mọi người và đặc biệt là nam giới. Nếu bạn biết phối hợp nhân sâm cùng với một số vị thuốc bắc khác để ngâm rượu uống, nó sẽ giúp cải thiện sức mạnh quư ông. Dưới đây là bài thuốc để ngâm rượu đơn giản nhưng rất hữu hiệu cho nam giới. Thành phần thuoc1.jpg Nhân sâm 20g, hoàng kỳ 40g, long nhăn 9 quả, dâm dương hoắc 50g, nhục thung dung 30g, phục linh 40g, kỷ tử 50g, mă tiền chế 5g, cam thảo 20g, rượu trắng 2500 ml, đường phèn 200g, mật ong 100g. Cách chế Các vị thuốc rửa sạch, thái vụn, tất cả cho vào b́nh ngâm với rượu cùng mật ong và đường phèn, đậy thật kín, để chỗ râm mát, mỗi ngày lắc nhẹ một lần. Sau chừng 15 ngày là dùng được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 20ml trước khi ăn hoặc trước khi ngủ tối. Chú ư: Mă tiền là vị thuốc rất độc nên cần chế biến thật cẩn thận: ngâm nước gạo 1 ngày, 1 đêm. Sau đó cạo bỏ vỏ, bỏ mầm, thái mỏng, tẩm dầu vừng 1 ngày rồi sao cho vàng đậm. Tốt nhất là nên mua mă tiền đă chế tại các cơ sở đông dược chính danh. |
Công dụng
Ôn thận tráng dương, dùng làm rượu thuốc bổ rất tốt cho những người bị suy giảm ham muốn t́nh dục do nhiều nguyên nhân khác nhau thuộc thể mệnh môn hỏa suy, biểu hiện bằng các triệu chứng mỏi mệt, sợ lạnh, tay chân lạnh, dễ bị cảm phong hàn, sắc mặt nhợt, lưng đau gối mỏi, dễ vă mồ hôi, ăn kém, chậm tiêu, suy giảm ham muốn t́nh dục, khi giao hợp hay vă mồ hôi, đại tiện lỏng nát, tiểu tiện trong dài, miệng nhạt chất lưỡi nhợt... Trong phương thuốc này, nhân sâm tính ấm, vị ngọt, có công dụng đại bổ nguyên khí, ích thận, tráng dương, bổ tỳ, ích phế, sinh tân chỉ khát, dùng để chữa chứng thận dương hư, mệnh môn hỏa suy. Trong thành phần hóa học của nhân sâm có chứa ginsenosid có tác dụng làm hưng phấn vỏ thượng thận, thúc đẩy công năng các tuyến sinh dục, làm tăng tiết các hormon sinh dục. Hoàng kỳ, dâm dương hoắc và nhục thung dung cũng là những vị thuốc có công dụng bổ dương ích khí, ôn thận tráng dương, ôn kinh tán hàn, làm tăng tác dụng của nhân sâm. Long nhăn, phục linh, kỷ tử có tác dụng làm dịu bớt tính cay nóng dễ làm hao âm tổn dịch của các vị thuốc tráng dương, mặt khác c̣n có công dụng bồi bổ thận âm, kiện tỳ an thần, giúp thận dương không mất nguồn để sinh hóa. Mă tiền vị đắng, tính hàn, có độc, có công dụng thông lạc chỉ thống, khi đă chế biến sẽ làm giảm độ độc, giúp cho hai kinh can và thận được ôn ấm và thông thoáng. Trong thành phần hóa học, mă tiền có chứa strych - nin là chất có tác dụng làm hưng phấn thần kinh trung ương, trung tâm cảm giác của vỏ đại năo và tủy sống, do đó cũng làm hưng phấn trung tâm hoạt động t́nh dục. |
Phương Thuốc Quư của người Việt Nam
Rượu thuốc: "Bạn tốt" của quư ông Rượu thuốc là thức uống bổ dưỡng cho mọi người và đặc biệt là nam giới. Nếu bạn biết phối hợp nhân sâm cùng với một số vị thuốc bắc khác để ngâm rượu uống, nó sẽ giúp cải thiện sức mạnh quư ông. Dưới đây là bài thuốc để ngâm rượu đơn giản nhưng rất hữu hiệu cho nam giới. Thành phần thuoc1.jpg Nhân sâm 20g, hoàng kỳ 40g, long nhăn 9 quả, dâm dương hoắc 50g, nhục thung dung 30g, phục linh 40g, kỷ tử 50g, mă tiền chế 5g, cam thảo 20g, rượu trắng 2500 ml, đường phèn 200g, mật ong 100g. Cách chế Các vị thuốc rửa sạch, thái vụn, tất cả cho vào b́nh ngâm với rượu cùng mật ong và đường phèn, đậy thật kín, để chỗ râm mát, mỗi ngày lắc nhẹ một lần. Sau chừng 15 ngày là dùng được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 20ml trước khi ăn hoặc trước khi ngủ tối. Chú ư: Mă tiền là vị thuốc rất độc nên cần chế biến thật cẩn thận: ngâm nước gạo 1 ngày, 1 đêm. Sau đó cạo bỏ vỏ, bỏ mầm, thái mỏng, tẩm dầu vừng 1 ngày rồi sao cho vàng đậm. Tốt nhất là nên mua mă tiền đă chế tại các cơ sở đông dược chính danh. Công dụng Ôn thận tráng dương, dùng làm rượu thuốc bổ rất tốt cho những người bị suy giảm ham muốn t́nh dục do nhiều nguyên nhân khác nhau thuộc thể mệnh môn hỏa suy, biểu hiện bằng các triệu chứng mỏi mệt, sợ lạnh, tay chân lạnh, dễ bị cảm phong hàn, sắc mặt nhợt, lưng đau gối mỏi, dễ vă mồ hôi, ăn kém, chậm tiêu, suy giảm ham muốn t́nh dục, khi giao hợp hay vă mồ hôi, đại tiện lỏng nát, tiểu tiện trong dài, miệng nhạt chất lưỡi nhợt... Trong phương thuốc này, nhân sâm tính ấm, vị ngọt, có công dụng đại bổ nguyên khí, ích thận, tráng dương, bổ tỳ, ích phế, sinh tân chỉ khát, dùng để chữa chứng thận dương hư, mệnh môn hỏa suy. Trong thành phần hóa học của nhân sâm có chứa ginsenosid có tác dụng làm hưng phấn vỏ thượng thận, thúc đẩy công năng các tuyến sinh dục, làm tăng tiết các hormon sinh dục. Hoàng kỳ, dâm dương hoắc và nhục thung dung cũng là những vị thuốc có công dụng bổ dương ích khí, ôn thận tráng dương, ôn kinh tán hàn, làm tăng tác dụng của nhân sâm. Long nhăn, phục linh, kỷ tử có tác dụng làm dịu bớt tính cay nóng dễ làm hao âm tổn dịch của các vị thuốc tráng dương, mặt khác c̣n có công dụng bồi bổ thận âm, kiện tỳ an thần, giúp thận dương không mất nguồn để sinh hóa. Mă tiền vị đắng, tính hàn, có độc, có công dụng thông lạc chỉ thống, khi đă chế biến sẽ làm giảm độ độc, giúp cho hai kinh can và thận được ôn ấm và thông thoáng. Trong thành phần hóa học, mă tiền có chứa strych - nin là chất có tác dụng làm hưng phấn thần kinh trung ương, trung tâm cảm giác của vỏ đại năo và tủy sống, do đó cũng làm hưng phấn trung tâm hoạt động t́nh dục. ruouthuoc.jpg Rượu trắng để dẫn thuốc, thông lạc bổ dương. Cam thảo, đường phèn và mật ong để điều ḥa các vị thuốc, trợ giúp tỳ vị, dưỡng âm sinh tân và tạo nguồn sinh hóa. Chú ư: Loại rượu này nên uống từ ít đến nhiều, tuyệt đối không được uống quá mức. Khi dùng, cần phối hợp với các biện pháp trị liệu khác về tâm lư tinh thần để làm tăng hiệu quả nên giảm dần lượng rượu, không nên uống lâu ngày. Nên ăn giảm chất cay, ăn nhiều hoa quả và thịt. Theo Th.S Hoàng Khánh Toàn |
Ngủ ngon giấc: Giảm cân, trẻ lâu
Lâu nay người ta vẫn tin rằng, giấc ngủ ngon sẽ giúp con người dễ tập trung trong lao động, học tập, làm việc... tinh thần vui vẻ, tăng cường trí nhớ và tăng được cả sức đề kháng của cơ thể. Nếu bạn có giấc ngủ ngon, ngủ sâu sẽ thêm 2 lợi ích khá bất ngờ, đó là tránh được t́nh trạng tăng cân và già trước tuổi. Hậu quả của thiếu ngủ Công tŕnh nghiên cứu của GS-TS Eve Van Cauter, trường đại học Chicago đă đưa ra những bằng chứng khá thuyết phục cho thấy: khi chúng ta ngủ, lượng huyết đường sau bữa điểm tâm sẽ tăng hơn b́nh thường. Đồng thời, lượng insulin lại tiết ra chậm hơn, làm cho cơ thể có điều kiện tốt để biến lượng đường dư trong máu thành mỡ tích trữ khiến người ta có thể tăng cân... Ngoài ra, thiếu ngủ c̣n làm tăng hàm lượng chất kích thích cortisol trong máu và chính hormone đặc trưng cho t́nh trạng stress này đă làm tăng hoạt tính của một enzym then chốt trong tiến tŕnh tích mỡ. Nghiên cứu sâu hơn, người ta phát hiện rằng, thiếu ngủ c̣n ảnh hưởng đến hệ thần kinh khiến con người cau có, da dẻ nhăn nhúm trông già trước tuổi và ảnh hưởng đến nông độ các hormone tuyến giáp trong máu có thể dẫn đến chứng bệnh cao huyết áp... Những triệu chứng thiếu ngủ Nếu thiếu ngủ, bạn thường cảm thấy buồn ngủ sau những bữa trưa, hoặc đôi khi cảm thấy bực dọc, ngáp dài, mệt mỏi, khó chịu trong người hoặc không tập trung khi lao động, làm việc, học tập... |
Mấy biện pháp giúp ngủ ngon
Khi lên giường nằm ngủ nhưng bạn vẫn cứ trăn trở, khó ngủ và cuối cùng đến gần sáng bạn mới chợp mắt được vài giờ. Xin mách bạn mấy bí quyết sau đây có thể giúp ích cho giấc ngủ bạn dễ dàng hơn. - Cố gắng tập thói quen đi ngủ và thức dậy vào một giờ đều đặn. - Âm thanh tốt nhất cho giấc ngủ là những bản nhạc nhẹ, êm dịu hay tiếng quạt phe phẩy. - Đừng sử dụng pḥng ngủ để làm việc khác như tập thể dục, xem ti vi... - Trước khi đi ngủ, nên chọn một hoạt động thư giăn nhẹ nhàng như đọc sách, tṛ chuyện với người thân... tránh xem tivi đôi khi xem tivi nhiều khiến người ta khó ngủ. - Trong ṿng 3 tiếng trước khi đi ngủ, tránh uống cà phê, rượu. - Tránh dùng những thức ăn có tính kích thích như quá chua, cay vào buổi tối. Bạn cũng không nên để bụng đói quá trước khi đi ngủ. - Tập thể dục có tác dụng tốt nhưng đừng tập gần lúc đi ngủ v́ đây là thời gian cơ thể cần thư giăn nhất. - Có thể tập vào buổi chiều hoặc tối, cách xa giờ ngủ ít nhất 2 tiếng. Người tập thể dục đều đặn thường dễ ngủ và giấc ngủ sâu hơn. |
Uống Thuốc Vừa Đủ - BS Hồ Ngọc Minh
Có những người rất sợ uống thuốc, trong đầu óc của họ, “thuốc men” gần như đồng nghĩa với thuốc độc. Ngược lại, cũng có người dường như phải uống nhều thứ thuốc khác nhau mới gọi là đủ, nhất là vô số thuốc bổ. Và, cũng có không ít người, uống thuốc của bác sĩ kê toa một cách tuỳ hứng, nhớ th́ uống, quên th́ ngày hôm sau uống bù gấp đôi gấp ba cho đủ dose! Người ta nói, “đói ăn rau, đau uống thuốc”. Ngày nay ta không phải đợi tới lúc đói mới ăn rau, thế th́ uống thuốc khi nào và uống bao nhiêu th́ đủ? Bài viết nầy sẽ khai triển thêm về chủ đề “Lạm Dụng Thuốc Men” của một bài viết trước đây. Kỳ trước, chúng ta đă bàn về ba thứ thuốc bị lạm dụng nhiều nhất gồm có thuốc bổ, thuốc giảm đau và thuốc trụ sinh. Tóm tắt, hầu hết thuốc bổ thật ra không cần thiết, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt như suy dinh dưỡng hay sản phụ đang mang thai. Uống nhiều thuốc bổ chỉ thêm phản ứng phụ không cần thiết, có khi c̣n tăng nguy cơ bị ung thư. C̣n thuốc giảm đau, uống nhiều có thể bị bệnh tim mạch chưa kể đến phản úng phụ như bị loét bao tử, hoặc bị ghiền, hay ngộ độc nếu là thuốc có chất ma tuư. Riêng thuốc trụ sinh, dùng nhiều có thể bị lờn thuốc v́ những con vi trùng càng ngày càng khó trị. T́nh trạng bị lạm dụng thuốc men là do lỗi của cả bệnh nhân lẫn bác sĩ. Ngay chính trong giới bác sĩ, hiện nay cũng được khuyến cáo để góp phần giảm bớt vấn nạn bị lạm dụng thuốc men. Về thuốc trụ sinh và thuốc giảm đau, nghiên cứu cho biết, hầu hết những toa thuốc trụ sinh và thuốc giảm đau có chất á phiện không bao giờ được uống hết như lời dặn của bác sĩ. Thuốc dư th́ bỏ thùng rác, nằm lây lất đâu đó trong tủ thuốc, hoặc cho bạn bè uống ké. Gần đây, trong ngành Sản Phụ Khoa, Hội Đồng Giám Định American Board of OB/GYN đă đề xuất một số định chuẩn mới trong việc kê toa thuốc trụ sinh. Một số ca mổ nhẹ như nội soi, bây giờ không cần cho thuốc trụ sinh trước và sau khi mổ. Nếu có phải cho thuốc trụ sinh, bác sĩ được khuyên nên dùng những loại thuốc trụ sinh vừa phải và cho uống dose ít lại. Ví dụ, chỉ một viên thuốc trụ sinh Doxycyclin 100 mg trước khi mổ đă đủ pḥng ngừa trên 99% bệnh nhiễm trùng có thể xảy ra. Đầu năm nay, Viện Hàn Lâm American College of Physicians đă ra lời khuyên mới về việc chữa trị bệnh cao huyết áp cho người trên 60 tuổi. Bệnh nhân không cần phải uống thuốc trị cao huyết áp trừ khi áp suất máu cao hơn 150 mm thuỷ ngân, tuy rằng Hội Tim Mạch Hoa Kỳ vẫn giữ mức giới hạn là 140. Về bệnh cao cholesterol, cơ quan pḥng chống bệnh U.S. Preventive Services Task Force có vẻ như khuyên mọi người, mọi công dân, nên uống thuốc statins! Uống quá nhiều thuốc khi không cần thiết sẽ gây ra nhiều khó khăn hơn do phản ứng phụ. Ví dụ như phản ứng phụ của các thuốc trị cao huyết áp bao gồm ho khan kinh niên, tiêu chảy, nôn mữa và chóng mặt. C̣n thuốc statins trị cao cholesterol có thể làm đau và làm yếu bắp thịt, hư hoại thận, và gây ra bệnh tiểu đường loại 2. |
Mặc dù cao huyết áp và cao cholesterol có hại đến sức khoẻ, nhưng vẫn c̣n tuỳ vào các yếu tố khác như tuổi tác, giới tính, chủng tộc, và có thêm bệnh tiểu đường hay có hút thuốc lá hay không.
Để biết được có cần phải uống thuốc statins hay không, ta cần biết chỉ số nguy cơ trong 10 năm kế tiếp, bằng cách tham khảo website, http://tools.acc.org/ASCVD-Risk-Estimator/. Tuy bản tính nầy có khuynh hướng khuyên mọi người nên uống thuốc statins, nhưng theo nhiều bác sĩ chuyên khoa, nếu chỉ số nguy cơ dưới 7.5 th́ không cần uống thuốc. Nếu chỉ số từ 7.5 đến 10 th́ chỉ cần thay đổi nếp sống như ăn uống điều độ, tăng cường vận động, thể dục thể thao, trước khi phải uống thuốc statins. Nguyên tắc nầy cũng áp dụng cho bệnh cao huyết áp. Chỉ cần thay đổi lề lối sống, có thể giảm nguy cơ tử vong v́ bệnh tim mạch mà không cần phải uống thuốc. Cụ thể, nếu huyết áp trên 140-150 th́ nên thử điều chỉnh lề lối sống, trước khi uống thuốc. Cho dù phải dùng thuốc, chỉ khi nào bệnh nhân đă từng bị nhồi máu cơ tim hay tai biến năo th́ mới uống thuốc statins với liều lượng cao, ngoài ra có thể chỉ bắt đầu bằng liều lượng thấp nhất. Trong trường hợp cao huyết áp, khuynh hướng bây giờ lại trở lại với những loại thuốc xưa nhất như thuốc lợi tiểu, chlorthalidone hay hydrochlorothiazide, trước khi dùng những loại thuốc khác như ACE inhibitor, calcium channel blocker… Khi một loại loại thuốc được bán ra thị trường, các nhà sản xuất thuốc thường “đề nghị” một dose thuốc, liều lượng và thời lượng hiệu nghiệm cho trên 95% người dùng (dựa trên biểu đồ Bell của thống kê). Tuy nhiên, trên lư thuyết, mỗi bệnh nhân, thực ra có một dose thuốc thích hợp khác nhau tuỳ theo mỗi cơ thể. Các bác sĩ đều biết rơ điều này, nhưng để trừ hao và “cho chắc”, hầu hết các bác sĩ đều cho một toa giống nhau với liều lượng và thời lượng cao nhất. Ví dụ trong ngành chữa trị hiếm muộn, một số bác sĩ cho thuốc theo một “công thức” cố định cho tiện công việc. Những nghiên cứu mới cho thấy có khi dùng thuốc ít lại hiệu nghiệm hơn. Cá nhân tôi, khi kích thích trứng lớn, sử dụng thuốc tuỳ theo chiều cao, sức nặng , tuổi tác, và số lượng trứng “tồn kho” của mỗi bệnh nhân, và tuỳ theo tốc độ phát triển của trứng mà thay đổi liều lượng. |
Mới đây, các công ty như Apple, Amazon và Google đă tiến vào lănh vực lưu trữ hồ sơ bệnh lư của bệnh nhân. Bệnh sử của bệnh nhân được tập trung vào một kho chứa dữ kiện, dễ cho bác sĩ tham khảo. Thuốc men được ghi rơ để bác sĩ khỏi kê toa trùng. Trong tương lai gần, theo đà phát triển nghiên cứu về sự chi phối của của các gene ảnh hưởng đến bệnh lư, mỗi bệnh nhân sẽ có một loại thuốc chữa trị thích hợp riêng với liều lượng riêng.
Một ngày không xa, toàn bộ hồ sơ bệnh lư cũng như những dữ kiện cơ bản về áp suất máu, nhịp tim, nồng độ oxygen, biểu đồ tim EKG, lượng đường trong máu sẽ có sẵn trong chiếc đồng hồ đeo tay hay trong điện thoại di động. Trong khi chờ đợi, để sử dụng thuốc cho đúng liều lượng, hữu hiệu và tránh phản ứng phụ, bệnh nhân cần phải tham khảo với bác sĩ về chế độ thuốc men của ḿnh. BS Hồ Ngọc Minh |
Tìm Hiểu Về Thuốc Giảm Đau - BS Hồ Ngọc Minh
Cho đến nay, người ta cũng không hiểu tại sao năo bộ lại biết đau, với nhiều giả thuyết dẫn giải về những “đường lối” (pathways) đưa đến cảm nhận đau. Một thí dụ đơn giản, khi ta bị thương tích chẳng hạn, những dây thần kinh cảm giác bị khuấy động và dẫn về năo bộ, qua nhiều “cửa ngơ” (gates) khác nhau. Những tín hiệu đau nầy cũng được khuếch đại bởi các “chất làm cho biết đau” gọi là prostaglandins được tiết ra khi cơ thể bị thương tích, bị viêm sưng (inflamation). Cũng các chất prostaglandins nầy lại dính dáng chuyện cơ thể tăng thân nhiệt làm cho ta bị sốt. Chất prostaglandins được đặt tên theo tuyến tiền liệt, tức là nhiếp hộ tuyến, prostate gland. Năm 1935, nhà khoa học người Thụy Điển, Ulf von Euler, khám phá ra chất nầy trong tinh dịch của người đàn ông. Sau đó người ta biết thêm, proataglandins gồm có nhiều chủng loại và được sản xuất ra ở nhiều nơi khác nhau trong cơ thể, cũng như có nhiều phận sự hay tác dụng tùy theo trường hợp. Chất prostagladins được sản xuất ra từ chất béo, mỡ đặt, do chi phối của hai chất xúc tác, enzymes gọi là cyclooxygenases (COX-1 và COX-2). Prostaglandins làm cho mạch máu giản nở hay co thắt, làm cho máu đông đặc hay ngược lại, làm điều hoà mức độ vị viêm sưng khi bị thương tích, làm cho tử cung co thắt khi sanh nở, cũng như ảnh hưởng đến cơ chế điều hoà thân nhiệt, gây sốt, bảo vệ cho bao tử không bị thương tích và nhiều tác dụng khác… |
Năm 1971, người ta khám phá ra rằng aspirin và các loại thuốc tương tự trong nhóm gọi là NSAIDs (Nonsteroidal anti-inflammatory drugs) có tác dụng giảm sự sản xuất ra chất prostagladins bằng cách khống chế các chất xúc tác cyclooxygenases (COX-1 và COX-2). V́ thế các loại thuốc nầy đều có những hiệu ứng giảm đau, chống sốt…
Ngoài aspirin, trong nhóm NSAIDs nầy gồm có các loại thuốc tiêu biểu như ibuprofen (Motrin), naproxen (Aleve), và diclofenac (Voltaren). Thuốc Tylenol (acetaminophen) tuy có những công hiệu tương tự nhưng lại thuộc vào một diện khác, hoàn toàn độc lập. Cho đến nay người ta cũng không hiểu làm thế nào thuốc Tylenol (acetaminophen) lại giảm đau, chống sốt. Khác với các thuốc trong nhóm NSAIDs kể trên, thuốc Tylenol (acetaminophen) chỉ có tác dụng giảm bớt hiệu năng của chất xúc tác COX ở trong hệ thần kinh trung ương, năo bộ mà thôi. V́ thế, khác với ibuprofen (Motrin), naproxen ( Aleve), và diclofenac (Voltaren), Tylenol có tác dụng giảrm sốt và chống nhức đầu nhiều hơn là giảm đau bắp thịt, đau xương, hay chống sưng do thương tích. Người ta cũng cho rằng thuốc Tylenol có những tác dụng trên hệ thống cảm nhận đau ở năo bộ, gọi là endocannabinoid system (ECS). Hệ thống ECS, nầy cũng chịu ảnh hưởng bởi các chất thuốc phiện, cần sa. Cũng v́ lư do đó mà Tylenol cũng được dùng chung với các loại thuốc giảm đau có nguồn gốc thuốc phiện như Codeine, tạo thành thuốc Tyenol #3 chẳng hạn. Trước khi bàn về thuốc giảm đau có nguồn gốc thuốc phiện, opioids, ta hăy phân biệt sự khác biệt về tác dụng của các loại thuốc giảm đau đă nêu trên. Như đă đề cập, thuốc Tylenol có tác dụng giảm sốt, chống nhức đầu hơn là giảm đau ngoài năo bộ nói chung. So với các loại NSAIDs, thuốc có ưu điểm là không gây ra tác dụng phụ như loét bao tử, tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch, hay làm cho máu loăng không đông. Tuy nhiên, ngộ độc thuốc Tylenol có thể làm hư gan cấp tính. |
Thuốc ibuprofen (Motrin) có tác dụng giảm đau bắp thịt nhiều hơn là giảm nhức đầu hay giảm sốt. Thuốc ibuprofen (Motrin) dùng thích hợp cho các trường hợp bị viêm sưng như té ngă, đau khi có kinh nguyệt chảng hạn. Trong khi đó, thuốc naproxen (Aleve), và diclofenac (Voltaren) có lợi thế chống đau nhức khớp xương nhiều hơn là giảm sốt, giảm đau bắp thịt, thí dụ như đau phong thấp, đau lưng, cột sống.Tuy nhiên trong mọi trường hợp đau nhẹ, sốt nhẹ, thời gian ngắn hạn, loại thuốc nào trên đây cũng uống được. Nếu bị đau nhức kinh niên, để giảm tác dụng phụ, phải uống đúng loại thuốc cho đúng loại đau nhức.
Thuốc có nguồn gốc hay hiệu ứng thuốc phiện, opioids, là các chất kích hoạt lên các hệ thống thần kinh trung ương làm giảm cảm nhận đau hay tăng cảm giác biết sung sướng gọi là opioid receptors. Các loại thuốc như thuốc phiện, bạch phiến (heroin), morphine và một số thuốc tổng hợp như hydrocodone, oxycodone (Oxycontin) and fentanyl đều tác dụng trên các opipoids receptors này. Thuốc opioids trước đây chỉ được dùng cho những trường hợp đau đớn trầm trọng. Hiện nay nguy cơ của nạn ghiền thuốc tăng vọt lên t́nh trạng báo động khẩn cấp. Một phần do các bác sĩ kê toa thiếu trách nhiệm. Năm 2012, có khoảng 260 triệu toa thuốc opioids được viết ra, đổ đồng một lọ thuốc 30 viên cho mỗi đầu người trên toàn dân số nước Mỹ! Phần khác do người tiêu thụ lạm dụng thuốc |
Trong năm 2013, có khoảng 40 triệu người dùng thuốc opiods một cách bừa băi, trẻ nhất chỉ 12 tuổi! Trong số những người dùng thuốc, 25% bị nghiện, chưa kể những trường hợp dùng thuốc “không chính thức” như là ma tuư. Cũng trong năm 2015, có khoảng 60,000 người tử vong v́ ngộ độc thuốc opioids, nhiều hơn số lính Mỹ chết trận trong toàn bộ chiến tranh Việt Nam!
Không riêng ǵ thuốc có nguồn gốc hay hiệu ứng thuốc phiện, các loại thuốc như Tylenol, ibuprofen (Motrin), naproxen (Aleve), và diclofenac (Voltaren) cũng gây ra t́nh trạng nghiện ngập và ngộ độc. Riêng thuốc ibuprofen (Motrin), gần đây được chứng minh có thể làm tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch. Khả năng chịu đau có thể thay đổi tùy người và tùy theo chủng tộc cũng như tùy theo nền văn hoá. Có lẽ sự khác biệt là do sự truyền dẫn tín hiệu đau đến hệ thần kinh trung ương đi theo nhiều đường (pathways), nhiều cửa (gates) khác nhau tùy theo mỗi cá nhân, mỗi trường hợp. Tóm lại, không ai muốn đau cả. Tuy nhiên nên kiên nhẫn và tránh lạm dụng thuốc giảm đau nói chung không riêng ǵ thuốc phiện. Kiên nhẫn ở đây có nghĩa là khi dùng thuốc phải cho thời gian để thuốc có hiệu ứng. Tránh lạm dụng là chỉ nên dùng thuốc khi cần, dùng ít thuốc, và dùng đúng loại thuốc tùy theo loại đau nhức. Cá nhân tôi hiện nay, khi bị đau, lại quay về dùng thuốc aspirin, là loại thuốc xưa nhất, ít nguy hiểm và lại có những tác dụng phụ tốt như giảm nguy cơ bị ung thư, bệnh tim mạch. Hồ Ngọc Minh |
Sữa Chua Men Sống – Sống Tới Đâu? - Vũ Thế Thành
Yogurt là sữa lên men. Men ở đây được hiểu là mấy con vi khuẩn làm sữa lên men chua, chứ không phải là men rượu hay men bánh ḿ,…Những con vi khuẩn này có lợi sức khỏe, nên quảng cáo yogurt trở nên tưng bừng, có cả tỉ lợi khuẩn (probiotic), giúp tiêu hóa, ngừa nhiễm trùng, thậm chí c̣n bốc lên ngừa được cả ung thư…Nhưng hiệu quả có đúng như thế không? Sữa tươi, sữa bột, cả béo lẫn gầy, hay làng nhàng vừa béo vừa gầy, sữa đặc có đường, hay trộn lộn tùng phèo mấy thứ này lại, đều có thể lên men thành yogurt. Dĩ nhiên phải có “c̣ mồi”, mà mấy bà gọi là men cái, chứa vi khuẩn gây chua. Chua là do sản phẩm của quá tŕnh lên men tạo ra acid lactic. Tuy nhiên, có nhiều loại vi khuẩn gây lên men lactic, nên các cơ quan an toàn thực phẩm trên thế giới đều quy định: làm yogurt phải có ít nhất 2 loại vi khuẩn: L. bulgarius và S. thermophilus, y chang như men cái của mấy bà làm yogurt trong bếp. Quy định này ăn tiền ở chỗ: làm yogurt (chứ không phải sản phẩm yogurt), và có ít nhất 2 loại (thêm vài ba loại vi khuẩn nữa cũng không sao). Từ đây bắt đầu cuộc chơi sữa chua công nghiệp thần thánh. Lợi khuẩn chết v́ nóng Yogurt nào khi vừa lên men xong cũng có lợi khuẩn, nhưng có loại yogurt sau khi lên men, người đem hấp yogurt. V́ sao phải hấp? Hấp để làm giảm đi vị chua tự nhiên của yogurt, sau đó mới thêm thắt đủ thứ vào như đường, dâu, trái cây, hương liệu.. th́ mới tạo ra yogurt thơm ngon được. Và quan trọng hơn, hấp để kéo dài tuổi thọ của yogurt, bán buôn phân phối mới thuận lợi. Hấp diệt khuẩn gây hư, nhưng cũng diệt luôn khuẩn có lợi. Yogurt hấp (heat-treated yogurt) để tủ lạnh vẫn mát rượi, nhưng lợi khuẩn không c̣n. Ăn chỉ sướng cái miệng, nhưng không khỏe cái thân. Lợi khuẩn chết v́ lạnh Lại có yogurt sau khi lên men, đem trộn trái cây, hương liệu,…và phụ gia làm sệt để tạo độ quánh dẻo (c̣n gọi là chất ổn định),…Sau đó đem đông lạnh yogurt (freezing), cũng gần giống như bỏ yogurt vào ngăn đá tủ lạnh. Vi khuẩn bị làm đông lạnh không chết, nhưng rơi vào t́nh trạng ngủ đông (dormant), nghĩa là không cục cựa, nhúc nhích ǵ được. Khi đưa yogurt ra nhiệt độ thường, hay để trong ngăn mát tủ lạnh, th́ vi khuẩn sống lại. Lư thuyết là thế. Nhưng vi khuẩn ngủ đông có khi ngủ…luôn. Và số “ngủ luôn” này không ít, nếu không muốn nói là rất nhiều. Nên yogurt đông lạnh (frozen yogurt) chỉ c̣n chứ a một lượng lợi khuẩn khiêm tốn. |
Yogurt bá đạo
Để giảm giá thành, một số nhà sản xuất sử dụng ít “men cái”, hoặc cấy ít vi khuẩn lactic. Lên men sẽ không đầy đủ, dĩ nhiên yogurt sẽ ít chua hơn. Chuyện nhỏ! Thêm chất tạo chua vào (thường là acid hữu cơ), rồi thêm phụ gia hương,vị, sệt,…thành yogurt chính phẩm “thơm ngon bổ dưỡng”, “tốt cho sức khỏe bà mẹ và trẻ em”,…. Yogurt bá đạo này có ít hay nhiều lợi khuẩn tùy theo mức độ bá đạo của nhà sản xuất. Ba loại yogurt kể trên chỉ ăn cho ngon miệng là chính, chứ lợi do probiotic hay lợi khuẩn ǵ đó th́ không. Yogurt chỉ có lợi ích khi chứa nhiều lợi khuẩn, và phải rất nhiều là đằng khác, và cũng tùy vào loại vi khuẩn nữa. Lợi ích thực sự của yogurt thế nào sẽ được đề cập trong bài tới, chứ không hẳn đă thần thánh như quảng cáo. Một cách minh bạch sản phẩm V́ quy định pháp lư không yêu cầu yogurt thành phẩm phải c̣n lợi khuẩn hay không, nên yogurt công nghiệp tha hồ múa máy, tung hô lợi khuẩn , ăn theo lợi khuẩn, c̣n sản phẩm có lợi khuẩn nào, nhiều ít ra sao, bằng chứng phân tích mỗi lô hàng th́ lờ tịt Hiệp hội Yogurt Quốc gia (Mỹ) tự đưa ra tiêu chuẩn cho các thành viên của Hiệp hội, là các nhà sản xuất yogurt rằng, phải có ít nhất 100 triệu vi khuẩn/g yogurt đối với yougrt làm mát (refrigerated), và 10 tr/gr với yogurt đông lạnh (freezing), và phải đưa phiếu kết quả đếm khuẩn cho mỗi lô hàng mới được dán nhăn “live and active cultures” (men sống) của Hiệp hội. Đây là một trong những cách thức mà một nhóm nhà sản xuất yogurt muốn minh bạch sản phẩm của họ. Quảng cáo probiotic (vi khuẩn có lợi) trong yogurt hiện nay ở Việt Nam lung tung xèng cả lên. Đâu có ai kiểm tra đâu mà sợ, mà thực ra cũng chẳng có quy định để kiểm tra. Mấy bà, bà nào cũng khoe ḿnh làm yogurt ngon. Vậy th́ làm đại yogurt ở nhà luôn cho rồi. Lợi khuẩn không chỉ dồi dào, mà c̣n lợi khác nữa, chẳng hạn, có người không thích yogurt nhưng cũng phải nhắm mắt nuốt mà c̣n khen ngon cũng không chừng. |
Những Tác Dụng Mới Của Vitamin D
Những nghiên cứu mới về vitamin D cho thấy nó thúc đẩy mức độ testosterone, cải thiện trí nhớ và chức năng nhận thức, đồng thời giảm nguy cơ bệnh Parkinson. Vitamin D là tốt cho đời sống t́nh dục của bạn. Nó đă gây được sự chú ư. Tác động của vitamin D trong hệ miễn dịch và những lợi ích khác nhau mà việc sử dụng loại vitamin này đă được tiết lộ, miễn phí, chỉ cần đơn giản bằng cách tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Nghiên cứu mới cho thấy mức độ testosterone, hormone giới tính nam, cao hơn ở những người có mức độ vitamin D cao hơn. Những nghiên cứu mới về vitamin D cho thấy nó thúc đẩy mức độ testosterone, cải thiện trí nhớ và chức năng nhận thức, đồng thời giảm nguy cơ bệnh Parkinson. Testosterone và vitamin D Theo một nghiên cứu được các nhà nghiên cứu tại Đại học Y khoa Graz, Áo thực hiện th́ việc tăng mức vitamin D trong cơ thể có thể giúp tăng mức testosterone của đàn ông và ham muốn t́nh dục của họ. Những người đàn ông đảm bảo rằng cơ thể của họ được cung cấp đầy đủ vitamin D là những người cũng đang làm cải thiện mức testosterone và ham muốn t́nh dục của riêng ḿnh bên cạnh những lợi ích khác. Các nhà nghiên cứu đă kiểm tra mức độ vitamin D và testosterone trong 2.299 nam giới trong vài tháng. Họ thấy rằng khi mức độ vitamin D tăng, nồng độ testosterone đạt đỉnh điểm vào mùa hè và giảm trong mùa đông. Họ cũng phát hiện thấy những người đàn ông có ít nhất 30 nanogram vitamin D trong mỗi ml máu có mức độ tuần hoàn testosterone cao hơn. Vitamin D cải thiện trí nhớ và chức năng nhận thức ở người già Để xác định khả năng suy nghĩ và chức năng nhận thức của một người bao gồm bộ nhớ và khả năng lĩnh hội thông tin mới, cũng như khả năng nói và đọc hiểu. Lăo hóa được biết là có ảnh hưởng đến chức năng nhận thức ở nhiều người, dẫn đến mất trí nhớ và khả năng duy lư khó khăn đối với việc chọn lựa từ ngữ chính xác trong khi nói hoặc viết. Thế nhưng, nếu thiếu vitamin D có thể là thủ phạm gây ra hoặc góp phần vào sự tổn thương của quá tŕnh nhận thức ở người già - và không chỉ đơn giản là sự lăo hóa th́ sao? Nếu đây là nguyên do, chúng ta có thể hy vọng rằng sự cung cấp đủ vitamin D có thể giữ cho tâm trí nhanh nhẹn và trí nhớ minh mẫn. Đường trao đổi chất của vitamin D đă được t́m thấy trong vùng hippocampus (sừng thái dương của năo thất bên) và tiểu năo - vùng năo liên quan đến việc xử lư, lập kế hoạch và h́nh thành kư ức mới. Như vậy, có vẻ như sự thiếu vitamin D có thể làm gián đoạn quá tŕnh nhận thức. Trong một thông cáo báo chí, các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng những người lớn tuổi mà cần phải có sự chăm sóc tại nhà có nguy cơ cao không nhận được đủ vitamin D v́ tiếp xúc giới hạn với ánh sáng mặt trời. Và, trên thực tế, chỉ 35% người cao niên là đối tượng của cuộc nghiên cứu có đủ lượng vitamin D trong máu của họ. Những người lớn tuổi đủ vitamin D có kết quả các bài kiểm tra nhận thức tốt hơn nhiều so với những người kém và thiếu vitamin D, đặc biệt trong các cách xử trí thực hành, trong đó bao gồm nhận thức linh hoạt và phức tạp của nhận thức và lư luận. Các sự liên đới vẫn tiếp tục tồn tại sau khi có tính đến các biến số khác mà cũng có thể đă ảnh hưởng đến hiệu suất của các bài kiểm tra khả năng nhận thức. Vitamin D có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh Parkinson Một nghiên cứu mới phát hiện ra rằng những người có hàm lượng cao vitamin D có thể giảm nguy cơ phát triển bệnh Parkinson. Vai tṛ của vitamin D trong sức khỏe của xương vẫn chưa được biết tới, nhưng các nghiên cứu trước cũng chỉ ra mối quan hệ với các vấn đề như bệnh tiểu đường, tim mạch và ung thư. Paul Knekt - cán bộ Viện Sức khỏe và Phúc lợi quốc gia tại Phần Lan, và các đồng nghiệp đă theo dơi 3.173 nam giới và phụ nữ độ tuổi từ 50 đến 79 - những người được chẩn đoán không bị bệnh Parkinson ở mức cơ bản giữa năm 1978 và 1980 |
Những người tham gia đă hoàn thành bảng câu hỏi và trải qua các cuộc phỏng vấn về các yếu tố sức khỏe và kinh tế xă hội. Họ cũng được khám bệnh và lấy các mẫu máu để phân tích.
Trong một khoảng thời gian 29 năm, cho đến năm 2007, các nhà nghiên cứu đă báo cáo rằng 50 người tham gia có phát triển bệnh Parkinson. Sau khi điều chỉnh các yếu tố có khả năng liên quan (như hoạt động thể chất và chỉ số khối cơ thể), những cá nhân trong nhóm với mức độ vitamin D cao hơn có nguy cơ phát triển bệnh ít hơn 67% so với nhóm có mức độ thấp hơn. Những người tham gia được chia thành bốn nhóm tương đương với các cấp độ của loại vitamin này. Theo Knekt, bất chấp các mức độ thấp của vitamin D trong dân số nói chung, một mối quan hệ liều lượng-phản ứng đă được t́m thấy. Nghiên cứu được tiến hành ở Phần Lan, nơi có hạn chế trong việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và, do đó, người dân ở đây có mức độ vitamin D thấp. Trong thực tế, mức vitamin D trung b́nh của người dân Phần Lan chỉ bằng khoảng một nửa mức được coi là lư tưởng, 75-80 nanomoles/lít. Các kết quả phù hợp với giả thuyết rằng sự thiếu hụt vitamin D là một yếu tố nguy cơ của bệnh Parkinson, ông cho biết. Theo các nhà nghiên cứu, các cơ chế mà theo đó mức độ vitamin có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh chưa được biết, nhưng chất dinh dưỡng có tác dụng bảo vệ trong năo bằng các hoạt động chống oxy hóa, sự điều chỉnh của các mức độ canxi, quá tŕnh giải độc, điều chế của hệ thống miễn dịch và sự cải thiện độ dẫn truyền trong các tế bào thần kinh. Nghiên cứu này tập hợp dữ liệu ban đầu đầy hứa hẹn ở người trong t́nh trạng không đủ vitamin D có liên quan với nguy cơ phát triển bệnh Parkinson, nhưng cần được khám phá thêm, cả trong khám và điều trị, để làm rơ vai tṛ, cơ chế, và nồng độ chính xác. Theo VTV |
Sâm - BS Nguyễn Ý Đức
Nói đến sâm là phải nghĩ ngay tới nước Trung Hoa với vua Thần Nông. Đây là một nhân vật với nhiều huyền thoại, sống cách đây nhiều ngàn năm, vừa là một đấng minh quân vừa là một nhà nông kinh nghiệm, biết thêm về y lư trị bệnh. Nhà vua chỉ dẫn cho dân chúng về cách dùng dược thảo và đă viết một cuốn sách nói về cả trăm thứ cây thuốc mà ông đă khổ công đi đó đây để sưu tầm. Theo sách, th́ vua Thần Nông là người đầu tiên đă nhận ra công dụng chữa bệnh của một loại rễ cây có h́nh dạng giống con người, mọc hoang trong rừng. Nhà vua đặt tên cho cây đó là Nhân Sâm. Nhân sâm đă được coi như một dược thảo hàng đầu (Sâm, Nhung, Quế, Phụ) ở nhiều quốc gia Á châu như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, và ở Nga. Trong những thập niên vừa qua, nhân sâm bắt đầu được sử dụng ở các quốc gia Âu Mỹ và cũng được khoa học thực nghiệm nghiên cứu về công hiệu chữa bệnh của một thảo mộc mà nhiều triệu người đă và đang dùng, do kinh nghiệm truyền cho nhau. Nhiều nhà bào chế thuốc đă xếp sâm vào nhóm những chất có tác dụng thích nghi (adaptogen) đối với nhiều chức năng của cơ thể và coi sâm như một chất dùng thêm có khả năng tăng cường sinh lực, giảm căng thẳng, ngăn ngừa một số bệnh tật và làm chậm tiến tŕnh lăo suy. Nguồn gốc Nguyên thủy th́ nhân sâm mọc hoang trên rừng núi, dưới bóng mát ở những nơi có khí hậu lạnh như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, miền Đông Liên Bang Sô Viết, Bắc Mỹ châu. Người Trung Hoa được coi như dân tộc đầu tiên biết sử dụng sâm để trị các bệnh của tuổi già và họ giữ kín cho tới thế kỷ thứ 18 công dụng của sâm mới được các quốc gia Âu Mỹ biết tới. Thoạt đầu, các nhà thảo mộc Tây phương cũng không tin tưởng cho lắm vào công dụng của sâm như người Trung Hoa tả. Nhưng sau khi nh́n thấy tận mắt một số hiệu quả, th́ họ tin theo. Năm 1716, tu sĩ ḍng Tên Petrus Jartoux truyền đạo ở miền Bắc Trung Hoa, viết một tài liệu cho hay sâm có thể mọc ở miệt rừng núi Gia Nă Đại v́ môi trường giống nhau. Tu sĩ Lafitau ở Gia Nă Đại bèn cho người khai thác sâm hoang ở chung quanh vùng Montreal và xuất cảng sang Tầu để gây quỹ cho ḍng tu. Cũng vào thế kỷ 18, một số nhà thám hiểm người Pháp thấy thổ dân Bắc Mỹ dùng một loại cây hoang để trị bệnh tiêu hóa, họ mang một ít về Âu châu để thử nghiệm và thấy công hiệu. Các loại sâm Theo American Botanical Council th́ có ba loại sâm chính: sâm Á châu, sâm Mỹ châu và sâm Siberian. |
1- Sâm Á châu
Thường được gọi là nhân sâm, tên thực vật học là Panax ginseng C.A. Meyer. C.A. Meyer là tên nhà thảo mộc học đă nghiên cứu sâm đầu tiên vào năm 1842. Đây là loại sâm nổi tiếng của Trung Hoa, đă được coi là đứng đầu các vị thuốc bổ (sâm, nhung, quế, phụ), để tu bổ ngũ tạng, làm dịu cảm xúc, bớt náo động, loại trừ chất độc trong cơ thể, làm thị giác tinh tường, làm tăng trí nhớ và tinh thần minh mẫn và nếu dùng liên tục th́ sẽ sống lâu. Panax do gốc Hy Lạp pan có nghĩa là tất cả, và alkos là chữa lành, tức là trị bá bệnh; c̣n ginseng theo nghĩa tượng h́nh Trung Hoa là “tinh túy của đất trong h́nh dạng người”. Y học Á châu đă dùng nhân sâm từ nhiều ngàn năm. Tây phương biết đến nhân sâm là qua sự nhận xét và giới thiệu của một tu sĩ ḍng tên Petre Jartoux vào khoảng năm 1714. Trong khi truyền giáo ở miền Bắc Trung Hoa, vị tu sĩ này thấy dân chúng dùng một loại rễ cây hoang để trị nhiều bệnh rất công hiệu, ông ta bèn viết một bài để giới thiệu với các thầy thuốc ở Âu châu. Từ đó, các nhà nghiên cứu ở Âu châu, Nhật Bản, Liên Xô, Hoa Kỳ đă để tâm nghiên cứu về loại dược thảo có h́nh người này. Nhân sâm có thành phần hóa học như sau: hỗn hợp saponins, tinh dầu panaxen, phytosterol, tinh bột, đường, amino acid, acid phosphoric, vài sinh tố B1, B2 và vài khoáng chất. Hiện nay có khoảng 22 chất saponin được phân loại, gọi là ginsenosides hay panaxosides, là những dược liệu chính của sâm. Hóa chất này có công thức hóa học tương tự như loại kích thích tố mà cơ thể con người dùng để đối phó với căng thẳng của đời sống. W.H Lewis cho hay chất triết của nhân sâm có tác dụng làm chậm sự phát triển của một vài tế bào u bướu, có vài tác dụng làm giảm đường trong máu. Nghiên cứu của V.W. Petkov và D. Staneva- Stoicheva ở Bulgarie cho hay nhân sâm có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, giảm huyết áp, giảm đường trong máu, kích thích hô hấp, hỗ trợ tế bào thần kinh đáp ứng với stress, tăng hồng huyết cầu và huyết tố, giảm cholesterol. Ng và H.W. Yeung cho hay nhân sâm có công dụng làm giảm thời gian phản ứng với các kích thích thính, thị giác; tăng sự lanh lợi, tập trung trí thuệ; tăng phối hợp giữa thị giác và cử động. Họ cũng cho hay nhân sâm có công dụng như chất antioxidant chống lại một vài bệnh về gan, mắt, vữa xơ động mạch. S. Shibata, O. Tanaka và H. Saito cũng cho rằng sâm làm tăng sự bền bỉ, chịu dựng của cơ thể với căng thẳng các loại, có tác dụng chống kinh phong hạ nhiệt, tăng chức năng bao tử, chống viêm tế bào. Bên Đức, chính quyền cho phép nhân sâm được mang nhăn hiệu bán như một thuốc bổ, tăng cường sinh lực khi bị suy nhược, mệt mỏi, khi kém tập trung, và trong thời kỳ phục sức sau bệnh hoạn. Dược thư Liên Xô xuất bản năm 1961 công nhận nhân sâm là vị thuốc chính thức trong y học của Liên bang này. Cho tới nay, đă có cả trăm nghiên cứu khoa học về công dụng của nhân sâm. Sự nghiên cứu này cần được tiến hành lâu dài và có hệ thống hơn nữa để có thể xác định giá trị chữa bệnh của loại dược thảo này. |
2- Sâm Mỹ châu:
Sâm Mỹ châu được tu sĩ Joseph Francois Lafitau khám phá ra cách dây gần ba trăm năm, ở vùng Montreal, Gia Nă Đại, có tên khoa học là Panax quinquefolius. Vị tu sĩ này đă khai thác, xuất cảng rất nhiều sang Trung Hoa từ thế kỷ thứ 18. Sâm Mỹ châu mọc hoang ở miền Đông Bắc Mỹ châu, từ Quebec, Ontario xuống Wisconsin, Minnesota, Florida, Alabama, Oklahoma. Không như sâm Á châu bị khai thác triệt để nên c̣n rất ít, sâm Mỹ châu hiện vẫn c̣n nhiều và được các quốc gia Hoa Kỳ, Gia Nă Đại coi là cây hiếm quư cần được bảo vệ. Sâm Mỹ châu đă được Abraham Whisman ở Virginia bắt đầu trồng từ năm 1870. Hiện nay Gia Nă Đại đứng hàng đầu trong việc trồng và xuất cảng sâm này. Nước Mỹ cũng xuất cảng tới 30% tổng số sâm Mỹ châu trên thế giới. Năm 1995, có tới hơn 700,000 kí sâm trồng và 150,000 kí sâm mọc hoang được xuất cảng từ Hoa Kỳ. Trung Hoa và Đại Hàn dẫn đầu trong việc xuất cảng sâm các loại trên thế giới. Sâm Mỹ châu rất được dân chúng Trung Hoa ưa thích v́ tính chất bổ âm (âm/dương) của nó, và ngọt dịu hơn sâm Á châu. Theo quan niệm Á châu, sự hài ḥa giữa âm và dương trong vũ trụ và trong con người đưa tới sự ổn định môi trường và sự khỏe mạnh của con người. Sâm Á châu có nhiều dương tính, nóng, làm hưng phấn cơ thể, làm tăng cường sức lực. Ngược lại, sâm Mỹ châu có nhiều âm tính, lạnh, làm giảm căng thẳng, làm mạnh nội tạng. Sâm Mỹ được thổ dân ở đây dùng để chữa chẩy máu cam, khó thở, tăng cường sự mầu mỡ sinh sản nữ giới, làm tăng trí tuệ, sức khỏe thể xác, chống mỏi mệt. Vợ một tù trưởng có thai kể cho chồng hay là trong giấc mơ ban đêm, thần nhân nói nếu muốn sanh không đau th́ cứ ngậm một miếng củ sâm hoặc uống một chút nước lá sâm. Sâm Mỹ châu đă được ghi vào sách the United States Pharmacopeia từ năm 1842 tới 1882. Sâm này cũng có hóa chất như nhân sâm đặc biệt là hỗn hợp gisenosides. Sâm, nói chung, vẫn chưa được hội nhập vào kỹ thuật trị liệu ở Hoa Kỳ, mặc dù rất nhiều người đang dùng dược thảo này. Lư do là chưa có nhiều nghiên cứu khoa học về sâm Mỹ như nhân sâm, và có nhiều ư kiến khác nhau về sâm. Thực ra, công dụng của sâm thay đổi đôi chút với loại sâm, thời gian hái sâm, bộ phận cây sâm, cách pha chế, cách dùng và phân lượng dùng. E.J Staba và S.E. Chen, trong “An Overview of Ginseng Chemistry, Pharmacology and Anti-tumor Effects” đă ghi nhận là với phân lượng nhỏ, sâm làm kích thích hệ thần kinh, nhưng phân lượng cao lại làm dịu; chống mệt mỏi, thích nghi được với các căng thẳng, chống nhăn da và làm tế bào da mau sinh sản; chống lại độc tính của chloroform, amphetamines; làm tăng trọng lượng của túi tinh dịch và nhiếp hộ tuyến, tăng tinh trùng; làm tăng kí với lượng nhỏ nhưng giảm kí với lượng lớn. Việc nghiên cứu công dụng của sâm ở Hoa kỳ c̣n mới mẻ và chưa hội nhập vào với phương pháp trị bệnh thực nghiệm. Theo một vài tác giả, cần có những quan tâm mạnh hơn nữa nhất là kết quả việc dùng sâm ở con người với lợi điểm cũng như tác dụng không tốt của sâm. |
3- Sâm Siberian:
Tên thực vật học là Eletherococcus senticosus, sâm này có nhiều ở Đông Bắc Trung Hoa, kế cận với Nhật và Đại Hàn và miền Đông Nam nước Nga. Tiến sĩ Stephen Fulder cho rằng đây không phải thuộc họ sâm nhưng được gọi như sâm v́ nó tác dụng tương tự, đă được người Nga dùng thay thế cho nhân sâm quá đắt và khó kiếm. Hoạt chất của sâm là chất eleutherosides, có công dụng giống như ginsenosides của sâm Á châu hoặc sâm Mỹ châu. I.Brekham, một chuyên gia người Nga về sâm, cho binh sĩ uống sâm chạy thi với nhóm khác uống thuốc lừa (placebo), th́ nhóm dùng sâm chạy mau hơn và lâu hơn. Các nhà khoa học Nga xếp sâm vào nhóm thực vật làm tăng sức đề kháng không đặc biệt, giúp cơ thể có thể chịu đựng mệt mỏi, bệnh tật, tuổi già, làm việc cực nhọc, vượt qua được các bệnh thông thường như cảm lạnh. Năm 1961, một hội nghị về sâm đă diễn ra ở Lenigrad, Liên Sô. Năm sau, sâm Siberian được chính quyền Sô Viết chấp thuận cho dân chúng dùng như loại thuốc bồi bổ sức khỏe, thích nghi với căng thẳng của đời sống và chữa các bệnh như cao huyết áp, tiểu đường, viêm phế quản kinh niên, bệnh thần kinh tâm lư, vữa xơ động mạch máu. Theo J. A. Duke và E.S. Ayensu trong Medicinal Plant of China, th́ loại sâm này được dân chúng ở vùng Đông Bắc Hoa Lục dùng để chữa các bệnh phong khớp xương, viêm cuống phổi, bệnh tim, đồng thời nếu dùng liên tục, để tăng cường sức khỏe, làm ăn ngon miệng, giúp trí nhớ tốt, kéo dài tuổi thọ. Chính quyền y tế Đức quốc cũng coi sâm Siberian có công dụng như nhân sâm để giúp cơ thể khỏe mạnh, giúp mau hồi phục sau bệnh hoạn cũng như gia tăng sự bền bỉ trong lao động trí óc, chân tay. Theo nhiều nhà chuyên môn, sự khác biệt của ba loại sâm chính này như sau: - Sâm Á châu có tính cách kích thích, làm nóng cơ thể, tăng cường sức khỏe, được dùng ở người lớn tuổi, người suy yếu tổng quát, người cần dùng sức lao động và sự bền bỉ . - Sâm Mỹ có hàn tính, thoa dịu, thích hợp cho người hay năng động, nhưng cũng giúp cơ thể tăng cường dẻo dai, sức chịu đựng. - C̣n sâm Siberian th́ dung ḥa giữa hai loại trên, không ôn quá mà cũng không hàn quá, và có cùng đặc tính. Ngoài ra c̣n các loại sâm khác như sâm Brazilian, sâm Angelica sinensis, sâm Acanthopanax sessiliflorus. Giáo sư Đỗ Tất Lợi, trong tác phẩm Những Cây Thuốc và Vị Thuốc Việt Nam c̣n kể thêm nhân sâm Việt Nam, Đảng sâm có ở quận Thượng Đảng, Trung Quốc, ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Việt Nam; sâm Bố Chính ở Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng B́nh Việt Nam; Thổ Cao Ly sâm, Sa sâm. |
Trồng sâm
Sâm được trồng từ hạt giống của cây sâm khỏe, tốt đă mọc từ 6, 7 năm trở lên. Sâm không thể trồng như trồng lúa. Trồng sâm cần thời gian lâu để sâm mọc. Hạt giống sâm được chôn sâu dưới đất mầu mỡ, không có nước ứ đọng, dưới bóng mát. Bên Trung Hoa người ta dùng phân xanh và khô dầu để bón, tránh dùng phân bắc và nước tiểu. Âu Mỹ dùng phân hóa học và thuốc sát trùng để diệt nấm độc ăn hại sâm. Cứ đến mùa Đông thân lá sâm héo tàn, nhưng khi Xuân đến, cây nẩy chồi từ củ sâm nằm sâu dưới đất. Khoảng 6, 7 năm sau đào sâm lấy củ. Củ sâm được chế biến, sấy khô rồi đóng hộp. Riêng những củ to thường được hấp trước khi sấy khô để giữ tinh túy của sâm. Sâm mọc hoang có khi lâu đời cả mấy chục năm trong rừng gỗ lớn nên rất đắt và quư. Nhưng số sâm mọc hoang mỗi ngày một khan hiếm v́ nhiều người đi t́m lấy. Đa số sâm bán trên thị trường bây giờ là sâm trồng. Việc trồng sâm đă được nhiều quốc gia thực hiện, nên hiện nay trên thị trường có đủ loại sâm. Phần chính làm thuốc của cây sâm là khúc củ sâm, mầu vàng sậm, có nhiều rễ nhánh nhỏ, nằm sâu dưới đất. Lá sâm có năm cánh, với một bông hoa nhỏ mầu xám lạt nằm ở cuống lá; thân cây gắn trên củ sâm nằm sâu dưới đất. Thân cây sâm thường héo chết vào mùa Đông, để rồi mọc trở lại từ củ sâm vào đầu mùa Xuân. Toàn cây cao độ 60 phân. Lựa sâm Trên thị trường có rất nhiều loại sâm, nhưng thường thấy nhất và nhiều người mua là hồng sâm và bạch sâm. Hồng sâm là những củ to, mập, dáng đẹp, giống h́nh người c̣n bạch sâm nhỏ hơn, trắng và khô. Sau khi đào, sâm được rửa sạch, phơi sấy, và đóng hộp: hồng sâm trong hộp gỗ, bạch sâm trong hộp giấy. Ngoài ra c̣n sâm bách chi (rễ phụ), nhân sâm tu với rễ nhỏ như râu tóc, sâm nhị hồng với rễ nhỏ hơn nữa mọc ngang từ rễ chính ra. Sâm Mỹ thường được xuất cảng qua Á châu và rất được ưa chuộng. C̣n ở Mỹ th́ lại có nhiều sâm nhập cảng từ Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản. Nổi tiếng trên thế giới vẫn là sâm Đại Hàn và sâm Trung Hoa. Sâm càng to càng tốt v́ sống lâu năm dưới đất, hút nhiều chất dinh dưỡng nên khỏe hơn. Hồng sâm tốt hơn bạch sâm. Sâm từ Đại Hàn là tốt nhất rồi dến sâm từ Trung Hoa rồi Nhật Bản. Khi nếm, sâm tốt có vị hơi đắng nhưng ngọt dịu. Sâm mà không có vị ǵ là sâm không tốt. Củ sâm tốt hơn râu và lá sâm. Cách thức dùng sâm Có nhiều cách dùng sâm: 1. Thái mỏng rồi ngậm sâm trong miệng cho tới khi mềm tan.. 2. Nấu sâm trong ấm sành, ấm thủy tinh độ một giờ rồi uống nước sâm. Sâm nấu như vậy có thể giữ trong tủ lạnh rồi uống dần mỗi ngày. V́ sâm khá đắt, nên có thể nấu nước thứ hai mà sâm vẫn c̣n hương vị. Tránh dùng ấm kim loại sợ kim khí vô hiệu hóa hoạt chất của sâm. 3. Ngâm sâm trong rượu, nhấm nháp dần dần. Ngâm càng lâu, rượu càng ngon. 4. Sâm chế biến thành bột ḥa tan trong nước sôi, uống như cà phê hay trà. 5. Sâm viên uống như các thuốc viên khác. Kỹ nghệ chế sâm viên hiện nay khá phổ biến và chính xác, v́ phân lượng hoạt chất chính trong mỗi viên thuốc sâm đều như nhau. 6. Sâm bốc chung với các vị thuốc, sắc lên rồi uống nước thuốc. 7. Sâm miếng thái mỏng nấu thành súp với thịt hoặc gạo. |
An toàn của sâm
Một câu hỏi thường được nhiều người nêu ra là sâm có an toàn không? Giáo sư Brekhman thuộc Institute of Biologically Active Sciences bên Nga cho hay, để có ảnh hưởng không tốt, con người phải dùng cả mấy kí lô sâm một lúc. Tính cách an toàn của sâm chưa bao giờ bị cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) nghi ngờ và cơ quan này đă cho sâm được bán tự do v́ các nghiên cứu cho hay sâm không có tác dụng nguy hại cho người dùng. Sâm đă được ghi vào danh bạ y dược tại các nước ở Âu châu và được công nhận như một thực phẩm dùng thêm rất an toàn. Tuy nhiên, cũng như dược phẩm khác, khi dùng sâm nên theo chỉ dẫn của lương y hay nhà bào chế. Áp dụng thực tế Sâm đă được dùng ở các nước Á châu từ nhiều ngàn năm và đang được y học hiện đại nghiên cứu, sử dụng. Cũng như các dược thảo khác, tác dụng của sâm nhẹ nhàng, thấm từ từ nhưng kéo dài chứ không mau, mạnh như Âu dược. Theo Đông y, sâm không phải là thứ để chữa lành một bệnh riêng biệt nào mà được coi như chất bồi bổ sức khỏe, duy tŕ sinh lực và kéo dài tuổi thọ. Sâm rất công hiệu khi cơ thể suy nhược, dưới nhiều căng thẳng thể xác và tâm thần, phục hồi sinh lực sau khi bị trọng bệnh... Sự dùng sâm thay đổi tùy theo điều kiện cấu tạo cơ thể và sức khỏe của mỗi cá nhân. Theo kinh nghiệm, nếu muốn tăng cường sinh lực chung th́ loại sâm nào cũng như nhau. Người trên 45 tuổi nên dùng sâm Á châu v́ sâm này kích thích mạnh; dưới tuổi 45 c̣n trai tráng có thể dùng hai loại sâm ôn ḥa kia. Người cần sức lao động cao th́ sâm Á châu giúp bền bỉ, sung sức hơn; nữ giới thích hợp với sâm Mỹ châu c̣n nam giới th́ sâm Á châu lại tốt. Đấy chỉ là gợi ư. Trước khi dùng, nên tham khảo ư kiến người có hiểu biết về món dược thảo này. Cũng như với các dược thảo khác, ta nên bắt đầu dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần để ḍ sức chịu đựng của ḿnh đồng thời lượng định công hiệu và tác dụng không muốn của thuốc. |
Không Ăn Sáng Hậu Quả Không Lường
Bữa ăn sáng thực sự quan trọng trong cuộc sống của chúng ta, để đảm bảo sức khỏe và tăng tuổi thọ, bạn hăy chú ư đến bữa ăn sáng. Bệnh tim mạch: Một nghiên cứu của Mỹ vừa công bố cho rằng, nam giới bỏ bữa ăn sáng có nguy cơ lên cơn đau tim hoặc mắc bệnh tim mạch cao hơn tới 27% so với những người ăn sáng đầy đủ. Ung thư túi mật: Sau giấc ngủ dài, thức ăn của bữa tối đă được tiêu hoá hết và dạ dày vẫn tiếp tục tiết ra dịch vị. Nếu bạn không 'nạp năng lượng' vào bữa sáng, các chất cặn bă tích tụ trong dạ dày không có cơhội đào thải ra ngoài, lâu ngày sẽ kết lại thành sỏi, gây bệnh sỏi thận và túi mật. Già nhanh: T́nh trạng bỏ bữa sáng kéo dài có thể khiến bạn nhanh già. Khi không ăn sáng, cơ thể con người tiêu thụ glycogen và protein được lưu trữ trong cơ thể. Dần dần nó sẽ gây khô da, h́nh thành nếp nhăn và thiếu máu, đẩy nhanh quá tŕnh lăo hóa của con người. Tăng cân: Nếu bạn không ăn sáng, bạn sẽ ăn nhiều thức ăn hơn vào bữa trưa, do vậy nó sẽ gây ra khó khăn trong việc tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng. Trong trường hợp này, quá nhiều chất béo sẽ được tích lũy trong cơ thể và dần dần làm cho bạn béo. Táo bón: Nếu bạn không ăn sáng sẽ dẫn đến táo bón. Nếu bạn luôn luôn không có bữa ăn sáng, nó có thể gây ra rối loạn phản xạ và sau đó dẫn đến táo bón. Nếu cơ thể không thể đẩy các độc tố, chất độc quá nhiều sẽ tích lũy trong cơ thể, và sau đó dẫn đến nhiều triệu chứng như nổi mụn. Bệnh tiều đường tuưp 2: Bỏ qua bữa sáng sẽ khiến nâng lên và giảm xuống mức insulin, gây không cân đối thường xuyên làm cho cơ thể bạn tự nhiên tạo ra sự đề kháng với insulin gây nên bệnh tiểu đường tuưp 2. Bệnh huyết áp thấp: Nếu bạn là người có sức khỏe yếu th́ việc không ăn sáng thực sự là vô cùng tai hại và nguy hiểm. Nó sẽ làm bạn tụt đường huyết, hạ huyết áp. Bạn sẽ bị thường xuyên bị chóng mặt, nhức đầu, ngất xỉu, tay chân ră rời và đó là những dấu hiệu biểu hiện bạn bịbệnh huyết áp thấp rồi đấy Đau dạ dày: Ngay sau khi bạn thức dậy, các cơ quan trong cơ thể bắt đầu hoạt động mạnh mẽ, nhưng khi bạn không ăn sáng, dạ dày luôn co bóp không, dịch vị tiết ra nhưng không có ǵ để tiêu hóa, dần dần sẽ dẫn đến viêm loét dạ dày. Xơ vữa động mạch: Nhiều người có suy nghĩ ăn bù dự trữ từ đêm hôm trước đề bỏ bữa sáng ngày hôm sau. Tuy nhiên, ăn nhiều vào bữa tối, đặc biệt là sau 19 giờ tối sẽ tích lũy thành mỡ đấy. Mỡ này sẽ bám vào thành mạch, thành tim, trong gan, trong thận và xơ vữa động mạch. Một số bệnh măn tính khác: Bạn bắt đầu ngày làm việc mới trong t́nh trạng đói mềm, để có sức lực, cơ thể phải huy động các tuyến nhưtuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến yên… hoạt động để tạo ra năng lượng. Khi các tuyến này hoạt động thái quá nó có thể tạo ra nhiều axit, dẫn tới các bệnh măn tính. Phản ứng chậm chạp: Bữa sáng là nguồn năng lượng cho hoạt động năo bộ, nếu không ăn sáng, cơ thể không nạp đủ nhiên liệu và năng lượng để thực hiện những hoạt động trong ngày. Khi đó, cơ thể bạn mệt mỏi, năo không thể tập trung, tinh thần không hưng phấn, phản ứng tŕ trệ. |
5 Tác Dụng Bất Ngờ Của Việc Uống Cà Phê Buổi Sáng
Nhiều người quan niệm, cà phê không tốt cho sức khỏe . Tuy nhiên, nếu bạn uống một lượng vừa phải vào buổi sáng trước các bài luyện tập thân thể, chắc hẳn bạn sẽ bất ngờ với nhiều tác dụng mà cà phê mang lại. 1. Giảm đau Một nghiên cứu gần đây được thực hiện tại trường Đại học Illinois chỉ ra rằng, uống hai đến ba tách cà phê vào khoảng một tiếng trước khi tiến hành các bài tập vận động sẽ giúp giảm các cơn đau cơ. Các nhà khoa học tin rằng, lượng caffeine trong cà phê góp phần tăng cường sức mạnh cũng như sự dẻo dai cho cơ. 2. Tăng cường quá tŕnh tuần hoàn máu Một nghiên cứu được thực hiện tại Nhật Bản về tác dụng của cà phê đối với quá tŕnh tuần hoàn máu của những người không thường xuyên uống cà phê. Theo đó, mỗi người uống khoảng gần 30 ml cà phê. Sau đó, các nhà nghiên cứu xác định quá tŕnh lưu thông của máu tới các ngón tay. Kết quả cho thấy, những người uống cà phê thường xuyên tăng khoảng 30% lượng máu lưu thông trong khoảng thời gian hơn 75 phút so với nhóm người không uống cà phê. Sự lưu thông máu tốt hơn đồng nghĩa với việc lượng oxy vận chuyển tới các cơ nhiều hơn |
| All times are GMT. The time now is 18:50. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.