R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Nov 2006
Posts: 34,335
Thanks: 29,429
Thanked 19,854 Times in 9,093 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 798 Post(s)
Rep Power: 82
|
Tháng Tư, tháng lịch sử của dân tộc Việt Nam lại quay về với hàng ngàn, hàng vạn kư ức, cảm nghĩ, chuyện kể, h́nh ảnh, bài viết qua hàng vạn trang sách báo không chỉ ở Việt Nam, trên mạng Web mà khắp nơi trên thế giới.
Khi nhận định về chiến tranh Việt Nam giới báo chí,văn học trên thế giới đă công nhận chưa có cuộc chiến nào trên thế giới làm tốn nhiều giấy mực hơn cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Những quyển sách, bút kư có tính lịch sử hay phóng sự được độc giả t́m đọc và đánh giá cao thường mang tính trung thực, tầm nh́n khái quát và tính nhân bản
Sách viết về chiến tranh Việt Nam có các đặc tính vừa nêu trên và được cả thế giới biết nhiều có lẽ là sách của hai tác giả đều là phóng viên, một người Pháp, ông Pierre Darcourt với quyển Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils?
(Pierre Darcourt,đă được dịch giả Dương Hiếu Nghĩa dịch ra với tựa đề Việt Nam - quê mẹ oan khiên (nhà xuất bản Tiếng Quê Hương – 2007)
Và phóng viên người Đức- Peter Scholl-Latour với quyển Der Tod im Reisfeld (Deutsche Verlags-Anstalt-1979) (tạm dịch: Cái chết trên cánh đồng lúa).
Nh́n lại riêng cho Việt Nam, những tác phẩm viết về cuộc Chiến Tranh Việt Nam được thế giới biết và nhắc nhở gần như quá hiếm hoi .
Có thể nói sách được nhiều người ngoại quốc đọc nhiều về Chiến Tranh Việt Nam chỉ có thể kể vẻn vẹn là quyển “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, một quyển sách không dầy đúng với tầm vóc lịch sử của cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Tại sao chỉ có quyển sách viết về Nỗi buồn của cuộc chiến được nhắc đến, trong khi nhiều quyển sách của những tướng Bắc Việt trực tiếp tham gia đánh trận viết kể về cuộc chiến hầu như không ai nhắc đến ?
Có lẽ chúng chỉ có những câu chuyện dối trá, bịa đặt, chỉ được sử dụng như những tài liệu lịch sử cho phía cộng sản để tra cứu chứ không hề là những tác phẩm nhân văn, những tác phẩm nêu được t́nh cảm con người trong cuộc chiến và sau cuộc chiến.
Chiến tranh không thể vui vẻ v́ chỉ là những cảnh chém giết, người chết, máu đổ, lệ rơi, ly tan, đổ nát. Nhưng tại sao khi cuộc chiến kết thúc vẫn không mang lại niềm vui tiếng cười trọn vẹn cho cả dân tộc ?
Có phải từ nỗi buồn của hàng triệu người dân Miền Nam sau năm 1975 phải chịu cảnh bị phỉ quyền Hà Nội hèn hạ trả thù, bắt bớ, tù đày, hành hạ, ngược đăi, chịu thảm họa vượt biên .
Nỗi buồn cho một chế độ có chính nghĩa dân chủ tự do bị bóp chết tức tưởi , bị thay thế bằng chế độ độc tài, độc đảng.
Có phải từ nỗi buồn khi cảnh xă hội thanh b́nh tươi đẹp mơ ước dần dần hiện ra trong thực tế là một xă hội hổn loạn, đầy rẫy những chuyện bức xúc.
Cảnh đất nước phát triển đi thụt lùi. Sau hằng mấy chục năm với biết bao tiền của tài nguyên, công sức đă đổ ra, kết quả là Việt Nam XHCN – dưới sự lănh đạo bất tài ngu dốt của bọn phỉ quyền Hà Nội - ngày nay c̣n thua kém ngay cả Cambodia, mong được sánh vai cùng Thái Lan, không bằng một góc của Singapore, trong khi trước 1975, chế độ VNCH tại Miền Nam Việt Nam đă phát triển hơn hẳn các quốc gia vừa nêu tên.
Trong nhiều gia đ́nh Việt Nam, trên khắp miền đất nước, từ hoàn cảnh lịch sử, có rất nhiều gia đ́nh có cha, con, chú, bác, anh em, họ hàng thân quyến đứng ở hai thế đối lập nhau.
Niềm vui thắng cuộc trọn vẹn không khi chính người thắng cuộc phải nh́n cảnh cha chú, bác, anh, em bà con bị đưa đi học tập cải tạo và chết trong cảnh ngục tù ?
Niềm vui thắng cuộc có c̣n không trước cảnh họ hàng, bà con, bạn bè của ḿnh và ngay chính gia đ́nh ḿnh từ từ dắt díu đi lưu lạc nơi xứ người, tha phương cầu thực.
Niềm vui có không trong gia đ́nh có những người đứa con gái để cải thiện kinh tế cho gia đ́nh phải lấy chồng Trung Quốc, Hàn Quốc và bị đọa đày như nô lệ.
Niềm vui có không ở những gia đ́nh bị phỉ quyền Hà Nội đày đọa về vùng đồng hoang vu, trơ trọi không có khả năng sinh sống nơi Kinh Tế Mới.
Hay sau bao năm nhọc nhằn tạo dựng trong phút chốc sự nghiệp, của cải bị cướp đoạt mất trắng qua quyền lực, vũ lực với tên gọi „giải phóng mặt bằng „ cải tạo công thương nghiệp “?
Tháng Tư luôn là tháng buồn thảm đối với rất nhiều người dân Việt Nam.
Dù trời có mưa hay nắng, dù nơi xứ người cảnh vật đang chuyển đổi sang mùa Xuân với bao hoa lá xinh đẹp đang đua nở vẫn không xóa tan được nỗi buồn quá lớn trong tâm tư những người Việt có lương tâm và yêu lẽ phải khi nghĩ về đất nước, quê hương.
Người ta có thể không có cảm giác chia sẻ với nỗi khổ đau của những nạn nhân vượt biển, những người bị đày đọa trong các trại tù lao động khổ sai, nhà giam, những người bị cướp đoạt tài sản khi người ta đứng ở vị trí của người cướp đoạt tài sản, hay đồng lơa.
Người ta sẽ thấy tự hào với tư cách thắng cuộc của ḿnh và hân hoan chào mừng.
Nhưng người ta khó thể viết nên những quyển sách được nhân loại, thế giới chú ư đọc khi sách có nội dung ca ngợi chiến thắng mà qua đó hàng triệu người đồng bào ruột thịt của họ phải chết và đưa đến kết quả cả dân tộc bị dẫn đi vào con đường sống dưới chế độ độc đảng, độc tài, gian xảo, dối trá, mị dân bằng đủ thứ bánh vẽ rẻ tiền.
Người ta khó thể viết sách có lư lẽ để ca ngợi chiến thắng của một thứ “chủ nghĩa xă hội” quái thai sắt máu, bệnh hoạn, không tưởng đi tiêu diệt một nền Cộng Ḥa có Tự Do, Dân Chủ .
Những người lính bộ đội tham gia chiến tranh năm nào ngày nay không khỏi ngậm ngùi khi thấy „lá cờ kẻ thắng cuộc“ (thực chất là cờ của Phúc Kiến, Trung Quốc) cắm bơ vơ trên túp lều của những người dân bị cướp đất ở Tiên Lăng, Xuân Quan, Thủ Thiêm, và nhiều nơi trên đất nước.
Khi thấy ở những khu đô thị trên khắp Việt nam những bảng chữ hiệu Việt từ từ được thay bằng bảng hiệu chữ Tàu.
Trên Tivi, phim ảnh những thước phim lịch sử Việt Nam quá ngắn ngủi so với hàng trăm thước phim bộ nhiều tập với đầy đủ chi tiết lịch sử của Trung Quốc.
Ư nghĩa thắng cuộc có c̣n không qua các diễn biến nêu trên?
Đúng như nhận xét sắc sảo của kư giả Peter Scholl Latour đă ghi trong đoạn viết về Việt Nam vào năm 1976 .
Chỉ một năm sau ngày “giải phóng“ dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của phỉ quyền Hà Nội đương thời, ông đă ghi nhận những tin tức, câu chuyện về những trại tù lao động khổ sai tàn ác, những trại cưỡng bức phục hồi nhân phẩm ở Sài G̣n.
Về chuyến tham quan hang Pác Pó bị cấm, v́ nơi này và vùng biên giới Việt Bắc ngay trong thời điểm 1976 đă là những vùng ngoài tầm bảo đảm an ninh của Việt Nam.
Mối liên quan với người Mèo của tướng Chu Văn Tấn, vị tướng đă bị hạ bệ ngay trong thời điểm đó, đi cùng với mối lo ngại đang lớn dần, không tránh khỏi về “kẻ thù phương bắc“ của phỉ quyền cộng sản VN.
Niềm vui về một chiến thắng lịch sử với sự hy sinh của hàng triệu người Việt Nam dần dần đổi qua vị trí khác và biến thành“ Nỗi buồn thắng cuộc“.
Trong đoạn kết thúc chuyến đi ghi phóng sự một năm sau chiến tranh tại Việt Nam, sau khi chứng kiến đủ cảnh khổ của dân chúng từ Nam chí Bắc, cảnh dân miền Nam bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, đói nghèo, cảnh ở biên giới phía bắc đă phải đối đầu với người “anh em phương Bắc” của ḿnh.
Kư giả người Đức đă ghi lại cảnh từng đoàn người lặng lẽ vào thăm lăng Hồ chí Minh, với câu cảm nghĩ mà hiện nay đă là cảm nghĩ của nhiều người từng có mặt trong “đoàn quân thắng cuộc„:
“Hỡi người đă mất, chiến thắng của nhà ngươi đang nằm ở đâu“ ?
Câu này theo ông là câu nên được khắc lên nền đá hoa cương của lăng Hồ Chí Minh.
Cũng là câu giải thích tại sao có “Nỗi buồn thắng cuộc “ cho cả dân tộc .
Trong ngày 30.04 năm nay, chúng ta hăy đọc lại đọan văn phía dưới, và dành vài phút mặc niệm tưởng nhớ không chỉ đến những người bỏ ḿnh trong cuộc chiến mà cả cho những nạn nhân sau cuộc chiến, những người phải bỏ xứ đi vượt biên, hay chết trong những trại ngục tù khắc nghiệt và tàn ác của bọn cộng sản bắc việt:
´Nhớ lúc tàu vượt biên đụng cái rầm vào băi đá của bờ biển Mă Lai, vợ chồng con cái mặt mày tái xanh, nín thinh ôm nhau chờ chết. Ai dè đáy thuyền mắc vô cọc đá nhọn, bị sóng đánh dạt qua dạt lại, nhưng tàu không bị bể, không bị sóng cuốn trôi, nhưng bị nước vô.
T́nh h́nh rối loạn, mạnh ai nấy chạy, nấy la, nấy khóc. Bọn thanh niên chen lấn nhau nhảy xuống biển vù vù, chỉ c̣n đàn bà, đàn ông ốm yếu và con nít thất thần nh́n nhau không biết làm sao để ra khỏi tàu. Ba đứa con như ba con gà con ốm nhách dơ xương ướt nhẹp, nắm chặt mớ tóc rối bời của mẹ khóc nức không thành tiếng.
Ông chồng ngồi bên cạnh, líu quíu đứng lên, nhưng đổ nhào, hoảng hồn đưa đôi mắt lo âu sâu hoắm ḍ hỏi chung quanh. Tui thử đứng lên, hai chân cũng bất khiển dụng, té quẹo bên hông. Mấy người xung quanh hồ nghi và cũng quờ quạng đứng không muốn nổi, thôi… đi bốn chân cho an toàn, ra khỏi tàu rồi tính.
Có tiếng la: “Bà con ơi, tàu cặp bến rồi, thấy đất liền rồi.” Mọi người đang ḅ lổn ngổn trên sàn tàu, ngừng lại một giây, sau đó ḅ nhanh hơn về phiá mũi thuyền, nơi phát ra tiếng nói.
Trời ơi, nụ cười! Nụ cười hồi sinh tươi c̣n hơn bông hồng nở. Có bà già v́ cười quá mà đôi môi bị khô v́ gió và nước biển đă nứt ra chảy máu ṛng ṛng. Có tiếng ông chồng tui réo: -Má con bây ḅ lẹ lên, ba xuống tới đất rồi nè!“
__________________
|