View Single Post
Old 03-24-2011   #2
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default

Bài 2: Con cọp giấy!

Vấn đề đang đặt ra là sức mạnh quân sự Trung Quốc có tương thích với khả năng phát triển kỹ thuật quân sự của họ hay không. Nói cách khác, Trung Quốc đă “luyện công” đủ để có một nội lực thâm hậu về công nghiệp quốc pḥng và chẳng cần bất cứ ai hỗ trợ vẫn có thể xưng hùng một cơi?

Kỹ thuật quân sự Trung Quốc “tiến bộ” đến đâu?

Một phần trong câu trả lời có thể t́m thấy ở mẫu máy bay tàng h́nh J-20 mà Trung Quốc mới tiết lộ. Trong thực tế, công nghệ chế tạo máy bay tàng h́nh ngày nay chẳng là bí mật ǵ ghê gớm và cũng chẳng là thứ công nghệ kỹ thuật cao mà chỉ vài nước tiên tiến mới có thể sở hữu. Không chỉ Mỹ, Nga, Anh, Pháp và Đức – những nước có bề dày lẫn kinh nghiệm trong công nghiệp vũ khí, mà Hàn Quốc, Ấn Độ, Thụy Điển và thậm chí Serbia… cũng đă chế tạo thành công từ lâu chiến đấu cơ có khả năng tác chiến cao (8). Kỹ thuật tàng h́nh cũng chẳng bí mật nốt. Yếu tố giúp máy bay “tàng h́nh” – tức không bị radar phát hiện – là (kỹ thuật thiết kế) h́nh dáng (giúp triệt tiêu sóng radar). Trong khi đó, như nhà báo chuyên đề tài hàng không quân sự Bill Sweetman (biên tập chuyên san Defense Technology International) cho biết, bất cứ ai cũng có thể biết được “công nghệ” trên bằng cách vào bất kỳ cửa hàng đồ chơi nào của hăng Testors (Mỹ) để mua mô h́nh máy bay quân sự tàng h́nh được thiết kế (với tỉ lệ thu nhỏ) giống thật 100%! (9).

Một trong những lư do khiến có ít nền công nghiệp quốc pḥng đầu tư cho máy bay tàng h́nh là chi phí. Việc chế tạo máy bay tàng h́nh tốn kém đến mức Nga không thể đầu tư sản xuất thế hệ T-50 mới nhất nếu không có sự hùn vốn từ Ấn Độ. Chính yếu tố chi phí nên, năm 2009, Lầu năm góc đă rút lại chương tŕnh sản xuất thế hệ F-22 chỉ c̣n 187 chiếc sau khi chi hơn 64 tỉ USD trong 20 năm (chương tŕnh nghiên cứu-sản xuất máy bay tàng h́nh B-2 đă ngốn ngân sách không quân Mỹ đến gần 45 tỉ USD). Ngoài chi phí cao, vấn đề quan trọng nhất ở đây là động cơ. Đó là thứ mà đến nay Trung Quốc vẫn chưa tự làm được! Gần như tất cả chiến đấu cơ mà Trung Quốc “chế tạo” đều phải lắp động cơ AL-31F của Nga, cho dù họ từng nhiều lần cố mày ṃ nghiên cứu sao chép (10). Gần đây nhất, cuối năm 2010, Trung Quốc tiếp tục đặt mua động cơ từ hai nhà máy Salyut và Chernyshev (Nga) để lắp cho loại máy bay chiến đấu mới “chế tạo” J-11B (phiên bản lai từ chiếc Su-27 của Nga); ḍng J-10 (được tin là có sự giúp đỡ của Israel); và FC1 – mô phỏng theo một thiết kế bỏ dở của Nga (11). Không chỉ chiến đấu cơ, oanh tạc cơ H-6 của họ cũng phải sử dụng động cơ D-30KP của Nga…

Richard Aboulafia, nhà phân tích quân sự thuộc tập đoàn US Teal Group, nói với tờ Defense Tech rằng, một chiến đấu cơ hiện đại cần ít nhất 11 hệ thống hỗ trợ để có thể hoạt động hiệu quả trong đó có việc hoạch định sứ mạng kỹ lưỡng, phi công giỏi, đội ngũ kỹ sư bảo tŕ tốt, vũ khí tinh vi, hệ thống radar hoàn hảo, các hệ thống điện tử khác… Trong tất cả hệ thống cần có nói trên, Trung Quốc chỉ mới làm được duy nhất một – theo Aboulafia – đó là chế tạo phần thân cho máy bay. Thiếu động cơ, máy bay (hoặc bất kỳ hệ thống nào khác) chỉ như một cái xác rỗng vô tích sự! Nói như John Pike, nhà phân tích của trang web nổi tiếng Globalsecurity.com, kỹ thuật quân sự Trung Quốc – dù được ráo riết hiện đại hóa – vẫn c̣n thua Mỹ “khoảng hai thập niên” (12). Những ǵ giới kỹ sư quân sự Trung Quốc đạt được vài năm gần đây thật sự là một chuyển biến đột phá, một quá tŕnh dày công, so với chính bản thân họ, nhưng hoàn toàn không thể so với bước tiến kinh khủng của công nghiệp quốc pḥng thế giới nói chung, bởi những ǵ Trung Quốc chế tạo được trong khả năng giới hạn của họ đă được “người ta” làm ra từ lâu (nếu không nhờ thừa hưởng “di sản” từ các cuộc hợp tác trong quá khứ với Liên Xô, công nghiệp không gian Trung Quốc chắc c̣n lâu mới có được những chiếc Thần Châu!). Thời điểm hiện tại, Trung Quốc là nước duy nhất trong các thành viên thường trực Hội đồng bảo an là không có hàng không mẫu hạm (trong khi các nước nhỏ hơn như Thái Lan, Ấn Độ, Brazil đều có!). Cần nhắc lại, trước khi bước vào Thế chiến thứ hai, Hải quân Hoàng gia Nhật đă sở hữu một hạm đội “khủng” với 10 hàng không mẫu hạm (so với 7 của Mỹ và 8 của Anh). Điều đó cho thấy kỹ thuật hàng hải nói riêng và kỹ thuật quân sự nói chung của Nhật, nước từng đóng được hàng không mẫu hạm từ Thế chiến thứ nhất, đă phát triển cỡ nào!

Lấy thêm ví dụ máy bay không người lái (UAV). Dù trong cuộc triển lăm Chu Hải (xin xem kỳ 1), Trung Quốc đă làm “ngạc nhiên” và “bất ngờ” với hơn 25 mẫu UAV quân sự nhưng có thể những chiếc UAV trên chẳng là ǵ so với thế hệ UAV mới nhất của Mỹ mà điển h́nh là RQ-4B Global Hawk do hăng Northrop Grumman sản xuất. So với RQ-4B, UAV Predator cũng chỉ đáng mặt là con “cào cào”, bởi RQ-4B to gần bằng máy bay dân dụng – dài 13,45m; sải cánh 35,41m; cao 4,62m; nặng 3,8 tấn. Điều khiển hoàn toàn từ xa, RQ-4B là thế hệ UAV mạnh nhất hiện nay, được sử dụng chuyên do thám, có thể “khảo sát” 100km2 địa h́nh/ngày (ngày lẫn đêm) với hệ thống ḍ tín hiệu cực nhạy và hệ thống viễn thông vệ tinh truyền dữ liệu cho trạm chỉ huy mặt đất cũng như chiến đấu cơ. RQ-4B có thể quan sát mọi động tĩnh của tàu chiến và tàu ngầm đối phương…

Lầu năm góc hiện có 3.000 UAV với đủ kích cỡ, từ loại nhỏ như chiếc Raven (AeroVironment) chỉ to bằng máy bay mô h́nh đồ chơi lắp ráp đến Predator (đă được nâng cấp nh́n “xuyên tường”) và Reaper (đều của General Atomics) dài từ 8-11m. Ngoài ra c̣n có RQ-170 (Lockheed Martin) với khả năng “tàng h́nh” và được trang bị thiết bị có thể “phóng” virus để phá hủy và làm tê liệt bộ năo điều khiển của hệ thống điện tử đối phương. Ngoài các loại UAV thông thường, các hăng vũ khí Mỹ cũng đă tung ra (và đang được sử dụng) thế hệ UAV lên thẳng (trực thăng không người lái), chẳng hạn RQ-8A Fire Scout (Northrop Grumman-Ryan Aeronautical), A160 Hummingbird (Boeing)… Đang được nghiên cứu c̣n là chiếc Phantom Eye (Boeing) với phiên bản to hơn, bay cao hơn và thậm chí mạnh hơn RQ-4B, được thiết kế để làm chiến đấu cơ và oanh tạc cơ không người lái (ngày 5-10-2010, Boeing đă cho tŕnh diễn mẫu chiến đấu cơ-do thám không người lái Phantom Ray). Lầu năm góc cũng sở hữu hàng trăm vệ tinh quân sự trong khi quân đội Trung Quốc chỉ mới hơn 10 chiếc (nguồn 12). Chỉ một góc nhỏ của bức tranh, đă có thể thấy mức độ “tương quan lực lượng” như thế nào, mà cũng chỉ mới đề cập lĩnh vực nghiên cứu chứ chưa nói đến ứng dụng thực tế (chiến trường). Không chỉ đối với Mỹ, nhiều lĩnh vực công nghiệp vũ khí Trung Quốc vẫn lạc hậu so với các nước khác, chẳng hạn Ấn Độ, Pakistan, Israel hay Thụy Điển – nơi xuất khẩu số vũ khí trị giá 13,5 tỉ kronor (1,9 tỉ USD) năm 2009, đến các khách hàng Úc, Nam Phi, Hàn Quốc, Singapore, Pakistan, thậm chí Anh và cả Mỹ (14).

“Lớn lên” bằng sức mạnh người khác

Trong gần hai thập niên, khách hàng Trung Quốc chiếm từ ¼ đến ½ doanh số vũ khí Nga, với các thương vụ nhiều hơn tất cả nước khác cộng lại. Thập niên 1990, giá trị số thương vụ vũ khí Trung Quốc mua từ Nga đạt khoảng 1 tỉ USD/năm; và tăng hơn 2 tỉ USD vào giữa thập niên đầu thế kỷ 21 (13). Cũng theo nguồn này, Viện nghiên cứu ḥa b́nh quốc tế Stockholm cho biết, Trung Quốc nhập vũ khí qui ước nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào từ 2005-2009. Theo báo cáo của Bộ quốc pḥng Hoa Kỳ năm 2010 (ANNUAL REPORT TO CONGRESS, trang 33-36-45-46-48), Trung Quốc hiện sử dụng hệ thống pḥng thủ tên lửa đất đối không SA-10, SA-20 PMU1/PMU2 cũng như dùng các chiến đấu cơ thế hệ thứ tư Su-27, Su-30, Su-30MK2… của Nga. Quân đội Trung Quốc cũng sử dụng hệ thống định vị toàn cầu GPS của Mỹ, GLONASS của Nga; bởi hệ thống Bắc Đẩu (Beidou-1 và Beidou-2) của họ hoạt động kém. Tổng quát, trong hầu hết lĩnh vực then chốt của công nghiệp quốc pḥng, Trung Quốc đều phải dựa vào kỹ thuật nước ngoài, từ hệ thống điều khiển, động cơ turbine đến các thiết bị chính xác cao. Từ năm 2003 đến nay, Trung Quốc liên tục vận động hành lang Liên minh châu Âu để EU xóa lệnh cấm các nước thành viên bán vũ khí cho Trung Quốc, được áp dụng kể từ sự kiện Thiên An Môn 1989.

Và trong khi chờ EU mở cửa cho xuất khẩu vũ khí sang Trung Quốc, quân đội nước này vẫn tiếp tục dựa chủ yếu vào nhà cung cấp truyền thống là Nga. Tuy nhiên, sự nóng vội trong “thể hiện bản thân” của Trung Quốc đă khiến Nga bắt đầu dè chừng. Anatoly Isaikin – tổng giám đốc Rosoboronexport – dự báo doanh số vũ khí Nga bán cho Trung Quốc trong vài năm tới chỉ chiếm khoảng 10%. Sự lo ngại khả năng Trung Quốc chôm chỉa kỹ thuật đă khiến Chính phủ Moscow xét lại việc bán tiêm kích cơ hiện đại Su-33 có thể được dùng cho hàng không mẫu hạm tương lai của Trung Quốc (mối nghi ngờ xuất phát từ việc Trung Quốc chỉ đặt mua vỏn vẹn hai chiếc Su-33 “để bay thử”). Cần nhắc lại, quan hệ thương mại quân sự Nga-Trung từng có lúc căng thẳng, bắt đầu từ năm 2004 với hai sự kiện. Thứ nhất, đó là vụ Trung Quốc sao chép kỹ thuật chiến đấu cơ Su-27 trong khi họ chỉ được phép nhận lắp ráp theo hợp đồng gia công cho Nga. Thứ hai, đó là vụ Nga chơi trả đ̣n bằng việc kư hợp đồng giao cho Trung Quốc một “lô” vận tải cơ quân sự IL-76 nhưng cuối cùng không hề sản xuất! Vụ việc khiến Trung Quốc nổi giận. Sau khi nhận 105 trong 200 chiếc Su-27 trong thương vụ đă kư, Trung Quốc hủy hợp đồng và ngừng các cuộc đàm phán thương vụ vũ khí trong vài năm. Tuy nhiên, sau loại thất bại việc nghiên cứu-chế tạo động cơ cho chiến đấu cơ, Trung Quốc lại làm ḥa với Moscow, cốt để mua hệ thống pḥng thủ S-300 và đặc biệt là động cơ cho máy bay chiến đấu. Cần biết, động cơ mà Trung Quốc chế tạo cho chiếc Su-27 chỉ “chạy tốt” được 30 tiếng (!) trong khi động cơ Nga hoạt động đến 400 tiếng mới cần được bảo tŕ. Khi các cuộc đàm phán được nối lại năm 2008, Nga – lần này – bắt đầu chơi rắn. Họ không c̣n (dám) “nhờ” Trung Quốc lắp ráp (theo kiểu gia công sản phẩm) chiến đấu cơ nữa. Tháng 11-2010, Nga nói họ chỉ có thể cung cấp chiến đấu cơ Su-35 cho chương tŕnh hàng không mẫu hạm Trung Quốc nếu “anh bạn” này chịu mua 48 chiếc – số lượng đủ để Nga “hoàn vốn và có tí lăi” trước khi bị kỹ sư Trung Quốc chôm chỉa kỹ thuật! Nga c̣n nói, Trung Quốc phải ráng “kiên nhẫn” chờ thêm “ít lâu” để quân đội Nga nhận trước dàn tên lửa pḥng thủ S-400 rồi mới đến lượt họ “được” mua (nguồn 11)!

Sự lệ thuộc nước ngoài thật ra đă phản ánh đúng thực lực và tŕnh độ kỹ thuật trong công nghiệp nói chung của Trung Quốc, nơi mà bây giờ vẫn c̣n kém xa Nhật về công nghiệp điện tử dân dụng; nơi nổi tiếng thế giới với những vụ đánh cắp bản quyền cũng như gián điệp kinh tế (và cả quốc pḥng – tất nhiên!).
Hanna_is_offline  
 
Page generated in 0.05932 seconds with 9 queries