View Single Post
Old 03-28-2011   #2
vuitoichat
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
Join Date: Jan 2008
Posts: 146,764
Thanks: 11
Thanked 13,823 Times in 11,052 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 182
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
Default

Do đó, “người Tàu” ngày nay (“Chinese”) về mặt dân tộc học, cái tổng thể của “dân tộc Tàu” bắt đầu thành h́nh lớn mạnh và nhanh hơn sau khi nước Tần (“Chin”) tóm thâu lục quốc (Sở, Yên, Tề, Nguỵ, Hàn, Tấn), và khái niệm “người Hán”, áp dụng chung cho tất cả người dân sống trong lănh địa Trung hoa “liên bang” thống nhất kể từ đó nhưng đó là sợi chỉ nốikết xuyên suốt từ thời Viêm Đế cho đến bây giờ, chỉ thực sự xuất hiện sau khi Lưu Bang (Hán Cao tổ) tiêu diệt nhà Tần lập nên nhà Hán. Trước năm 199 TCN, nước Tần (nước Tàu) chỉ là một nước nhỏ (“bang”) nằm trên vùng Tây Bắc thuộc Tỉnh Thiểm Tây (về sau nới rộng thành vùng Tam Tần (“Ba Tàu”) trong đó bao gồm nước Thục (Tứ xuyên ngày nay), nói chung là vùng Quan Trung (Guanzhong) của Trung Quốc bây giờ. Sau khi thống nhất nước Tàu, Tần Thỉ-Hoàng (221-208 TCN) đă huy động hơn 500 ngàn binh (con số to lớn nầy rơ ràng là một tâp hợp hùng binh của những nước đă bị nhà Tần thu tóm -- và trong đó thực sự đăcó sự hoà lẫn các sắc dân bản xứ của dân tộc Bách Việt rồi (như thí dụ về sự việc nướcSở tóm thâu nước Thương ngô, hay là thành phần dân nước Việt của Câu Tiễn và nước Ngô của thời Xuân thu Chiếnquốc) tiến xuống xâmlấn vùng đất được cổ thư Tàu mệnh danh là Nam Việt. Dĩ nhiên là thời đó vùng nầy chưa bị sát nhập “liên bang” Trung hoa mặcdù từ thế kỷ thứ ba TCN, Triệu Đà đă thống lĩnh vùng đất nầy trong đó bao gồm Giao Chỉ, Quảng Tây, Quảng Đông, và Phúc Kiến...

Sau khi nhà Hán diệt nhà Tần ở phương Bắc, nhân sự hỗn loạn ở vùng Trung nguyên, Triệu Đà lên làm vua (Triệu Vũ Vương) và đặt tên nước là Nam Việt, thủ phủ đặt tại Phiên ngung (nay là tên của một khu quận ở Thành phố Quảng châu hiện đại -- mộ của ông ta vẫn c̣n ở đó). Thành phần dân số lúc bấy giờ đa số vẫn c̣n là dân của các sắctộc thuộc tộc Bách Việt, ngay cả cho đến khi Hán Vũ đế đem quân thôn tính và sát nhập nước nầy vào lănh thổ Trung hoa năm 112 TCN. Giao Chỉ về sau trở thành một châu của nhà Hán và được đặt tên là Giao Châu. Dưới sựcai trị khắc nghiệt của nhà Hán, thổ dân bản xứ -- gốc Lạc Việt và rất có thể có mối quan hệ trên một chừng mực nào đó với một sắc tộc là tổ tiên của người Mon-Khmer ngày nay (căn cứ vào những vết tích từ vựng căn bản dù rất ít c̣n hiện diện trong tiếng Việt), là người Việt cổ đại trước khi có sự tách ra thành người Mường và người Việt -- dưới sự lănh đạo của hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị, họ đă nổi dậy chống lại quân thống trị nhà Hán nhưng thất bại. Nhiều người đă bỏ chạy lên miền Thượng du mà ta vẫn c̣n gọi chung là “người Thượng”, người ở lại miền đồng bằng chịu sự đồng hoá của người Hán – Hán hoá – và trở thành “người Kinh”, hay là người dân ở vùng kinh thành.


Lăng Mạc Cử (Hà Tiên)
Nguồn: vietbao.vn

Để củng cố sự thống trị của họ, nhà Hán thiết lập An nam Đô hộ phủ và bắt đầu tiến tŕnh khai hoá và đồng hoá dân bản xứ – người An nam thành h́nh (thuật ngữ An nam và dân An nam được dùng để phân biệt với dân Lạc Việt trước khi bị đồng hoá). Trong khi Sĩ Nhiếp mang văn hoá Trung hoa đến “Hán hoá” dân bản xứ, những người lính viễn chinh thuộc đủ mọi sắc tộc của nhà Hán cộng với những làn sóng người di cư đă đến đây và nhiều người đă không quay về lại nơi chôn nhau cắt rún xa lắc xa lơ ở phương Bắc, và họ đă nhận “An nam” làm quê hương, lấy vợ đẻ con, góp phần thúc đẩy tiến tŕnh “Hán hoá”, và ngược lại họ cũng đă bị “An nam hoá” bởi đám đông đa số “người Kinh”.

So sánh thêm sự kiện lính Mỹ đến miền Nam Việt Nam chỉ trong ṿng 10 năm 1965-1975 và họ đă để lại hơn 50 ngàn đứa con lai “Việt hoá”. Nếu mà cha của chúng có chọn ở lại Việt Nam, đám con lai vẫn nói tiếng Việt như người bản xứ cho dù chúng có mang họ Mỹ nào đó, giống như “dân Tây” sau 1954. Và quá tŕnh này đă tiếp diễn qua nhiều triều đại suốt 1000 năm dưới ách thống trị của người Hán, ngay cả sau khi nước Việt đă giành được độclập từ năm 936 (vào thời bên Trung hoa nhà Đường đang suy sụp), kinh qua sự sùng bái Nho giáo, chế độ phong kiến được xem là ưu việt thuở xưa, và sự thần phục nước Tàu cho măi đến năm 1884 khi nhà Nguyễn kư kết Hiệp định Huế với Pháp cụ thể phủ nhận sự thần phục triều đ́nh nhà Thanh!

Do đó, sự h́nh thành của người Việt thực chất là từ sự hoà chủng của người dân bản xứ (“50 con xuống biển”) với dân bản địa và dân tứ xứ từ khắp nơi ở phía bắc, bao gồm cả thành phần quân nhà Hán thời bấy giờ cũng đă có sự hoà chủng rồi, và phía nam (Môn, Khmer..) tới. V́ vậy, khi bàn đến khái niệm “người Việt”, ta phải hiểu là người Việt của thời điểm thế kỷ 21 (nói tiếng Việt với ngữ tố đồng nguyên với tiếng hán) không phải là người Việt của thế kỷ thứ nhất hay của thời Hùng vương (có thể dân thời đó nói một thứ “tiếngLạc Việt” cổ thuộc gốc Môn (?) và giỏi về kỹ thuật luyện đồng thau, và ta cũng nên tự hỏi thêm tại sao cha ông tổ tiên chúng ta đến ngày nay lại quên mất cách đúc trống đồng?)

(C̣n tiếp)
Theo DCVOnline
vuitoichat is_online_now  
 
Page generated in 0.04272 seconds with 9 queries