View Single Post
Old 06-28-2011   #2
vuitoichat
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
Join Date: Jan 2008
Posts: 147,224
Thanks: 11
Thanked 13,946 Times in 11,130 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 183
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
Default

NHỮNG CÁCH NH̀N ĐUA TRANH

Cộng đồng quốc tế, dẫn đầu là Mĩ, đang theo đuổi một tầm nh́n về tương lai của Đông Nam Á và cách giải quyêt các tranh chấp ở Biển Đông đấu lại với quan điểm về thế giới của Trung Quốc. Cách nh́n thế giới của các nhà nước quốc gia (nation states) là cách nh́n theo mô h́nh Westphalian về các đất nước độc lập với các vùng lănh thổ có chủ quyền. Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Công ước LHQ về Luật Biển là những biểu hiện của mô h́nh đó. Trái lại, cách nh́n của Trung Quốc, là một trật tự thế giới theo kiểu Trung Quốc, một bộ mặt mới cho hệ thống thiên triều – chư hầu của nước Trung Quốc khi xưa, trong đó Trung Quốc là trung tâm quyền lực và Bắc Kinh là cực chính trị toàn cầu.

Các quốc gia Đông Nam Á đă áp dụng mô h́nh Westphalian như của chính họ và thành lập ASEAN như một cách bảo vệ minh bạch chủ quyền và độc lập của các nước thành viên. Tuy nhiên, hệ thống đế quốc-chư hầu là một phần quen thuộc của lịch sử Đông Nam Á và với giá là sự độc lập mà họ chấp nhận được, đặc biệt như là phương cách thay cho sự đối đầu với sức mạnh quân sự của Trung Quốc.

Trật tự thế giới theo kiểu Trung Quốc. Cơ chế của hệ thống chư hầu thường được miêu tả tương đối lành tính. Các nước dâng cống nạp, các vị vua hoặc đại sứ của họ thực hiện một buổi lễ khấu đầu hoàng đế Trung Quốc thừa nhận chủ quyền của ḿnh, và đổi lại họ được ban cho quà tặng đắt tiền và được cấp những nhân nhượng thương mại hấp dẫn. Theo các nhà sử học tán thành cách nh́n này về các hệ thống chư hầu, các hoàng đế Trung Quốc hiếm khi can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia và không hám tới lănh thổ.

Thực tế là các hoàng đế Trung Quốc đă xem vương quốc chư hầu của họ theo cùng một cách mà các vị vua ở châu Âu xem thuộc địa của họ: Hoàng đế không ngần ngại sử dụng vũ lực quân sự để bảo vệ tài sản của ḿnh. Ví dụ, ở thế kỉ 15, một vị vua chư hầu trên đảo Java của Indonesia đă giết một số sứ thần do hoàng đế Trung Quốc đă được gửi tới để phong vương cho “vua” tự xưng ở thuộc địa của Trung Quốc tại Palembang, một thuộc địa đă thần phục Java trước đó. Để đáp trả hoàng đế đă phái một hạm đội hải quân lớn để chuyển một thông điệp rằng: “Phải lập tức dâng ngay 60.000 lượng vàng để chuộc lại tội phạm th́ mới có thể bảo toàn đất đai và dân chúng. Nếu không sẽ không thể ngăn quân đội thiên triều tới trừng phạt”.

Khi đảng Cộng sản Trung Quốc lật ngôi hoàng đế vào năm 1947 họ đă t́m cách lấy lại quyền kiểm soát tất cả các lĩnh vực cũ của đế chế. Học giả đáng kính về Trung Quốc John K. Fairbanks mô tả thế giới quan của Trung Quốc theo các đường tṛn đồng tâm với một “Khu Hoa” (Sinic) bên trong gồm các nước liền kề có văn hóa tương tự, “Khu nội Á” gồm các nước chư hầu ở ŕa lănh thổ Trung Quốc, và ” Khu ngoại vi ” gồm các nước rợ. Vương quốc Kashgar đă từng là một chư hầu trong vùng ngoại vi, trái với Hàn Quốc thuôc Khu Hoa bên trong. Ngày nay, Vương quốc Kashgar xưa là một phần của Trung Quốc đổi tên thành tỉnh Tân Cương. Mặc dù thuộc địa này từng hai lần tuyên bố độc lập với tên là Cộng ḥa Đông Turkistan (vào năm 1933 và 1944), Quân đội Nhân dân Giải phóng đă “giải phóng một cách ḥa b́nh” nhà nước độc lập này từ chính nó năm 1949.

Các hoàng đế Trung Quốc đă xem các vương quốc chư hầu của họ giống như các vị vua ở châu Âu xem thuộc địa của họ.

Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc thiếu sức mạnh để mở rộng ảnh hưởng của nó đến tất cả các cựu chư hầu của đế chế. Hàn Quốc thoát khỏi số phận của Kashgar v́ sự trổi dậy của Đế quốc Nhật Bản. Hàn Quốc đă trở thành một chiến trường giữa hai đế quốc Trung Quốc và Nhật Bản, và Hoàng đế Nhật Bản đă giành chiến thắng năm 1895. Mặc dù có những kỉ niệm đau đớn thời Nhật chiếm đóng, lớp bạc trang sức cho người Hàn Quốc ngày nay là do việc bị Nhật thuộc địa hoá và hậu quả chiến tranh thế giới II ngăn cản Trung Quốc thôn tính Hàn Quốc như nó đă làm với Đông Turkistan và Tây Tạng.

Ư kiến cho rằng Hàn Quốc có thể đă phải chia sẻ số phận của các cựu chư hầu của Trung Quốc không chỉ là suy đoán mà là ư kiến ​​đă được xem xét của Viện Hàn lâm Khoa học Xă hội Trung Quốc. Năm 2002, chính phủ Trung Quốc đă phát động một nỗ lực nghiên cứu gọi là Dự án Đông Bắc. Năm 2004 các nhà nghiên cứu dự án này ở Học viện Khoa học Xă hội Trung Quốc tuyên bố rằng vương quốc Hàn khi xưa là Koguryo không phải là một vương quốc độc lập, nhưng là một tỉnh của Trung Quốc.Cùng năm đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc loại bỏ tất cả các tài liệu tham khảo nêu Koguryo như là một thời ḱ lịch sử Hàn Quốc khỏi trang web của ḿnh. Chính phủ Trung Quốc đă chủ tŕ các nỗ lực nghiên cứu tương tự được gọi là Dự án Tây Bắc và Tây Nam tương ứng cho Tân Cương và Tây Tạng. Có lẽ chỉ là vấn đề thời gian trước khi Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc ra mắt dự án nghiên cứu mới về cựu chư hầu của Trung Quốc ở Đông Nam Á.

Đông Nam Á cũng nợ nền độc lập đương đại của ḿnh từ sự chiếm đóng của nước ngoài.Giữa thế kỉ 17 và 19, các cường quốc châu Âu mở rộng đế chế của họ tới các nhà nước chư hầu của Trung Quốc khắp vùng Nam Á và Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam và nhiều vương quốc khác cai trị trong các khu vực của Philippines và Indonesia hiện nay. Người Nhật và châu Âu tướt các nước này khỏi tay các hoàng đế Trung Quốc yếu kém theo những ǵ màTrung Quốc hiện đại nhạo báng là “hiệp ước bất b́nh đẳng”, và họ biến các thuộc địa của Trung Quốc thành các thuộc địa của châu Âu. Sau khi đế quốc Nhật bị hủy diệt trong chiến tranh thế giới II và các đế quốc châu Âu rút lui khỏi châu Á, di sản quan trọng nhất của việc chiếm đóng đó là khái niệm nhà nước độc lập và có chủ quyền c̣n sót lại. Trung Quốc đă quá yếu để tái khẳng định quyền kiểm soát các nước nước chư hầu cũ chống lại sự đối đầu của châu Âu và Mĩ, và các quốc gia mới đă được xây dựng trên các khuôn mẫu biên giới của các thuộc địa cũ được giải phóng, ít nhất là tạm thời, khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc.

Trung Quốc không quan tâm đến các hiệp ước và căn cứ của các đ̣i hỏi hiện nay về lănh thổ của là các mối quan hệ đế quốc – chư hầu trước thời thuộc địa.

Để theo đuổi tham vọng của Bắc Kinh, Trung Quốc không quan tâm đến các “điều ước bất b́nh đẳng” đàm phán với Nhật Bản và các cường quốc châu Âu và lấy căn cứ cho các đ̣i hỏi hiện tại về lănh thổ của ḿnh trên các mối quan hệ chư hầu tiền thuộc địa Ví dụ, từ năm 1992 và 2000 Trung Quốc và Việt Nam đàm phán biên giới trên biển thuộc Vịnh Bắc Bộ. Căn cứ cho đ̣i hỏi chủ quyền của Việt Nam trong Vịnh này là hiệp ước 1887 giữa Pháp và Trung Quốc thiết lập đường biên giới hiện đại của Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc không muốn công nhận tính hợp lệ của Hiệp định hoặc căn cứ lịch sử của Việt Nam. Cuối cùng th́ một hiệp ước cũng được thoả thuận, nhưng rơ ràng là quá không công bằng cho Việt Nam nên Hà Nội đă phải giữ các điều khoản bí mật trong nhiều năm. Cuối cùng một số điều khoản cũng bị ṛ rỉ ra ngoài, thổi bùng t́nh cảm dân tộc và đe dọa sự ổn định của chính phủ Việt Nam.

V́ mỗi quốc gia ở Đông Nam Á dẫn xuất các đường biên giới hiện nay của họ từ các hiệp ước và các hiệp định thời thuộc địa (kể cả Thái Lan, dù chưa bao giờ là một thuộc địa của châu Âu, nhưng đă kí hiệp ước biên giới với các đế quốc châu Âu), kinh nghiệm của Việt Nam sẽ được coi như là một cảnh báo cho bất ḱ nước ASEAN đang cố gắng đàm phán song phương với Trung Quốc. Tuy nhiên, không lâu sau khi Việt Nam kí kết hiệp ước biên giới, Tổng thống Gloria Macapagal Arroyo của Philippines kí một thỏa thuận thăm ḍ dầu mỏ với Trung Quốc năm 2004. Giống như Việt Nam, bà ta cũng đă cố giữ bí mật về các điều khoản nhưng không thành công. Phụ lục “A” bí mật trước đây đă cho thấy rằng các ranh giới mô tả bao gồm các diện tích rất lớn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Trong tổng số gần 150 000 km vuông bao gồm trong thỏa thuận, khoảng 24 000 km vuông nằm trong lănh hải trước đây chỉ do Philippines đ̣i hỏi chủ quyền. Khi các điều khoản của hiệp ước bí mật cuối cùng đă phô bày, t́nh cảm dân tộc một lần nữa bùng lên. Nhà xuất bản Amado Macasaet của tạp chí phổ biến và đáng kính Philippines tên Malaya , đă đi xa tới mức nói rằng Tổng thống Arroyo cần bị kết tội phản quốc v́ đă kí kết các hiệp định mà ông cáo buộc là được thực hiện để đổi lấy các khoản vay “có chủ ư cho hối lộ và tham nhũng.” Sau đó, ngay cả cựu Tổng thống Marcos cũng được ưa chuộng hơn Arroyo.

Đối với các thuộc địa cũ của Trung Quốc, có rất ít lí do để tin rằng chịu lép với Trung Quốc ở Biển Đông sẽ thoả măn sự thèm khát lănh thổ hoặc quyền bá chủ của họ.Trong trật tự thế giới theo Trung Quốc, Trung Quốc không phải là một nước trong một cộng đồng nhưng là đất nước văn minh lâu đời nhất trong số những nước thăng tiến. Chủ quyền của bất ḱ nước nào tột cùng cũng mắc nợ Trung Quốc và mức độ độc lập tuỳ thuộc vào sự đánh giá theo “lợi ích cốt lơi” của Bắc Kinh. Khi khẳng định “chủ quyền không thể chối căi” của ḿnh trên biển Đông, Bắc Kinh đang đặt xuống các cột mốc như muốn nói: “Chúng tôi có thể giải quyết vấn đề này theo cách dễ dàng, hoặc theo cách khó khăn, nhưng đó sẽ là cách của Trung Quốc.”

QUAN ĐIỂM TRONG KHỐI ĐÔNG NAM Á

Lối ngoại giao tích cực của Mĩ t́m cách kết lại với nhau thành một “liên minh cân bằng” chống lại Trung Quốc chỉ có thể khẳng định sự ngờ vực của Trung Quốc về một chiến lược của Mĩ để kiềm chế Trung Quốc, trong khi đó, đồng thời, các hành động của Mĩ sẽ làm xa lánh các chính phủ Đông Nam Á. Các thủ đô ASEAN quan tâm tới Trung Quốc hơn là Washington, nhưng họ cũng rất dễ bị áp lực kinh tế và quân sự của Bắc Kinh và do đó miễn cưỡng kích động trả thùTrung Quốc. Lí tưởng nhất, ASEAN có Hải quân Hoa Ḱ hoạt động có hiệu lực trên Biển Đông để duy tŕ ḥa b́nh, trong khi ASEAN sau đó phản bác ậm ờ bên lề và trấn an Trung Quốc rằng họ không có liên can ǵ hết. Tất nhiên, trí tuệ hơn ASEAN biết rằng họ phải làm tốt hơn như vậy. Thông hiểu quan điểm của các nước ASEAN là bước đầu tiên trong việc phát triển một chính sách cân bằng và thích hợp.

Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan thành lập ASEAN vào năm 1967 với mục tiêu đề ra là củng cố ḥa b́nh và ổn định, nhưng mục tiêu quan trọng nhất là để đạt được sự chấp nhận của mỗi thành viên theo kiểu nguyên tắc Westphalian như “tôn trọng độc lập, chủ quyền, b́nh đẳng, toàn vẹn lănh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia lẫn nhau.” Trong Chiến tranh lạnh, ASEAN tiếp tục phát triển như một công cụ ngoại giao làm rào cản cuộc đua tranh của các siêu cường vào trong khu vực. Sau khi Chiến tranh lạnh, ASEAN chiêu mộ thêm Brunei, Myanmar, Campuchia, Lào, và Việt Nam, và tập trung vào phát triển kinh tế. Trong thế kỉ 21, một lần nữa vấn đề an ninh lại giành quyền ưu tiên trên chương tŕnh nghị sự của ASEAN. Đầu tiên là khủng bố quốc tế và cướp biển đă lôi kéo sư hợp tác an ninh liên-ASEAN, và bây giờ sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày càng đứng đầu chương tŕnh nghị sự của cuộc thảo luận an ninh.

Viện dẫn mức gia tăng nhanh chóng gần đây trong chi tiêu quân sự ở Đông Nam Á, một số nhà phân tích dự đoán rằng các quốc gia này đă chuẩn bị cho cuộc đua tranh quân sự với Trung Quốc. Ví dụ, Viện nghiên cứu Ḥa b́nh Quốc tế Stockholm đă báo cáo rằng hàng vũ khí nhập khẩu cho Indonesia, Singapore và Malaysia tương ứng tăng 84 % , 146 % , và 722 % trong năm năm qua. Trong cùng một khung thời gian, ngân sách quốc pḥng của Thái Lan đă tăng gấp đôi. Một số nhà phân tích cho rằng sự gia tăng rất lớn trong chi tiêu quốc pḥng là một chỉ báo về sự quan ngại của Đông Nam Á trước mối đe dọa Trung Quốc. Thật không may, giống như nhiều hoạt động do chính phủ lănh đạo ở Đông Nam Á, có rất ít chất liệu hơn so với dữ liệu thô cho thấy.

Ở Malaysia, chẳng hạn,việc mua sắm tiêu tốn hàng tỉ USD (thường được trích dẫn) các tàu ngầm của Pháp và các hệ thống vũ khí đắt tiền khác có lẽ dính dáng nhiều tới việc tham nhũng quá độ hơn là kế hoạch quốc pḥng chiến lược. Trong thực tế, lịch sử của việc mua sắm vũ khí ở Malaysia có vẻ đè nặng với tham nhũng – một cách để trang sức lực lượng vũ trang của ḿnh với các vũ khí mật độ thấp đắc tiền làm hậu cần thêm phức tạp mà chẳng có thêm giá trị chiến đấu.

Philippines, dễ bị Trung Quốc tấn công, an ninh quốc gia hi sinh cho chính trị trong nước.

Tại Thái Lan, sự gia tăng quân đội chỉ bắt đầu sau cuộc đảo chính của quân đội Hoàng gia Thái Lan năm 2006, thiết lập một chính phủ lệ thuộc quân đội. Ngoài ra, mặc dù các vị tướng tán thành một chính sách quốc pḥng thân Mĩ theo các quan chức khách Mĩ (visiting US officials), việc mua sắm thiết bị của họ là từ một sự pha trộn không b́nh thường các công ti ngoài nước Mĩ. Theo quan điểm hậu cần một sự pha trộn thiết bị quân sự sẽ làm vịệc bảo quản khó khăn và tốn kém, mặt khác, sử dụng các hảng cung cấp vũ khí nhỏ hơn ngoài nước Mĩ có thể cho quan chức Thái truy cập dễ dàng hơn để được lại quả.

Tại Philippines, nước Đông Nam Á chỉ đứng thứ hai so với Việt Nam về mức độ dễ bị Trung Quốc tấn công, an ninh quốc gia bị hi sinh cho chính trị trong nước. Kể từ ngày 11 tháng 9 Hoa Ḱ đă tham gia vào một nỗ lực lâu dài để cải thiện khả năng của lực lượng vũ trang Philippines. Tổng số trợ giúp của Hoa Ḱ tăng gấp ba lần từ khoảng USD 38.triệu năm 2001 lên gần USD 120 triệu năm 2010. Ngoài ra, không kể trong những đô la trợ giúp này là hàng triệu chi cho một loạt các cuộc tập trận mạnh mẽ Mĩ-Philippines đang diễn ra được thiết kế để cải thiện khả năng của lực lượng vũ trang Philippines. Thật không may, bất chấp những nỗ lực chân thành của Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương của Mĩ, chỉ có những cải thiện nhỏ trong quân lực Philippines (PAF).

Việc thiếu sự cải thiện này liên quan đến ngân sách quốc pḥng suy giảm của Philippines. Khi sự trợ giúp của Mĩ tăng th́ Quốc hội Philippines cắt giảm ngân sách quốc pḥng bớt. Bên cạnh mối đe dọa Trung Quốc, Philippines cũng phải đối phó với nhiều cuộc nổi dậy bên trong, nhưng hầu hết các thiết bị của PAF đều thuộc thời chiến tranh Việt Nam và ngân sách quốc pḥng hiện nay chỉ vào khoảng 1 % GDP, hay khoảng USD 1,16 triệu trong năm 2009. Mặc dù, hoặc có lẽ v́ trợ giúp hào phóng của Mĩ, nhiều chính trị gia Philippines, trong đó có Tổng thống mới đắc cử Benigno Aquino III, cảm thấy rằng họ được quyền hưởng nhiều hơn. Lờ đi sự đồng loă của ḿnh trong cấp ngân sách thiếu thốn cho lực lượng an ninh Philippines, các chính trị gia này đang kêu gọi xem xét lại Hiệp định về Lực lượng khách (thỏa thuận cho phép sự hiện diện của quân đội Mĩ để giúp đào tạo PAF). Phản đối của họ là Mĩ không làm đúng mức để hiện đại hóa lực lượng vũ trang Philippines, và họ tưởng tượng Hiệp định về Lực lượng Tham quan như một công cụ để tận dụng to lớn hơn nữa trợ cấp quân sự Mĩ.

May mắn thay, bức tranh an ninh ở Đông Nam Á không phải tất cả là sự rẻ rung tài năng và sự lười biếng. Cả Việt Nam lẫn Indonesia đang thực hiện những việc mua sắm vũ khí đáng kể tập trung vào việc củng cố an ninh quốc gia của họ. Ngoài ra, sau nhiều thập kỉ đầu tư khôn ngoan, lực lượng vũ trang của Singapore đang ở đẳng cấp thế giới và đến nay là mạnh nhất trong ASEAN.

Tổng số lực lượng không quân và hải quân của ASEAN đang tăng tác động, nhưng họ không đủ để đánh bại quân đội hùng mạnh của Trung Quốc.

Trên giấy tờ, tổng số lực lượng hải quân và không quân của ASEAN đang tăng tác động, ASEAN đă nâng cấp một đội bay gồm 680 máy bay chiến đấu cánh cố định, 412 tàu chiến đấu, và 8 tàu ​​ngầm trong lực lượng hải quân kết hợp. Những con số này chưa đủ để đánh bại Quân đội nhân dân Giải phóng mạnh mẽ, với 2 300 máy bay chiến đấu, 65 tàu ngầm, và 256 tàu chiến đấu, nhưng họ đủ để hoạt động như một rào cản một khi có một ư hướng pḥng thủ chung. Thật không may, ASEAN không phải là NATO: không có quốc gia nào ở Đông Nam Á là bị hiệp ước ràng buộc để trợ giúp một nước khác trong trường hợp bị tấn công, và chỉ có một ít nỗ lực bản địa đơn lẻ để phối hợp các hoạt động quân sự.

Indonesia là quốc gia lớn nhất Đông Nam Á, chiếm 40 % dân số của khu vực, nó có nền kinh tế lớn nhất và một nền dân chủ đang phát triển. Quan điểm của Indonesia về hoạt động của Trung Quốc phản ánh tầm nh́n của Jakarta của chính nó như là một nhà lănh đạo chính thức của ASEAN. Phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington, DC, Bộ trưởng ngoại giao của Indonesia Marty Natalegawa nói: “Đối với các thành viên của ASEAN, cái đáng lo ngại hơn là khả năng rằng Biển Đông có thể là một nơi diễn chính của sự ḱnh địch có thể xảy ra.” Mục tiêu của Indonesia, và mở rộng ra cũng của cả ASEAN, là làm cân bằng Hoa Ḱ chống lại Trung Quốc để bảo vệ toàn vẹn lănh thổ và độc lập của họ.

Chính phủ Việt Nam nhận thức Trung Quốc không có ǵ khác hơn là một mối đe dọa sống c̣n, môt sự lo lắng được xác nhận bởi kinh nghiệm lịch sử. Lịch sử ghi chép của Việt Nam có cách đây 2 700 năm. Trung Quốc chiếm đóng đất nước trong hơn một ngàn năm trong những năm lịch sử đó và Hà Nội là đối tượng của một t́nh trạng triều cống nặng nề trong hầu hết các phần c̣n lại của lịch sử của nó. Mặc dù có nhiều cuộc chiến tranh lâu dài và khó khăn với Trung Quốc, Hà Nội chỉ được hưởng độc lập thực sự một số giai đoạn ngắn ngủi

Kinh nghiệm của Hà Nội vớiTrung Quốc hậu đế chế là sự coi thường thường xuyên của nước này đối với chủ quyền và độc lập của Việt Nam. Năm 1979, để trừng phạt Hà nội về những chính sách mà Bắc Kinh không ưa, Trung Quốc tấn công Việt Nam và chiếm đóng trong thời gian ngắn một số phần đất nước này. Ngoài ra, Hải quân nhân dân giải phóng (PLA) Trung Quốc trong nhiều dịp đă tấn công và đánh ch́m tàu ​​thuyền của hải quân Việt Nam hoạt động chỉ ngay ngoài bờ biển miền Nam Việt Nam và cách xa hàng trăm dặm từ bờ biển của Trung Quốc; binh lính của Trung Quốc đồn trú các đảo nhỏ và đảo san hô bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; tàu hải quân PLA thường xuyên sách nhiễu, bắt giữ ngư dân Việt Nam; và Bắc Kinh cản trở những nỗ lực của Hà Nội khai thác các nguồn tài nguyên khí đốt tự nhiên ngay bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, Hà Nội cẩn thận không dám chọc giậnTrung Quốc và tiếp tục t́m kiếm quan hệ tốt với Bắc Kinh.
vuitoichat_is_offline  
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.05089 seconds with 9 queries