Kinh nghiệm của Hà Nội với Trung Quốc sau đế chế là sự coi thường thường xuyên của nước này đối với nền độc lập của Việt Nam.
Mặc dù Singapore không là một phía trong tranh chấp lănh hải ở biển Đông, và 75 % dân số là người gốc Trung Quốc, quan điểm của Singapore về Trung Quốc trổi dậy chứng minh quy tắc của ASEAN là ngờ vực các ư đồ của Trung Quốc. Singapore là một đất nước đa sắc tộc, nhưng phần lớn dân số là con cháu của những di dân Trung Quốc, chủ yếu là những người lao động đưa tới trong thời gian cai trị của Anh. Do dân số nhập cư và thành công kinh tế, một số nước trong khu vực phẫn nộ Singapore và thường phát biểu sự nghi ngờ về ḷng trung thành của nước này. Mặc dù trong nhiều thập kỉ Singapore đă xây dựng những liên kết kinh tế mạnh mẽ với Trung Quốc, nhưng phải đợi cho đến năm 1990 nước này mới mở quan hệ chính thức với Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa – đó là nước cuối cùng trong ASEAN làm như vậy. Singapore tiếp tục các liên kết kinh tế mạnh mẽ đó, nhưng t́nh h́nh căng thẳng gần đây của Trung Quốc đă buộc Singapore tuyên bố chỗ đứng của ḿnh.
Để trấn an các nước láng giềng (và thông báo cho Trung Quốc) rằng Singapore không phải là một tỉnh của Trung Quốc, Thủ tướng Singapore Lí Hiển Long, vào dịp lễ kỉ niệm Quốc Khánh tháng 8 năm 2010, đă thực hiện một điểm mô tả độc đáo về bản sắc văn hoá độc đáo của Singapore, bao gồm cả việc thừa nhận tiếng Anh như ngôn ngữ quốc gia và ẩm thực đặc sắc của Singapore. Để nhấn mạnh thông điệp này, ngày 06 Tháng Chín năm 2010, xă luận của tờ Straits Times, tờ báo quốc gia của Singapore và phát ngôn của chính phủ, nhấn mạnh rằng người dân Singapore không phải người Trung Quốc ở nước ngoài, nói rằng, “từ ngữ ‘người Trung Quốc ở nước ngoài’ gây nhức nhối người dân Singapore thuộc tất cả các chủng tộc bởi v́ nó hàm ư rằng người Trung Quốc ở Singapore theo cách nào đó ‘ở nước ngoài’, ngăn cách với ‘đại lục’. Nó có lẽ cũng ngụ ư một mong muốn là sẽ ‘trở về ‘một ngày nào đó. Trong thực tế, hầu hết người Singapore ở đây không phải là ‘ở nước ngoài.’ Họ có gốc gác ở đây.” Trong xă luận khác mùa hè vừa qua tờ Straits Times thận trọng chấp nhận cách tiếp cận mới của Washington về Biển Đông và cảnh báo Bắc Kinh rằng “hành động của họ sẽ được theo dơi chặt chẽ về những ǵ họ nói về sự trổi đây hoà b́nh thành của cường quốc đang phát triển này. ‘
Mối quan tâm lớn nhất của Singapore về các chính sách mới của Mĩ không phải là sợ hăi việc khiêu khích Trung Quốc mà là tính hay thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mĩ, một quan điểm phản ánh vị thế cả ASEAN rộng lớn hơn. Theo quan điểm của ASEAN, mặc dù nhiều thập kỉ với các đ̣i hỏi mạnh mẽ của Trung Quốc cùng với các hành động phô trương quân sự, Mĩ vẫn “giữ kẽ ” về vụ tranh chấp; dường như không biết hoặc không quan tâm đến sự hám lợi của Bắc Kinh trong Biển Đông và các tác động đối với khu vực và toàn cầu. Ví dụ, khi Philippines, một đồng minh theo hiệp ước của Mĩ, phát hiện một cài đặt hải quân Trung Quốc trên Mischief Reef, Washington đă không chia sẻ sự phẫn nộ của Manila và đứng ngoài vụ tranh chấp, ngay cả khi Trung Quốc tiếp tục mở rộng và bàh trướng sự hiện diện của họ.
Nhưng các nước ASEAN là đi nước đôi về cả Mĩ lẫn Trung Quốc. Họ yêu cầu sự trợ giúp và sự hiện diện trước sau như một của Mĩ để cân bằng với Trung Quốc. Đồng thời, nhiều nước ASEAN cũng không muốn cho Mĩ truy cập quá nhiều v́ sợ ảnh hưởng đến chủ quyền của họ. Các nước ASEAN lo ngại sức mạnh quân sự và ư đồ chính trị của Trung Quốc , nhưng họ chào đón đầu tư của Trung Quốc và các cơ hội kinh doanh tại thị trường rộng lớn củaTrung Quốc.
Cuối cùng, các nước ASEAN c̣n xa để thống nhất trong quan điểm của họ về Trung Quốc như một mối đe dọa. Bốn trong số mười quốc gia của ASEAN là Myanmar, Campuchia, Lào và Thái Lan không phải là một bên trong tranh chấp lănh thổ ở biển Đông. Chính quyền quân sự Miến Điện, một chế độ ha đẳng quốc tế, xếp nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa là một trong số ít các chính phủ thân thiện với nước này và sẽ miễn cưỡng bảo vệ các đối tác ASEAN chống lại sự xâm lấn của ông chủ của Miến Điện. Thái Lan đang ngập sâu trong phân li về chính trị và khó có thể tham gia vào một sự pḥng vệ chung. Hơn nữa, tinh hoa của Thái Lan rất tự hào về chính sách ngoại giao linh hoạt kiểu “tre” của Thái Lan và thấy không có lí do để không uốn cong theo gió từ Trung Quốc. Hoàng gia ở cả Thái Lan và Campuchia ở trên những điều kiện thân thiện với chính phủ Trung Quốc. Cuối cùng, thủ tục quyết định sự đồng thuận của ASEAN có nghĩa là Bắc Kinh chỉ cần một lá phiếu bất đồng là tránh được sự chỉ trích của ASEAN.
TIẾN LIÊN….
Các quốc gia Đông Nam Á sử dụng ASEAN để tạo ra một hàng rào ngoại giao xung quanh khu vực. Tuy nhiên, như các sự kiện gần đây cho thấy, một Trung Quốc đang trổi dậy đang đẩy ngược ranh giới đó và ASEAN hiện đang mong muốn sự hiện diện của Hoa Ḱ tăng lên để cân bằng sự lấn át của Trung Quốc. Thực tế khắc nghiệt là ngay cả các hiệp ước an ninh có bọc thép và sự hiện diện của các tàu chiến Mĩ cũng không đủ để bảo vệ các nước Đông Nam Á nếu họ không sẵn sàng để tự vệ. Các nước ASEAN phải hành động một cách riêng lẻ lẫn tập thể để tạo ra rào cản có thực chất trước sự xâm lấn của Trung Quốc. Trích dẫn từ nhà thơ Robert Frost, “hàng rào tốt tạo hàng xóm tốt”, và ASEAN thiếu sức mạnh thể chế, sự cố kết và sự thống nhất về mục đích để xây dựng một hàng rào tốt.
Trung Quốc gây ra mối đe dọa quân sự đáng kể và hiện hành, nhưng sự trợ giúp của Mĩ bắt đầu với một sự tích tụ của quân đội ASEAN là tương tự như xây dựng một ngôi nhà bằng cách bắt đầu với mái nhà. Các ưu tiên hàng đầu phải để cho từng quốc gia riêng lẻ xây dựng một nền móng cho ngôi nhà đó bằng cách làm sạch hệ thống pháp luật của họ và giảm tham nhũng. Ngoại trừ Singapore, tất cả các nước trong ASEAN là bị ảnh hưởng với hệ thống pháp luật tham nhũng sâu sắc. Tham nhũng tư pháp là cực ḱ không được ḷng dân, ở Indonesia được biết đến là “mafia tư pháp”, và trợ giúp của Mĩ trong cuộc chiến chống nó sẽ được hoan nghênh. Mĩ có một số chương tŕnh, đặc biệt là Sở Tư pháp và An ninh Nội địa, có thể trợ giúp các nổ lực cải cách tư pháp bản địa và cần được ưu tiên hàng đầu cho việc trơ giúp cho khu vực.
Cải thiện đáng kể trong hệ thống pháp luật của ASEAN và tăng trưởng trong nền kinh tế của nó phải đến trước khi tăng sức mạnh quân sự.
Ưu tiên thứ hai cho việc xây dựng ngôi nhà ASEAN là các bức tường và các cột chống kinh tế sẽ chống đỡ lên tới các mái nhà. ASEAN đă có những tiến bộ trong việc nới lỏng hạn chế thương mại liên – ASEAN, nhưng khối này phải tiếp tục mở rộng những nỗ lực đó, và các nước này phải cải cách nền kinh tế nội bộ của họ để cho phép tăng trưởng kinh tế. Một lần nữa, Mĩ có nhiều bộ, ban và các cơ quan đó có thể và nên trợ giúp phát triển kinh tế ở Đông Nam Á. Đặc biệt, Đại diện Thương mại Mĩ có thể thương lượng một thỏa thuận tăng cường thương mại giữa Mĩ và ASEAN, có lẽ theo mô h́nh hiệp định thương mại Mĩ-Việt Nam, hiệp định này đă làm rất nhiều để trợ giúp các cải cách kinh tế của Việt Nam.
Ở Đông Nam Á, trong một thời gian Mĩ có thể cung cấp một lá chắn an ninh cho các nước ASEAN, nhưng sự quan tâm đó không phải trở thành một nghĩa vụ không đáy.Trợ cấp an ninh, như trợ cấp phúc lợi, thương mại, hoặc công nghiệp, có thể trở nên những quyền đươc hưởng tốn kém và cuối cùng có thể thúc đẩy hành vi đi ngược với ư định ban đầu của trợ cấp.
Nếu có sự cải thiện đáng kể trong hệ thống pháp luật và tăng trưởng trong nền kinh tế th́ sức mạnh quân sự gia tăng sẽ đi theo sau một cách tự nhiên. Giảm bớt gánh nặng trong việc mua sắm hệ thống vũ khí mà việc sử dụng thực tế của nó chỉ làm giàu các nhà chính trị hoặc là các tướng lănh sẽ làm tăng đáng kể khả năng quân sự mà không tốn kém thêm xu nào. Hơn nữa, cùng với các nến kinh tế quốc gia lớn hơn và mạnh mẽ hơn, quân đội khu vực sẽ đạt được nhiều nguồn lực hơn cho hiện đại hoá mà không làm tăng gánh nặng lên người nộp thuế. Lầu Năm Góc đă có các chương tŕnh trợ giúp mạnh mẽ về quân sự trong khu vực, và các quân đội quốc gia đă cải thiện có thể tận dụng sự trợ giúp này của Mĩ.
Về mặt ngoại giao, ASEAN nên bắt đầu thương lượng liên ASEAN về biên giới nội bộ. Bắt đầu tiến tŕnh này có thể buộc Trung Quốc đ̣i tham gia vào tiến tŕnh đa phương, cho phép ASEAN xây dựng các điều khoản cho các cuộc đàm phán. Thậm chí nếu Bắc Kinh không tham gia, một thỏa thuận biên giới ASEAN sẽ phức tạp đường lối ngoại giao của Trung Quốc và làm hỏng việc đe doạ song phương của họ.
Về mặt quân sự, ASEAN cần bắt đầu tiến tŕnh cải thiện khả năng quốc pḥng để tiến hành pḥng vệ quân sự chung. Xây dựng từ các bước nhỏ đă bắt đầu – chống khủng bố xuyên quốc gia, trấn áp cướp biển, và cung cấp cứu trợ thiên tai – quân đội ASEAN sẽ bắt đầu t́m kiếm cơ hội để cải thiện khả năng của ḿnh để thực hiện các hoạt động liên minh..Các mục tiêu đề ra của ASEAN về ngoại giao và chính trị là để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của các quốc gia thành viên. Xây dựng một rào chắn quân sự tập thể để bảo vệ những mục tiêu này chống lại mọi kẻ thù có thể có không phải là một hoạt động chống Trung Quốc.
Cuối cùng, không phải là mục đích của bài viết này lập luận rằng Bắc Kinh nhất thiết sẽ thực thi các đặc quyền khi xưa của họ, nhưng đúng hơn là tư tưởng “Hoa vi trung” là cơ sở lịch sử mà từ đó các nhà lănh đạo Trung Quốc sẽ nh́n thế giới. Bắc Kinh phải được thuyết phục để trở thành một thành phần kết dính vào mô h́nh Westphalian. Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Robert Zoellick thường phát biểu rằng Trung Quốc cần trở nên một “kẻ trong cuộc” nhiều hơn nữa trong hệ thống quốc tế và rằng mục tiêu đó cần phải duy tŕ là mục tiêu dài hạn của chính sách của Mĩ. Trong nửa sau của thế kỉ 20, Trung Quốc hưởng rất nhiều lợi ích từ sự bảo vệ vốn có của mô h́nh Westphalian về một nhà nước-quốc gia và hệ thống quốc tế rộng lớn hơn. Bây giờ Trung Quốc đă đủ lớn để ảnh hưởng đến trật tự thế giới, Trung Quốc không được phép thiết lập một cấu trúc tầng với Trung Quốc đ̣i hỏi quyền lớn hơn các nước khác.
Các nhà hoạch định chính sách ở Washington phải nhớ rằng Trung Quốc hiện đang không phải là mối đe dọa cho bất cứ nước nào. Mặc dù có tiềm năng đáng kể cho một cuộc đụng độ Mĩ-Trung Quốc, Đường lối ngoại giao tốt ở Washington và sự trưởng thành chính trị lớn mạnh ở Bắc Kinh có thể ngăn ngừa bất ḱ cuộc đối đầu như vậy. Cách tốt nhất để đạt được mục tiêu này là gán Trung Quốc vào các tổ chức dựa trên luật lệ và sau đó nhấn mạnh rằng Bắc Kinh phải tuân thủ những luật lệ này . Hiệp ước về biển quan trọng nhất toàn cầu là UNCLOS, nhưng Mĩ vẫn chưa phê chuẩn hiệp ước đó và do đó có ít sức mạnh để ảnh hưởng đến việc thực hiện hiệp ước hơn so với Trung Quốc. Cách duy nhất đối với Mĩ để có được một chỗ ngồi tại bàn UNCLOS là phê chuẩn UNCLOS và tham gia các uỷ ban khác nhau hướng dẫn thi hành hiệp ước này.
Lợi ích của Mĩ trong việc duy tŕ tự do hàng hải ở Biển Đông và các vùng biển tranh chấp khác cần được bảo vệ bằng ngoại giao hỗ trợ bởi sức mạnh quân sự. Mĩ không phải nao núng hay thỏa hiệp, bởi v́ bất ḱ nhượng bộ tạm thời nào cho những đ̣i hỏi không hợp lí rơ rệt của Trung Quốc sẽ không kiếm được ḷng biết ơn, mà thay vào đó sẽ trở thành một tiền lệ cho các đ̣i hỏi tương lai của Trung Quốc. Bằng ngoại giao và quân sự, Washington phải tiếp tục triển khai lực lượng đủ để ngăn cản tham vọng lănh thổ không biện minh được củaTrung Quốc.
Bản dịch tiếng Việt của Huỳnh Phan (Viet-studies)