View Single Post
Old 08-31-2011   #2
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default

Trong thực tế, vị thế của Trung Hoa ở đây trong nhiều phương diện tương tự như vị thế của Hoa Kỳ đối với biển Caribbean có kích thước tương tự trong thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20. Hoa Kỳ thừa nhận sự hiện diện và các tuyên xác của các cường quốc Âu Châu tại vùng biển Caribbean, tuy thế đă t́m cách khống chế vùng này. Chính cuộc Chiến Tranh Tây Ban Nha - Hoa Kỳ năm 1898 và việc đào Kênh Đào Panama từ năm 1904 đến 1914 đă tượng trưng cho sự xuất hiện của Hoa Kỳ như một quyền lực thế giới. Hơn nữa, sự khống chế Lưu Vực Caribbean rộng lớn hơn đă mang lại cho Hoa Kỳ sự kiểm soát hữu hiệu Tây Bán Cầu, điều kế đó cho phép nó ảnh hưởng đến cán cân quyền lực tại Đông Bán Cầu. Và ngày nay Trung Hoa tự nhận thấy ḿnh ở vào một t́nh trạng tương tự tại Biển Nam Hải, một tiền sảnh của Ấn Độ Dương, nơi mà Trung Hoa cũng mong muốn một sự hiện diện hải quân để bảo vệ các sự cung cấp năng lượng từ Trung Đông cho Trung Hoa.

Song một điều ǵ đó sâu xa hơn và nhiều xúc cảm hơn địa dư thúc đẩy Trung Hoa hướng vào Biển Nam Hải và vươn ra Thái B́nh Dương: điều đó là sự chia cắt một phần chính Trung Hoa bởi các cường quốc Tây Phương trong quá khứ tương đối gần đây, sau khi trong cả ngh́n năm là một đại cường và văn minh thế giới.

Trong thế kỷ thứ 19, khi triều đại nhà Thanh trở thành kẻ ốm yếu của Đông Á, Trung Hoa mất nhiều đất đai của nó cho Anh Quốc, Pháp, Nhật Bản, và Nga. Trong thế kỷ thứ 20 diễn ra các sự chiếm đoạt đẫm máu của Nhật Bản tại Bán Đảo Sơn Đông và Măn Châu. Điều này xảy ra trên đỉnh các sự sỉ nhục áp đặt trên Trung Hoa bởi các hiệp ước trị ngoại tài phán của thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20, theo đó các nước Tây Phương giật lấy sự kiểm soát các phần của các thành phố Trung Hoa – cái được gọi là “các hải cảng theo hiệp định” (treaty ports). Vào năm 1938, khi sử gia Đại Học Yale University, ông Jonathan D. Spence, cho chúng ta hay trong quyển The Search for Modern China, bởi v́ các sự cướp bóc này cũng như bởi Cuộc Nội Chiến Trung Hoa, có cả một nỗi lo sợ tiềm ẩn rằng “Trung Hoa đă sắp bị chia cắt, rằng nó sẽ thôi không c̣n hiện hữu như một quốc gia nữa, và rằng bốn ngh́n năm lịch sử được ghi chép của nó sẽ đi đến một hồi kết cuộc lung lay”. Sự thúc dục để bành trướng của Trung Hoa là một bản tuyên cáo rằng nó không bao giờ lại có ư định để người ngoại quốc lợi dụng nó một lần nữa. (a*)

Giống y như lănh thổ của Đức cấu thành tiền tuyến quân sự của Cuộc Chiến Tranh Lạnh, các hải phận của Biển Nam Hải có thể tạo thành tiền tuyến quân sự của các thập niên sắp tới. Bởi v́ hải quân Trung Hoa trở nên mạnh hơn và bởi v́ sự tuyên xác của Trung Hoa tại Biển Nam Hải đối nghịch với các tuyên xác của các quốc gia ven biển khác, các cuộc gia khác này sẽ bị bắt buộc phải phát triển hơn nữa các năng lực hải quân của họ. Họ cũng sẽ đối cân chống lại Trung Hoa bằng cách dựa nhiều hơn vào Hải Quân Hoa Kỳ, kẻ có sức mạnh có lẽ lên đến đỉnh cao một cách tương đối, ngay dù nó phải chuyển hướng các tài nguyên đáng kể sang Trung Đông. Thế đa cực toàn cầu sẵn là một đặc tính của ngoại giao và kinh tế, nhưng Biển Nam Hải có thể phơi bày cho chúng ta thấy điều ǵ mà một t́nh trạng đa cực theo ư nghĩa quân sự thực sự hiện h́nh như thế nào.

Không có ǵ lăng mạn về mặt trận mới này, không như t́nh trạng của các cuộc đấu tranh đạo lư. Trong các cuộc xung đột hải quân, trừ khi có việc pháo kích lên bờ, không có bản thân các nạn nhân [sic]; cũng không có một địch thủ tư tưởng để đối đầu. Không có ǵ trong khía cạnh diệt trừ chủng tộc có xác xuất sẽ xảy ra trong diễn trường trung tâm mới này của sự xung đột. Trung Hoa, cho dù có các kẻ bất đồng ư kiến chịu đau khổ, đơn giản chưa bị đánh giá như một đối tượng đáng cho sự thịnh nộ về đạo đức. Chế độ Trung Hoa chỉ biểu lộ một phiên bản toàn tài ở liều lượng thấp, với một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và ư thức hệ chi phối ít được nói đến. Hơn nữa, Trung Hoa nhiều phần trở nên cởi mở hơn là khép kín như là một xă hội trong những năm sắp tới. Thay v́ chủ nghĩa phát xít hay quân phiệt [sic], Trung Hoa, cùng với các quốc gia khác tại Đông Á, ngày càng được xác định bởi sự kiên quyết của chủ nghĩa dân tộc cổ điển: một tư tưởng, chắc chắn như thế, nhưng không phải là thứ mà từ giữa thế kỷ thứ 19 có tính cách hấp dẫn đối với giới trí thức. Và ngay dù Trung Hoa có trở nên dân chủ nhiều hơn, dân tộc chủ nghĩa của nó nhiều phần chỉ có tăng trưởng, như ngay một cuộc điều nghiên ngẫu nhiên quan điểm của các cư dân trên mạng tương đối tự đo của nó cho thấy rơ ràng.

Chúng ta thường nghĩ về dân chủ chủ nghĩa như một cảm tính phản động, một tàn tích của thế kỷ thứ 19. Song chính dân tộc chủ nghĩa cổ truyền lèo lái chính yếu chính trị tại Á Châu, và sẽ tiếp tục làm như thế. Dân tộc chủ nghĩa đó đang dẫn dắt một cách không biện giải đến một sự tăng cường quân sự trong vùng – đặc biệt hải quân và không quân – để pḥng vệ chủ quyền và đưa ra các sự tuyên xác về các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị tranh căi. Không có sự cám dỗ về triết lư tại đây. Tất cả đều là về sự lư luận lạnh lùng trên cán cân quyền lực. Một chủ nghĩa hiện thực vô cảm xúc ở mức độ đó, liên minh với dân tộc chủ nghĩa, có một đất đứng trong địa dư, đó là Biển Nam Hải.

Bất kỳ thảm kịch đạo lư nào xảy ra tại Đông Á chính v́ thế sẽ mang h́nh thức của chính trị quyền lực khắc nghiệt thuộc vào loại khiến cho các nhà trí thức và các kư giả bị tê cóng. Như Thucydides [sử gia Hy Lạp, vào khoảng 460 – 400 Trước Thiên Chúa, chú của người dịch] đă tóm tắt nó một cách đáng nhớ biết bao trong câu chuyện của ông về sự chinh phục của Athens [tức Nhă Điển, thủ đô Hy Lạp ngày nay, chú của người dịch] đối với đảo Melos (b*) “Kẻ mạnh làm những ǵ họ có thể làm được và người yếu gánh chịu những ǵ họ phải gánh chịu”, Trong câu chuyện tái diễn của thế kỷ thứ 21, với Trung Hoa trong vai tṛ của Athens như một cường lực hải quân cấp vùng trội bật, kẻ yếu sẽ vẫn bị khuất phục – nhưng sự thực là thế dó. Đây sẽ là chiến lược không được nói ra của Trung Hoa, và các nước nhỏ hơn của Đông Nam Á rất có thể kết đoàn với Hoa Kỳ để né tránh số phận người dân đảo Melos (in đậm để làm nổi bật bởi người dịch)]. Nhưng sẽ không có sự tàn sát.

Biển Nam Hải dự báo một h́nh thức khác biệt của sự xung đột với các h́nh thức khác mà chúng ta đă trở nên quen thuộc. Kể từ đầu thế kỷ thứ 20, chúng ta đă bị chấn thương một mặt bởi các sự giao chiến trên đất liền ồ ạt, theo quy ước, và mặt khác, các cuộc chiến tranh nhỏ, phi quy ước, bẩn thỉu. Bởi v́ cả hai loại chiến tranh đă gây ra các sự tổn thất thường dân lớn lao, chiến tranh đă là một đề tài cho các nhà nhân bản cũng như cho các tướng lĩnh. Nhưng trong tương lai, chúng ta có thể chỉ nh́n thấy một h́nh thức tinh khiết hơn của sự xung đột, giới hạn trong phạm vi hải quân. Đây là một kịch bản tích cực. Sự xung đột không thể bị loại bỏ ra khỏi thân phận con người nói chung. Một chủ đề trong quyển Discourses on Livy của Machiavelli cho rằng sự xung đột, khi được kiểm soát một cách thích hợp, nhiều phần dẫn tới sự tiến bộ của loài người hơn là sự ổn định cứng ngắc. Một biển cả đông đúc các tàu chiến không trái nghịch với một kỷ nguyên của triển vọng lớn lao cho Á Châu. Sự bất an thường nuôi dưỡng tính năng động.

Nhưng liệu sự xung đột tại Biển Nam Hải có thể được kiểm soát một cách thích hợp hay không? Lập luận của tôi đến giờ đặt giả thiết rằng cuộc chiến tranh lớn sẽ không bùng nổ trong khu vực và thay vào đó các nước sẽ bằng ḷng với việc mưu tính giành vị trí với các tàu chiến của họ trên biển cả, trong khi đưa ra các sự tuyên xác tranh giành các tài nguyên thiên nhiên và có thể ngay cả việc đồng ư về một sự phân chia công bằng các tài nguyên này. Nhưng nếu Trung Hoa, ngược lại với mọi chiều hướng đă được chứng minh, lại sẽ xâm lăng Đài Loan th́ sao? Những ǵ sẽ xảy ra nếu Trung Hoa và Việt Nam, kẻ mà sự ganh đua gắt gao trở lùi ngược măi xa trong lịch sử, đi đến chiến tranh như họ đă từng đụng độ trong năm 1979, với vũ khí chết người hơn lần này? Bởi không chỉ có Trung Hoa là đang xây dựng một cách mạnh mẽ quân đội của nó; các nước Đông Nam Á cũng làm như thế. Các ngân sách quốc pḥng của họ đă gia tăng vào khoảng một phần ba trong thập niên qua, ngay khi các ngân sách quốc pḥng Âu Châu đang sụt giảm. Số nhập cảng vũ khí của Nam Dương, Tân Gia Ba, và Mă Lai lần lượt đă gia tăng 84%, 146% và 722% kể từ năm 2000. Số chi tiêu nằm trong các lănh vực hải quân và không quân: các tàu chiến trên mặt biển, các tàu ngầm với các hệ thống hỏa tiễn tân tiến, và các phi cơ chiến đấu tầm xa. Việt Nam gần đây đă chi tiêu 2 tỷ có 6 chiếc tàu ngầm tối tân [sic] loại Kilo-class của Nga và 1 tỷ mỹ kim cho các chiến đấu cơ của Nga. Mă Lai vừa mở một căn cứ tàu ngầm trên đảo Borneo. Trong khi Hoa Kỳ bị rối trí bởi các cuộc chiến tranh trên đất liền tại vùng Trung Đông rộng lớn hơn, quyền lực quân sự đă bị chuyển hướng một cách lặng lẽ từ Âu Châu sang Á Châu.


[/IMG]
H́nh 4: Lính hải quân Việt Nam tuần tiễu trên đảo Phan Vinh [?], quần đảo Trường Sa,
vào ngày 13 Tháng Sáu, 2011, trong các cuộc thao diễn bắn đạn thật,
một hành động bị xem là khiêu khích bởi Bắc Kinh

photo: http://www.foreignpolicy.com/

Hoa Kỳ hiện nay đang bảo đảm cho nguyên trạng gay go tại Biển Nam Hải, giới hạn sự xâm lăng của Trung Hoa chính yếu vào bản đồ địa dư của nó và phục vụ như một kẻ kiểm tra các nhà ngoại giao và hải quân Trung Hoa (mặc dù điều này không có nói rằng Hoa Kỳ th́ thuần khiết trong các hành động của ḿnh và Trung Hoa nhất thiết là quân bất lương). Những ǵ mà Hoa Kỳ mang cho các nước thuộc vùng Biển Nam Hải là ít vấn đề về hiệu năng dân chủ của nó hơn so với sự kiện về sức mạnh sống sượng của nó. Chính sự cân bằng quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa sau hết đă giữ cho Việt Nam, Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Dương, Tân Gia Ba, và Mă Lai được tự do, có khả năng vận dụng một đại cường này để đối trọng với đại cường kia. Và trong khoảng không gian tự do đó, chủ nghĩa cấp vùng có thể xuất hiện như một sức mạnh tự tại của chính nó, dưới h́nh thức Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations: ASEAN). Song, tự do như thế không thể được xem là đương nhiên mà có. Bởi sự cân bằng căng thẳng, đang có giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa – dàn trải một sự bài trí phức tạp đủ mọi loại các vấn đề từ mậu dịch cho đến cải cách tiền tệ, đến sự an ninh của mạng lưới điện toán, đến sự canh chừng hoạt động t́nh báo – sau rốt đe dọa làm nghiêng cán cân thuận lợi cho Trung Hoa tại Đông Á, phần lớn là v́ do tính trung tâm địa dư của Trung Hoa đối với vùng này.
Hanna_is_offline  
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.05763 seconds with 9 queries