|
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: May 2007
Posts: 137,580
Thanks: 9
Thanked 6,554 Times in 5,500 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 38 Post(s)
Rep Power: 173
|
Các trường hợp kết án, trủ dập khác.
- Ủy Viên Bộ Chính Trị, Phó Chủ Tịch Quốc Hội Hoàng Văn Hoan (1905-1991), Thứ Trưởng
Bộ Quốc Pḥng
kiêm Chính Trị Viên Vệ Quốc Quân Toàn Quốc. Từ năm 1950 đến năm 1957, làm Đại Sứ đầu tiên của CSVN tại Trung Quốc kiêm Đại Sứ tại Triều Tiên và Mông Cổ.
Sau bị trù dập, nên năm 1979, nhân một chuyến đi sang Đông Đức chữa bệnh, ông đă bỏ trốn qua Trung Quốc, bị kết án tử h́nh khiếm diện về tội phản quốc, sau mất tại TQ, chôn tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, sau này một phần hài cốt được đem về nước. Là tác giả cuốn “Giọt Nước Trong Biển Cả” xuất bản năm 1988, tố giác chế độ độc đoán Lê Duẩn...
 - Đại Tướng Vơ Nguyên Giáp (1911-2011), Bộ Trưởng Quốc Pḥng, bị nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn cho là theo xét lại của Liên Xô và chống đảng, t́m cách hạ bệ qua vụ án “Xét Lại Chống Đảng” năm 1967, có tên chính thức là "Vụ án Tổ chức chống đảng, chống nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm t́nh báo cho nước ngoài.". Vơ Nguyễn Giáp bị bắt lỗi từ việc nhận 1 lá thư của TĐS Liên Xô mà không báo cáo theo nội quy đảng...
Năm 1980, Vơ Nguyễn Giáp bị thôi chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Pḥng. Năm 1983, bị hạ nhục khi cho làm Chủ Tịch
Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Sinh Đẻ Có Kế Hoạch
khi ủy ban này được thành lập, năm 1991, chính thức nghỉ hưu. Có lúc nhóm Lê Duẩn c̣n định quản chế Giáp ở một nơi biệt lập. Từ khoảng năm 1965, 67, hàng 50 năm sau cùng của đời ông, Giáp thường chỉ ra mặt mang tính h́nh thức, không có quyền hành ǵ (Vụ Tổng Công Kích Mậu Thân năm 1968 hay Chiến Dịch Hồ Chí Minh năm 1975 kể như không có Giáp, c̣n bị nhóm cực đoan giáo điều Lê Duẩn cho là hèn nhát). V́ vậy mới có thơ:
Ngày xưa Đại Tướng cầm quân,
Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em!
Đùng một cái Vơ Nguyễn Giáp theo Sắc Lệnh số 110/SL ngày 28/5/1948, được Hồ Chí Minh đưa lên làm “Đại Tướng”, đùng một cái mất hết! Cho thấy thực ra Giáp cũng chẳng có tài cán và thế lực ǵ đặc biệt. Phần lớn thành tích đều là tuyên truyền và chiến công đều bằng sự hy sinh xương máu của hàng trăm ngàn bộ đội và dân chúng.
Về “Chủ Nghĩa Xét Lại”:
 Vào tháng 9/1953, Nikita Khrushchev (1894-1971) được bầu làm Bí Thư Thứ Nhất Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô. Năm 1956, tại Đại Hội Lần Thứ 20 Đảng Cộng Sản Liên Xô, ông đă đọc báo cáo phê phán nặng nề sự tàn ác vô song và sự sùng bái cá nhân của I. V. Stalin (1879-1953). V́ thấy đối đầu với Tư Bản quá mạo hiểm và không dễ ǵ thắng, Khrushchev chủ trương thay v́ tận diệt Tư Bản th́ chung sống ḥa b́nh. Các đoàn đại biểu CS các nước khi đi dự th́ đều tàn thành, nhưng khi về nước rồi th́ một số ngả theo lời kêu gọi Mao Trạch Đông (1893-1976), Trung Quốc, chống lại và gọi đó là "Chủ Nghĩa Xét Lại". Thế giới CS chính thức chia đôi v́ ư thức hệ từ đó.
Đây là một biến cố rất lớn, ảnh hưởng tới đường lối của đảng CSVN v́ khi đó tại VN đang sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh và diễn ra Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất, giết người rất gay gắt. Nhờ vậy mà vụ giết người dần dần dừng lại, nhận sai lầm...
Nhưng sau khi Lưu Thiếu Kỳ qua VN th́ CSVN ngả hẳn theo TQ. Tại Hội Nghị Trung Ương lần thứ IX cuối năm 1963, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đă lên án "Chủ Nghĩa Xét Lại", đứng về phía Trung Quốc và ra Nghị Quyết 9 (trong bí mật) chủ trương đẩy mạnh công cuộc tiến chiếm miền Nam bằng vũ lực. Những bất đồng trong nội bộ đảng nổ ra năm 1963-64 và tiến tới đợt bắt giữ nhóm thân Liên Xô vào năm 1967.
Ung Văn Khiêm (1910-1991), khi đó là Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, bị mất chức v́ quy cho là trách nhiệm vụ thảo bản Tuyên Bố Chung năm 1963, với lập trường ủng hộ Liên Xô mà Hồ Chí Minh duyệt rồi kư với lănh tụ đảng CS Tiệp Khắc
Antonín Novotnư
...
Năm 1967, vụ đàn áp lên cao độ, hàng chục các bộ cấp Chính Trị Bộ, Trung Ương Đảng, Tướng Tá bị bắt không xét xử, hầu hết bị giam cầm đến năm 1973...
Năm 1954, Lê Duẩn lén ở lại trong Nam, năm 1957, Lê Duẩn từ Nam ra Bắc, năm 1960, năm vai tṛ TBT bên cạnh Chủ Tịch HCM. Duẩn là người đầy uy quyền, xưng tôi với HCM, bài viết đôi khi tỏ ư có cao kiến hơn cả HCM, là điều không thấy ở bất cứ nhân vật cao cấp CS nào khác, mọi người vẫn phải đến xin chỉ thị kể cả khi Duẩn nằm trên giường bệnh và đă tại vị đến chết, sau đó đảng CSVN mới định nhiệm kỳ.
Nhưng từ năm 1972 trở đi, TQ bắt tay với Hoa Kỳ, lạnh nhạt với CSVN nên CSVN quay ra thân mật với Liên Xô. Năm 1979, Lê Duẩn đoạn tuyệt với Trung Quốc, trục xuất khoảng 200.000 người Hoa và đi tới chiến tranh với TQ tại biên giới và trên biển.
- Đại Tướng Văn Tiến Dũng (1917-2002), Ủy Viên Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân, tư lệnh “Chiến Dịch Hồ Chí Minh” chiếm miền Nam năm 1975. Tác giả cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” ra vào tháng 5/1976. Từ tháng 12/1980 đến
1986
, ông giữ chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Thuộc phe Le Duẩn, Lê Đức Thọ.
Vợ là Nguyễn Thị Kỳ (tên thật là Cái Thị Tám), cũng là cán bộ CS. Sau năm 1975, khi nắm quyền tột đỉnh, hai vợ chồng ngang nhiên tham nhũng, dùng cả quân xa của đơn vị H12, H14 thuộc Tổng Cục Hậu Cần cướp tài sản quân đội... miền Nam chở ra Bắc và máy bay vận tải quân sự như Antonov An-24 hay An-26 buôn lậu hàng từ Bắc vào Nam bán cho người Hoa... Năm 1986, trong Đại Hội Đảng Bộ Toàn Quân, Dũng bị chỉ trích là tướng lănh mà đi buôn lậu gây tai tiếng chưa từng có cho quân đội nên không được bầu làm Đại Biểu Chính Thức đi dự Đại Hội Đảng VI (dù Lê Đức Thọ bênh vực Dũng, đ̣i bỏ phiếu lại nhưng vẫn không đủ túc số). Ngay sau đó, Dũng mất ghế trong Bộ Chính Trị và mất chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Từ năm đó cho tới khi chết, tuy được coi là một “tướng tài”, không được nắm giữ bất cứ chức vụ nào và hầu như không c̣n được nhắc nhở tới nữa.
- Thượng Tướng Trần Văn Trà (tên thật là Nguyễn Chấn, 1919-1996), Tư lệnh kiêm Chính ủy Khu Sài G̣n - Chợ Lớn; Tư lệnh Khu 7 (1949-1950); Phó Tư lệnh Nam Bộ, Tư lệnh Phân khu Miền Đông Nam Bộ (1951-1954). Năm 1955, ông tập kết ra Bắc, giữ chức Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân VN (1955-1962), Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Quân Huấn (1958)...
Từ năm 1963, Trần Văn Trà được cử vào Nam làm Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam (1963-1967 và 1973-1975), Phó Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam (1968-1972), Phó Bí Thư Quân Ủy Quân Giải Phóng Miền Nam. Sau Hiệp Định Paris (1973), làm Trưởng Đoàn Đại Biểu Quân Sự Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam tại Ban Liên Hiệp Đ́nh Chiến 4 bên ở Sài G̣n.
Sau 30/4/1975, Trần Văn Trà lảm Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài G̣n. Khi về hưu, tham gia Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ, nhưng sau được đảng phủ dụ nên tách ra. Viết hồi kư “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” (có ư chê trách trung ương thiếu hiểu biết t́nh h́nh thực tế) bị phê b́nh “qua mặt” trung ương, cấm xuất bản nên chí có ấn bản dở dang.
|