R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: May 2007
Posts: 135,200
Thanks: 9
Thanked 6,524 Times in 5,470 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 38 Post(s)
Rep Power: 171
|
Tham gia Hội nghị gồm phái đoàn của 51 nước. Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc không tham dự Hội nghị.
Nhận lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đă tham dự Hội nghị.
Ngày 7-9-1951, phát biểu tại Hội nghị, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Trần Văn Hữu nêu rơ: “Chúng tôi cũng sẽ tŕnh bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu Hội nghị ghi nhận (chứng nhận): Về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và cũng v́ cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đă có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
Lời xác nhận chủ quyền đó của phái đoàn Việt Nam- thành viên của khối Liên hiệp Pháp–không hề gây ra một phản ứng chống đối, hoặc 1 yêu sách nào của 51 quốc gia tham dự Hội nghị. Không có sự phản đối nào của các nước tham dự Hội nghị cũng chính là sự thừa nhận của các nước Đồng Minh về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Hiệp ước Ḥa b́nh với Nhật Bản được kư kết tại San Francisco ngày 8-9-1951 quy định Nhật Bản phải rút lui khỏi những nơi, mà nước này đă dùng vũ lực để chiếm đóng trong Thế chiến hai. Hiệp ước quy định: “Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền, danh nghĩa và đ̣i hỏi với quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands)”.
Trung Quốc không tham dự hội nghị San Francisco, không đưa ra tuyên bố phản đối nào. Tuy nhiên, ngày 15-8-1951, Ngoại trưởng Chu Ân Lai lên tiếng về bản dự thảo Hiệp ước Ḥa b́nh với Nhật Bản do Mỹ – Anh soạn thảo.
Đ̣i hỏi cho quyền lợi của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa trong Hội nghị San Francisco đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, được phái đoàn Liên Xô nêu lên trong phiên họp khoáng đại ngày 5-9-1951 của Hội nghị. Phát biểu trong phiên họp này, Andrei A. Gromyko – Ngoại trưởng Liên Xô – đă đưa ra đề nghị, trong đó có khoản tu chỉnh liên quan đến việc “Nhật nh́n nhận chủ quyền của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam”. Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, thông qua Liên Xô, lúc này chỉ viện dẫn được 1 lư lẽ cho đề nghị tu chỉnh là việc Trung Hoa Dân quốc thừa lệnh Đồng Minh tiếp quản 1 đảo ở Hoàng Sa và 1 đảo ở Trường Sa năm 1946, để làm luận cứ cho rằng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc. Đây là một lư lẽ không có chứng cớ pháp lư.
Với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận, Hội nghị đă bác bỏ yêu cầu này của phái đoàn Liên Xô.
Với việc bác bỏ đề nghị của Liên Xô, 51 nước tham dự Hội Nghị San Francisco đă chính thức công nhận rằng Trung Quốc không có chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa.
Hơn nữa, Điều 2 của Hiệp ước Ḥa b́nh với Nhật Bản đă tái lập sự toàn vẹn lănh thổ cho những quốc gia bị quân Nhật chiếm đóng trong Thế chiến hai. Do đó, việc Nhật Bản tuyên bố từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đ̣i hỏi đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, cũng có nghĩa là Nhật Bản trả lại chủ quyền của hai quần đảo mà nước này chiếm đóng trong giai đoạn 1939-1946 cho Việt Nam.
Chủ quyền đối với hai quần đảo này hiển nhiên thuộc về Việt Nam.
4. Chiếc lược độc chiếm Biển Đông.
4.1. Chu Ân Lai dụng kế “Vô trung sinh hữu”.
Tuy đă bị Hội nghị San Francisco bác bỏ yêu cầu chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc quyết không từ bỏ âm mưu chiếm 2 quần đảo này.
Lợi dụng việc những người cộng sản Việt Nam dành được chính quyền ở Miền Bắc Việt Nam và đang nhận viện trợ của Trung Quốc, Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Quốc thực hiện mưu kế “Vô trung sinh hữu”: từ trong “không” biến thành “có”.
4.1.1. Bức công hàm 4/9/1958.
Công hàm 4/9/1958 của họ Chu đă lồng chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trường Sa như sau: “Lănh hải của nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lư. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lănh thổ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các ḥn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những ḥn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những ǵ thuộc về những hải đảo của Trung Quốc.”
Sau Hội nghị San Francisco việc Trung Quốc nghiễm nhiên cho rằng có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa chỉ là tưởng tượng của riêng Trung Quốc, không có công nhận của thế giới. Chu Ân Lai cố t́nh bất chấp luật pháp quốc tế, dùng mưu mẹo để đoạt chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa. Thủ tướng Bắc Viêt Nam, Phạm Văn Đồng đă có công hàm trả lời ngày 14/9/1958: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Ḥa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”.
Bắc Việt Nam ghi nhận và tán thành “quyết định về hải phận của Trung Quốc” như thế nào? th́ câu sau giải thích rơ: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể”.
Đối với Trung Quốc, họ cố t́nh hiểu là Phạm Văn Đồng đă công nhận chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Thế là từ “không có” chút chủ quyền nào đối với Hoàng Sa, Trường Sa sau Hội nghị San Francisco, nay / sau ngày 14/9/1958 / Trung Quốc đă có công hàm Phạm Văn Đồng.
Kế ‘Vô trung sinh hữu” đă được Chu Ân Lai thực hiện là như vậy.
4.1.2. Họng súng Trung Quốc.
Giai đoạn tiếp sau, họng súng Trung Quốc đă biến “có” trên mặt giấy công hàm, thành “có” thực sự trên toàn bộ Hoàng Sa, 9 đảo Trường Sa.
Trung Quốc kiên tŕ chờ thời cơ. Khi Hoa Kỳ có ư định rời bỏ Đông Nam Á, 1974, Trung Quốc dùng sức mạnh của họng súng, cướp Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1988, lợi dụng Liên Xô đang gặp nhiều khó khăn tại Đông Âu, Àfghanistan, Trung Quốc lại dùng hải chiến chiếm 7 đảo và tới nay là 9 đảo tại Trường Sa của Việt Nam.
4.2. Đường lưỡi ḅ và lợi ích cốt lơi.
Sau 3 thập niên tăng trưởng kinh tế liên tục, Trung Quốc thấy rằng họ đă có thể thực hiện bước tiếp theo trong chiến lược độc chiếm hoàn toàn Biển Đông.
Ngày 7/5/2009 phái đoàn thường trực Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc chính thức cho lưu hành bản đồ đường đứt khúc 9 đoạn (đường lưỡi ḅ, đường chữ U) “đối với chủ quyền không thể tranh căi của Trung Quốc trên các đảo trong Biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, cũng như các quyền chủ quyền và tài phán đối với các vùng nước, vùng đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển của chúng”.
Đầu năm 2010, sự tự tin không có đối thủ đă làm Trung Quốc tuyên bố không cho phép bất cứ nước nào can thiệp vào vùng Biển Đông, vùng biển này đă trở thành cái gọi là “quyền lợi cốt lơi về chủ quyền” của Trung Quốc, tương tự như Đài Loan và Tây Tạng.
5. Liên hoành của Trung Quốc hiện nay
5.1. Chiến lược ngoại giao liên hoành toàn cầu của Trung Quốc hiện nay có thể tóm tắt trong những chữ sau: Bắc-Ḥa, Nam-Dụ, Đông-Lấn, Tây-An.
Bắc là phương bắc gồm: cường quốc quân sự hạt nhân nước Nga và các nước Trung á thuộc Liên Xô cũ.
Ḥa là ḥa hoăn, ḥa hảo, hợp tác cho có lợi cho Trung Quốc.
Đường ống dẫn dầu hỏa xuyên Xibiri, tuyến đường sắt Âu-Á… là những đầu tư của Trung Quốc theo chữ Ḥa này.
Nam là phương nam gồm Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Myanma.
Dụ là dụ dỗ, dụ vào mưu, dụ vào kế hiểm. Dụ là ngọt nhạt nhưng coi thường, dụ là bôi mật để dính mà không rút ra được. Dụ là phỉnh phờ hứa tăng cường viện trợ, đă được Trung Quốc sử dụng kế này thành thạo như trong việc dụ thành công Việt Nam kư Hiệp định Genève 1954.
Hiện nay, điển h́nh nhất của Dụ là Giang Trạch Dân tặng Lê Khả Phiêu 16 chữ: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, và 4 tốt: láng giềng tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt.
Đông là Biển Đông của Việt Nam, theo hướng đông nam của Trung Quốc.
Lấn là lấn chiếm, là lấn cướp bằng sức mạnh khi thời thế cho phép. Trung Quốc đă cướp của Việt Nam Hoàng Sa, Trường Sa vào những năm 1974, 1988 và hiện nay đang lăm le chiếm nốt Biển Đông bằng tuyên bố đường lưỡi ḅ là lợi ích cốt lơi của Trung Quốc tại Biển Đông.
Tây là cụm các nước nằm hướng tây Trung Quốc: Hoa Kỳ, Ấn Độ, Pakistan.
An là trấn an, làm cho an tâm, là lừa phỉnh, là che đậy dă tâm của ḿnh trước Hoa Kỳ, Ấn Độ. Hoa Kỳ là nước Trung Quốc gườm nhất. Hoa Kỳ có khả năng ngăn chặn kế hoạch bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, và Ấn Độ Dương, Thái B́nh Dương. Điểm yếu của Hoa Kỳ là đang sa lầy trong 2 cuộc chiến tranh và một nền kinh tế đang trượt dài khủng khoảng. Do vậy, Trung Quốc ra sức trấn an Hoa Kỳ về mục đích trỗi dậy một cách ḥa b́nh của họ.
Tuy nhiên Hoa Kỳ là một cường quốc chính trị mà các lợi nhuận kinh kế trải rộng khắp thế giới. Việc Trung Quốc sẽ thách thức vị trí siêu cường của Hoa Kỳ, đă được họ nhận ra. Chữ An lúc đó chắc không có hiệu lực nữa.
5.2. Chiến thuật cụ thể của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Ta thấy trong ngoại giao Liên hoành của Trung Quốc thời bành trướng này, hướng đông và nam đều nhằm phía Việt Nam.
Vị trí của Việt Nam là đặc biệt trong ngoại giao Trung Quốc.
Trung Quốc muốn chỉ cho thế giới thấy rằng một nước đă nổi tiếng về hi sinh anh dũng cho độc lập tự do sẽ là một đồng minh dễ bảo của đại cường mới.
Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam sẽ là mẫu, điển h́nh cho mô h́nh quan hệ Trung Quốc- nước nhỏ khác trên thế giới.
Trung Quốc thực hiện một chiến thuật kép vừa đấm, vừa xoa đối với Việt Nam.
Họ đă đấm Việt Nam vài quả bằng sự kiện cắt cáp tầu B́nh Minh 02, tầu VIKING II, sau đó gọi Hồ Xuân Sơn sang Trung Quốc để xoa dịu.
Trung Quốc liên tục dương cao t́nh hữu ái giai cấp, cùng mục ti ê XHCN,.. để dụ dỗ lănh đạo cao cấp Việt Nam.
Kể cả các thủ đoạn hối lộ, mà lịch sử Trung Quốc đă chỉ rơ: người Trung Quốc là bậc thầy trong hối lộ. Văn Chủng, Phạm Lăi hối lộ Bá Hi, quan thái tể nước Ngô, để nước Ngô hùng mạnh bá chủ của Hội thề , bị tiêu vong. Trương Nghi th́ hối lộ Tử Lan, quan Lệnh doăn nước Sở và Cận Thượng quan đại phu nước Sở, nhằm xui Sở Hoài Vương phản bội ước Hợp tung với Tề.
Trên th́ dụ dỗ lănh đạo cao cấp, dưới th́ o ép ngư dân đánh cá, tầu thăm ḍ dầu khí…
Trong đàm phán với Việt Nam về giải quyết các tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc một mực chỉ đàm phán song phương.
Đàm phán song phương để lợi dụng thế nước lớn, để lợi dụng sức mạnh quân sự của Trung Quốc, nhằm o ép các nước nhỏ, dành lợi về ḿnh.
Hiện nay Trung Quốc đang ngang ngược không chịu đàm phán với Việt Nam về chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam.
Việc Đới Bỉnh Quốc, nhân vật cao cấp nhất về ngoại giao của Trung Quốc sang Việt Nam liên tục nói về t́nh hữu hảo của Trung Quốc đối với Việt Nam, khẳng định Trung Quốc rất sợ các cuộc biểu t́nh chống Trung Quốc ở Hà Nội, Sài G̣n sẽ đem lại sự ủng hộ của thế giới, của Hoa Kỳ đối với chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa.
5. Bài học Chiến quốc Hợp tung của Việt Nam. Di chúc của Trần Hưng Đạo.
Hợp tung là một chiến lược khả thi trong t́nh h́nh Biển Đông hiện nay. Tuy vậy, giả sử Hợp tung h́nh thành và thực thi, nhưng tương lai của nó có bền vững hay không, phụ thuộc vào những nước tham gia Hợp tung.
Khi chưa có điều kiện Hợp tung, Việt Nam phải trông cậy vào chính bản thân ḿnh.
Bài học khư khư bám vào quyền lợi tầng lớp quí tộc phong kiến của Tề, Sở, Ngụy, Triệu, Lỗ, Hàn, không cải cách xă hội khiến cho binh yếu, dân nghèo là nguyên nhân chính thắng lợi của nước Tần.
Đối với Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản mà Đảng cộng sản Việt Nam theo đuổi đă làm yếu khối đoàn kết dân tộc.
Sau sự thất bại của chế độ XHCN dựa trên công hữu, tư hữu chưa được chính thức công nhận.
Tư hữu chưa trở về vị trí làm động lực phát triển xă hội.
Cải cách xă hội của Việt Nam lúc này phải là dân chủ hóa xă hội việt nam.
Phải trả lại cho nhân dân quyền tư hữu để kích thích phấn đấu cá nhân, kích thích làm ra của cải cho xă hội.
Cẩm nang để chống lại bành trướng Trung Quốc, đă có từ sự đúc kết các sự kiện lịch sử nước Việt, đă được vị anh hùng dân tộc Việt Nam Trần Hưng Đạo di chúc lại trong lời di chúc bất hủ sau:
“Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược th́ kế sách như thế nào?”
Hưng Đạo Vương trả lời: ” Ngày xưa Triệu Vũ Đế dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dă, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, c̣n đoản binh th́ đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc th́ mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, ḷng dân không ĺa, xây thành B́nh Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lư mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lư Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là v́ có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mă Nhi bốn mặt bao vây. V́ vua tôi đồng tâm, anh em ḥa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy.
Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp.
Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió th́ thế dễ chế ngự.
Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, th́ phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một ḷng như cha con th́ mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.” Wikipedia- Trần Hưng Đạo.
Kẻ thù của dân tộc Việt Nam, Trung Quốc chưa bao giờ mạnh như hôm nay. Chúng ta, người dân đất Việt, chưa bao giờ bị tầng lớp lănh đạo phản bội trắng trợn, coi kẻ thù thành anh hai như hôm nay.
Họa mất biển đảo, mất tài nguyên đất nước, họa làm thuộc quốc, chư hầu, đang treo trước mắt.
Học kỹ bài học của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là dân chủ bàn bạc, t́m ra lănh đạo giỏi chống Trung Quốc bành trướng, là nhiệm vụ số 1 của chính trị Việt Nam hôm nay.
Là mưu kế sống c̣n của dân tộc Việt Nam lúc này.
blogviet
|