R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Nếu tự do hàng hải gần đây mới trở thành một vấn đề nóng bỏng ở Biển Đông th́ đó là bởi v́ những xác nhận của Trung Quốc về “chủ quyền không thể chối căi” đối với gần như toàn bộ vùng biển này là một điều khá mới mẻ. Chỉ trong năm 2009, Trung Quốc đă gửi một bản đồ lên Liên Hợp Quốc mô tả các tuyên bố chủ quyền trên biển của họ. “Đường 9 đoạn” được vạch ra trên bản đồ bao gần như trọn Biển Đông. Trong năm 2010, các quan chức Trung Quốc hiển nhiên gọi vùng biển đó là một “lợi ích quốc gia cốt lơi” – một lợi ích mà Trung Quốc sẵn sàng sử dụng vũ lực để giữ ǵn. Ngoại trưởng Hillary Clinton đă nhanh chóng phản ứng rằng Washington có một “lợi ích quốc gia” về tự do hàng hải qua các vùng biển trong khu vực. Nhưng bà Clinton chỉ nhắc lại các mục tiêu chính sách của Mỹ đă được định rơ từ hàng chục năm trước.
Thật khó để mà phóng đại tầm quan trọng của Biển Đông đối với chiến lược hàng hải của Mỹ. Chiến lược Phối hợp Hải lực Thế kỷ 21 năm 2007, thông điệp quyền lực nhất của các cơ quan hàng hải Mỹ về cách thức họ nh́n nhận môi trường chiến lược và dự định hưởng ứng điều đó, chỉ rơ khu vực Tây Thái B́nh Dương và Ấn Độ Dương (trong đó có Vịnh Ba Tư) là những sân khấu trung tâm để sử dụng sức mạnh cứng của Hải quân Mỹ.
Biển Đông nằm giữa đường nối giữa hai sân khấu này. Nó là một cửa ngơ không chỉ cho tàu buôn mà c̣n cả cho các hải quân, tạo thuận lợi về diễn tập chiến lược của các lực lượng Mỹ. Quân đội Mỹ được triển khai chủ yếu dọc các ŕa phía đông và phía tây của lục địa Á Âu, ở Bahrain, Nhật Bản và Guam. Các lực lượng vượt biển phải “di chuyển nhịp nhàng” giữa hai đại dương, tập trung đương đầu với các sự kiện bất ngờ nảy sinh ở một hoặc hai nơi này. Nếu bị chặn một lối đi qua Biển Đông, quân Mỹ sẽ buộc phải đi ṿng xuống phía nam, quanh các quần đảo Indonesia và Philippines. Sự lanh lẹ của cường quốc hải quân Mỹ ở sân khấu lớn “Indo – Thái B́nh Dương” sẽ phải chịu cảnh tương tự, làm giảm tính hiệu quả chiến lược của Mỹ.
Thứ hai, vẫn có một câu hỏi để mở rằng liệu Bắc Kinh có phô sức mạnh để làm mất tinh thần các nước láng giềng nhanh tới mức đặt Mỹ vào một sự việc đă rồi. Goldstein dường như có quan điểm nước đôi về sức mạnh hải quân Trung Quốc. Một mặt, ông mô tả Hải quân PLA là yếu đuối tới mức nước này phải tái bố trí các tàu ngầm cùng cùng nhiều tài sản khác tới Biển Đông nhằm tránh các lực lượng Mỹ – Nhật đóng quân ở phía bắc. Mặt khác, ông ngụ ư rằng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc gần như vô địch. Một Trung Quốc với quân đội như vậy có thể thắng thế ở Đông Nam Á trước khi người ngoài có thể can thiệp. Thế là sao? Điều chắc chắn đúng là các khả năng “chống tiếp cận” mà PLA đang xây dựng sẽ tỏ ra khó chịu cho bất cứ đối thủ nào của Trung Quốc. Các tư lệnh PLA có thể đổi hướng các vũ khí như các tên lửa chống tàu phóng từ ven bờ về phía hải quân các nước Đông Nam Á trong khi ngăn chặn các nỗ lực can thiệp vào khu vực của Mỹ, Ấn Độ và các cường quốc bên ngoài khác. Số lượng các lựa chọn của Bắc Kinh tăng lên nhiều lần khi sức mạnh quân sự Trung Quốc lớn mạnh.
Nhưng cùng lúc đó, sự tăng cường lực lượng của hải quân và quân đội Trung Quốc vẫn c̣n là một việc đang được tiến hành, trong khi Bắc Kinh phải đối mặt với rất nhiều thách thức to lớn dọc bờ biển châu Á. Từ bắc tới nam, Trung Quốc phải xoay xở với bế tắc hạt nhân Bắc Triều Tiên, với việc Mỹ tiếp tục đẩy mạnh sự hiện diện ở Nhật Bản, các tranh chấp lănh thổ với Nhật Bản ở Biển Đông Trung Quốc, nền độc lập thực tế của Đài Loan, mớ ḅng bong Biển Đông, các đe dọa nhằm vào tàu thuyền trên Eo biển Malacca, và các lợi ích ngày càng lớn ở Ấn Độ Dương. Không một vị tư lệnh khôn ngoan nào lại phân tán lực lượng dù muốn hay không. Nếu PLA cố gắng làm tất cả mọi thứ, ở khắp mọi nơi, họ có thể phải kết thúc mà chỗ nào cũng chỉ làm được rất ít. Các lực lượng vũ trang của Trung Quốc chỉ có thể thống trị được Biển Đông nếu các tư lệnh sẵn sàng tập trung mọi tài sản của họ tới đó. Nhưng họ làm thế với một rủi ro rất lớn đối với các lợi ích của Trung Quốc ở những nơi khác thuộc “các vùng biển gần”. Đối mặt với rất ít thách thức ở Biển Đen, Nga đă có sự tập trung cao độ chống Georgia, một sức mạnh trên bộ nằm ngay bên cạnh mà họ có thể đè bẹp trước khi người ngoài kịp can thiệp. Bối cảnh chiến lược này sẽ không cho phép Trung Quốc có được sự xa xỉ đó.
Và thứ ba, các lực lượng Mỹ vẫn tiếp tục bám trụ ở Đông Bắc Á, giúp họ tác động đến các sự kiện một cách dễ dàng hơn so với Biển Đen. Như Goldstein đă chỉ ra, thực hiện một hành tŕnh cứu viện tới Georgia sẽ đặt hậu cần Mỹ trước những yêu cầu khắc nghiệt nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Cũng chính xác là các thành tŕ của Mỹ ở Nhật Bản nằm trong tầm bắn của hàng trăm tên lửa đạn đạo Trung Quốc và các chiến đấu cơ chiến lược. Sức chống đỡ thời chiến của các căn cứ này ngày càng đáng nghi. Thế nhưng, các biện pháp trả đũa luôn có sẵn. Chẳng hạn, các đồng minh đang lắp đặt các hệ thống pḥng thủ tên lửa đạn đạo trên các tàu chiến Aegis. Chúng có thể tăng cường sức mạnh cho các căn cứ quân sự bằng những cách đơn giản (dù đắt tiền) chẳng hạn như xây dựng các nhà chứa kiên cố cho máy bay và tàu thuyền. Nói tóm lại, các chính khách và tư lệnh hải quân Mỹ có trong tay nhiều lựa chọn hơn so với Trung Quốc ngày nay hơn là với Nga năm 2008.
Tóm lại, sự tương đồng Nga – Georgia có nghĩa như một sự chỉ dẫn cho chính sách của Mỹ về Biển Đông. Goldstein đúng ở chỗ Mỹ không có lợi ích rơ ràng trong những tranh chấp lănh hải và không nên để bị lôi kéo vào. Nhưng Washington cũng không thể cho phép Bắc Kinh thiết lập quy tắc rằng các nước lớn có thể sửa đổi hay hủy bỏ luật pháp quốc tế bằng cách tán thành. Tự do hàng hải không phải của người Trung Quốc để nước này ban ra hay giữ lại. Nếu nó tách rời khỏi khu vực, để mặc cho Trung Quốc đi đường của họ, Mỹ sẽ có nguy cơ hóa ra mặc nhận trong một tiền lệ nguy hiểm. Nước này có thể để mất quyền tự do thao diễn chiến lược cùng với vị thế là một nước bảo đảm các lợi ích chung toàn cầu.
Goldstein kết luận bài viết của ông bằng cách viện dẫn học thuyết “Cây gậy lớn” của Theodore Roosevelt, kêu gọi chính quyền Obama “dịu giọng” qua “ngoại giao mềm dẻo, thiết thực và kín đáo” ở Đông Nam Á. Đúng là như vậy, “Theodore Roosevelt” là một người tin tưởng nhiệt thành với chính sách ngoại giao đằng sau hậu trường. Nhưng đối với ông ấy, vung cây gậy lớn có nghĩa là khéo xử sự trong khi chẳng nhường ǵ cả về mặt nguyên tắc. Điều này cũng có nghĩa là ủng hộ chính sách ngoại giao Mỹ bằng nhiều nguồn dự pḥng về sức mạnh quân sự, chứng kiến hải tŕnh của “Great White Fleet” (*) năm 1907-1909, một hành động đă được thiết kế để ngăn không cho Đế quốc Nhật tạo ra một khu vực mà họ muốn kiểm soát trên biển ở Tây Thái B́nh Dương. Tự do ở các vùng biển là nguyên tắc không thể thương lượng đối với Roosevelt, và điều đó phải được tiếp tục cho đến ngày nay. Cây gậy lớn của ông là một kim chỉ nam tuyệt vời đối với chính sách ngoại giao Mỹ, chứ không phải theo cách mà Goldstein muốn khuyên chính phủ làm theo.
Tác giả: ông James Holmes là phụ tá giáo sư chiến lược ở Trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ. Bài viết này thể hiện quan điểm của riêng tác giả.
Ảnh: Hải quân Mỹ
Trúc An dịch từ The Diplomat
(*) Ghi chú của BTV: “Great White Fleet” là tên của hạm đội chiến đấu Hải quân Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Theodore Roosevelt, do những chiếc tàu chiến này được sơn màu trắng nên có tên “White Fleet”. Những con tàu này có mặt khắp nơi trên thế giới, thường là những chuyến viếng thăm, thể hiện thiện chí của Mỹ, nhưng đôi khi những chiếc tàu này c̣n hộ tống các viên chức ngoại giao Mỹ, khi đến nói chuyện với những nước “cứng cổ”, có tham vọng bành trướng trên biển. Trên bờ, các viên chức ngoại giao thể hiện thiện chí của Mỹ (củ cà rốt), nhưng ở dưới biển là những chiếc tàu chiến của “Great White Fleet” đang đậu, với ngụ ư rằng, nếu “cứng cổ” th́ sẽ bị ăn gậy!
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
|