|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Những tuyên bố chủ quyền gây tranh căi
Một nhân tố khác khiến các nước trong khu vực thực thi một quan điểm cứng rắn hơn về vấn đề Biển Nam Trung Hoa là hạn chót tháng 5/2009 để đăng kư tuyên bố mở rộng thềm lục địa vượt ra ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Để kịp mốc thời hạn đó, Malaixia và Việt Nam đă đệ tŕnh một tuyên bố chung; Việt Nam sau đó đệ tŕnh một tuyên bố riêng; Philíppin thông qua một đạo luật về đường cơ bản mới để hỗ trợ cho việc đệ tŕnh tuyên bố một phần; và Brunây đệ tŕnh “thông tin ban đầu”. Vấn đề chính đối với Bắc Kinh là Malaixia và Việt Nam đă quyết định tuyên bố quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên của biển Nam Trung Hoa dựa trên tuyên bố chủ quyền lục địa tính từ bờ biển của họ, không phải từ các ḥn đảo mà các nước này tuyên bố chủ quyền. Nguyên tắc này, nếu được thông qua bởi tất cả các bên tranh chấp, sẽ làm suy yếu đáng kể tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, vốn không dựa trên việc mở rộng thềm lục địa. Tuy nhiên, vẫn c̣n khó khăn để nhận định một cách chính xác về những yêu sách của Trung Quốc bởi một văn bản khác mà nước này đệ tŕnh phản đối cả đệ tŕnh của Philíppin và đệ tŕnh đơn phương của Việt Nam .
Nội dung đệ tŕnh của Trung Quốc tuyên bố rằng Bắc Kinh có chủ quyền không thể tranh căi đối với các quần đảo ở Biển Nam Trung Hoa và vùng biển lân cận – ám chỉ vùng lănh hải 12 hải lư xung quanh các đảo ở Biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, trong phần phụ lục, Trung Quốc đă đệ tŕnh chính thức lần đầu tiên bản đồ “đường chín đoạn” hay c̣n gọi là “h́nh chữ U”. Bản đồ này, lần đầu tiên được xuất bản ở Trung Quốc vào năm 1948 và được các quan chức nước này cho rằng có cơ sở lịch sử, rơ ràng cho thấy quyền chủ quyền của Bắc Kinh đối với 90% Biển Nam Trung Hoa mà không đề cập tới giới hạn vùng lănh hải 12 hải lư theo quy định của UNCLOS. Như vậy, những tuyên bố chủ quyền đệ tŕnh Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS) năm 2009 đă cho thấy rơ căn bệnh nan y của xung đột, bản chất quy mô lớn và đầy tham vọng trong tuyên bố của Trung Quốc cho thấy sự phức tạp trong giải quyết tranh chấp.
Hơn nữa, các đệ tŕnh lên CLCS trong năm 2009 không có một tuyên bố rơ ràng nào liên quan đến chủ quyền đối với các đảo ở Biển Nam Trung Hoa, mà chỉ tập trung vào các tuyên bố thềm lục địa. Với việc Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Brunây, Malaixia và Philíppin đều tuyên bố chủ quyền với các đảo hoặc các địa h́nh đặc trưng khác trên Biển Đông (Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam đ̣i chủ quyền tất cả), th́ rơ ràng việc t́m giải pháp cho xung đột chỉ là ṃ kim đáy bể. Thậm chí kể cả khi xung đột trong các tuyên bố chủ quyền với đảo và các địa h́nh đặc trưng được giải quyết th́ cách thức tính vùng lănh hải từ các đảo này sẽ tạo ra một lĩnh vực gây tranh căi nhiều hơn: Brunây, Malaixia, Philíppin và Việt Nam có thiên hướng ủng hộ vùng lănh hải 12 hải lư tuân thủ theo UNCLOS nhưng Trung Quốc có thể muốn một số đảo có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư. Với sự phức tạp của tranh chấp, có lẽ không ngạc nhiên rằng các thỏa thuận đa phương t́m một giải pháp thường vừa dài lê thê và vừa mang tính chất cục bộ.
Phải mất hơn 1 thập kỷ th́ ASEAN và Trung Quốc mới thống nhất và kư Tuyên bố về cách ứng xử của các bên tại Biển Nam Trung Hoa năm 2002 kể từ khi nó được thai nghén và đề cập; và cũng mất 9 năm mới đạt được thỏa thuận hồi tháng 7/2011 về các bước đi để thực hiện tiến tŕnh này. Theo hướng dẫn này th́ các ủy ban sẽ được thành lập để giám sát tiến tŕnh hướng tới một Bộ Quy tắc Ứng xử có tính ràng buộc về mặt chính trị và thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực như nghiên cứu, an toàn hàng hải và tội phạm đa quốc gia. Thế nhưng, họ hứa hẹn rất ít về việc giải quyết tranh chấp. Họ không đưa ra được một thời hạn chót hay một lịch tŕnh để nhất trí về Bộ Quy tắc Ứng xử, và tới nay cũng không có tuyên bố nào về cách thức giải quyết các tranh chấp lănh thổ. Thực tế là Trung Quốc liên tục tuyên bố muốn đàm phán song phương với các bên tuyên bố chủ quyền (trừ Đài Loan), trong khi các quốc gia ASEAN muốn có một môi trường đa phương thông qua Diễn đàn Khu vực ASEAN để khỏa lấp sự khác biệt giữa các bên.
Tranh chấp khó có thể giải quyết?
Với việc không có thoả thuận về các bước đi để giải quyết tranh chấp, và chỉ có các biện pháp xây dựng ḷng tin đang được xem xét, th́ có vẻ như không chắc rằng các nước trong khu vực sẽ có thể làm chậm lại tiến tŕnh hiện đạo hóa quân đội đang diễn ra trên Biển Nam Trung Hoa hay ngăn chặn được việc xây dựng thêm các pháo đài trên các cơ sở hạ tầng thuộc quần đảo Trường Sa. Những nhượng bộ có thể sẽ có được thông qua các cuộc đàm phán về Bộ Quy tắc Ứng xử, đặc biệt liên quan tới các hoạt động tập trận quân sự trên Biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, đàm phán về Bộ Quy tắc Ứng xử, đó là chưa nói đến việc thực hiện, có vẻ như sẽ phải mất nhiều năm nữa. Trước mắt, các bên tuyên bố chủ quyền nhiều khả năng sẽ củng cố vị trí của ḿnh tại quần đảo Trường Sa và tăng cường các chương tŕnh phát triển lực lượng dân quân và hải quân. V́ thế, tương lai của Biển Nam Trung Hoa nhiều khả năng sẽ là leo thang cạnh tranh hải quân và đối đầu giữa các lực lượng dân quân, kể cả khi các nỗ lực ngoại giao vẫn được tiếp tục để t́m giải pháp cho tranh chấp.
2. Theo mạng phân tích thông tin t́nh báo chiến lược “Stratfor” của Mỹ ngày 5/10, khi kinh tế phát triển thịnh vượng, Việt Nam và Trung Quốc sẽ cố gắng t́m cách mở rộng ảnh hưởng của ḿnh trong khu vực. Tuy nhiên, do sự gần gũi về địa lư cũng như khu vực t́m kiếm ảnh hưởng của hai nước chồng lấn nhau, Hà Nội và Bắc Kinh sẽ tiếp tục duy tŕ t́nh trạng căng thẳng gia tăng trong tương lai.
Trong thập kỷ qua, nhiều nền kinh tế Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đă hội nhập hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế và điều này mang đến cho họ sự thịnh vượng mới. Với sự thịnh vượng này, Việt Nam đă có thể theo đuổi mục tiêu củng cố hơn nữa vùng đệm chiến lược của ḿnh ở Biển Đông, bán đảo Đông Dương và bảo vệ biên giới phía Bắc. Tuy nhiên, vấn đề là những mục tiêu này lại đi ngược lại với những mục tiêu của Trung Quốc, nước cũng đang ở vị thế đủ vững mạnh để có thể thúc đẩy ảnh hưởng khu vực của ḿnh ra bên ngoài nhằm loại bỏ tất cả những ǵ nước này coi là mối đe dọa sắp xảy ra. Do đó, căng thẳng giữa hai nước được dự báo là sẽ tăng lên trong tương lai gần.
|