|
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Jan 2008
Posts: 149,162
Thanks: 11
Thanked 14,108 Times in 11,269 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 185
|
Khiếm hụt Ngân sách và quốc trái
Khi ngân sách khiếm hụt, th́ chính quyền đi vay nợ để tài trợ các khoản chi, nếu không thể thu thuế đủ để trang trải. Nh́n lại lịch sử của Hoa Kỳ trong một trăm năm vừa qua, chúng ta thấy rằng không phải đợi đến khi có chiến tranh, th́ ngân sách mới thâm thủng; mà ngay trong thời b́nh chính phủ cũng phải vay mượn, tuy thường ít hơn.
Thật vậy từ tài khóa 1909 đến 1917, tỷ lệ quốc trái so với tổng sản lượng quốc gia (TSLQG) chỉ trong khoảng 2% – 3%. Mười tài khóa thời b́nh (1930-1940) do ảnh hưởng của cuộc Đại Suy Thoái Kinh Tế (Great Depression), tỷ lệ này lên từ 17,90% lên 50,85%. Các biện pháp can thiệp khá thành công của nhà nước dưới thời Tổng Thống Franklin D. Roosevelt (1933-1945) vào lănh vực kinh tế tài chánh, cùng sự ra đời của học thuyết Keynes về vai tṛ tích cực của chính quyền trong việc giải quyết thất nghiệp như đă đề cập là một bước ngoặc quan trọng giúp chính quyền càng ngày càng thêm bạo dạn trong việc sử dụng nợ nần trong thời b́nh.
Thế Chiến Thứ Hai là một biến cố gây tốn hao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ so với tất cả những biến cố trước đó: Tài khóa 1946, ngân sách khiếm hụt 17.389 triệu, đưa quốc trái tích lũy lên mức 269.422 triệu, tức 129,98% TSLQG. Nhưng trong sáu tài khóa kế tiếp, ngân sách đều thặng dư, nợ được trả dần; quốc trái chỉ c̣n bằng 74% TSLQG (1952).
Từ đó đến năm 1997, ngoại trừ một năm thặng dư (1960), ngân sách liên bang đều khiếm hụt, nhưng tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG lại giảm dần (phần lớn nhờ TSLQG tăng nhanh), thấp nhất là 33,84% (1981), rồi lại tăng lên. Cuối nhiệm kỳ của Reagan (1989), tỷ lệ này là 54,68%. Và cứ thế mà tăng. Đến nhiệm kỳ 2 của Bill Clinton, th́ có bước ngoặc rất lịch sử: liên tiếp 4 tài khoá (1998, 1999, 2000 và 2001), ngân sách đều thặng dư. Được như thế, một mặt, là do giảm chi: trung b́nh mỗi năm chi tiêu thực (đă điều chỉnh lạm phát) chỉ tăng 1,5% TSLQG (so với 5% dưới thời Lyndon Johnson và George W. Bush) nhờ chi phí quốc pḥng sau khi Bức Tường Bá Linh đổ xuống chỉ c̣n chiếm 3% TSLQG (so với 10% trong 3-4 thập kỷ trước đó) . Mặt khác, cũng nhờ tăng thu, chẳng hạn, tăng thuế suất áp dụng cho nhóm lợi tức cao nhất lên đến mức 39.6% (Bush hứa “read my lips” không có thuế mới “no new taxes” nhưng đă tăng thuế suất này từ 28% lên 31%, và tạo nhiều bất lợi chính trị khi ông tái tranh cử dù đă tạo chiến thắng quân sự huy hoàng ở Vùng Vịnh), tiền hưu an sinh xă hội (social security benefits) cũng bị thuế. Tóm lại, do giảm chi và nhờ bội thu do kinh tế tăng trưởng, tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG thấp xuống: lần lượt là 62,60%; 60,50%; 57,30% và 59,20%. Đến đây, những chuyên viên kinh tế, tài chánh, ngân hàng, ngân sách tỏ ra vô cùng phấn khởi, hy vọng là nếu tiếp tục giữ cơ cấu thuế và hạn chế chi tiêu như thế này th́ đến năm 2013, chính phủ Mỹ sẽ trang trải hết nợ nần.
Nhưng đó chỉ c̣n là một giấc mơ lớn! Như đă thấy, trong trên 50 năm, từ 1949 đến 2001, Hoa Kỳ chỉ có 10 tài khóa ngân sách thặng dư, th́ trong 50 năm tới, con số tài khóa thặng dư chắc chắn sẽ c̣n ít hơn. Và giấc mộng trả dứt nợ nần không thể nào thành sự thật được.
Thật vậy, năm 2001, sau khi Tổng Thống G.W. Bush được bầu vào Ṭa Bạch Ốc, th́ nhiều biến cố lớn xảy ra: vụ không tặc tấn công New York và Washington DC làm kinh tế tŕ trệ, hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq vô cùng tốn kém. .
Như đă nói trên, phấn khởi v́ 4 tài khóa thặng dư trong nhiệm kỳ hai của Tổng Thống Clinton, nhiều chuyên viên đề nghị tỷ lệ Khiếm Hụt/TSLQG không được vượt quá 1%. Nhưng khi Tổng Thống G.W. Bush bước vào Nhà Trắng năm 2001, th́ kinh tế có đă dấu hiệu suy thoái rồi. Để chống suy thoái, ông tạm cắt giảm thuế trong một thời gian Trước hết, là thuế lương bỗng và thuế lợi tức cá nhân. Sở dĩ thuế suất của 2 loại thuế này đưọc sử dụng thường xuyên v́ nó không những là một công cụ tài chánh hữu hiệu dễ đem lại nguồn thu lớn nhất cho chính quyền liên bang mà c̣n phản ảnh khá rơ ràng lập trrường chính trị của đảng cầm quyền. Thí dụ, individual income tax & tax withholding trong 2 tài khóa 2004 và 2005 chiếm trên 80% ngân sách dự trù[5]. Bush giảm tỷ lệ 39,6% cho nhóm cao nhất thời Clinton, xuống c̣n 35% (rất thấp so với tỷ lệ 94% thời Thế Chiến Hai, hay 90% thời Tổng Thống Eisenhower 1963-61); và cho nhóm thấp nhất từ 15% xuống c̣n 10%. Năm 2003, thuế suất đánh trên thắng lợi tư bản (capital gains tax rate) và thuế suất thuế lợi tức đánh trên tiền lời cổ phiếu công ty (income tax rate on corporate dividents) được giảm hơn phân nửa. Năm sau đó, Đạo Luật American Jobs Creation Act lại giảm thuế lợi tức cho các công ty Hoa Kỳ kinh doanh ở nước ngoài.
Nhưng với những phương cách giảm thuế suất đó, tổng số thu không tăng lên nhanh như dự trù, mà trái lại c̣n sụt xuống nhiều — chủ yếu do ảnh hưởng biến cố 11/9/2001– từ 20,9% GNP trong tài khóa 2000 xuống c̣n 16,3% GNP trong tài khóa 2004. Chỉ riêng trong tài khóa này, quốc trái lên đến 413 tỷ. Tuy nhiên, trong 3 năm kế tiếp, sau khi các biện pháp cắt giảm thuế nói trên được áp dụng và phát huy tác dụng, th́ nền kinh tế cải tiến phục hồi khả quan: chi phí tư doanh tăng trung b́nh mỗi quư 6,7%, nhờ đó tạo thêm 7,8 triệu công việc làm, hạ tỷ lệ thất nghiệp từ 6% xuống c̣n 4,4%, sản lượng công nghiệp vọt lên cao nhất tính trong ṿng 20 năm, đẩy suất số tăng trưởng kinh tế lên 3,5%, tức tăng gấp đôi 3 năm trước đó. Riêng số thu đánh trên thắng lợi tư bản (capital gains tax) lại tăng gấp đôi mặc dù thuế suất giảm đi 25%.
Nhưng những thuận lợi trên không kéo dài được lâu.
Nếu trước đây đến cuối nhiệm kỳ của Tổng Thống Clinton, th́ nay chỉ mới đến năm thứ 7 của nhiệm kỳ của vị Tổng Thống G.W. Bush, nền kinh tế phồn vinh dựa trên nợ nần vay mượn của Hoa Kỳ cho thấy nhiều dấu hiệu suy thoái. Những người Mỹ lớn tuổi đă từng chứng kiến thị trường nhà cửa vỡ tung ở nhiều thập niên truớc, cũng như người Việt di tản đă từng chứng kiến thị trường chim cút sụp đổ ở Saigon hồi đầu thập niên 1970, cũng nghĩ sẽ có chuyện không hay xảy ra. Một số kinh tế gia Mỹ — không nhiều — đă lên tiếng cảnh giác; nhưng rất tiếc không mấy ai tiên liệu rơ được thời điểm, nguyên nhân và hậu quả! Giá xăng dầu lên vùn vụt, giá nhà đất mỗi ngày một lên cao khi có nhiều người tranh giành nhau mua, các gia chủ refinance để tiêu xài thoải mái, hệ thống tín dụng sự cho vay bừa băi v.v. chỉ là một tín hiệu tuy đáng ngại nhưng không rơ ràng lắm. Sự kiện hàng hóa ế ẩm mùa Giáng Sinh 2007, và hàng hóa bán đại hạ giá vài tuần sau đó cũng không được chiếu cố như những năm trước là một tín hiệu rất rơ nét. Tháng 2/2008, quốc hội thông qua đạo luật nhằm kích thích nền kinh tế (Econonomic Stimulus Act) cho phép hành pháp tung ra $168 tỷ — gọi là hoàn thuế, $600/người cho hầu hết người lớn và $300 cho mỗi trẻ em. Lần “giảm thuế” này không phải là để kích thích phía cung, mà là để kích thích phía cầu. Các tác giả của giải pháp này hy vọng khoảng 3 tháng sau khi các checks được gửi đi, th́ TSLQG sẽ tăng lên từ 1 đến 3%. Nhưng thực tế cho thấy những người nhận được tiền chỉ xài 20-30% cho việc sắm sửa; số c̣n lại th́ tiết kiệm để xài từ từ cho những nhu cầu khác, trong đó quan trọng nhất là nhu cầu đổ xăng, mà giá cả càng ngày càng tăng, trung b́nh là $4.00/gallon vào cuối tháng 5 năm đó.
Cuộc khủng hoảng nhà đất năm 2007-2008 bắt nguồn từ việc cho vay dễ dăi (subprime mortgage crisis) đă gây tác hại rất lớn mà đến nay ảnh hưởng vẫn c̣n, nhất là đối với các địa phương. Theo ư kiến của một số chuyên viên kinh tế, nó xuất phát từ thời Clinton: Dưới sự vận động của nhóm khuynh tả Assosiation for Community Organization for Reform Now (ACORN), năm 1993, Bộ Trưởng Phát Triển Nhà Ở và Đô Thị (HUD) Henry Cisneros đă cho sửa đổi nhiều điều khoản về cho vay của 2 công ty tính cách “bán công” Fannie Mae và Freddie Mac’s để các tổ chức này tạo điều kiện giúp những người có lợi tức thấp được dễ dàng vay tiền để mua nhà. Trong một cuộc họp báo tháng 6/1995, Clintontuyên bố: “Kế hoạch sở hữu chủ gia cư của chúng ta sẽ không tốn hao thêm một xu nào cho người thọ thuế. Nó cũng không đ̣i hỏi thủ tục lập pháp.”[6] Năm 1998, khi bị chất vấn tại Quốc Hội về việc không tiết kiệm của xă hội Mỹ, vị Chủ Tịch FED Alan Greenspan giải thích: “Vâng, nhưng giá nhà đang lên cao, và v́ vậy mà người ta có tiền tiết kiệm.” Nếu lúc đó, ông mua cái biệt thự sang trọng 5 triệu đô la, th́ giờ đây nếu bán được th́ chỉ c̣n không hơn 3,5 triệu: ông không tiết kiệm, mà c̣n lỗ to.
Tháng 9/2008, sau 2 tháng cố gắng cứu nguy nhưng không hiệu quả, ngày 7/9/08 chính quyền liên bang đành nhận đảm nhiệm 2 công ty trên, cam kết đền bù 200 tỷ để đền bù thiệt tḥi cho các cổ đông, và 150 tỷ cho 2 năm kế tiếp. Bỏ mặc cho đại công ty Lehman Brothers khai phá sản, vào ngày 19/6/08, Bộ Ngân Khố tuyên bố sẽ bỏ thêm 85 tỷ bailout đại công ty bảo hiểm khác AIG.
Trong khi cuộc tranh cử gần kết thúc và ứng cử viên Tổng Thống Obama đang có chiều thắng thế, th́ ngày 13/10/08, Bộ Trưởng Ngân Khố Henry Paulson của chính quyền Bush, Chủ Tịch Quỹ Dự Trữ Liên Bang Ben Bernake, Tổng Giám Đốc Sheila Bair của FDIC và Chủ Tịch Fed ở New York Timo Geithner gặp gỡ làm việc với 9 vị Tổng Giám Đốc ngân hàng lớn nhất của nước Mỹ, yêu cầu họ điền và kư vào mẫu in sẵn để bán preferred stock của các ngân hàng này cho chính phủ, nhiều ít tùy theo tầm cở của ngân hàng, với giá tính trung b́nh thấp hơn 20% total equity của các ngân hàng. Nói cách khác, nếu các ngân hàng này không muốn bị chính phủ bailed out, th́ bất kỳ lúc nào FBI cũng có thể xin lệnh bố ráp … và đóng cửa. Đến 6 giờ rưỡi tối, th́ quư vị TGĐ đành tuân thủ ghi tiền bán đă được định sẵn, kư tên và ghi ngày tháng vào. Có lẽ Bộ Ngân Khố đă đăi họ ăn trưa với cái hamburger và lon nước soda rồi. Mà nếu Paulson có đăi cơm chiều v́ t́nh đồng nghiệp cũ, th́ họ cũng không ăn nỗi! Thật ra, sự kiện xảy đến cũng không có ǵ đáng ngạc nhiên: Mười ngày trước đó, sau khi đă bị đánh bại ở Hạ Viện, một dự luật nhằm cho phép Hành Pháp xuất một ngân khoản lớn đă được Thượng Viện bổ sung, rồi thông qua và được Tổng Thống Bush ban hành có hiệu lực kể từ ngày 3/10/08. Đó là Luật Cứu Trợ Kinh Tế Khẩn Cấp (The Emergency Economic Stabilization Act) cho phép Bộ Ngân Khố thiết lập chương tŕnh TARP (Troubled Asset Relief Program) với ngân khoản 700 tỷ để mua các chứng khoán được bảo đảm bằng mortgage (mortgage-backed security) cũng như giúp các ngân hàng đang gặp khó khăn.
Nói tóm lại, giảm thuế, lún sâu vào 2 cuộc chiến Afghanistan và Iraq, cứu trợ Katrina, suy thoái kinh tế nhiều năm sau vụ tấn công của khủng bố, các vụ bailout vv. đă khiến cho khiếm hụt ngân sách tăng lên đáng ngại. Trừ tài khóa 2001, mà ngân sách được soạn thảo và thực hiện từ thời Clinton, tất cả tài khóa dưới thời ông (2002 – 2009) đều khiếm hụt, khiến tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG vượt quá con số 60%. Ông bay về Texas thảnh thơi bửa củi cho khỏe tay, để lại ngân sách khiếm hụt trên 1.420 tỷ, hay 1,42 ngàn-tỷ (trillion), và đưa quốc trái lên 1,909 ngàn-tỷ, khiến tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG là 81.54%. Để cho dễ nhớ, chúng ta có thể ghi nhận rằng: Tổng Thống Bush là vị Tổng Thống Mỹ đầu tiên đưa khiếm hụt ngân sách lên đơn vị ngàn-tỷ (trillion); c̣n trước đó th́ Tổng Thống Reagan đă mở kỷ nguyên đưa quốc trái lên ngàn-tỷ.
Quả là một sự chuẩn bị trao ấn kiếm hứa hẹn nhiều thách thức cho chủ nhân mới của Ṭa Bạch Ốc.
Trước t́nh h́nh kinh tế rất khẩn trương: tỷ lệ thất nghiệp càng ngày càng cao, dân chúng không trả nổi mortgage, hệ thống ngân hàng hầu như bất động, nhiều người lo sợ một đại khủng hoảng kinh tế mới sẽ xảy ra. (Amazon.com cho biết các sách viết về cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế hồi đầu 1930 được tái bản và bán rất chạy. Người viết này cũng là một trong những người mua). Ngay từ tháng 11/2008, Tổng Thống Đắc Cử Obama loan báo đề cử một số chuyên gia kinh tế thượng thặng vào các chức vụ cao cấp nhất trong chính phủ mới, và họ bắt đầu làm việc ngay, rất khẩn trương. V́ dân chúng không có việc để mà làm, cho nên biện pháp giảm thuế để khuyến khích người ta làm việc đă không được nghĩ tới. Các kinh tế gia đều nghĩ đến các chương tŕnh New Deal hồi phục kinh tế của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt (1933-1945, vị TT được bầu lại nhiều nhiệm kỳ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ), và John M. Keynes với tác dụng số nhân của tiền chính phủ tung ra như đă đề cập ở trên.
Trong bức thư đề ngày 14/2/11 kèm theo dự án Ngân Sách 2012, nghĩa là ông đang bước vào năm thứ ba của nhiệm kỳ, Tổng Thống Obama phân trần: “Khi tôi tuyên thệ nhậm chức 2 năm trước đây, Chánh Phủ của tôi được để lại cho một ngân sách khiếm hụt hàng năm 1,3 ngàn-tỷ, hay 9, 2% TSLQG; và một khiếm hụt được dự phóng trên 8 ngàn-tỷ cho 10 năm kế. Những khiếm hụt này là hậu quả của 8 năm đă không chi trả cho nhiều chương tŕnh – đáng lưu ư, 2 lần cắt giảm thuế lớn lao, và lợi ích mới Medicare chi trả cho việc mua thuốc có toa – cũng như cuộc khủng hoảng và suy thoái tài chánh đă làm tệ hại thêm t́nh h́nh thuế má trong khi số thu lại giảm và các loại chi phí tự động của Chính Phủ (automatic government outlays) lại tăng lên để đối phó với cuộc suy thoái, và làm nhẹ bớt ảnh hưởng của nó.”[7]
Tổng Thống Obama tuyên bố Chính Phủ của ông đă thực hiện nhiều bước để “tái lập trách nhiệm tài chánh (re-establish fiscal responsibility).” Khác với Tổng Thống Kennedy muốn ám chỉ việc tránh khiếm hụt thêm ngân sách (avoidance of additional deficits)[8] khi đầu tiên dùng chữ “trách nhiệm tài chánh” trong Thông Điệp gửi Quốc Hội ngày 04 20/4/61, Tổng Thống Obama c̣n muốn đề cập tới việc đă hoàn thiện thủ tục ngân sách, cắt bỏ, cải tổ các chương tŕnh kém hiệu năng hay trùng dụng. Theo phân tích của Congressional Budget Office (thường được gọi tắt CBO, một cơ quan không mang tính cách đảng phái của Quốc Hội phụ trách ngân sách, được thành lập nhiều năm sau Office of Management and Budget, gọi tắt OMB trực thuộc Ṭa Bạch Ốc), th́ khiếm hụt ngân sách giảm hơn 200 tỷ trong thập niên này, và 1.000 tỷ trong thập niên kế.
Để đạt các mục tiêu trên, ngân sách tài khóa 2012 sẽ không tăng các dự chi cho các lănh vực khác ngoài lănh vực an ninh; không tăng lương cho công chức liên bang trong 2 năm; băi bỏ nhiều cơ quan; giảm chi phí Bộ Quốc Pḥng, trong đó bỏ hẳn các dự án quân dụng tốn kém, giải ngũ trên 100 vị đại tướng và đô đốc. Để duy tŕ nguồn thuế, ông chống lại việc triển hạn cắt giảm thuế cho những gia đ́nh có lợi tức hàng năm trên 250.000 đô la đă được ban hành năm 2001 và 2003 dưới thời TT. Bush. Dự án ngân sách cũng đề nghị cải tổ hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, cải tổ Công Ty Pension Benfits để bảo đảm tiền hưu cho công nhân của các công ty suy sụp và phá sản, cải tổ Cục Federal Housing Administration phụ trách giúp đỡ nhà ở rẻ tiền cho những người có lợi tức thấp; cải tổ thêm hệ thống bảo hiểm sức khỏe để đủ chi trả trong 2 năm theo tỷ lệ tăng lên ở mức chịu đựng được, mà không phải cắt giảm lớn lao số tiền bồi hoàn y tế cung cấp cho người lớn tuổi.
Trong khi đó, sẽ có những đầu tư mới và lớn lao cho một số lănh vực quan trọng sau đây. Trước hết, Ngân Sách 2012 khuyến khích giáo dục đại học qua việc triển hạn Luật American Opportunity Tax Cut, duy tŕ chương tŕnh học bỗng Pell Grant có từ nhiều thập niên vùa qua, ngơ hầu đến năm 2020, Hoa Kỳ sẽ có số sinh viên tốt nghiệp đại học cao nhất thế giới; đào tạo thêm 100.000 giáo chức toán và khoa học kỹ thuật; thúc đẩy và khuyến khích các trương học, các tiểu bang thi đua trong giáo dục qua chương tŕnh “Race to Top”. Kế đến ngân sách này cũng sẽ tích cực trợ giúp những nghiên cứu cơ bản (basic research), tức những nghiên cứu chỉ có thể sinh lợi về lâu về dài mà các công ty không muốn thực hiện, chẳng hạn trong lănh vực kỹ thuật năng lượng sạch (clean energy technology) để sao cho đến năm 2015, Hoa Kỳ là nước đầu tiên có 1 triệu chiếc xe hơi chạy điện; đến năm 2035, có 80% điện lực được cung cấp bằng năng lượng sạch. Hơn nữa, ngân sách này sẽ tiếp tục sửa sang, tu bổ hay tân tạo hạ tầng cơ sở, hệ thống lưu thông đă khá cũ kỹ, với số đầu tư sơ khởi 50 tỷ và qua sự thành lập của một ngân hàng mới có tên National Infrastructure Bank.
Ngân Sách 2012 do Obama đưa sang đề nghị phần thu (revenues) là 2,627 ngàn-tỷ và phần chi (outlays) là 3,732 ngàn-tỷ. Vào tháng 4, đảng Cộng Ḥa đề nghị 2 con số này lần lượt là 2,533 ngàn-tỷ và 3,529 ngàn-tỷ; nghĩa là đề nghị giảm cả thu lẫn chi. Tuy nhiên, trong phần dự chi, có những khoản được gọi là entitlements, th́ đề nghị cắt giảm của Đảng Cộng Hoà không đáng kể, v́ chúng được xem như là bắt buộc (mandate). Chính Obama đă đề nghị giảm chi phí cho các chương tŕnh sau đây: Medicare 0,6% (c̣n 761 tỷ), Medicaid và Chương Tŕnh Bảo Hiểm Y Tế Trẻ Em Cho Các Tiểu Bang 2,5% (c̣n 269 tỷ), Trợ Cấp Thất Nghiệp 14% (c̣n 612 tỷ), Cứu Nạn Nhà Cửa Gặp Khó Khăn 54% (c̣n 13 tỷ). Tuy nhiên, trong thành phần entilements này có 2 loại chi phí tăng lên. Đó là tiền an sinh xă hội (social security), lư do là v́ các baby boomers bắt đầu về hưu, tăng 2.6% (lên 761 tỷ) và tiền lăi cho quốc trái sẽ tăng 17% (lên đến con số 242 tỷ). Nh́n chung, các chi phí bắt buộc (entitlements) lên đến 2,382 ngàn-tỷ, chiếm 67,5% ngân sách; và Đảng Cộng Ḥa dù có cắt giảm thành công chăng nữa, th́ cũng chẳng giảm được bao nhiêu. Riêng tiền lăi trả cho quốc trái đă chiếm trên 10% ngân sách.
Chi phí cao nhất vẫn là chi phí cho Bộ Quốc Pḥng (553 tỷ, tăng 0,7%); Kế đến là Overseas Contingecies Operations, tức các hoạt động chống khủng bố hải ngoại, (118 tỷ, giảm 26%); Bộ Y Tế Xă Hội (79, 9 tỷ, giảm 1,8%) vv. Ngân Sách của Bộ Giáo Dục tăng 6,2%; của Bộ Năng Lượng tăng 4,2%, của Bộ Gia Cư tăng 0,5% phù hợp với các chương tŕnh phát triển đă đề cập trên đây. Và dĩ nhiên ngân sách Bộ Cựu Chiến Binh cũng tăng nhiều (3,1%) để đáp ứng nhu cầu cho quân nhân về hưu, thương tật trở về.
Trong khi đó, th́ tổng số thu chỉ là 2,627 ngàn-tỷ, trong đó thuế lợi tức cá nhân như bấy lâu nay vẫn đem lại số thu cao nhất: 1,141 ngàn tỷ (43,4%). Kế đến là thuế lợi tức công ty 329 tỷ (12,5%); thuế công quản (excise tax) 103 tỷ (3,92%). Deposits of Earnings và Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang cũng sẽ đem lại 66 tỷ (2,5%). Riêng Thuế An Sinh Xă Hội và Thuế Lương Bỗng đem lại 925 tỷ (35%). Chúng ta cũng đừng quên rằng thuế an sinh xă hội của những người chưa về hưu mỗi tháng 2 kỳ phải bỏ vào trust fund, trên nguyên tắc là để sau này trả mỗi tháng cho người đó. Nhưng trust này có nhiều tiền quá, trong khi chính phủ lại thiếu tiền. V́ vậy chính phủ cứ tiếp tục mượn đỡ để “xoay xở” và trả tiền lăi. Đă có lúc Quỹ An Sinh Xă Hội không có tiền mặt, v́ thu vào chưa kịp, để trả cho những người đă về hưu!
Thu không đủ chi, khiếm hụt ngân sách phát sinh từ đó. Và vay mượn là kết quả hiển nhiên.
|