3. Bàn về quan hệ Việt Nam – Liên Xô dưới tác động của quan hệ tam giác Mỹ – Xô – Trung
Có thể nói rằng, trong quan hệ Việt – Xô, tình thân, sự hợp tác hữu nghị và mâu thuẫn, thậm chí bất đồng là hai mặt thường trực của mối quan hệ và thay đổi theo từng thời gian nhất định. Trước tiên, phải nhận thức rằng, đây là điều hết sức bình thường và có thể hiểu được trong quan hệ quốc tế, trong quan hệ giữa các quốc gia, kể cả các quốc gia cùng ý thức hệ. Tính hai mặt này có thể lý giải bằng hàng loạt lý do và nguyên nhân: Lợi ích chiến lược toàn cầu của Liên Xô; sự thay đổi chính sách đối với Việt Nam của Mỹ; Trung Quốc và Liên Xô cạnh tranh ngôi vị trong phong trào cách mạng thế giới. Do đó, ba yếu tố Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc và quan hệ tam giác giữa các cường quốc này ảnh hưởng không nhỏ tới quan hệ Việt Nam – Liên Xô. Và vì vậy, không thể không nghiên cứu một cách thích đáng sự tác động của quan hệ tam giác Mỹ – Xô – Trung đối với quan hệ Việt Nam – Liên Xô theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Từ năm 1965 đến năm 1975, quan hệ Xô – Trung tiếp tục giảm sút một cách nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo hai nước chính thức kêu gọi quân và dân sẵn sàng bảo vệ biên giới của nước mình. Sự căng thẳng của quan hệ Xô – Trung, đặc biệt là xung đột biên giới nổ ra nhiều lần trong năm 1969 đã dẫn tới sự đối địch giữa hai nước lớn trong thời gian sau đó.
Trong tình hình quan hệ với Trung Quốc ngày càng xấu đi, Liên Xô tỏ rõ thái độ ủng hộ Việt Nam chống Mỹ để cô lập Trung Quốc và phá hoà hoãn Mỹ – Trung đang có những dấu hiệu khởi động và “chỉ có như vậy, mới có thể thực hiện thế bao vây chiến lược toàn diện đối với Trung Quốc để đảm bảo cho Liên Xô không ở vào thế hết sức bị động sau khi Trung – Mỹ tiến hành hoà giải”13. Ủng hộ Việt Nam, nắm được vấn đề Việt Nam là một đảm bảo cho Liên Xô trong việc đạt tới ngôi vị số một so với Trung Quốc trong phong trào cách mạng thế giới. Mặt khác, khi mâu thuẫn Xô – Trung càng sâu sắc, thì trong nhiều thời điểm, Liên Xô cũng nghi ngờ Việt Nam ngả theo Trung Quốc chống Liên Xô. Điều này càng làm cho Liên Xô ý thức hơn việc củng cố quan hệ với Việt Nam, lôi kéo Việt Nam chống Trung Quốc.
Quan hệ Mỹ – Xô từ năm 1965 đến năm 1972 cũng không phát triển tốt đẹp như trước nữa. Những điểm chung trong quan hệ Xô – Mỹ ngày càng ít dần. Quan hệ hai nước có những căng thẳng mới. Tình trạng này kéo dài cho tới cuộc đi thăm Liên Xô của Tổng thống Mỹ Nicsơn (5-1972) mới dịu đi. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước Liên Xô chuyển sang mở rộng và củng cố ảnh hưởng của mình với các nước, nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Mỹ trên thế giới và củng cố vị trí của mình, tạo thế cân bằng với Mỹ. Với mục đích đó, Liên Xô thực hiện viện trợ ngày càng nhiều hơn cho Việt Nam. Đồng thời, Liên Xô cũng tỏ rõ thái độ phê phán và lên án Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mặt khác, trong chiều hướng quan hệ hai nước không mấy mặn mà, Ban lãnh đạo mới của Liên Xô vẫn muốn duy trì và tăng cường quan hệ Xô – Mỹ. Từ năm 1965-1969, “Xô – Mỹ đã có chín thoả thuận về các quan hệ tay đôi”14. Điều này lý giải những biểu hiện không thuận trong quan hệ Việt Nam – Liên Xô những năm 1967-1968.
Từ năm 1972 trở đi, do muốn phá hoà hoãn Mỹ – Trung và thực hiện hoà hoãn Xô – Mỹ, nên sự ủng hộ của Liên Xô đối với Việt Nam bên cạnh mặt tích cực, có phần nào giảm đi, thể hiện qua việc Liên Xô muốn Việt Nam “giữ nguyên trạng” theo Hiệp định Paris. Nhưng biến động lớn trong những năm 1965-1975 là sự thay đổi chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc và sự gần gũi của Trung Quốc với Mỹ sau những năm dài thù địch. Cả Mỹ và Trung Quốc đều có ý đồ xích lại gần nhau. Bất đồng và xung đột Xô – Trung là một trong những lý do dẫn đến sự thay đổi của sự đối đầu Trung – Mỹ. Ngay từ năm 1968, khi cuộc chiến tranh Việt Nam đẩy Mỹ vào thế bất lợi, Mỹ đã chú ý đến thái độ của Trung Quốc trong vấn đề này. Tất cả những sự kiện đó làm cho làm cho cả Mỹ và Trung Quốc bắt đầu tìm kiếm khả năng hoà hoãn giữa hai nước.
Chuyến đi bí mật (7-1971) của H.Kitxinhgơ, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ và công khai của Tổng thống Nicxơn (2-1972) tới Trung Quốc đã mở ra một thời kỳ mới giữa hai nước. Quan hệ Mỹ – Trung được thiết lập sau nhiều năm đối đầu. Sự xích lại gần nhau giữa Mỹ và Trung Quốc là một biến động quốc tế lớn nhất trong quan hệ giữa ba nước Liên Xô – Mỹ – Trung Quốc. Việc Mỹ và Trung Quốc bắt tay nhau, theo đánh giá của H.Kitxinhgơ “đã làm biến đổi cấu trúc chính trị quốc tế”. Thủ tướng Chu Ân Lai cũng cho rằng, sự kiện này làm cho “thế giới bị rung chuyển”.
Quan hệ Mỹ – Trung được thiết lập đã tạo ra một quan hệ tam giác có tính chất chiến lược giữa ba nước lớn Mỹ – Liên Xô – Trung Quốc, mà H. Kitxinhgơgọi đó là “trò chơi ba chiều”. Quan hệ Trung – Mỹ buộc Liên Xô phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình, trước hết là với Mỹ. Trong hoà hoãn Trung – Mỹ, Liên Xô nhìn thấy ở đó hiểm hoạ của sự câu kết chống Liên Xô. Mục đích của Liên Xô là phải phá hoà hoãn Trung – Mỹ; đồng thời, khi quan hệ Xô – Trung bị tan vỡ hoàn toàn và khả năng Mỹ bại trận, rút khỏi Việt Nam để lại khoảng trống quyền lực ở Đông Nam Á, Liên Xô muốn duy trì sự kiểm soát của mình vùng này ở thông qua Việt Nam. Những tính toán này là một lý giải thuyết phục cho tính hai mặt trong quan hệ Xô – Việt thời kỳ này.
4. Kết luận
Sau khi phân tích quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô trong những năm 1965-1975, phải khẳng định rằng ảnh hưởng của mối quan hệ tới tiến trình lịch sử mỗi nước, đặc biệt là với Việt Nam là rất lớn. Đây là quan hệ ngoại giao giữa hai nhà nước có cùng một hệ tư tưởng, là mối quan hệ tác động hai chiều, qua đó mỗi bên đều tìm thấy những lợi ích thiết thực cho mình. Những giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập là rất to lớn cả mặt vật chất và tinh thần. Liên Xô là nguồn động viên, khích lệ, thế dựa cho cách mạng Việt Nam. Mặt khác, đối với Liên Xô, Việt Nam có những đóng góp nhất định cho sự tồn tại ổn định của đất nước Xô-viết. Việc Việt Nam từng bước đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ đã tạo điều kiện cho Liên Xô đối thoại với các nước đế quốc.
Hơn thế, cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm Mỹ tiêu hao rất nhiều nhân lực và vật lực, dẫn đến địa vị của Mỹ xuống dốc nhanh chóng. Ngược lại, khi Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, Liên Xô lại tăng nhanh thực lực của mình, đặc biệt là nhanh chóng phát triển quân sự. Đến cuối thập kỷ 60 – đầu thập kỷ 70 (XX), cuối cùng Liên Xô đã giành được địa vị ngang bằng với Mỹ. Trong so sánh lực lượng Mỹ – Xô đã có sự thay đổi không có lợi cho Mỹ. Trên cơ sở đó, Liên Xô lợi dụng sự suy yếu của Mỹ, nhanh chóng tăng cường ảnh hưởng vào các khu vực Trung Đông, châu Phi, Nam Á, Trung Mỹ. Như vậy, đây là mối quan hệ dựa trên cơ sở lợi ích riêng của mỗi bên trong sự kết hợp với lợi ích chung, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Ngoài ra, quan hệ tam giác Mỹ – Xô- Trung – quan hệ giữa một bên là kẻ thù chủ yếu và một bên là đồng minh chiến lược của Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp.
Sự bất đồng Xô – Trung ngày càng sâu sắc, sự hoà hoãn, xích lại gần nhau giữa Liên Xô – Mỹ và Trung Quốc – Mỹ đã tác động trực tiếp đến quan hệ Việt Nam – Liên Xô theo hai chiều hướng: Tích cực và tiêu cực. Sự vận động của tam giác Mỹ – Xô – Trung trong những năm diễn ra cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam phản ánh một hiện thực điển hình trong quan hệ chính trị quốc tế thời kỳ Chiến tranh lạnh, khi mỗi nước đều theo đuổi những mục đích quốc gia riêng, nhưng lại chịu sự chi phối nhất định của lợi ích phe phái và ý thức hệ Hiện nay, các nước trên thế giới (dù có chung hệ tư tưởng hay không) đang bị chi phối bởi quá trình hội nhập quốc tế.
Các nước, đặc biệt là các nước nhỏ đang tìm kiếm những hình thức mới trong quan hệ hợp tác, nhằm đạt tới sự bình đẳng, trên cơ sở tôn trọng quyền lợi của nhau, mang lại hiệu quả thiết thực. Mặc dù thế giới có nhiều đổi thay, nhưng kinh nghiệm cũ vẫn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Bài học rút ra ở đây là: Ngoại giao là tấm gương phản chiếu sự thịnh, suy, yếu, mạnh của mỗi quốc gia trong mối quan hệ tương tác các lợi ích, trí và lực. Do vậy, muốn đạt tới quan hệ bình đẳng trong một ván cờ ngoại giao, trước hết phải tự củng cố, xây dựng thực lực của đất nước, đặt mình vào trong sự chuyển động của các mối quan hệ quốc tế, vận động cùng thế cục .
——-
1Với sự giúp đỡ Inđônêxia 367.5 triệu rúp và Ấn Độ 1.5 tỉ rúp, thì sự giúp đỡ của Liên Xô cho Việt Nam còn rất khiêm tốn.
2 Hội nghị đã thông qua nhiều vấn đề quan trọng về đường lối cách mạng Việt Nam và một số vấn đề về quốc tế, trong đó có
chủ trương phải thắng Mỹ trong chiến tranh đặc biệt và “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”.
3 Gaiđuk. V.I (1998), Liên bang Xô-viết và chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 53.
4 Ngoại giao Việt Nam (1945-2000) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội., tr. 235.
5 Lịch sử chính sách đối ngoại của Liên Xô (1945-1970) (1971), Nxb Khoa học, Matxcơva, bản lưu tại Viện Sử học, tr.520
6 Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Sdd.
7 Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt- Trung, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr 73.
8 Gaiđuk. V.I (1998), Sđd, tr. 126.
9 Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Sdd.
10 Việt Nam- Liên Xô 30 năm quan hệ (1950-1980) (1980), Nxb Ngoại giao, Hà Nội, tr. 139.
11 Gaiđuk. V.I (1998), Sđd , tr. 125.
12 Quan hệ Việt – Xô trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bản lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng,tr. 30
13 Lý Đan Tuệ (2000), “Xung đột và mâu thuẫn Trung Quốc –Liên Xô trong vấn đề viện trợ cho Việt Nam chống Mỹ”,
Tạp chí Nghiên cứu Liên Xô Trung Quốc đương đại, số 3, tài liệu dịch từ tiếng Trung Quốc, lưu tại viện Sử học, tr.1.
14 Quan hệ Việt – Xô trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Sđd, tr. 35.
Nguồn: Basam