(PL&XH) - Cách khu công nghiệp Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An chừng 6km về phía Đông, vượt qua con đèo Ông Giảng hình vòng cung hơn 1km nữa là đến trại phong Quỳnh Lập. Nơi từng che chở cho bao phận đời bất hạnh.
Trong kí ức của họ, đó là những nỗi đau, buồn tủi không gì có thể phủ lấp được. Tuy nhiên, với khát vọng sống và niềm tin mãnh liệt ở tương lai họ đã cùng nhau lập nên làng phong, nơi ươm tình người, gieo mầm sống.
Kí ức buồn
Một buổi sáng mưa dầm rả rích, tôi và anh bạn đồng nghiệp tìm đến trại phong Quỳnh Lập. Đập vào mắt chúng tôi là những dãy nhà cấp bốn được xây thành từng cụm, khu vực dành cho từng người mắc bệnh nặng - nhẹ khác nhau sinh sống. Đây vừa là phòng điều trị nhưng cũng là những ngôi nhà được Nhà nước xây dựng cho những bệnh nhân phong, thể hiện sự quan tâm, chăm sóc đối với những con người bất hạnh, cô đơn vốn từng bị xã hội ghẻ lạnh.
Trước năm 1957, miền Bắc Việt Nam chưa có bệnh viện dành cho người nhiễm vi trùng Hasen (thường gọi là bệnh phong-cùi). Lúc đó người ta cũng chưa biết bệnh phong không hề lây nhiễm nên họ đã bị người đời hắt hủi. Những người nhiễm bệnh phong rơi vào tình cảnh cô đơn, sống lang thang không nhà cửa, người thân xa lánh. Một số người bị chôn sống với vôi vì người ta sợ một cơn "đại dịch" sẽ lây nhiễm cho xã hội. Năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Nhà nước đã có những chính sách quan tâm đến người bị nhiễm bệnh phong. Năm 1957, Bộ Y tế quyết định cho xây dựng trại phong đầu tiên ở miền Bắc tại xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An thành một khu vực tập trung điều trị và nuôi dưỡng những bệnh nhân nhiễm vi trùng Hasen.

Những mảnh đời vươn lên bằng nghị lực
Tháng 10-2000, trại phong Quỳnh Lập đổi tên thành Bệnh viện Phong - Da liễu Trung ương Quỳnh Lập. Từ khi thành lập cho tới khi đổi tên là một quá trình gian nan vất cả của cả người bệnh cũng như những bác sĩ tận tâm nơi đây. Đã nhiều lần trại phong bị giặc Mỹ ném bom đánh phá nên phải di chuyển rất nhiều chỗ cho tới địa điểm hiện tại như bây giờ. Thời điểm đông nhất ở đây có đến 2000 bệnh nhân, có cả bệnh nhân từ Lào, Campuchia, Trung Quốc chuyển về đây điều trị. Hiện nay, còn khoảng 250 bệnh nhân đang được điều trị tại đây. Một số bệnh nhân sau khi điều trị khỏi bệnh đã được cho xuất viện, một số khác ở lại vì không có khả năng tự chăm sóc bản thân.

Ông Phạm Đình Tiến (bên phải) - Trưởng khu điều trị bệnh phong trong một buổi phát quà cho bệnh nhân. Ảnh: Lê Quyết
Ám ảnh một kiếp người
Ông Phạm Đình Tiến - Trưởng khu tự quản bệnh nhân phong dẫn chúng tôi đi thăm một vòng các khu nhà điều trị vừa là nhà ở của bệnh nhân, buồn bã cho biết: "Đã hơn nửa đời người rồi, hàng ngàn người đã sống chết với cái eo đất chật hẹp tách biệt với xã hội bên ngoài này. Các chú thấy đó, bây giờ nhiều người đến đây thăm bệnh nhân vẫn còn e ngại, huống chi là hơn 50 năm trước khi mà dân trí còn thấp thì căn bệnh này khiến người ta gớm ghiếc đến mức nào. Người ta nghĩ bệnh này lây truyền nên miệt thị. Bởi vậy, nếu không chết vì bệnh thì cũng chết vì sự cô đơn, lạnh lẽo của bạn bè, người thân xa lánh mà thôi". Bản thân ông Tiến, năm 14 tuổi cũng bị mắc bệnh phong. Chàng thanh niên ấy đã phải ra trại phong Quỳnh Lập để sinh sống và điều trị nhằm tránh sự miệt thị của người đời.
Tuổi trẻ, lại xa nhà có nhiều đêm ông ngồi một mình gạt đi giọt nước mắt buồn tủi mà oán trách cho số phận. Sau một thời gian dài điều trị ở đây, ông đã thấm thía hết tâm trạng của những người chịu chung số phận. Sau khi chữa trị khỏi bệnh, ông được trở về quê, nhưng vì người đời soi mói, xa lánh cộng với sự thấu hiểu tình cảm của những bệnh nhân nơi đây, ông đã tình nguyện ở lại. Ông kết duyên với bà Nguyễn Thị Luyến, cũng là một bệnh nhân phong. Hai người nên duyên vợ chồng và sinh ra những người con khỏe mạnh, có người tốt nghiệp Đại học, đã về phục vụ người bệnh ở đây. Những tháng ngày điều trị là nỗi đau trong lòng ông. Tuy nhiên, bằng nghị lực sống ông đã biết vươn lên tìm lại chính mình và gieo mầm cho thế hệ tương lai. Bà Nguyễn Thị Luận, nhớ lại, khi phát hiện bị bệnh phong, bà được người thân đưa vào trại phong này khi mới tròn 15 tuổi. Khi đó, quê hương bà (Thanh Hóa) đang là tâm điểm của giặc Mỹ ném bom đánh phá. "Một ngày, khi tôi đang chăn bò trên triền sông, thì bị máy bay ném bom trúng và ngất lịm đi.
Khi tôi được gia đình đưa vào bệnh viện để điều trị vết thương thì được các bác sĩ cho biết là mình đã nhiễm vi trùng Hasen. Lúc đó, người ta quen gọi là bệnh hủi, những ai mắc phải bệnh đó thì không được ở trong làng nữa.
Bởi thế, khi dân làng biết tôi mắc bệnh này, tôi đi đến đâu, người dân đều xua đuổi và tránh từ xa. Cha mẹ tôi dù thương con nhưng vẫn quyết định đưa tôi vào trại phong này. Nói là chữa trị, nhưng thực ra là để cách li với xã hội mà thôi. Cũng từ đó đến giờ, tôi chưa một lần về thăm gia đình. Và cũng từ bấy đến nay, chẳng thấy một ai là người thân ghé thăm, dù chỉ một lần". Bởi vậy, trong lòng người đàn bà già nua tội nghiệp lúc nào cũng khao khát được thăm lại quê hương người thân một lần trước lúc ra đi mãi mãi. Những tháng ngày hờn tủi, nhớ nhung đã biến người con gái xinh đẹp ngày nào thành một bà cụ già tóc bạc.
Trên khuôn mặt tội nghiệp, đăm chiêu của bà ẩn chứa một nỗi niềm day dứt khôn nguôi. Bà đã khóc ròng hàng đêm vì nhớ nhà và căn bệnh phong hành hạ khiến đôi mắt của bà trở nên mờ tối. Rất may, những ngày tháng buồn tủi ở đây, bà gặp được ông Hồ Xuân Quắn - người cùng quê. Họ đều bị bệnh phong từ khi còn nhỏ. Qua nhiều năm điều trị, bệnh phong vẫn không thuyên giảm, tay chân của ông Quắn cứ bị cắt dần. Bây giờ hai bàn tay của ông đã bị cắt cụt, hai chân cũng bị cưa đến đầu gối. Cảm thông, thấu hiểu cho những mất mát, hai người đến với nhau.
Trong khuôn viên của khu vực điều trị bệnh nhân phong, người ta dễ dàng bắt gặp những mảnh đời tương tự như vậy. Họ cũng có người thân, họ hàng nhưng rồi bị nhiễm bệnh và cùng nhau vào đây nương tựa nhau, cùng nhau chia sẻ những nỗi hờn tủi mà người đời từng "trao" cho họ. Trong mặc cảm, tủi phận họ muốn người đời nhìn họ với ánh mắt cảm thông, chia sẻ. Chính vì vậy, họ cố sống và nuôi niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Kỳ 2: Tình người bên chân sóng
Lê Quyết