R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Jan 2008
Posts: 147,585
Thanks: 11
Thanked 14,000 Times in 11,166 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 183
|
Dinh tê có thể gián tiếp tố cáo một sự bội phản đối với những người đă chót đi theo kháng chiến, v́ đă bị lừa.
Trong giới văn nghệ sĩ ở Sàig̣n, đă có nhiều người cũng đă từng đi theo kháng chiến và đă bỏ kháng chiến. Vơ Phiến ở B́nh Định cũng bỏ kháng chiến về với phía Quốc Gia, B́nh Nguyên Lộc trong Nam cũng vậy. Rồi cũng trong Nam có Lê Thương đă sáng tác những bản nhạc như Bà Tư bán hàng có bốn người con. Ḥa B́nh 48, Đốt hay không Đốt, Trần Văn Trạch với Cái đồng hồ, Chuyến xe lửa mùng năm và Nguyễn Đức Quỳnh với Người Việt đáng yêu. Và tên Hoàng Trọng Miên với vở kịch Dưới Bóng Thánh Giá. Đoàn Văn Cừu th́ sau nắm đài phát thanh Sài G̣n.
Và Có ai nghĩ rằng, theo Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ từng làm việc ở ṭa báo Cứu Quốc và điều khiển một ban Văn nghệ lưu dộng. Cũng không ai nhắc tới Mai Thảo, Tạ Tỵ. Có ai nghĩ rằng Minh Đức Hoài Trinh, thời con gái, mê theo tiếng gọi cụ Hồ vào Thanh Hóa, gặp tướng Nguyễn Sơn, rồi cũng ra Phát Diệm, bị cha mẹ bắt về để lấy Phan Văn Giáo.
Chưa kể những gương mặt chính trị trổi bật thời Đệ nhất Cộng Ḥa đă từng đi theo kháng chiến như quư ông luật sư Trần Chánh Thành (bộ trưởng thông tin thời TT Ngô đ́nh Diệm), Lê Khải Trạch, Đinh Sinh Pài, người đă từng họat động với tướng Nguyễn Sơn và Đặng Thái Mai trong khu 4. Hoàng Văn Chí cũng từ khu bốn ra, tác giả cuốn sách nổi tiếng Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Cuốn sách cho thấy chính thể Hà nội đàn áp và trù dập giới văn nghệ sĩ như thế nào.
Với sự chứng dần một số những nhân vật tên tuổi đă từng tham gia và họat động cho kháng chiến, trở về cộng tác với chính quyền Quốc Gia, tôi nghĩ rằng, việc gán cho Phạm Duy phản bội kháng chiến của Nguyễn Trọng Văn khó có cơ đứng vững được. Tại sao chỉ có ḿnh Phạm Duy là người phản bội c̣n những Trần Chánh Thành, Vơ Phiến, Hoàng Thi Thơ th́ không?
V́ thế, họa sĩ Tạ Tỵ đă phản biện lại như sau:
“Trong những năm kháng chiến, Duy đă đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ư nghĩa tương tự “(10)
(10) Trích: Phạm Duy c̣n đó nỗi buồn, Tạ Ty, trang 129
Để biện hộ thêm cho Phạm Duy, Tạ Tỵ cũng đă trích dẫn thêm ư kiến của Thế Uyên như sau: “Nhiều khi tôi thấy có những người trẻ quá bất công với anh. Đ̣i hỏi thế này thế kia. Tôi thường không đồng ư với một thái độ như vậy. Nhạc Phạm Duy cất lên hơn 20 năm rồi, đă đóng góp vào các công tŕnh lớn của dân tộc và hiên diện,. trong các khổ đau của Việt Nam với tư cách là người chứng trong cuộc, người chứng tham dự. Anh phải mệt mỏi và có quyền mệt mỏi, không ai có thể làm anh hùng cả đời được”(11)
(11) Trích: Phạm Duy c̣n đó nỗi buồn, Tạ Ty, Ibid..
Khi cuốn sách của Nguyễn Trọng Văn ra đời th́ nhiều người đă nh́n thấy cái đuôi cộng sả ngoe nguẩy đằng sau cuốn sách ấy. Cách biện luận lộ liễu của NTV như một cán bộ cộng sản thứ thiệt. Cách nh́n một chiều, méo mó, thiên lệch không chối căi được. Dám NTV đă được chỉ định để viết như thế!! V́ thế sự kết án Phạm Duy của Nguyễn Trọng Văn mất đi nhiều tính khả tín.
Bên cạnh Tạ Tỵ, c̣n có Cao Thanh Tùng mà ư kiến được coi là dung ḥa hơn. Mặc dầu Cao Thanh Tùng không đồng ư việc phân chia một Phạm Duy nghệ sĩ và một Phạm Duy chính trị như nhiều người quan niệm để biện hộ cho Phạm Duy. Ngoài việc Cao Thanh Tùng cũng đồng ư với Thế Uyên như trên. Cao Thanh Tùng trích dẫn một nhạc sĩ Gia Nă Đại Georges E. Gauthier với bài viết: Phạm Duy, một nghệ thuật khúc diện, Thu Thủy dịch, tạp chí Bách Khoa số 347.
“Tôi cần phải nói rằng, nếu tôi không thể tưởng tượng nổi một Phạm Duy mà không có VN th́ tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra một VN mà không có Phạm Duy”. Ông nhạc sĩ Gia Nă Đại viết tiếp;” Chúng ta cần phải tha thứ rất nhiều cho Phạm Duy bởi v́ con người đă cống hiến rất nhiều. Nghệ thuật của Phạm Duy là một cống hiến của con tim. Các hành động của nghệ sĩ trong cuộc đời trần thế thuộc về họ và chỉ là những hành động nhất thời. Chỉ có tác phẩm là vĩnh cửu”. (12)
(12) Trích Cao Thanh Tùng trich lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Tŕnh Bày, số 23, 3-7-1971
Cuốn sách của NTV như thể một một vụ ném lựu đạn, nhưng đă bị trung ḥa và loăng đi nhiều khi có một số ư kiến phản biện như trên.
Nhận xét thực tế
Một số thực tế sau đây càng cho thấy, sau khi chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ, có đến hằng triệu người phải sơ tán theo chính sách *tiêu khổ kháng chiến* với cảnh vườn không nhà trống. Nhất là kể từ Thanh Hóa trở vào phía Nam, nhiều vùng chỉ c̣n là đổ nát và hoang tàn. Và cũng hàng triệu những dân chúng các vùng ấy đă *hồi cư*.
Chuyện đó được coi là b́nh thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc th́ tránh, chỗ nào an toàn th́ t́m về.
V́ thế có rất nhiều dân chúng, trí thức, thành phần đảng phải, chính trị gia đă sơ tán về vùng trái đệm Phát Diệm, c̣n gọi là an toàn khu. Có rất nhiều người đă dời bỏ kháng chiến hoặc chạy trốn Pháp về đây. Có tất cả khỏang 60 ngàn người đủ thành phần đă tụ tập về Phát Diệm.
60 ngàn người tụ hội về đây đều là để chờ thời, để nghe ngóng t́nh h́nh và nhất là chờ cơ hội * Dinh Tê*. Dinh tê, danh từ lần đầu tiên được xử dụng từ chữ rentrer. Chữ dinh tê là để chỉ việc bỏ khu vực kháng chiến để về Hànội. Phạm Duy cùng lắm cũng nằm trong số những người này.
Họ từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra, tức là bỏ khu tư, bỏ kháng chiến? Và cũng là trường hợp của Phạm Duy.
Nhưng phần đông họ từ Hà nội, từ Chợ Đại, Cống Thần ở Hà Đông vào (có thể là đi buôn), hoặc từ Hải Pḥng đến bằng đường biển qua cửa Cồn Thoi, cửa ngơ vào Phát Diệm. Hoặc từ Nam Định Bùi Chu, qua ngă đường sông như Yên Mô- Nho Quan hoặc Cầu Lim- Gia Viễn.
Đó là những người chạy trốn Pháp.
Phát Diệm trở thành vùng an toàn phi chiến- ít ra người ta có cảm tưởng như thế- vùng trái đệm giữa vùng tề và kháng chiến, giáp ranh với liên khu 4 gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài xuống tận khu B́nh Trị Thiên Nam Ngăi.
Để chứng tỏ Phát Diệm là nơi tạm trú cho những người trốn chạy cả hai phía Tổng bộ ( danh xưng gọi tổ chức của ĐC Lê Hữu Từ ) đà bắt được một mật lệnh, ngày 9-7-1947 của Việt Minh có câu:”dù có mất cả một đại đội cũng không được đụng đến Phát Diệm” .
Đó là về phía Việt Minh đối với Phát Diệm.
Việt Minh có hai cái lợi để không đụng độ trực tiếp với Phát Diệm.
Thứ nhất, v́ Phát Diệm là hậu cần cung cấp tất cả thuốc tây, dụng cụ, máy móc, đá lửa, xăng dầu và đôi khi ngay cả súng ống từ bên Tầu. Đó là nguồn cung cấp sống c̣n cho khu 4 của kháng chiến. Đường buôn lậu đi từ Hải Pḥng, dùng thuyền buồm xuôi Phát Diệm, đến cửa Cồn Thoi, rồi từ đó xuôi Thanh Hóa, vào khu tư.
Thứ hai, về mặt quân sự, Phát Diệm như cái hàng rào che chắn để bảo vệ an toàn khu tư trở vào. Chừng nào Phát Diệm c̣n có hai cái lợi thế ấy, Phát Diệm vẫn là một an toàn khu.
Mặc dầu giải pháp double jeu đi đến thất bại, nhưng có một điều không thể phủ nhận được là Phát Diệm là nơi trú ẩn an toàn cho những người kháng chiến cũ, cho trí thức và nhất là cho người của đảng phái. Không có Phát Diệm, nhiều nhân vật đă có thể bị giam cầm, thủ tiêu và biến mất trên chốn dân gian này rồi? Làm ǵ c̣n những Ngô Đ́nh Nhu, Phạm Đ́nh Viêm, Phạm Đ́nh Chương, Bùi Diễm, Trần Văn Chương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Bá Vỉnh. Và giả dụ họ bị Việt Minh thủ tiêu. Chính trường miền Nam đă hẳn là khác?
Lư do Phạm Duy “dinh tê”
Phần Phạm Duy khi dinh tê cũng có nước mắt nhớ tiếc dĩ văng và cũng có giọt nước mắt vui mừng v́ nh́n thấy cái cái đồn bót phía Quốc Gia. Vui mừng v́ biết rằng nay ḿnh được giải thoát.
Nếu những người này sau đó dinh tê về Hà Nội, ta sẽ gọi họ là ai? Họ có khác ǵ với Phạm Duy không? Thật không dễ để xếp loại họ.
Không lẽ chỉ v́ đổi vài lời ca mà trở thành kẻ bội phản?
Đọc hồi kư do chính Phạm Duy viết, không có chỗ nào là bằng cớ cho thấy ông gắn bó hay có ư gia nhập đảng Cộng sản. Và v́ thế, việc ông dinh tê là chuyện b́nh thường như hàng ngàn, hàng vạn người khác.
.- Thứ nhất, có thể chỉ là lư do kinh tế. Đi theo cách mạng là đói. Đói cho ḿnh và đói cho cả nhà. Đó là trường hợp 3 anh em trai bên vợ Phạm Duy. Tác giả viết:” Chúng tôi có khoảng một tháng trời để nh́n thấy chung quanh ḿnh có khá nhiều gia đ́nh đă * dinh tê*. Găp được những gia đ́nh bạn như gia đ́nh Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia đ́nh Đỗ Xuân Hợp, gia đ́nh Đ̣an Châu Mậu.. là có ngay những vụ bàn bạc về việc rentrer: vào thành hay rester,ở lại ? Ở lại, rester th́ không c̣n tiền để mua gạo mà ăn. Chưa dám nói thịt cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các thần bệnh tật …. Trong ḷng day dứt v́ chuyện”ai làm cho ai phụ t́nh ai”?
.- Thứ hai, theo Phạm Duy, Trung ương muốn khai tử bài Bên Cầu biên giới của tác giả qua trung gian nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát nên ông nổi giận và:” Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự “. Và sau khi được gặp bác Hồ, Phạm Duy đă không có một ấn tượng tốt đẹp ǵ về con người ấy và sau đó đi gặp nhạc sĩ Khoát :” Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hóa.. Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả . .. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lănh đạo văn nghệ của cả nước th́ Tố Hữu tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay v́ đó là tiền lương và văng phí.
Cuộc chia tay dứt khoát với kháng chiến bắt đầu từ việc ông được kết nạp vào Đảng. Ông viết:
“Trong một buổi trưa có nắng vàng nhảy múa trên lá cây, thả bước; trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rùng Yên Giă, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi .. Một hồi lâu, anh Khoát nói giọng thầm th́:
- Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đă được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điềun kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát: Bên cầu biên giới và nếu xuất ngoại th́ Thái Hằng phải ở lại . Một ḿnh mày đi thôi . Về suy nghĩ. Mấy, hôm nữa, trả lời tao”.(13)
(13)Trich Hồi kư Phạm Duy, tập hai, thời Cách Mạng kháng chiến
Theo Phạm Duy, chính đề nghị được kết nạp vào đảng làm ông sợ quá. Lên Việt Bắc, không bao giờ ông chờ đợi một đại ân huệ như thế này. Sau khi được gặp ông Hồ, tướng Nguyễn Sơn, ông quyết định t́m đường “dinh tê”. Và ngày 1 tháng năm 1951, đại gia đ́nh họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê.
Cuộc chia tay kháng chiến đơn giản chỉ có vậy.
- Thứ ba, Phạm Duy đâu phải loại người ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi tham dự Đại Hội Văn Hóa tổ chức tại trường Cao Đẳng, có chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn, ông viết:” tôi cũng rất sung sướng được nh́n thấy những thần tượng văn nghệ của tôi. Nhưng tôi lấy làm lạ, tự hỏi thầm tại sao nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại vắng mặt? Câu hỏi lớn đấy nhé. Sau đó c̣n thấy sự chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh Khi Xuân Diệu bắt đầu bằng câu nói: Thưa các đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dạy nói: Tôi không phải là đồng chí của các anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả lời: Chúng tôi không cần những đồng chí như anh.
Tôi cũng thấy được sự tranh chấp bạo động như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở phố Ôn Như Hầu hay là vụ Việt Minh tiêu diệt các đảng phái ở các tỉnh. Khi ở trong Nam, tôi đă thấy các đảng phái như Cao Đài, Ḥa Hảo, Đại Việt dự định bắt Trần Văn Giầu và nhóm Việt Minh. Nhưng Dương Văn Giáo ngăn cản để giữ t́nh đoàn kết. Sau này, chính Dương Văn Giáo bị Việt Minh giết.
V́ thế, tôi không có ư muốn trở thành một cán bộ Việt Minh ở Hà nội (14).
(14) Trích Hồi kư, tập hai, Ibid
Kể như đă rơ ràng, đi theo kháng chiến, nhưng thấy Việt Minh phản bội lại những người yêu nước khác, như giết người của đảng phái. Phạm Duy đă có thể thất vọng về kháng chiến và v́ thế dinh tê là điều khó có thể chê trách được.
Và giả dụ rằng, cái đám dinh tê sau này thắng trận th́ chữ phản bội c̣n có ư nghĩa ǵ? Cuối cùng, kẻ thắng là kẻ tự mang chính nghĩa về phía ḿnh, nói sao chả được.
-. Thứ tư : Xét đến số lượng các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ kháng chiến, xét đủ loại từ Nhạc hùng, nhạc t́nh, quân ca kháng chiến đến dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi nhận ra ông chỉ đổi lời những bài nào có danh từ dính dáng trực tiếp đến Việt Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ Quốc Quân mà thôi.
Có bao nhiêu bản như thế? Thực sự không có bao nhiêu. Chỉ có vài bài tất cả theo cách lư giải của tôi. Nguyễn Trọng Văn đă khám phá ra điều này cũng đă là hay lắm. Nhưng chưa đủ yếu tố thuyết phục độc giả nghĩ rằng Phạm Duy là kẻ phản bội.
Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy th́ vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ th́ vẫn được người nghe tán thưởng.
Cũng đừng quên một điều, khi nghe một bản nhạc hay, người nghe để cái cảm quan nghệ thuật lấn lướt những tiểu tiết thay đổi từ mà Nguyễn Trọng Văn nêu ra. Theo tôi, trừ tên Hồ Chí Minh cần phải đổi. Những từ như giặc Pháp, đồn tây, anh vệ quốc quân, không đổi cũng không sao.
Bằng chứng, ở miền Nam, chúng ta vẫn nghe nhạc Văn Cao, vẫn đọc văn Nguyễn Tuân thời tiền chiến có sao đâu? Sau 1975, tại Vũng Tầu, loa phóng thanh oang oang bài Anh Quốc ơi, Anh Quốc ơi của Phạm Duy đấy !! Thật là buồn cười, nhưng hiểu được. Bài đó có thể hay và người ta chẳng cần biết anh Quốc là anh nào nữa.
Kết luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ như ông đă đổi. Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của Phạm Duy, th́ những người khác lại thấy sự trở cờ đó là b́nh thường. Trừ trường hợp đổi lại ca từ một lần nữa để về sống ở VN là coi không được.
Nếu Phạm Duy có chết là chết ở chỗ đó. Dư luận có thể kết án ông ở chỗ hèn, chỗ tráo trở, chỗ bán rẻ nhân cách.
Khác nhau là giữa chúng ta và Nguyễn Trọng Văn đứng ở vị thế nào để nh́n vấn đề, để phê phán?
|