R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Jan 2008
Posts: 147,474
Thanks: 11
Thanked 13,982 Times in 11,155 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 183
|
2.- Phạm Duy chết ở một nơi nào khác?
Tài vay mượn hay cảm hứng của người nghệ sĩ?
Mỗi bản nhạc của ông là một tổng hợp hay một cộng lại những văn ảnh, những âm thanh, âm điệu, những ca từ rút ra từ các bài thơ, hoặc rút tỉa từ các câu ḥ, điệu hát của dân ca ba miền, ngay cả những điệu hát của người dân miền sơn cước, từ các vần điệu đă có sẵn, các văn ảnh quen thuộc như con trâu, cái cầy, đồng lúa xanh, người mẹ quê. Chính nhờ sự pha trộn, thu nhặt đó mà nhạc Phạm Duy rất gần gũi, ăn khách và được đón nhận một cách nồng nhiệt.
Chẳng hạn, trong bài Tiếng Hát trên Sông Lô, theo như sự nh́n nhận của ông, ông đă cảm hứng và vay mượn từ hai câu thơ Đường quen thuộc:
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn(15)
(15) Tất cả những trích dẫn trên và sau đây đều lấy lại trong tập: Ngàn lời ca của Phạm Duy, xuất bản ở hải ngoại.
Hai câu thơ Đường trên váng vất trong bài tiếng sông Lô của Phạm Duy đă trở thành: Thuyền tôi buông lái như xưa, hoặc Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang và nhất là Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng. B́nh minh nghe tiếng chim mừng líu lo.
Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế? Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và B́nh minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành b́nh minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng..
Cũng theo Phạm Duy, 10 bài tâm ca, 10 bài đạo ca ít ra bắt nguồn từ con số 10 của Mười điều tâm niệm của Ḥang Đạo. Sự liên hệ ư tưởng (associations des idées) đó đă trở thành nguồn cảm hứng âm nhạc bắt đầu từ con số 10. Tại sao không 13 hay 35 mà lại 10?
Và từ dấu mốc này, tôi dám đặt câu hỏi nghi vấn, không phải về nhạc tính, mà về một số từ rất rất Trịnh Công Sơn, một số ư hướng rất TCS như các từ Gia tài, tuổi nọ tuổi kia v.v… Uớc mơ (thơ Nhất Hạnh), để lại và những ư hướng về cái chết, về chiến tranh, về trẻ thơ v.v… Trong các bài Tâm Ca, Đạo ca của Phạm Duy.
Lẽ d́ nhiên, Phạm Duy không bao giờ nh́n nhận có một ảnh hưởng như thế trên sư nghiệp sáng tác của ông. Và chắc hẳn những bản nhạc đó đă bắt nguồn từ những cảm hứng tâm linh, từ những khát vọng sâu thẳm của cơi người hay thân phận người xuất phát từ những t́nh trạng bi kịch của đất nước. Chính từ những chỗ ấy đánh động tâm tư, khơi dạy những thao thức của tâm hồn nghệ sĩ và từ đó sản sinh ra những ḍng nhạc khá là tuyệt vời.
Người nghe nhạc khi thưởng thức nhạc Phạm Duy, đôi khi bắt gặp những âm hưởng quen thuộc đă bắt gặp ở đâu đó rồi hoặc bắt gặp một con chữ nào đó vv. Có thể một cách vô t́nh và vô thức, Phạm Duy có cùng những cảm thức, cùng những rung động đă nhập vào ông. Nhất là trong những bản nhạc phản chiến, những bài tâm ca và đạo ca. Chữ nghĩa ấy vào tay Phạm Duy trở thành một con chữ sống động, hiện sinh, như thể có một linh hồn. Vốn nguyên liệu ṛng đă có, Phạm Duy chuyển tải tài t́nh cái vốn đó thành vốn của ḿnh một cách chẳng kém tài hoa.
Thôi th́ cứ cho rằng tài hoa bắt gặp tài hoa. Nhưng trong nghệ thuật văn chương hay âm nhạc th́ trước sau thiên tài hay không vẫn là ở chỗ sáng tạo, chỗ khởi đầu. Ớ chỗ này, bất cứ ai cũng phải nh́n nhận rằng TCS sáng tạo ra ngôn ngữ, thổi vào chữ nghĩa một sự sống, một linh hồn.
Hơn bất cứ ai hết, TCS cùng một lúc sáng tạo ra ngôn từ và ḍng nhạc quyện vào nhau, gắn bó tuyệt vời. Đó là một thứ phù thủy trong ngôn ngữ, thổi vào đó một sự sống.
Trong khi đó, phần lớn âm nhạc của Phạm Duy là vay mượn thơ văn của các thi sĩ khác.
Công của ông là phổ nhạc. Phần kia là của các nhà thơ. Về điểm này, tôi cũng đặt câu hỏi phần vinh danh mà ông được thụ hưởng th́ trong đó có bao nhiêu phần đóng góp âm thầm của các nhà thơ được chia sẻ cái vinh danh đó?
Chỗ nào cho Nguyễn Bính, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Linh Phương, Ngô Đ́nh Vận, Hữu Loan, Lê thị Ư, Phạm Lê Phan, Phạm Văn Bính, Hoa Đất Nắng, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Đỗ Quư Toàn, Nguyễn Tất Nhiên, Thanh Hữu, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Hoài Trinh, Hồng Nam tức Hô Hán Sơn, Guillaume Apolinnaire. Và người chỉ c̣n có cái bị thằng ăn mày, đói rách tả tơi như Bùi Giáng cũng bị Phạm Duy mượn đỡ bài Gái lộI qua khe cho những bài Tục ca của Phạm Duy. Mà không có một đền bù, vật chất cũng như tinh thần, không có đề tên trên bản nhạc. Không dám bảo là đạo văn, ăn cắp, nhưng rơ ràng là “mượn đỡ”.
Kết luận về phần này th́ chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy th́ kể là kỳ tài.
Kể là có một không hai.
Nhưng tôi nhận ra một điều thấy cần được nói ra và có thể nhiều người cũng biết như thế. Có nhiều bài do chính ông viết lời như bài Đêm xuân, tại Chợ Neo, Thanh Hóa ghi lại mối t́nh với Thái Hằng. Hay bài Cành Hoa trắng, Thanh Hóa, 1950 hay bài Gánh lúa, rất nổi tiếng, trước khi dinh tê. Điều đó không có ǵ để nói nữa.
Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ Guillaume Apollinaire, Sàig̣n 1970.
Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tửởng như c̣n người yêu, thơ Lê thị Ư, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân…
Đó chỉ là vài trường hợp họa hiếm. C̣n những trường hợp khác th́ không được ghi đầy đủ. Và đấy chỉ là ghi lại t Ngàn lời ca của Phạm Duy sau này như một loại sách sử âm nhạc. Nhưng tôi không đủ điều kiện để t́m hiểu xem, khi được ấn hành thành bản nhạc, được in ấn hồi trước 1975, được bán ở các vỉa hè Sàig̣n, tên các thi sĩ được Phạm Duy phổ nhạc có được ông trân trọng ghi đầy đủ trên các bản nhạc hay không? Ở Hải ngọai th́ tôi được biết có một số bản nhạc được in lại có ghi đầy đủ tên thi sĩ và tên nhạc sĩ. Nhưng điều đó có chắc rằng, toàn thể các bản nhạc của Phạm Duy in ấn trước 1975 đều có đề tên các thi sĩ?
Việc phổ nhạc thơ là một hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa miền Nam trước 1975. Trong một bài phỏng vấn Du Tử Lê của Cỏ Ngư trên Talawas, ngày 5-5-06, Du Tử Lê cho biết có hơn 300 bài thơ của ông đă được phổ nhạc mà theo ông:” Đó là chưa kể có những nhạc sĩ lấy thơ của tôi, không chỉ là cái ư, mà cả câu thơ, nhiều câu thơ làm thành ca khúc mà không hề đề cập đến tên tôi, dù chỉ là hàng chữ “ ư thơ ” thôi cũng không có. Thậm chí, có báo chí nêu đích danh bài thơ ấy, bản nhạc ấy, nhạc sĩ ây. Nhưng người nhạc sĩ này vẫn lờ đi…”
Riêng trường hợp Phạm Duy, Du Tử Lê có tiết lộ PD có phổ nhạc bài thơ “Kiếp sau, xin giữ lại đời cho nhau” vào năm 1967 ǵ đó. Rất tiếc, dù đă t́m kỹ, tôi cũng không t́m thấy bài hát này.
Nhưng điều tôi có thể chắc chắn là trong Ngàn lời ca th́ hầu như Phạm Duy đă không nêu tên các thi sĩ, tác giả các lời ca của bản nhạc. Ông có cố t́nh quên tên họ không? Trong khi đó, ông ghi rất kỹ thời gian sáng tác một bản nhạc.
Chính v́ thế sau này đă xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy. Có một trường hợp mà tôi biết khá rơ về năm bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Ḥa. Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm t́nh lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hăy yêu chàng và Vái trời . 5 bài thơ này đă là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hănh diện v́ thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái t́nh huống như thế nên ông nói: Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa th́ Nguyễn Tất Nhiên ..đ̣i tiền. Kể từ đó về sau, PD không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.
Tôi đă thử t́m trong Ngàn lời ca để xem ông có ghi lại năm bài nhạc, có thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không? Tôi đă không t́m thấy bài nào trong năm bài ấy.
Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng”nhóc con” muốn đ̣i tiền và kiện ông mà Phạm Duy đă cố t́nh bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đ̣i chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút KT đă trả tiền nhuận bút v́ thương bạn. Bởi vi, tờ báo ai đă cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đă là một niềm vui rồi v́ tờ báo quá đẹp, trang nhă, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.
Nhưng được biết đến lúc nhà thơ này từ giă cơi đời th́ PD cũng nằm trong số những người đến tiễn đưa anh về thế giới bên kia.
Phạm Duy đă kể lại trong Ngàn lời ca về người bạn t́nh của ông, Alice, con gái của một người t́nh cũ của ông ở Phan Thiết là Hélène, Alice đă làm đến 300 bài thơ tặng ông và đă là nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết phổ nhạc. Khởi đầu là Thương T́nh ca với những giai điệu:”
D́u nhau đi trên phố vắng
D́u nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
D́u nhau đi chung một niềm Thương
Và tiếp nối là Ngày đó chúng ḿnh, Đừng xa nhau, Kiếp nào có yêu nhau (Thơ của Hoài Trinh). Bài này của Hoài Trinh có in lại trong một băng nhạc ở Hải ngọai, thấy có điền tên tác giả là Hoài Trinh.
Tôi không thấy ông đề tên Alice trong những bản nhạc t́nh có thể nói là tuyệt vời ấy trong Ngàn lời ca?. Thật là đáng tiếc. Thật là “thằng cha bội bạc”.
Nhân tiện đây, phải nói rằng nhạc t́nh của Phạm Duy quả là tuyệt vời. Đầy cảm tính. (sentimental) Và chỉ có một người sau này có thể qua mặt ông là Trịnh Công Sơn với nhạc t́nh đầy năo tính( cérébral) Chữ của Phạm Duy). Và có những người trẻ tuổi đă chẳng ngại ngùng viết: “Với tôi, chiều sâu của Phạm Duy là chiều sâu của vực thẳm không đáy, đỉnh cao là đỉnh cao của ngọn trời và kích thước thứ ba là chiều ngang của không gian vô tận”
Xin trích dẫn một đôi câu nữa để chúng ta cùng say sưa ngậm ngùi:
Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
T́nh trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, Có sót sa cũng hoài mà thôi
Và để nghe Thái Thanh nức nở một lần nữa thơ của Hoài Trinh, phổ nhạc là của Phạm Duy:
Đừng nh́n em nữa anh ơi ..
Kiếp nào có yêu nhau, th́ xin t́m đến mai sau ..
Alice đă không có một chỗ đứng đáng nhẽ phải có, đáng nhẽ phải dành cho cô!! Không thể quên như thế được.
Nhưng dưới mắt Phạm Duy: Phổ nhạc là chắp cánh cho thơ bay cao. V́ thế, các thi sĩ bị bỏ quên cũng thật là dễ hiểu, v́ ai là người đă chắp cánh cho họ?
Những người đó ít hay nhiều cũng làm nên vóc dáng Phạm Duy. Có thể, nhờ nhạc sĩ mà bài thơ đi xa hơn nữa. Nhưng dù muốn, dù không vẫn là mượn thơ của thi sĩ. Họ đă chẳng có một vị trí xứng đáng trong gia tài âm nhạc của họ Phạm. So ra những người t́nh của Trịnh Công Sơn may mắn hơn nhiều, vinh dự hơn nhiều, đi vào những thiên t́nh sử của một nhạc sĩ tài hoa có một không hai. Những Diễm.. và cuối cùng đến Hồng Nhung.
Hăy khoan nói đến chuyện tiền bạc. Hăy trả lại lẽ công bằng về cái thẩm quyền tinh thần, về những sản phẩm trí tuệ ấy.
Tôi vẫn cảm thấy tức anh ách khi viết những ḍng này, nghĩ tới Alice, Huy Cận trong Ngậm ngùi và bao nhiêu thi sĩ khác.
Phải chăng chính ở điểm này mà Nguyễn Trọng Văn nên dùng bút để giết chết Phạm Duy th́ đúng hơn!!
3.- Phạm Duy của nhiều khuôn mặt
Ngay từ hồi trước 1975, nhiều dư luận cho rằng Phạm Duy là người bất nhất, tham lam, chụp giựt, tính cơ hội trong những sáng tác nhạc của ông. Các chủ đề sáng tác của ông, mặc dầu trải dài suốt hành tŕnh nhân thế của ông, bám sát vào những biến cố của thời cuộc, của đất nước cho thấy nó quá đa dạng, trái khoáy, thiếu cân xứng, thiếu liên tục nhất quán. Nghe những bản nhạc ấy, nhiều khi không khỏi ngỡ ngàng, thấy lạ, thấy kỳ dị và cảm giác quan trọng là thấy có ǵ đó không ổn. Có thể gọi đó là một thứ sincérité instantannée, thành thật nhất thời cảm hứng nhất thời, xung động nhất thời (émotion primaire)
Cảm hứng nhất thời đó cũng giống như một thanh niên lăng tử, ham vui, chóng chán. Khó có cái ǵ đọng lại, kết tinh, có chiều sâu, có âm hưởng.
Đó là thứ nhà văn không có style, nhạc sĩ không có nét nhạc, thiếu cá tính, họa sĩ thiếu gam mầu.
Đối với một người như TCS, ta chỉ cần nghe một điệu nhạc, bắt ngay được cái hồn tính của điệu nhạc ấy và biết ngay là Trịnh Công Sơn. Nó có một cái duy nhất, cái độc đáo, cái làm nên thế giới âm nhạc ấy. Cũng vậy, xem tranh phố cổ của Bùi xuân Phái quen thuộc, lướt qua cũng nhận ra gam mầu trong tranh rất xanh nhạt, xám nhẹ, gợi nét buồn với h́nh ảnh những căn nhà, trống vắng, trơ chọi .. Họa sĩ nổi danh với hai chữ phố phái, một đặc sủng trong tranh Bùi Xuân Phái cũng nhờ ở chỗ có cái đồng nhất thể, cái thể tính của tranh vẽ phố cổ của ông. Trông là biết, là nh́n nhận ra tác giả.
Phạm Duy trái lại đưa người nghe nhạc ông từ thái cực này đến thái cực khác, hay dở lẫn lộn, pha chế, dửng mỡ, thô tục, thanh cao, ngậm ngùi, thiết tha, xót xa, rẻ tiền, vay mượn lung tung, chắp vá tùy tiện.
Có vẻ trong sáng tác, lúc nào ông cũng tham lam, muốn thay đổi, muốn cái lạ, cái mới theo cái kiểu tiện đâu hay đấy, theo cái kiểu có tiền th́ làm. Đôi khi không khỏi làm người nghe khó chịu và bực dọc.
Sáng tác nhiều nhất so với các nhạc sĩ khác. Phạm Duy 1000 bài. Trịnh Công Sơn 600. Nhưng cái dở của Phạm Duy cũng không ít.
** Giai đoạn kháng chiến ca
Dành cho giai đoạn này, ông có trên dưới 50 bài. Nhưng chỉ độ 10 bài nay c̣n được nhắc nhở tới. Bài phổ nhạc đầu tiên Cô Hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, 1942. Cũng là hay, nhưng khó có thể so b́ với Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong và Buồn tàn thu của Văn Cao. Mà Đặng Thế Phong sáng tác nhiều nhặn ǵ cho cam. Nhạc của Đặng Thế Phong dù ít, nhưng bài nào cũng hay. Ít mà tuyệt vời. Những bản nhạc hùng của Phạm Duy trong thời kỳ kháng chiến th́ may mắn c̣n được quân đội VNCH xử dụng như các bản quân hành như Xuất Quân, Nào bao hùng binh tiến lên..Chiến sĩ vô danh, Đường về quê, Khởi hành…
Trong số đó, vài ba bài dân ca kháng chiến thật hay và ngậm ngùi như Nhớ người Thương binh, Ru con, và Nương chiều. Đó là những bài ca với những văn ảnh quen thuộc như mẹ già, con thơ, vợ hiền rất gần gũi với người VN và được nhiêu người ưa thích.
Ít ra, trong giai đọan này, người ta c̣n nhận ra được tính thuần nhất trong chiều hướng sáng tác của người nghệ sĩ. Mặc dầy vậy, nhiều bài nay không một ai biết đến nữa v́ tính tham lam, viết dễ của tác giả như các bài Quân Y ca, Thiếu sinh quân, Ngọn trào quay súng, Một viên đạn là một quân thù. Đ̣an quân Văn hóa.
Tham lam. Đó là cái dở nhất của Phạm Duy. Đó là cái giá phải trả dành cho những bản nhạc bị bỏ quên mà cũng dành cho chính tác giả. Có đến 3 phần tư những bản nhạc của Phạm Duy sau này đă không ai biết đến nữa.
** Giai đoạn 20 năm miền Nam.
Đây là một thời gian dài đánh dấu sự thành công của Phạm Duy. Thành công của ông bắt đầu với ban Hợp ca Thăng Long trên đài Pháp Á, từ 1951. Tới 1955, thời ông Diệm đổi là Đài phát thanh Quốc Gia. Với những tên tuổI như Hoài Trung (Phạm Đ́nh Viêm) Hoài Bắc (Phạm Đ́nh Chương), Phạm Duy, Thái Hằng và Thái Thanh (Băng Thanh). Với những bài ca khá tuyệt vời như T́nh Hoài Hương, Tôi yêu tiếng nước tôi (1953).
Ban Hợp ca Thăng Long
Đây là giai đoạn phong phú và thành công rực rỡ nhất của cuộc đời làm nghệ sĩ của Phạm Duy.
Thoạt tiên với Ban Hợp ca Thăng Long đă nổi như cồn. Có thể so sánh nó giống như Sáng Tạo trong văn học với Mai Thảo. Nhạc với Phạm Duy, với ban Hợp ca Thăng Long. Văn với Mai Thảo với tạp chí Sáng Tạo. Cả hai là những đặc sản miền Bắc mang vào như trái cây đầu mùa ở miền Nam lúc ấy.
Những bản t́nh ca tuyệt vời cũng hầu hết được sáng tác trong giai đoạn này đă đư tên tuổi PD lên cao, cao thật cao.
Trường ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam và dân ca ba miền.
Cạnh đó là Hai bản Trường ca: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Hai trường ca này làm nên vóc dáng Phạm Duy. Bản trường ca nói đến người lữ khách lên đường, đi từ Bắc vô Nam.
|