View Single Post
Old 04-25-2012   #4
vuitoichat
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
Join Date: Jan 2008
Posts: 149,098
Thanks: 11
Thanked 14,107 Times in 11,268 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 185
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
Default

Về nội dung, nó nói lên được t́nh tự dân tộc, tấm ḷng yêu quê hương đất nước mỗi lần tác giả dừng chân tại mỗi miền. Những câu ḥ, câu ví của dân ca ba miền được nhắc nhở đến với những địa danh như Thăng Long, Tháp rùa, ải Chi Lăng, Phố Kỳ lừa. Tạ Tỵ đă nhận xét: “Suốt chuyến đi, xuyên nửa quê hương, Duy đă xúc động và nhận diện được chân dung quê hương qua tri giác tinh tế của một nghệ sĩ đă gần 40 tuổi đời” (…) Nếu Con đường cái quan là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt, th́ mẹ Việt Nam vẫn là một Âu ca, ca tụng Mẹ tổ quốc và những mẹ điển h́nh trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng dựa vào t́nh thương yêu và tính hiếu ḥa, tính t́nh này đă sinh tồn mạnh mẽ trên đất nước và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn của hiện nay (16)
(16)Tạ Tỵ, Phạm Duy c̣n đó nỗi buồn, trang 200

Nhiều người đồng thời với Phạm Duy bày tỏ một sự trân trọng coi PD là Kẻ du ca Phạm Duy với dân ca ..

Nhưng về h́nh thức, theo dơi toàn bộ bài hát th́ thấy mệt, chán, dài lê thê, cóp nhặt âm hưởng của từng vùng. Nó là một thứ lắp ráp chưa khéo. Tách ra từng đoạn, từng phần th́ có phần hay. Những phần đoạn hay thường được giới thanh niên hát trong các sinh hoạt giới trẻ và nhất là trong những đoàn du ca của giới sinh viên học sinh. Chẳng hạn dân ca Như Lư Ngựa ô, Trèo lên quan Dốc, se chỉ luồn kim, Lư con sáo, hát bội trăng rằm, qua cầu gió bay dễ gây rung cảm v́ nó rất Việt Nam, gần gũi, quen thuộc, thân thương, gợi nhớ vv được PD lấy cả ư đến lời đến điệu nhạc, điệu ḥ như thể là của ḿnh.

Nhiều người đă bày tỏ sự không thích của ḿnh. Ông đă xử dụng các câu ḥ, câu ví như thể là chính ông sáng tác. Không lạ ǵ, nhiều người đă đồng hóa Phạm Duy vào dân ca đó như thể là của chính ông sáng tác.

Riêng nhạc sĩ Lê Thương đưa ra nhận xét: Những bài như Con đường cái quan hơi dài quá, điệp ư nhiều, có nhiều đoạn lại tham lời, tham ư quá, chẳng khác người mới làm văn không chịu lựa chọn những ư đặc biệt, những tư tưởng độc đáo để diễn tả, trái lại ư nào cũng thích, tư tưởng nào cũng ham, nhất nhất thu cả vào bài văn của ḿnh, làm cho độc giả coi mà mệt, do đó sinh ra ngán ngẩm”(17)

(17)Llê Thương trả lời phỏng vấn của Vũ Bằng, Văn Học, số 102, trang 76 . Trích lại Nuyễn Trọng Văn, Ibid trang, 65

Và một tiếng nói nữa của Trần Văn Khê nhận xét về hai bài hát về miền Nam Cửu Long Giang và Nhờ gió đưa về như sau: “Tôi nghĩ có lẽ Phạm Duy cho rằng miền Nam chịu ảnh hưởng Âu Châu rất nặng nề là khi đến miền Nam người lữ khách đi thời xưa đàn ngày nay, đàn mà nhạc Việt ảnh hưởng Âu Châu rất nhiều, nên hai bài hành khúc, không c̣n dân tộc tính của nhạc Việt nữa… Riêng đối với tôi, những câu nhạc nửa Âu, nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt Nam làm tôi tiếc người nhạc sĩ sáng tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đă đem dân ca lên một mức khá cao để rồi phụ bạc dân ca trong phần chót nhạc phẩm.“ (18)

(18) Trần Văn Khê, Nhận xét Trường Ca Con đường cái quan của Phạm Duy, Văn Học, 102, trang 69. Trích lại trong Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 67

Dân ca có nghĩa là gia tài chung của mọi người, không ai là tác giả, hay chỉ là vô danh. Vậy mà Phạm Duy đă mượn ư, mượn lời, rồi coi như của ḿnh. Nhiều người như các quư ông Nguyễn Hữu Ba, Trần Văn Khê đă có nhận xét rơ ràng về vấn đề này và yêu cầu ông sửa lại.

Riêng Nguyễn Trọng Văn, thẳng thừng và khó tính hơn coi như một thứ ăn cắp không hơn, không kém. Nguyễn Trọng Văn đà nhận xét khá nặng nề như sau:” Ngoài thái độ lấy gia tài chung của dân tộc làm gia tài riêng của ḿnh, lấy vinh dự của dân tộc làm bậc thang cho riêng ḿnh, việc sử dụng trường ca cũng bị chỉ trích(19)
(19) Nguyen Trong Van, ibid, 72

Khó có thể chấp nhận được tính nhập nhằng của ông. Ông đă nhập nhằng không để tên các bài phổ nhạc của các thi sĩ. Bậy lắm. Không thể làm thế được. Đề thêm tên tác giả, bản nhạc có thể v́ thế mà mất gá trị đâu!!!

Nay lại nhập nhằng trong dân ca!!

Trong việc sáng tác của ông đa dạng về thể loại c̣n đa dạng về đề tài. Phong phú, nhưng trùng lập. Mâu thuẫn và không hợp lư. Các đề tài trong nhạc của Phạm Duy được ông thay đổi như chong chóng, nhảy từ lănh vực này sang lănh vực khác. Mỗi lần thay đổi th́ ông lại giải thích thế này, thế nọ. Nhưng nghe không lọt tai tư nào.

Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính ḿnh, trung thành với những điều ông ấp ủ. V́ không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến?

Tâm ca, Đạo ca, tục ca…

Vào năm 1965, ông bắt đầu viết tâm ca. Ở thời điểm đó, viết tâm ca là có thể hiểu được, v́ đúng thời điểm. Có vẻ thời thượng nữa. Mức độ gia tăng chiến tranh đến chóng mặt với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào miền Nam. Tâm trạng chán ghét chiến tranh, mỏi mệt, đă mỗi ngày một rơ mặt. Những người Thanh niên trẻ như Trịnh Công Sơn đă góp mặt và đă để lại những dấu ấn rơ nét qua những văn ảnh về bom đạn, xác người, quê hương rách nát.

Phạm Duy kể trong Hồi kư, tập 3, ông có ba người con trai phải nhập ngũ. Ông viết :
“Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, ḷng đầy ái ngạ. Gia đ́nh nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này”. (19)

(19) Trích Hồi Kư Phạm Duy, tập ba, chươg14

Phạm Duy đóng góp bằng 10 bài Tâm ca, phổ thơ Nhất Hạnh. Trong 10 bài Tâm ca, có hai bài thật tiêu biểu như Tôi ước mơ, Giọt mưa trên lá.

Những bài khác như Kẻ thù ta, Tiếng hát to, Một cành củi khô, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi măi mà tôi không nghe, Hát với tôi có tính dung tục, ” ḥ hét” , “tuyên truyền”. Chẳng có ǵ là Tâm ca cả .

Thơ đó thể hiện được t́nh tự nhân loại, con người với những khát vọng, những ao ước ra khỏi cuộc chiến tranh này. T́nh con người, t́nh tự nhân loại thấm nhuần tư tưởng triết học, tôn giáo như ḥa trộn vào nhau.

Nhưng tôi có cảm tưởng, ông đà không chuyên chở nổi thơ Nhất Hạnh. Âm nhạc Phạm Duy chưa tới. Thơ ở tầm cao mà nhạc không với tới. Người hát là giọng ca Thái Thanh, tuyệt vời trong Ngh́n Trùng xa cách lại tỏ ra khiên cưỡng đối với những bài tâm ca này. Giọng hát đanh quá, chát chúa, sắc quá khi lên cao giết chết cái hồn tính trong Giọt mưa trên lá.

Nhạc không tới, giọng ca không thích hợp đă tự hủy tâm ca của ông và dĩ nhiên thơ của Nhất Hạnh nữa. 10 bài tâm ca này, nay mấy bài c̣n được nghe ai hát nữa?

Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lư Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, v́ tiếng hát to (trong tâm ca số 2. không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già. Nguyễn Văn Trung th́ cho Tâm ca là mê hoặc v́ không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.

Không nói tới vấn đề Phạm Duy thú nhận có bài ông chỉ sáng tác trong 15 phút. Đó là việc của ông. Nhưng chính bản thân người nghệ sĩ chưa trang bị đủ cái Spiritualité để đi vào cái hồn, cái linh thiêng ḥa nhập giữa tâm t́nh tôn giáo và chất nghệ sĩ.

Ông thiếu một cái ǵ đó- dung tục mà chưa thoát tục-. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế th́ ông đă thất bại.

Trên Văn Học số 21, tháng 10. 1987 sau này, Bùi Vĩnh Phúc có biện hộ phân tích mấy đi nữa về 10 Bài Tâm ca cũng không cứu gỡ nổi PD.

Nói một cách thẳng thừng, 10 bài Tâm ca cũng rất có thể bị xếp chung vào thứ loạn phát (ex-croissance)nói chung của thời kỳ ấy! Nào dân ca, nào tâm ca, đạo ca, du ca, vỉa hè ca, tục ca.v.v..

V́ vậy có một khoảng cách chưa quyện vào nhau giữa nhạc và thơ. Nó khác trường hợp TCS. Mặc dầu Phạm Duy tự tin rằng: Tôi đă nói hộ thi sĩ. Và tôi xin ghi lại đây lời giới thiệu của nhà Lá Bối khi cho in tập nhạc:” Tuy nhiên Lá Bối ghi nhận rằng những bài Tâm ca được tŕnh bày trong đây, tuy cũng xuất phát từ trái tim, tuy cũng là ngôn ngữ khóc cười theo mệnh nước, vẫn c̣n mang một sắc thái đặc biệt: Đó là tính cách tâm linh nội hướng và ư hướng điều hợp”(20)
(20)Trich Hồi ky Phạm Duy, tập ba, Ibid

Khi Thích Nhất Hạnh nói tới khát vọng ḥa b́nh, nói tới ước mơ th́ người tu sĩ thi sĩ ấy gửi gắm trong đó một sức mạnh tâm linh, một khát vọng tôn giáo, một nguyện cầu cho việc giải quyết cuộc chiến tranh ấy. Đem cái sức mạnh tâm linh ấy đến như một giải pháp vĩnh viễn cho con người chẳng những xóa bỏ hận thù mà c̣n có thể xích lại gần nhau, như anh em?

Ảo tưởng hay ước mơ? Đă gọi là ước mơ th́ ai có thể cấm ông Nhất Hạnh được? Quyền ước mơ là quyền tối thượng trong những t́nh huống thật sự bi kịch đối với một nghệ sĩ. Thường sự phê phán là dựa trên thực tế cuộc đời mà ước mơ th́ lại thuộc một thế giới đi ra khỏi cuộc đời hay ở trên cuộc đời. Vậy th́ sự phê phán có tỏ ra thích hợp không.

Thiếu cái chiều kích tâm linh trong việc phổ nhạc thơ Nhất Hạnh th́ PD khó có hy vọng thành công.

Loạn Phát (ex-croissance) trong trường hợp Phạm Duy

Làm xong 10 bài Tâm ca, PD cho người ta có cảm tưởng như thế là xong. Tâm ca đă hoàn tất, không con có ǵ để nói tới nữa. Bỏ Tâm ca một cách không thương tiếc, ông nhảy sang lănh vực sáng tác nhạc khác..

Ngay cùng năm đó, 1965, người ta thấy Phạm Duy sản xuất hàng loạt những bản nhạc nghịch chiều, trái cựa như chửi cha nhau. Thoạt đầu với Huyền sử ca một người mang tên Quốc. Một cách gián tiếp tôn vinh những người hùng trong chiến tranh, thần tượng hóa cái chết của phi công Phạm Phú Quốc. Ông tự hào mở đầu cho ḍng nhạc hùng. Và tiếp theo đó một lô hàng sản xuất như ḿ ăn liền mang nhăn hiệu: Cung khúc Vơ Đại Tôn, Mùa Xuân máu đỏ, Bài ca tử sĩ cho người quê tôi. C̣n tệ hơn nữa, cũng chính năm đó, một lô sản phẩm có tên: Một hai ba, chúng ta là lính cả làng, Thi đua biện luận, Nông thôn quật khởi.

Ông ra Vũng Tàu trong công tác xây dựng nông thôn. Ông lại cho ra đời một loạt bài hát như: Tay súng tay cầy, Hát hay không bằng hay hát, Cùng nhau xây ấp Mới, Khoác áo mầu đen …

Tôi không có ư nói rằng không nên đề cao phi công Phạm Phú Quốc cũng như những bài thuộc xây dựng nông thôn của ông. Nhưng không thể cùng một lúc khát vọng ḥa b́nh, ngồi lại với nhau, sau đó lại cổ vũ chiến tranh. Và cuối cùng kết thúc với chiến ca mùa hè vào năm 1972.

Phạm Duy trong t́nh huống và cung cách sáng tác như thế đưa đến sự nghi ngờ về tính trung thực của ông. Những sáng tác lẫn lộn ấy thể hiện tính bèo bọt, tính phù phiếm và bán “hàng giả” của ông..

Tháng 3-1966

Chống chiến tranh, phản chiến, khát vọng ḥa b́nh. Đó là những ǵ có thể t́m thấy trong tâm ca. Vậy mà cũng chính con người ấy, nghệ sĩ ấy, vào tháng 3-1966, ông được bộ Ngọai giao Mỹ mời viếng thăm Hoa Kỳ. Sau đó vào năm 1970, một lần nữa, ông được gửi sang Mỹ để “giải độc” dư luận Mỹ thường chống chiến tranh. Thật là trái khoáy và trớ chêu quá.
Trong chuyến đi này, tại New York, ông đă có dịp gặp một nhóm chủ ḥa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller ..

Người Mỹ phản chiến trả tiền lưu trú, đi lại cho nhà sư mặc áo vàng ngồi” tĩnh tọa” trên bục sân khấu kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Cũng người Mỹ trả tiền du lịch cho một nhạc sĩ ngồi ở dưới trong “chiến dịch giải độc” những kẻ chủ ḥa ngồi ở trên ..

Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai tṛ khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.

Chuyến đi Mỹ này thật khó nghĩ quá. Đă vậy, bài hát tủ mà ông thường hát cho Mỳ nó nghe lại là bài Giọt mưa trên lá, v́ có lời bằng anh văn. Nhận tiền Mỹ, làm công tác tuyên truyền, giải độc cho Mỹ.

Nhưng hát Giọt mưa trên lá cho Mỹ nghe là một công việc vừa chửi Mỹ- kẻ chi tiền-, vừa chửi chính ḿnh-kẻ nhận tiền-.

1970 một lần nữa, ông lại được mời sang Hoa Kỳ đi với đoàn bộ thông tin Hoa Kỳ nhằm “GIẢI ĐỘC”dư luận Mỹ trong vai tṛ cố vấn.

Người Mỹ có thể nào thông minh và sáng tạo ra một Phạm Duy thủ nhiều vai tṛ như thế!!~ Và vai nào Phạm Duy cũng thủ diễn trọn vẹn.
Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.

Vỉa hè ca:

Sang đến năm 1968, ông sáng tác những nhạc phẩm có tên là vỉa hè ca, gợi hứng từ Chanson du pavé của Pháp. Vỉa hè ca gồm có các bài như Sức Mấy mà buồn, Nghèo mà không ham, Ô kê salem, Ô kê nước mắm.

Vỉa hè ca biểu tỏ sự nghèo nàn, sự kiệt quệ, sự bế tắc trong sáng tác của Phạm Duy. Lời văn tếu, dửng mỡ, đùa giỡn, bất cần, nó chửi tất cả gia tài sáng tác của họ Phạm. Vỉa hè ca phải chăng là một mặt khác của cuộc đời sáng tác của Phạm Duy! Sức mấy trở thành chữ dùng thông tục .. Cái ǵ cũng sức mấy ..cả . Sức mấy như một thái độ bất cần, thách đố và coi thường tất cả ..

Tục ca:

Thấy như chưa đủ dose, ông dấn thêm bước nữa, sản xuất tục ca để văng tục vào cái xă hội ông đang sống. Đă có 10 bài Tâm Ca th́ tại sao không có 10 bài tục ca. Đó là cái lối lư luận của Phạm Duy.

Thế là 10 bài tục ca ra đời với những tên rất là tục như: Khỉ đột, T́nh hôi, Nh́n Lồn.. em Đ.. Cầm cu… Ông viết, trong bấy nhiều bài, bài Nh́n Lồn, tôi viết cho đủ chữ là “tục tĩu quá”. Đă viết tục đuợc như thế mà c̣n ngại ngùng chi mà không viết đầy đủ chữ. Trẻ con nh́n lồn phụ nữ ngồi đi cầu, nh́n đủ thứ: lồn non, lồn lớn con, mập mạp, lồn mềm… Lồn tṛn hoặc lồn móm mém… rồi cuối cùng có đứa nh́n phải đúng lồn mẹ nó. Tôi gọi là tục tĩu quá cũng không quá đáng.

Lại một lần nữa, ông thú nhận viết tục ca là do ảnh hưởng Phạm Duy Tốn,(20) nhất là nhạc sĩ Georges Brassens. Ông hay bắt chước quá. Và cầm nhầm nữa. Mấy bài tục ca này phần âm nhạc thế nào th́ tôi không biết, nhưng phần lời ca th́ thoải mái và gratuit quá, chẳng để làm ǵ. Thật sự không biết để làm ǵ? Từ nh́n lồn sang đạo ca th́ không biết phải nói thế nào.

(20) Phạm Duy Tốn có viết một cuốn truyện gọi là Tiếu Lâm Annam rất là tục. Trong đó có kể một câu truyện, người vợ tḥm thèm th́ nhét một củ từ vào chỗ kín, người chồng không làm được đành ngủ với chó cái và không rút ra được. Nhưng Phạm Duy Tốn chỉ làm công việc ” sưu tập” Tiếu Lâm Annam . C̣n Phạm Duy là “sáng tác”
Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác:

Tôi có người yêu cái đít, to như Thẩm Thúy Hằng
Cái đít nh́n qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
Vừa to vừa lớn ! Như Những mặt vua
Mặt ông tổng thống cũng phải thua(21)
(21) . Trích Hồi kư Phạm Duy, Ibid, tập 3..

Tại sao ông lại viết tục ca để làm ǵ?

Theo ông, viết tục là để châm biếm xă hội hoặc công phẫn về chính trị thời 1968-1972. Nhất là để “nổi giận” phải văng tục vào nền văn minh cơ khí, nền văn minh chiến tranh, nền văn minh tiêu thụ.

Nổi giận với chiến tranh, với nền văn minh tiêu thụ th́ có liên quan ǵ đến cái đít to tội nghiệp của Thẩm Thúy Hằng bị biến thành con tin !! Đến việc mang những đứa trẻ nít vô tội đi nh́n L. đàn bà !!
Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !

Đạo ca:
Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư th́ không bao giờ Phạm Duy có ư tưởng viết đạo ca. Sau khi đă đi qua một hành tŕnh sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay th́ bay lên chín từng không của Đạo ca .

Ở đây, đó là một bước nhảy vào điều mà ông gọi là Đạo ca. Điều ǵ đă khiến ông thay đổi như thế? Khó hiểu mà cũng dễ hiểu. Chỉ là cái duyên gặp gỡ với Phạm Thiên Thư mà sinh ra cớ sự.

Thoạt đầu tiên, Phạm Thiên Thư đưa ông bài thơ: Ngày xưa Hoàng Thị. Thế là có bài: Anh tan trường về. Bài hát thật dề thương. Ai cũng thích và ai cũng hát. Nhất là trong những buổi họp mặt đông người.

Sau đó, Phạm Duy khoác áo Thiền sư.

Khi đạo ca ra đời, ông cũng nhận được một số lời khen của bạn bè như họa sĩ Nguyễn Gia Trí, G.E Gauthier và như thường lệ có họa sĩ Tạ Tỵ. Những khái niệm hóa thân, đại vũ trụ, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một, ḥa vào đạo, vào vũ trụ v.v… Tự nhiên, bỗng chốc ông được thừa hưởng hết những tinh hoa, cốt lơi cao diệu ấy, đạt tới chỗ siêu thoát mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào.

Những lời khen trên có chỗ sai là người ta chỉ biết có ông, tưởng ông là người có những tư tưởng cao diệu mà không lư ǵ đến Phạm Thiên Thư cả.

Nhưng không sao, kẻ đă bỏ đời mà đi, thong dong đạo cốt theo tiếng chuông *Cam Lộ* như Phạm Thiên Thư th́ c̣n xá ǵ ba tiếng thị phi. Ông Phạm Duy cứ an tâm mà vơ hết về ḿnh đi.

Nhưng Nguyễn Trọng Văn, một lần nữa đứng ở quan điểm con người dấn thân, nhập cuộc chỉ thấy ở đó một thái độ thoát ly, chạy trốn: “Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một thái độ chạy trốn… Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một cái ǵ mỉa mai, lạc lơng nếu không phải là một cái ǵ ru ngủ… Đạo ca không phải một thăng hóa, trái lại là một thái hóa so với tâm ca .. Đạo ca là một nối dài của t́nh ca, tục ca… khi nhữing thứ này không đủ sức giúp người thành thị thóat ly khỏi ḥan cảnh đau khổ trước mắt.“(22)

(22) Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid, trang 123- 124

Tôi không nghĩ như Nguyễn Trọng Văn, Đạo ca vẫn có chỗ của nó trong thời chiến. Chính ở những t́nh huống bi kịch đối đầu từng giây phút với cái chết, với khổ đau, Đạo ca là con đường tối ưu dần đưa con người ra khỏi trốn lưu đầy.

Và lúc nào, con người dù hạnh phúc hay khổ đau th́ khát vọng về một thế giới bên trên vẫn là một khát vọng khôn nguôi.
vuitoichat_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.15616 seconds with 10 queries