Khát vọng tôn gíáo là một khát vọng bản thể, khát vọng vĩnh hằng.
Nhưng cái vấn đề Phạm Duy là một thứ phù thủy ngôn ngữ lắt léo, từ Tâm ca, tục ca, L..c, có đủ tư cách đóng vai một thiền sư dẫn dắt chúng sinh vào con đường của Đạo, của Tuyệt đối thể với những phạm trù ngôn ngữ như tiểu ngă, đại ngă, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một không!
Sau 1975 tại Hải ngoại
Trước khi chấm dứt hành tŕnh sáng tác của Phạm Duy, chúng ta không quên : Bày chim bỏ xứ mà đến nay tôi chỉ được một lần nghe hát. H́nh như số phận của nó cũng giống như số phận một số nhà văn sáng tác sau 1975 ở Hải Ngoại.
Tiếng hát, lời ca của Phạm Duy đă tắt.
Trong thời kỳ này, từ 1978 về sau, ông sáng tác và phổ nhạc tất cả gần 100 bài hát. Nhưng hầu như không mấy ai biết đến những bài này. Trong đó, tôi đặc biệt để ư đến thơ Cao Tần và thơ Nguyễn Chí Thiện, loại thơ được coi là Chống Cộng mạnh mẽ nhất đă được ông phổ nhạc. Cạnh đó là những bản nhạc do ông phóng tác như Học Tập cải tạo, Phụ nữ Sàig̣n, Độc Lập Tự Do.( Độc lập là mất Cam Ranh, Tự do là bán dân ḿnh cho Nga, No là cơm độn bo bo, ấm là quần rách để tḥ Bác ra)…
Chống Cộng quá đi ấy chứ.
Chỉ có thể nói thêm một lần nữa, đó là thứ Phạm Duy muôn mặt.
Chẳng ai c̣n biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lơng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông tŕnh bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài G̣n. Tôi nghe mà không thấy thích thú ǵ.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ ḷng là Phạm Duy đă hết rồi.
Cuối cùng th́ cũng phải nh́n nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong cuộc đời sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của chính ông, số phận của nó sẽ không c̣n được ai biết tới.
Nhưng ông cũng đă để lại một số bài t́nh ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.
Một nhận xét nhỏ đây là lần thư hai, tôi đọc hồi kư của ông. Ông không có một lời phỉ báng bất cứ ai, nhất là giới nhạc sĩ. Dĩ nhiên không kể những lời giải thích rất tùy tiện, khá huyênh hoang, rất chủ quan về lư do tại sao sáng tác cái này cái kia.
Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối t́nh lớn nhỏ của ông. Một phần v́ là đời tư của ông, một phần c̣n có cái ǵ để nói nữa, v́ tự ông đă kể hết ra rồi trong hồi kư. Ai nói thêm nữa là thừa.
Thứ hai, chuyện ông chọn về VN ở tuổi trên 80 là một chọn lựa cá nhân chẳng nên nói tới làm ǵ. T́m về VN ở tuổi đời như thế nên được rộng lượng hiểu là chuẩn bị cho một cuộc hành tŕnh về bên kia thế giới như một giấc mơ hoài hương và chẳng nên dem những dấu ấn chính trị để phê phán ông làm ǵ. Và nếu hiểu con người Phạm Duy th́ thấy rơ rằng, ông là người theo chủ nghĩa thực dụng, bất chấp những tiêu chuẩn giá trị người đời thường mang ra dùng để phê phán ông.
Cũng ở đây, tôi nhận ra rằng Nguyễn Trọng Văn cũng như bất cứ ai phê phán ông th́ đă vấp phải sai lầm là đă đánh giá quá cao về ông, về vai tṛ người nghệ sĩ, đ̣i hỏi ở ông những điều ông không có được. Trước sau, ông chỉ là một người theo chủ nghĩa duy lợi, duy thực tiễn, chủ nghĩa cơ hội trong bất cứ t́nh huống nào.
Sau bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn tại Đại Học Văn Khoa th́ bạn bè có đưa ra nhận xét như sau:” Cậu làm như vậy là cho ông ấy đội mồ đứng dậy, chính cậu tác tượng cho ông ta, chứ đâu phải khai tử ông ấy. Hoặc: “Tư cách của Phạm Duy mà cậu lôi ông vào giảng đường Văn Khoa để nói tức là cậu biến ông ấy thành bất tử rồi, vinh hạnh cho Phạm Duy quá c̣n ǵ. Đáng lư phải nói bên cạnh đống rác hay cầu tiêu mới phải.”(23)
(23Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid , trang 128
Những phát biểu bên lề như thế và một số nhận xét coi ông như một gái điếm đều là những nhận xét xúc phạm đến ông một cách bất công. Thật không nên.
Bài viết này có khen, có chê và cũng nhằm trả lại công đạo cho ông một phần.
Và v́ thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm Duy c̣n đó và không thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với Trịnh Công Sơn là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Ḥa trước 1975.
Giết ông th́ Ta ở với ai. Phần ông, trong những trang cuối cùng của tập Hồi kư, ông đă viết như sau:
“Ngó lại những ngày đi theo Việt Minh th́ chua sót, nh́n vào người quốc gia th́ thiếu hứng khởi.(…) Ngồi trước dàn máy điện toán để viết nốt những ḍng chữ cuối cùng của đời ḿnh. Suốt trong 16 năm sống ở ngoại quốc, lúc nào tôi cũng bị cái dĩ văng 20 năm sống ở miền Nam đè nặng trái tim. Hăy cho tôi được xụp lạy thành phố thân yêu ở đây với vài câu trong bài: Thương nhớ Sài G̣n soạn năm 1981 tại Mỹ:
Saigon ơi, yêu tôi xin chờ tôi nhớ
Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
Của Thành Đô, cao sang và say đắm
Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
Sài G̣n ơi dù có thay tên
Mà người yêu c̣n nhớ không quên …
Chỉ sợ ông không hôn vỉa hè Sài G̣n mà hôn gót kẻ mà ông đă trốn chạy và chửi bới trrong nhiều năm!!
© Nguyễn Văn Lục
© Đàn Chim Việt