R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Bốn ṿng đồng tâm
Thế giới theo quan điểm của Bắc Kinh là một địa bàn chứa đầy bất trắc, bắt đầu từ những con phố bên ngoài cửa sổ của những nhà hoạch định chính sách, đến biên giới trên bộ và những tuyến giao thông hàng hải cách xa hàng ngàn dặm, đến những mỏ khoáng sản và cánh đồng dầu lửa ở những lục địa xa xôi. Những mối đe dọa này được mô tả trong 4 ṿng đồng tâm. Trong ṿng thứ nhất, gồm toàn bộ lănh thổ mà TQ đang cai quản hay khẳng định chủ quyền, Bắc Kinh tin rằng sự ổn định chính trị và tính toàn vẹn lănh thổ của Trung Quốc đang bị các tác nhân và các thế lực nước ngoài đe dọa. So với các nước lớn khác, Trung Quốc phải đương đầu với một con số vô địch gồm các tác nhân bên ngoài đang t́m cách ảnh hưởng sự tiến hóa của TQ, thông thường bằng những đường lối mà chế độ cộng sản TQ cho là gây tác hại đối với sự sống c̣n của nó. Các nhà đầu tư nước ngoài, các cố vấn phát triển, các du khách và các du sinh tràn vào nước này, mỗi người đều mang theo ư kiến riêng của ḿnh về đường lối mà Trung Quốc nên thay đổi. Các tổ chức và chính phủ nước ngoài hiện đang cung cấp tài chính và kỹ thuật cho các nhóm hoạt động để phát triển xă hội dân sự. Các nhà bất đồng chính kiến tại Tây Tạng và Tân Cương nhận được hậu thuẫn tinh thần và ngoại giao, và đôi khi cả sự hỗ trợ vật chất từ các cộng đồng dân tộc sống rải rác khắp thế giới và từ các chính phủ nước ngoài có thiện cảm. Dọc theo bờ biển, các nước láng giềng lại đang tranh chấp các vùng lănh hải mà Bắc Kinh khẳng định chủ quyền. Đài Loan th́ được cai trị bởi một chính phủ riêng, nhận được sự công nhận ngoại giao từ 23 quốc gia, và bảo đảm an ninh từ Mỹ.
Tại các biên giới Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách đối diện một ṿng tṛn thứ hai gồm những quan tâm an ninh, do quan hệ của Trung Quốc với 14 nước láng giềng sát nách.* Ngoại trừ Liên bang Nga ra, không có một nước nào khác có nhiều láng giềng tiếp giáp như vậy. Trong đám láng giềng đó có 5 nước Trung Quốc đă từng đánh nhau trong ṿng 70 năm qua (Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Nam Triều Tiên, và Việt Nam) và một số quốc gia được cai trị bởi các chế độ thiếu ổn định. Không một nước láng giềng nào của Trung Quốc nhận thấy lợi ích quốc gia cốt lơi của ḿnh phù hợp với lợi ích của Bắc Kinh.
Nhưng hiếm khi Trung Quốc hưởng được cái xa xỉ là có thể giao thiệp với bất cứ một nước láng giềng nào của ḿnh trong một bối cảnh thuần túy song phương. Ṿng quan tâm an ninh thứ ba của TQ bao gồm t́nh h́nh chính trị của 6 khu vực địa chính trị chung quanh Trung Quốc: Đông Bắc Á, châu Đại Đương, Đông Nam Á trên đất liền, Đông Nam Á trên biển, Nam Á, và Trung Á. Mỗi một vùng này đều đặt ra những vấn đề ngoại giao và an ninh khu vực phức tạp.
Sau cùng là ṿng thứ tư: đó là thế giới xa xôi nằm ngoài khu vực láng giềng lân cận của Trung Quốc. Trung Quốc chỉ mới thực sự xâm nhập vào ṿng xa nhất này kể từ cuối thập niên 1990 và cho đến nay chỉ nhắm vào một số mục đích giới hạn: để nắm vững nguồn các thương phẩm, như dầu lửa; để tiếp cận thị trường và bỏ vốn đầu tư; để nhận được hậu thuẫn ngoại giao nhằm cô lập Đài Loan và Đạt Lai Lạt ma của Tây Tạng; và để chiêu mộ đồng minh ủng hộ lập trường của Trung Quốc về các qui phạm và chế độ pháp lư quốc tế.
Mỹ quốc khó lường
Trong mỗi một của bốn ṿng an ninh đồng tâm này của Trung Quốc đều có bóng dáng của Mỹ (omnipresent). Mỹ là tác nhân từ bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc nhiều nhất, là cường quốc đảm bảo nguyên trạng (the status quo) tại Đài Loan, có sự hiện diện hải quân sừng sơ nhất tại Biển Đông Trung Hoa và Biển Nam Trung Hoa [tức Biển Đông Việt Nam], là đồng minh chính thức hoặc không chính thức của nhiều nước láng giềng của Trung Quốc, là cường quốc chủ yếu đă soạn ra và bảo vệ các chế độ pháp lư quốc tế hiện hành. Sự hiện diện đều khắp này của Mỹ hàm ư rằng nhận thức của Trung Quốc về các động lực sâu xa của Mỹ sẽ xác định cung cách mà người Trung Quốc đối phó với hầu hết các vấn đề an ninh của ḿnh.
Bắt đầu bằng chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon năm 1972, một loạt lănh đạo Mỹ đă liên tục trấn an Trung Quốc về thiện chí của họ. Chính quyền của mỗi một tổng thống Mỹ đều tuyên bố rằng sự thịnh vượng và ổn định của Trung Quốc nằm trong lợi ích của Mỹ. Và trên thực tế, Mỹ đă làm nhiều hơn bất cứ một cường quốc nào khác để đóng góp cho sự nghiệp hiện đại hóa của Trung Quốc. Mỹ đă lôi kéo Trung Quốc vào nền kinh tế toàn cầu; đă giúp người Trung Quốc tiếp cận các thị trường, vốn, và công nghệ; đă đào tạo các chuyên gia TQ trong các ngành khoa học, công nghệ, và luật pháp quốc tế; đă ngăn chặn nỗ lực tái vũ trang toàn diện của Nhật Bản; đă duy tŕ hoà b́nh trên Bán đảo Triều Tiên; và đă giúp tránh một cuộc chiến tranh về đảo quốc Đài Loan.
Tuy nhiên các nhà làm chính sách TQ thường nhớ kỹ những chính sách và hành vi của Mỹ mà họ coi là thiếu thân thiện. Họ thấy quân đội Mỹ triển khai chung quanh Trung Quốc, và Mỹ đang duy tŕ một mạng lưới rộng lớn gồm các quan hệ quốc pḥng với nhiều nước láng giềng của Trung Quốc.Washingtonti ếp tục chống lại những nỗ lực của Bắc Kinh trong việc giành quyền kiểm soát Đài Loan. Mỹ thường xuyên gây sức ép lên Trung Quốc về các chính sách kinh tế và duy tŕ một loạt chương tŕnh chính phủ và tư nhân nhằm t́m cách ảnh hưởng lên xă hội dân sự và chính trị TQ.
Bắc Kinh coi loạt hành động có vẻ xung khắc này của Mỹ qua ba quan điểm kiên định. Một là, các học giả TQ coi tổ quốc ḿnh như kẻ kế thừa một truyền thống nông nghiệp, mang tính chiến lược phương Đông, đó là chủ ḥa, giữ thế thủ, không bành trướng, và tôn trọng đạo lư. Trái lại, họ coi văn hóa chiến lược phương Tây – nhất là văn hóa chiến lược Mỹ – là quân phiệt, giữ thế công, theo chủ nghĩa bành trướng, và vị kỷ.
Hai là, mặc dù Trung Quốc hăng hái chạy theo chủ nghĩa tư bản nhà nước (state capitalism), nhưng quan điểm của TQ về Mỹ vẫn c̣n bị tư duy chính trị Mác-xít chi phối, cho rằng các cường quốc tư bản đang t́m cách bóc lột phần c̣n lại của thế giới. Trung Quốc tin chắc các cường quốc phương Tây đang chống lại nỗ lực cạnh tranh của Trung Quốc nhằm chiếm tài nguyên và các thị trường có giá trị gia tăng cao (higher-value-added markets). Và mặc dù Trung Quốc đang ở trong t́nh trạng thặng dư mậu dịch với Mỹ và đang giữ một khối lượng trái phiếu khổng lồ của Mỹ, nhưng các nhà phân tích chính trị hàng đầu của Trung Quốc vẫn tin rằng người Mỹ đă hưởng lợi nhiều hơn trong quan hệ mậu dịch bằng cách sử dụng lao động và tín dụng rẻ của TQ để sống vung vít ngoài mức thu nhập của ḿnh.
Ba là, các lư thuyết về bang giao quốc tế của Mỹ đă trở nên phổ biến đối với các nhà phân tích chính sách trẻ tuổi của Trung Quốc, nhiều người trong số đó đă lấy những bằng cấp cao tại các đại học Mỹ. Bộ phận có nhiều ảnh hưởng nhất trong lư thuyết bang giao quốc tế tại Trung Quốc là cái mà nhiều người thường gọi là chủ nghĩa thực tiễn tiến công (offensive realism), một lư thuyết cho rằng mọi quốc gia đều ra sức kiểm soát môi trường an ninh chung quanh ḿnh đến mức tối đa mà các khả năng của ḿnh cho phép. Theo lư thuyết này, Mỹ không thể tự măn ngồi yên để nh́n sự hiện hữu của một Trung Quốc hùng mạnh và v́ thế Mỹ đang t́m mọi cách để làm chế độ cầm quyền TQ trở nên suy yếu hơn và thân Mỹ hơn. Các nhà học giả TQ thấy được bằng chứng của ư đồ này trong việcWashingtonkêu gọi dân chủ và việc Mỹ hậu thuẫn cho điều mà Trung Quốc gọi là các phong trào ly khai tại Đài Loan, Tây Tạng, và Tân Cương.
Dù có nh́n Hoa Kỳ chủ yếu qua lăng kính văn hoá chủ nghĩa, hay Mác-xít, hay thực tiễn chủ nghĩa, hầu hết các nhà chiến lược TQ cho rằng một nước hùng mạnh như Mỹ nhất định sẽ dùng quyền lực để duy tŕ và tăng cường các đặc quyền của ḿnh và sẽ coi các nỗ lực của những nước khác trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia là mối đe dọa cho an ninh của Mỹ. Giả định này đưa đến một kết luận bi quan: khi Trung Quốc trỗi dậy, Mỹ sẽ t́m cách ngăn chặn. Mỹ dùng những từ ngữ có tính cách xoa dịu; Mỹ ngụy trang hành động của ḿnh dưới chiêu bài t́m kiếm ḥa b́nh, bảo vệ nhân quyền, và thiết lập một sân chơi b́nh đẳng; và đôi khi Mỹ cũng đề nghị giúp đỡ Trung Quốc thực sự. Nhưng Mỹ có bản chất tráo trở (two-faced). Mỹ có ư định tiếp tục làm bá quyền toàn cầu duy nhất và ngăn chặn không cho Trung Quốc trở nên đủ mạnh để thách thức Mỹ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2011 với báo Liễu vọng, một tạp chí của Nhà nước TQ, Nghê Phong, Phó chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xă hội TQ, đă tóm tắt quan điểm này như sau: “Một mặt, Mỹ biết rằng Mỹ cần đến sự giúp đỡ của Trung Quốc trên một số vấn đề khu vực và toàn cầu, mặt khác, Mỹ lo ngại về một Trung Quốc hùng mạnh hơn và v́ thế Mỹ dùng nhiều phương tiện để làm tŕ trệ bước phát triển của TQ và để uốn nắn TQ cho phù hợp với các giá trị Mỹ”.
Một nhóm nhỏ gồm phần lớn những nhà phân tích trẻ tuổi hơn của TQ, những người đă nghiên cứu kỹ chính trị Mỹ, tranh luận rằng lợi ích của TQ và lợi ích của Mỹ không hoàn toàn xung khắc. Theo quan điểm của họ, hai nước đủ cách xa nhau về không gian nên lợi ích an ninh cốt lơi của hai nước không nhất thiết phải xung đột. Hai nước có thể cùng nhau hưởng lợi nhờ thương mại và các các lợi ích chung khác.
Nhưng những người mang quan điểm này chỉ là một thiểu số nhỏ bé so với các nhà chiến lược nằm phía bên kia của lăng kính gồm phần lớn các viên chức trong quân đội và các cơ quan an ninh, tức những người có một cái nh́n u ám về chính sách của Mỹ và thường có tư duy đối đầu trong đường lối Trung Quốc cần phải đối phó chính sách Mỹ. Họ cho rằng Trung Quốc phải mạnh dạn thách thức Mỹ bằng quân sự và rằng TQ có thể thắng một cuộc chiến tranh, nếu nó xảy ra, bằng cách phải tiến nhanh hơn Mỹ về công nghệ quân sự và vận dụng điều mà họ cho là tinh thần ưu việt của quân lực TQ. Quan điểm của họ thường được che đậy để tránh gây lo sợ cho cả thù lẫn bạn của Trung Quốc.
|