View Single Post
Old 08-24-2012   #3
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default

AI THEO CHỦ NGHĨA XÉT LẠI?

Để đi sâu vào lôgic trong chiến lược Trung Quốc của Mỹ, các học giả TQ, cũng như các nhà phân tích ở bất cứ đâu, sẽ tập trung chú ư vào các khả năng và các ư đồ. Mặc dù các ư đồ của Mỹ có thể cần phải được lư giải, nhưng các khả năng quân sự, kinh tế, ư thức hệ, và ngoại giao của Mỹ là tương đối dễ phát hiện – và theo quan điểm của Trung Quốc, những khả năng này có tiềm năng gây tổn thất to lớn.

Các lực lượng quân sự Mỹ được triển khai toàn cầu và có tŕnh độ công nghệ tiên tiến, với sự tập trung hỏa lực hùng hậu quanh biên giới TQ. Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương của Mỹ (PACOM) là bộ phận lớn nhất trong sáu bộ tư lệnh chiến đấu khu vực của Mỹ nếu xét đến địa bàn hoạt động và quân số thời b́nh của nó. Lực lượng của PACOM gồm có 325.000 nhân viên quân sự và dân sự, cùng với 180 tàu chiến và 1.900 máy bay. Về hướng Tây, PACOM nhường lối cho Bộ Tư lệnh Trung tâm của Mỹ (CENTCOM), một bộ tư lệnh có trách nhiệm trên một địa bàn kéo dài từ Trung Á đến Ai Cập. Trước [cuộc Tấn công Khủng bố] ngày 11 tháng 9 năm 2001, CENTCOM không hề có lực lượng trú đóng nằm ngay trên biên giới Trung Quốc ngoại trừ nhiệm vụ huấn luyện và tiếp tế tại Pakistan. Nhưng khi “chiến tranh chống khủng bố” bắt đầu, CENTCOM đă đóng hàng ngàn quân tạiAfghanistanvà sử dụng dài hạn một căn cứ không quân tạiKyrgyzstan.

Khả năng hoạt động của các lực lượng quân sự Mỹ trong khu vực châu Á-Thái B́nh Dương được tăng cường nhờ các hiệp định pḥng thủ song phương với Australia, Nhật Bản, New Zealand, Philippines, và Nam Hàn và các dàn xếp phối hợp với nhiều đối tác khác. Và hơn thế nữa, Mỹ có khoảng 5.200 đầu đạn hạt nhân được triển khai thành bộ ba khó phá vỡ: trên biển, trên bộ, và trên không. Tập hợp lại, thế pḥng thủ này của Mỹ tạo nên cái mà Tiền Văn Vinh tại Trung tâm Nghiên cứu các Vấn đề Quốc tế của Tân Hoa Xă đă gọi là một “ṿng vây chiến lược”.

Các nhà phân tích an ninh TQ cũng ghi nhận khả năng to lớn của Mỹ trong việc gây tổn thất cho lợi ích kinh tế của TQ. Mỹ vẫn là thị trường duy nhất quan trọng nhất của Trung Quốc nếu ta không kể Liên minh châu Âu như một thực thể riêng biệt. Và Mỹ là một trong những nguồn vốn trực tiếp đầu tư nước ngoài và nguồn công nghệ tiên tiến lớn nhất cho Trung Quốc. Thỉnh thoảng,Washingtonc ó ư định sử dụng sức mạnh kinh tế để o ép Trung Quốc. Sau vụ đàn áp tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, Mỹ đă áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Trung Quốc, gồm có lệnh cấm vận, hiện vẫn c̣n có hiệu lực đối với các thương vụ vũ khí tối tân. Qua nhiều năm sau đó, Quốc hội Mỹ c̣n tiếp tục tranh luận về việc có nên trừng phạt Trung Quốc thêm nữa v́ vi phạm nhân quyền, bằng cách hủy bỏ mức thuế quan tối huệ quốc thấp mà hàng nhập khẩu TQ được hưởng, mặc dù những người vận động biện pháp trừng phạt không bao giờ hội đủ đa số. Gần đây, nhiều nhà lập pháp Mỹ đề nghị trừng phạt Trung Quốc v́ đă gh́m giá đồng Nguyên (yuan) một cách giả tạo nhằm làm lợi cho các nhà xuất khẩu TQ, và ứng cử viên tổng thống Cộng ḥa Mitt Romney đă hứa nếu đắc cử, ông sẽ qui cho Trung Quốc tội danh dùng thủ đoạn tiền tệ (currency manipulator) vào “ngày đầu tiên” trong nhiệm kỳ tổng thống của ông.

Mặc dù phe diều hâu mậu dịch (trade hawks) củaWashingtonít khi thắng thế, nhưng những cơn phẫn nộ như thế này cũng nhắc nhở Bắc Kinh về mức độ tổn thất nếu Mỹ quyết định trừng phạt Trung Quốc về mặt kinh tế.* Các nhà chiến lược TQ tin rằng Mỹ và đồng minh sẽ từ chối cung cấp dầu lửa và quặng kim cho Trung Quốc trong một cuộc khủng hoảng quân sự hay kinh tế* và rằng Hải quân Mỹ sẽ chặn đứng việc Trung Quốc tiếp cận các tuyến đường biển có tầm quan trọng chiến lược. Sự tràn ngập của đồng đôla trong lănh vực thương mại và tài chính quốc tế c̣n cho Mỹ khả năng đe dọa các lợi ích TQ, hoặc do cố t́nh hay do hậu quả của việc chính phủ Mỹ toan tính giải quyết vấn đề ngân sách bằng cách in thêm đôla và gia tăng việc vay mượn, những động thái sẽ làm mất giá hàng xuất khẩu và các trữ lượng ngoại hối của Trung Quốc, vốn đặt giá trị trên đồng đôla (dollar-denominated).

Các học giả TQ c̣n tin rằng Mỹ nắm trong tay những vũ khí ư thức hệ rất mạnh và có đủ quyết tâm sử dụng chúng. Sau Thế Chiến II, Mỹ đă lợi dụng địa vị đại cường thắng trận để duy tŕ những nguyên tắc trân quí của ḿnh trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền Phổ quát và trong các văn kiện nhân quyền quốc tế khác và dựng lên những chính thể mà Trung Quốc gọi là các chế độ dân chủ kiểu Tây phương (Western-style democracies) tại Nhật Bản và, về sau, tại Nam Hàn, Đài Loan, và nhiều nước khác. Các quan chức TQ tranh luận rằng Mỹ đă sử dụng những tư tưởng dân chủ và nhân quyền để làm mất tính chính đáng của các chế độ đi theo những hệ thống giá trị khác và gây bất ổn cho chúng, như những chế độ theo chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa độc tài để phát triển kiểu châu Á. Theo Lư Quần, một ủy viên của Tỉnh ủy Sơn Đông và là một ngôi sao đang lên trong Đảng Cộng sản, “mục đích thực sự của người Mỹ không phải là bảo vệ cái gọi là nhân quyền, nhưng chỉ dùng việc này như một chiêu bài để gây ảnh hưởng và giới hạn đà tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc và không để cho sự giàu có và quyền lực của Trung Quốc đe dọa địa vị bá quyền của họ”.

Theo quan điểm của nhiều học giả TQ, kể từ khi Chiến tranh lạnh chấm dứt Mỹ đă hiện nguyên h́nh là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại (a revisionist power) cố gắng thiết kế lại môi trường toàn cầu thêm nữa để thủ lợi. Họ nh́n thấy bằng chứng của thực tế này khắp nơi: trong việc nới rộng NATO; trong những hành động can thiệp của Mỹ tại Panama, Haiti, Bosnia, và Kosovo; trong Chiến tranh vùng Vịnh; chiến tranh Afghanistan; và trong vụ xâm lăng Iraq. Trong lănh vực kinh tế, Mỹ đă ra sức gia tăng các lợi thế của ḿnh bằng cách đẩy mạnh tự do thương mại, hạ thấp trị giá đồng đôla trong khi buộc các nước khác dùng nó làm trữ kim, và cố gắng buộc các nước đang phát triển gánh chịu một phần chi phí bất công trong việc làm giảm bớt hậu quả của t́nh trạng thay đổi khí hậu toàn cầu. Và có lẽ điều làm cho người TQ lo lắng nhất là, Mỹ đă để lộ những ư đồ hiếu chiến của ḿnh bằng cách cổ vũ cái gọi là những cuộc cách mạng màu (so-called color revolutions) tạiGeorgia,Ukrai ne, vàKyrgyzstan. Như Lưu Kiến Phi, Chủ nhiệm phân khoa sự vụ nước ngoài tại trường Đảng Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đă viết năm 2005, “Mỹ luôn luôn chống lại ‘các cuộc cách mạng đỏ’ của cộng sản và ghét các cuộc ‘cách mạng màu lục’ tại Iran cũng như các quốc gia Hồi giáo. Điều mà Mỹ quan tâm không phải là ‘cách mạng’ nhưng là ‘màu sắc [chính trị]’. Mỹ hậu thuẫn các cuộc cách mạng ‘màu hoa hồng’, ‘màu da cam’, và ‘màu hoa tulip’ chỉ v́ chúng phục vụ chiến lược đẩy mạnh dân chủ của Mỹ”. Theo quan điểm của Lưu Kiến Phi và các học giả hàng đầu khác của TQ, Mỹ hi vọng “đẩy mạnh dân chủ thêm nữa và biến toàn thế giới thành “màu xanh [chống cộng – ND]”.

Khai thác t́nh h́nh Đài Loan

Mặc dù nói chung các học giả và các nhà b́nh luận Mỹ nhận thấy quan hệ Mỹ-Trung trong thời hậu chiến là một giai đoạn băng tan lâu dài, chậm răi, nhưng theo quan điểm của Bắc Kinh, Mỹ luôn luôn đối xử gay gắt với Trung Quốc. Từ 1950 đến 1972, Mỹ ra sức bao vây và cô lập Trung Quốc. Trong số những hành động khác, có việc Mỹ đă thuyết phục các đồng minh của ḿnh tŕ hoăn việc nh́n nhận ngoại giao đối với Trung Hoa lục điạ, xây dựng quân đội Nhật Bản, tham dự Chiến tranh Triều Tiên, chống đỡ chế độ thù nghịch tại Đài Loan, hậu thuẫn du kích Tây Tạng chống lại sự cai trị của TQ, và thậm chí đe dọa dùng vũ khí hạt nhân cả trong Chiến tranh Triều Tiên lẫn trong cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan năm 1958. Các học giả TQ nh́n nhận rằng chính sách Trung Quốc của Mỹ đă thay đổi sau năm 1972. Nhưng họ quyết đoán rằng sự thay đổi ấy thuần túy là hệ quả của một nỗ lực nhằm chống lại Liên Xô và, về sau, nhằm thu hoạch những lợi lộc kinh tế bằng cách mở doanh nghiệp tại Trung Quốc. Ngay cả lúc đó, Mỹ vẫn tiếp tục pḥng chống sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách duy tŕ Đài Loan để đánh lạc hướng chiến lược, bằng cách yểm trợ sự lớn mạnh của quân đội Nhật Bản, bằng cách hiện đại hoá các lực lượng hải quân của ḿnh, và gây sức ép lên Trung Quốc về vấn đề nhân quyền.

Phía TQ đă rút tỉa nhiều bài học về chính sách Trung Quốc của Mỹ từ nhiều đợt đàm phán vớiWashington. Trong các cuộc đàm phán cấp đại sứ vào những* thập niên 1950 và 1960, các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí trong những thập niên 1980 và 1990, những cuộc thảo luận về việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong thập niên 1990, và các cuộc đàm phán về thay đổi khí hậu trong thập niên sau đó, người TQ nhất quán thấy rơ người Mỹ luôn luôn đưa ra yêu sách và không hề nhượng bộ. Nhưng có tính cách quyết định hơn cả cho việc TQ hiểu được được chính sách của Mỹ là ba ṿng đàm phán đă diễn ra về t́nh trạng Đài Loan trong những năm 1971-1972, 1978-1979, và 1982, những cuộc đàm phán đă tạo “khung thông cáo chung” (communiqué framework), vốn chi phối chính sách Đài Loan của Mỹ cho đến ngày nay. Khi bắt đầu lập lại quan hệ hữu nghị, các nhà làm chính sách TQ đinh ninh rằngWashingtonsẽ chấm dứt hậu thuẫn Đài Loan để đổi lấy những lợi lộc trong quan hệ b́nh thường giữa hai quốc gia với Bắc Kinh. Ở mỗi giai đoạn đàm phán, người Mỹ có vẻ sẵn sàng làm điều đó. Nhưng hàng chục năm sau, theo quan điểm của Bắc Kinh, Mỹ vẫn là trở ngại chính cho việc thống nhất.

Khi Nixon viếng thăm Trung Quốc năm 1972, ông nói với phía TQ rằng ông sẵn sàng hi sinh Đài Loan v́ đảo quốc này không c̣n giá trị chiến lược đối với Mỹ, nhưng phải đợi đến nhiệm kỳ thứ hai ông mới có thể làm điều này. Trên cơ sở này, phía TQ đă đồng ư kư Thông cáo chung Thượng Hải 1972, thậm chí mặc dù văn bản này có chứa đựng một tuyên bố đơn phương của Hoa Kỳ “xác định mối quan tâm của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan bằng đường lối ḥa b́nh”, đây là một mật mă ngoại giao (diplomatic code) ngụ ư rằng Mỹ cam kết chống lại bất cứ nỗ lực nào của Trung Hoa lục địa nhằm chiếm Đài Loan bằng vũ lực. Như t́nh h́nh đă diễn ra, Nixon từ chức trước khi ông có thể b́nh thường hóa quan hệ với Bắc Kinh. Kẻ kế vị ông, Gerald Ford, trong thế chính trị quá yếu, không thể thực hiện lời hứa của Nixon.

Khi vị tổng thống kế tiếp là Jimmy Carter muốn b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc, phía TQ lại đ̣i hỏi Mỹ phải dứt khoát bỏ Đài Loan. Năm 1979, Mỹ chấm dứt hiệp định pḥng thủ với Đài Loan nhưng lại một lần nữa Mỹ đưa ra một tuyên bố đơn phương nhắc lại cam kết “giải quyết vấn đề Đài Loan bằng phương tiện ḥa b́nh”. Tiếp đó, Quốc hội Mỹ đă khiến cả phía TQ lẫn chính quyền Carter phải sửng sốt bằng việc thông qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan (the Taiwan Relations Act) đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải “duy tŕ khả năng… chống lại bất cứ biện pháp sử dụng vũ lực hay các h́nh thức ép buộc khác đe dọa an ninh… của nhân dân trên đảo Đài Loan”.

Vào năm 1982, khi Tổng thống Ronald Reagan mưu t́m những quan hệ thiết thân hơn với Bắc Kinh để gia tăng sức ép lên Matxcơva, Trung Quốc đă thuyết phục Mỹ kư kết một thông cáo chung khác, buộc Washington cam kết từng bước giảm thiểu các thương vụ vũ khí với Đài Loan. Nhưng một khi đă thỏa thuận đâu vào đó, người Mỹ lại lấy năm 1979 làm mốc giới, đó là thời điểm các thương vụ vũ khí với Đài Loan đạt đỉnh cao nhất; rồi tính toán việc cắt giảm hàng năm theo một tỉ lệ không đáng kể, bằng cách điều chỉnh theo lạm phát khiến cho những con số cắt giảm đă thực sự trở thành những con số gia tăng; người Mỹ lại cho rằng những hệ thống vũ khí tiên tiến mà họ bán cho Đài Loan có phẩm chất tương đương với các hệ thống vũ khí cũ; và cho phép các công ty thương mại Mỹ hợp tác với công nghiệp chế tạo vũ khí Đài Loan dưới chiêu bài là chuyển giao công nghệ (technology transfers) chứ không phải thương vụ vũ khí (arms sales). Vào thời điểm Tổng thống George W. Bush chấp thuận một gói vũ khí hiện đại lớn bán cho Đài Loan, bản thông cáo chung 1982 trở thành một văn kiện chết. Đồng thời với việc Mỹ kéo dài liên hệ với Đài Loan, một sự chuyển đổi sang chế độ dân chủ đă diễn ra tại đó, đẩy việc thống nhất thậm chí xa hơn đối với tầm tay của Bắc Kinh.

Duyệt xét lại khía cạnh lịch sử này, các nhà chiến lược TQ phải tự hỏi về những lư do Mỹ vẫn tiếp tục cam kết với Đài Loan. Mặc dù người Mỹ thường lư giải rằng họ chỉ đang bảo vệ một đồng minh dân chủ trung kiên, nhưng hầu hết mọi người TQ lại thấy có những động cơ chiến lược ngay tại gốc rễ của cách ứng xử củaWashington. Họ tin rằng việc duy tŕ vấn đề Đài Loan sẽ giúp Mỹ kềm hăm Trung Quốc. Theo cách nói của La Viện, một tướng hồi hưu và là Phó tổng thư kư của Hội Khoa học Quân sự TQ, từ lâu Mỹ đă dùng Đài Loan “như một con cờ để chặn đứng sự trỗi dậy của Trung Quốc”.

Những đe dọa của chủ nghĩa đa nguyên Mỹ

Đạo luật Quan hệ Đài Loan đánh dấu việc khởi đầu của một xu thế hướng tới sự quyết đoán của Quốc Hội về chính sách Trung Quốc của Mỹ, và sự kiện này tiếp tục làm phức tạp mối quan hệ củaWashingtonvới Bắc Kinh. Mười năm sau, vụ việc Thiên An Môn 1989, và tiếp sau đó là sự kết thúc Chiến tranh lạnh, đă thay đổi từ ngữ trong các cuộc tranh luận tại Mỹ. Trước đó Trung Quốc được coi như là một chế độ đang tự do hoá; sau Thiên An Môn, Trung Quốc hóa ra một chế độ độc tài lai giống (an atavistic dictatorship). Và sự sụp đổ của Liên Xô giảm bớt yêu cầu chiến lược là phải hợp tác với Bắc Kinh. Ngoài ra, quan hệ kinh tế Mỹ-Trung ngày một gia tăng bắt đầu tạo ra những xung đột về các vấn đề như nạn bán phá giá hàng hóa TQ trên thị trường Mỹ và t́nh trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ. Sau nhiều thập niên có sự đồng thuận tại Mỹ, Trung Quốc nhanh chóng trở thành một trong những vấn đề phân hóa nhất trong chính sách đối ngoại Mỹ, một phần v́ những nỗ lực vận động ráo riết của các nhóm lợi ích nhằm đảm bảo Trung Quốc vẫn nằm trên chương tŕnh nghị sự của Quốc hội Mỹ.
Hanna_is_offline  
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.04137 seconds with 9 queries