|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 110
|
Tới đây cần giải tỏa một số lấn cấn và hiểu lầm.
Điều đáng lưu ư là cách suy nghĩ rất lạ của những người lănh đạo cộng sản mà một cách vô t́nh cuốn hồi kư của Trần Quang Cơ mô tả khá rơ. Họ không lư luận một cách b́nh thường như người ta có thể h́nh dung: Trung Quốc muốn ǵ, sẽ làm ǵ, có thể làm ǵ, có những điểm mạnh và điểm yếu nào, có thể giúp ǵ hay gây thiệt hại nào cho Việt Nam, ngược lại Việt Nam có thể bị đe dọa như thế nào và có thể làm ǵ v.v. Họ lư luận một cách thuần túy ư thức hệ, theo đó Trung Quốc có hai mặt, một mặt xă hội chủ nghĩa và một mặt bá quyền. Trong bảy năm trời lư luận của ĐCSVN chỉ loanh quanh xem mặt nào quan trọng hơn với kết luận sau cùng là cả hai mặt đều quan trọng. Nghị quyết 13 của bộ chính trị, ngày 25.05.1988, nhấn mạnh là "phải khắc phục những tư tưởng lệch lạc chỉ thấy Trung Quốc là bá quyền mà không thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xă hội hay chỉ thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xă hội mà không thấy Trung Quốc là bá quyền".Dầu vậy mục tiêu của Đảng vẫn là "phấn đấu b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau". Trong các "vấn đề khác" có vấn đề Trường Sa v́ hai tháng trước đó, ngày 14.03.1988 hải quân Trung Quốc đă đánh chiếm một số đảo của Việt Nam tại Trường Sa và làm thiệt mạng hơn 60 binh sĩ Việt Nam. Cách lư luận này ngày nay nh́n lại ta có thể cho là dở hơi nhưng nó nói lên năo trạng của những người lănh đạo cộng sản vào lúc đó và nó cũng có hậu quả cụ thể là ĐCSVN chấp nhận trước những thiệt tḥi và mất mát đối với Trung Quốc, v́ đă chấp nhận "b́nh thường hóa quan hệ" dù biết trước Trung Quốc có bản chất bá quyền. Theo ông Trần Quang Cơ đây không phải là b́nh thường hóa quan hệ mà chỉ là lệ thuộc hóa. Vả lại, điều khó tin nhưng có thực, quyền lợi quốc gia không hề là một quan tâm của các lănh tụ cộng sản vào lúc đó. Theo Trần Quang Cơ chỉ măi về sau này trong cuộc họp kéo dài ba ngày của bộ chính trị từ 15 đến 17.05.1991, khi chính sách đối với Trung Quốc đă quyết định xong, câu hỏi mới được đặt ra là nên chọn đồng minh theo "lợi ích dân tộc" hay theo ư thức hệ. Và câu trả lời cũng vẫn là phải chọn đồng minh theo ư thức hệ.
Trái với một nhận định khá phổ biến, Nguyễn Văn Linh không phải là con người của của đổi mới mà là con người của Trung Quốc. Đại Hội VI, tháng 12.1986, không phải là đại hội đổi mới và một cơ hội dân chủ hóa không thành mà chỉ là đại hội của chọn lựa thần phục Trung Quốc và chống dân chủ. Cái gọi là "đổi mới" của đại hội này chỉ là rập khuôn theo mô h́nh "kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa" của Trung Quốc. Đại Hội VII kế tiếp là đại hội khẳng định dứt khoát sự thần phục đối với Trung Quốc, những phần tử có chút tâm sự lấn cấn với lập trường này, như Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, đều bị loại khỏi ban lănh đạo. Các đại hội VIII và IX chỉ tiếp tục một đường lối đă thành nền nếp. Khuynh hướng đối đầu với Trung Quốc trong đảng chỉ bắt đầu xuất hiện từ đại hội X trở đi và xuất phát từ lớp đảng viên trẻ sau hai thập niên trao đổi với phương Tây, trong bối cảnh chủ nghĩa xă hội đă trở thành vô nghĩa và nhất là v́ Trung Quốc quá xấc xược.
Cũng trái với một nhận định đă được phản ánh qua nhiều bài viết, kể cả của nhiều người dân chủ, Trung Quốc không hề có mưu mô lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ. Thực tế bẽ bàng hơn nhiều. Chính quyền cộng sản Việt Nam đă nài nỉ được phụ thuộc Trung Quốc trong khi Trung Quốc xua đuổi; họ chỉ coi ĐCSVN như một bọn bội bạc và tráo trở bị dồn vào đường cùng. Trần Quang Cơ tiết lộ: "Từ năm 1980 đến năm 1988 ta đă ngót hai mươi lần đề nghị đàm phán, Trung Quốc chỉ làm ngơ". Đúng ra là từ 1984 trở đi, khi Hà Nội thấy là không c̣n dựa vào Liên Xô được nữa, như chính ông Cơ kể lại trong cuốn hồi kư. Sự khẩn khoản c̣n gia tăng hơn nữa sau năm 1988. Việt Nam nhiều lần cầu xin Trung Quốc giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xă hội thay thế Liên Xô trong khi Trung Quốc trả lời dứt khoát là họ không có ư định bảo vệ chủ nghĩa xă hội trên thế giới. Ưu tiên của họ là tranh thủ sự hợp tác và các thị trường của phương Tây để hiện đai hóa và phát triển kinh tế. Một lần đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói công khai với quan chức Việt Nam trong buổi tiếp tân của đại sứ quán Ai Cập là "Trung Quốc không chủ trương giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xă hội về mặt đối ngoại". Đây phải là chọn lựa rất quả quyết của Trung Quốc nên một đại sứ mới có thể nói công khai và tự nhiên như vậy. Hà Nội muốn lập lại t́nh anh em xă hội chủ nghĩa trong khi Trung Quốc nói thẳng là họ chỉ có thể chấp nhận một quan hệ láng giềng "thân nhi bất cận" (thân nhưng không gần). Nhu cầu ḥa giải với Trung Quốc c̣n mạnh đến nỗi nó khiến ban lănh đạo CSVN thúc đẩy Lào lập quan hệ với Trung Quốc để mong nhờ Lào làm trung gian đàm phán với Trung Quốc. Họ c̣n cố làm một điều tưởng là vừa ḷng Trung Quốc trong khi Trung Quốc không những không muốn mà c̣n bực ḿnh. Đó là "giải pháp Đỏ" cho Campuchia. Sau khi Gorbachev gợi ư rằng Việt Nam nên cố gắng t́m cách thỏa hiệp với Trung Quốc để giải quyết cuộc xung đột tại Campuchia, ban lănh đạo Việt Nam bèn nghĩ ra "giải pháp Đỏ", nghĩa là thỏa hiệp giữa hai phe cộng sản Campuchia - Pol Pot do Trung Quốc đỡ đầu và Hun Sen do Việt Nam dựng lên - gạt phăng đi các lực lượng không cộng sản Sihanouk và Son Sann. Họ tưởng như thế sẽ làm hài ḷng Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại không chấp nhận. Bắc Kinh muốn một giải pháp do Liên Hiệp Quốc bảo trợ và dành ưu thế cho các lực lượng không cộng sản bởi v́ họ đang muốn tranh thủ cảm t́nh của thế giới và nhất là phương Tây. Ban lănh đạo Việt Nam thật quá chậm hiểu! Và đồng minh Hun Sen của Hà Nội cũng không chấp nhận "giải pháp Đỏ" này bởi họ nhất quyết không đội trời chung với bọn Khmer Đỏ. Giải pháp này cũng phản bội cả hàng trăm ngàn bộ đội Việt Nam đă chết hoặc bị thương tật tại Campuchia dưới danh nghĩa tiêu diệt bọn diệt chủng Khmer Đỏ. Với một sự ngoan cố khó tưởng tượng, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh sẽ c̣n cố gắng áp đặt giải pháp này lên Hun Sen trong một thời gian dài để hy vọng cùng với Hun Sen thuyết phục Trung Quốc, ngay cả sau khi đă chấp nhận giải pháp do Trung Quốc đưa ra tại Thành Đô. Kết quả là Hà Nội thất bại và c̣n mất luôn cảm t́nh của chế độ Hun Sen mà họ dựng lên.
Con đường cầu ḥa đă rất nhục nhằn cho Hà Nội. Trung Quốc đă đặt ra nhiều điều kiện để chấp nhận nói chuyện về b́nh thường hoá quan hệ giữa hai nước và mỗi khi Hà Nội thỏa măn xong một điều kiện th́ họ lại đặt ra một điều kiện mới và Hà Nội lại phải thỏa măn. Có khi họ chỉ định cả người đại diện Việt Nam để nói chuyện với họ. Tại hội nghị Paris ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm và được trả lời rằng Tiền Kỳ Thâm không có th́ giờ để tiếp Nguyễn Cơ Thạch nhưng nếu thứ trưởng Trần Quang Cơ muốn gặp th́ đồng ư. Tháng 6.1990, sau sáu năm nhẫn nhục của Hà Nội, khi Trung Quốc cuối cùng chấp nhận gửi Từ Đôn Tín, một trợ lư ngoại trưởng, sang đàm phán với thứ trưởng Trần Quang Cơ, cả Nguyễn Văn Linh lẫn Lê Đức Anh đều đă tiếp riêng đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy trước ngày Từ Đôn Tín sang để tỏ ḷng kính trọng với Trung Quốc. Từ Đôn Tín đă đến một cách ngạo nghễ như một sứ giả thiên triều và tuyên bố: "Lần này tôi sang Hà Nội để xem xét nguyện vọng của các đồng chí…". Từ Đôn Tín tự cho phép mắng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và khi ông Thạch trả lời th́ nổi giận bỏ đi. Năm sau khi Lê Đức Anh (chủ tịch nước) và Hồng Hà (trưởng ban đối ngoại trung ương đảng) sang thăm Trung Quốc họ đă xin gặp Từ Đôn Tín để xin lỗi, mặc dù trước đó ông Thạch đă bị gạt ra khỏi bộ chính trị và mất chức bộ trưởng ngoại giao để làm vừa ḷng Trung Quốc. Lê Chiêu Thống cũng không đến nỗi khúm núm như thế. Nhục nhă hơn nữa cuộc gặp gỡ Thành Đô. Trần Quang Cơ thuật lại như sau: ngày 28.08.1990 đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy thông báo cho chính quyền Việt Nam biết tổng bí thư Giang Trạch Dân và thủ tướng Lư Bằng muốn gặp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và thủ tướng Đỗ Mười cùng với cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn về quan hệ giữa hai bên ngày 3.9.1990 tại Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Đây là lệnh triệu tập chứ không phải đề nghị. Trung Quốc ấn định ngày giờ, địa điểm và những ai sang Trung Quốc. Họ cũng buộc hai nhân vật quyền lực nhất chế độ, tổng bí thư đảng cộng sản và thủ tướng, phải bỏ ngày quốc khánh Việt Nam để sang họp. Theo Trần Quang Cơ Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đă có mặt tại Thành Đô ngày 02.09.1990. (Theo Trương Đức Duy th́ họ đến ngày 3-9). Ba ông này sau đó chấp nhận toàn bộ những ǵ Giang Trạch Dân và Lư Bằng đưa ra. Nhục nhằn như vậy chỉ v́ Hà Nội muốn được Bắc Kinh nhận làm đàn em trong khi Bắc Kinh không cần ǵ cả. Và mối "quan hệ b́nh thường" này sẽ c̣n kéo dài về sau. Trong Đại Hội X, năm 2001, để lật đổ tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh buộc tội Phiêu là đă dâng đất và độc đoán, khi sang Trung Quốc đàm phán về biên giới không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm để dễ "thậm thụt". Nguyễn Chí Trung, trợ lư của Lê Khả Phiêu, biện hộ cho Phiêu như sau: Nguyễn Mạnh Cầm không đi v́ thành phần phái đoàn Việt Nam do Trung Quốc quyết định.
|