R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Jan 2008
Posts: 147,387
Thanks: 11
Thanked 13,971 Times in 11,147 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 183
|
Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đă bị giải tán. Nơi những trí tuệ được nói thẳng, nói thật, được đóng góp không c̣n nữa. Những trí tuệ đích thực thôi đành về với dân gian. Những viện khoa học nọ, viện khoa học kia th́ nhiều lắm, bộ nào, ngành nào cũng có những viện khoa học sang trọng, hoành tráng, mĩ miều với đông đảo viện sĩ lấp lánh học hàm, học vị nhưng đó chỉ là nơi những người có bằng cấp khoa học chia nhau chức danh, chia nhau ghế ngồi để lĩnh lương và để nghĩ ra những “đề tài khoa học” nhận tiền tỉ mồ hôi nước mắt của dân về chia nhau. Nghiệm thu xong, chia tiền xong, “đề tài khoa học” xếp vào ngăn kéo, lại hăm hở t́m “đề tài khoa học” mới. Các Bộ, các Tổng cục của hệ thống hành chính Nhà nước có viện khoa học th́ các Ban của tổ chức Đảng ngang cấp Bộ cũng phải có Viện khoa học. Viện khoa học Dân vận. Viện khoa học lịch sử Đảng. Viện khoa học Mác Lê nin . . .
Những viện khoa học mĩ miều đó nhiều như cây trong công viên, mỗi viện hằng năm ngốn hàng chục, hàng trăm tỉ tiền thuế của dân chỉ để làm dáng th́ cứ bền bỉ tồn tại và liên tục phát triển, viện khoa học mẹ đẻ ra viện khoa học con. Đó là những viện khoa học chỉ có danh khoa học, chỉ có học hàm, học vị khoa học mà không có trí tuệ khoa học. Không có trí tuệ khoa học để làm việc nên họ chỉ c̣n biết mang danh khoa học ra bán. Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng nhưng danh khoa học của họ độc quyền bán cho Đảng của họ và bán cho Nhà nước của Đảng được giá tới bạc tỉ!
Những nhà khoa học chân chính, những trí tuệ đích thực không thể vô cảm và bất lương như vậy. Người thực sự có trí tuệ cần mang trí tuệ đóng góp cho cuộc sống và trí tuệ gọi trí tuệ, lương tâm gọi lương tâm, những trí tuệ và lương tâm đó gọi nhau, tập hợp lại lập lên viện Nghiên cứu Phát triển, IDS. Không nhận một xu từ tiến thuế của dân, trí tuệ đích thực là tài sản quí, là vốn liếng lớn sẽ tạo ra tiền bạc, của cải cho đất nước, tạo ra tiền bạc của cải để phát triển Viện. Nhưng với một ông Thủ tướng khinh trí tuệ, trọng bạo lực, vừa nhận chức người đứng đầu Chính phủ, ông Thủ tướng đó liền kí lệnh đuổi những trí tuệ trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đi cho khuất mắt th́ viện IDS lại là cái gai ông phải dẹp bỏ, ông liền kí quyết định 97/2009QĐ-TTg trong đó có những điều khoản vô hiệu IDS, làm cho IDS không thể hoạt động theo tiêu chí của IDS. IDS liền phải tự giải thể!
Những dự án tham nhũng chiếm hàng trăm, hàng ngàn hecta đất, cướp đất của nhiều làng. Dân nhiều làng phải đội đơn đi khiếu kiện. Hàng trăm gia đ́nh mất đất. Hàng ngàn người bơ vơ. Mỗi gia đ́nh một cảnh ngộ, một nỗi đau. Mỗi người một nỗi oan khiên, không ai có thể đại diện cho ai. Dân đen, thân phận con ong cái kiến, từng tiếng kêu rời rạc, yếu ớt, lạc lơng không ai đoái hoài. Hàng trăm, hàng ngàn người cùng kêu nỗi oan khiên dậy đất của một thời đầy ngang trái oan khiên mới mong động đến cửa quan th́ ông Thủ tướng hùng hồn chống tham nhũng bằng ngôn từ lại mau lẹ đứng về phía quan tham lạnh lùng kí Nghị định 136/2006 cấm dân khiếu kiện tập thể!
Cách mạng công nghiệp chấm dứt nếp sống bầy đàn, không có cá nhân của nền sản xuất nông nghiệp thô sơ, cho người dân b́nh thường ư thức về cá nhân trong cuộc đời. Cách mạng dân chủ tư sản cho người dân quyền con người. Không có cách mạng công nghiệp, chưa có cách mạng dân chủ tư sản, xă hội Việt Nam nôn nóng, hối hả bước vào công nghiệp hóa với những con người vẫn mang tâm lí, nếp sống và thói quen của nền sản xuất nông nghiêp thô sơ, tâm lí, nếp sống an phận và cam chịu. Dù an phận và cam chịu nhưng con giun xéo măi cũng quằn, những nông dân không c̣n ruộng đất trở thành công nhân trong những nhà máy của những ông bà chủ tư bản phần lớn là người nước ngoài. Bị chủ tư bản bóc lột tàn tệ, những công nhân không c̣n cam chịu được nữa phải bảo nhau, gọi nhau tổ chức đ́nh công đ̣i quyền sống.
Công nghiệp hóa không phải chỉ là máy móc công nghệ, thiết bị kĩ thuật. Công nghiệp hóa trước hết phải là con người, là giải phóng con người, là mối quan hệ công bằng, b́nh đẳng giữa người với người. Công nghệ kĩ thuật là điều kiện vật chất và giải phóng con người là điều kiện xă hội của công nghiệp hóa. Bước chân công nhân đ́nh công là bước đi tất yếu của xă hội Việt Nam vào công nghiệp hóa, là bước tiến của xă hội Việt Nam.
Những cuộc đ́nh công vừa chính đáng và cần thiết giành quyền sống của người lao động, vừa là sự trưởng thành của xă hội Việt Nam nhưng Thủ tướng Dũng lại sốt xắng đứng ra bảo vệ sự bóc lột tàn nhẫn của những ông chủ, bà chủ tư bản bằng việc kí nghị định 11 và 12/ 2008 cấm công nhân đ́nh công! Cấm công nhân đ́nh công đ̣i quyền sống, Thủ tướng Dũng đă ngăn chặn bước tiến của xă hội Việt Nam, ḱm hăm xă hội Việt Nam măi măi dừng lại trong sự bóc lột man rợ của chủ nghĩa tư bản hoang dă.
3. NGƯỜI DÂN BỊ KHINH RẺ. QUYỀN CÔNG DÂN KHÔNG ĐƯỢC NH̀N NHẬN. CUỘC SỐNG BẤT AN. TÍNH MẠNG MONH MANH
Theo tấm gương người đứng đầu Chính phủ, cả hệ thống quyền lực Nhà nước cứ mặc sức tham nhũng và hành dân. Người dân chỉ được cam chịu chấp nhận. Dân có tiếng nói phản kháng với cái sai, cái ác liền có sự trả lời của công an, ṭa án và nhà tù! Mọi quyền Con Người cơ bản của người dân đều bị Cấm! Cấm! Và Cấm! Chưa bao giờ pháp luật bị sử dụng tùy tiện với dân, bạo lực Nhà nước khắc nghiệt, tàn nhẫn với dân như thời Thủ tướng Dũng.
Tiến sĩ luật học Cù Huy Hà Vũ kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lạm quyền, cho triển khai dự án bô xít Tây Nguyên không theo đúng qui tŕnh pháp luật, gây thiệt hại nặng nề cho dân, rước tai họa, nguy nan cho nước. Mọi công dân đều b́nh đẳng trước pháp luật là hiện thực b́nh thường ở mọi nước trên thế giới từ mấy trăm năm nay nhưng ở Nhà nước Việt Nam Cộng sản cho đến tận thế kỉ 21 của văn minh tin học, của thế giới phẳng, vẫn chưa có được điều b́nh thường đó. Mọi công dân đều b́nh đẳng trước pháp luật chỉ là ḍng chữ vàng son lấp lánh ghi trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ để làm đẹp, làm sang cho Hiến pháp Việt Nam. C̣n trong thực tế xă hội Việt Nam hoàn toàn không có sự b́nh đẳng nhân văn đó. Đơn kiện ông Thủ tướng của tiến sĩ Vũ hoàn toàn hợp pháp, là tiếng nói chính đáng, khẩn thiết của nhân dân, của đất nước. Hai cấp ṭa, cấp thành phố và cấp tối cao, đều từ chối, không dám vào cuộc thụ lí đơn kiện của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ nhưng công an th́ quyết liệt vào cuộc, ŕnh rập, bám sát người đứng đơn kiện từng bước đi, từng cuộc điện thoại.
Tiến sĩ Vũ đi công việc, vào Sài G̣n, ở khách sạn. Công an liền xông vào khách sạn và trong tay công an có ngay hai bao cao su nhầy nhụa, tạo chứng cớ hồ đồ, vu vơ, áp đặt, bẩn thỉu, thấp hèn, mờ ám và tàn bạo để bắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ. Sự mờ ám, thấp hèn và tàn bạo càng bộc lộ rơ trong phiên ṭa xử người nói tiếng nói dơng dạc, đàng hoàng, chính đáng và hợp pháp của nhân dân, của đất nước.
Hiến pháp cho người dân quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia quản lí Nhà nước và xă hội, quyền thảo luận các vấn đề của Nhà nước, quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước. Những bài viết và nói công khai, đàng hoàng về những chính sách sai lầm của Nhà nước, về những việc làm tội lỗi của quan chức Nhà nước của tiến sĩ Vũ là hợp pháp và vô tội. Chỉ có tội khi ṭa án chứng minh được người viết và nói không đúng sự thật. Không chứng minh được điều đó, không xét, ṭa án chỉ xử, chỉ buộc tội. Áp đặt tội tuyên truyền chống Nhà nước cho những bài viết và lời nói chính đáng, hợp pháp của tiến sĩ Vũ chỉ ra những sai lầm và tội lỗi của Nhà nước, ṭa án đă đồng nhất Nhà nước với sai lầm và tội lỗi.
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, phiên ṭa công khai mà người dân đến dự ṭa th́ bị đàn áp, bắt bớ. Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, trong phiên ṭa, bị cáo và luật sư đều bị chặn họng, không được tranh tụng. Giữa thời văn minh rực rỡ của loài người, phiên ṭa xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ chỉ là sự tái hiện lại cảnh đấu tố man rợ, mông muội thời cải cách ruộng đất. Ngồi ghế quan ṭa không c̣n là sự công minh, nhân đạo của luật pháp và công lí mà là sự nhỏ nhen, ngạo mạn, nhâng nháo, hùng hổ, hằn học hận thù của công cụ bạo lực!
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, hai bao cao su tởm lợm là chứng cứ duy nhất để bắt khẩn cấp tiến sĩ Vũ nhưng đến phiên ṭa, quan ṭa cũng nhục nhă không dám nhắc đến chứng cứ là hai bao cao su ô nhục. Dù không được đưa ra, không được nhắc đến trong phiên ṭa mờ ám, thấp hèn và tàn bạo nhưng hai bao cao su nhầy nhụa, ô nhục c̣n măi măi ch́nh ́nh và bốc mùi tanh tưởi trong lịch sử tư pháp của Nhà nước Việt Nam Cộng sản, c̣n măi măi nhầy nhụa và bốc mùi ô uế trong lịch sử cầm quyền của đảng Cộng sản Việt Nam.
Dựa vào quyền uy để tham nhũng, dựa vào bạo lực để bưng bít sự thật, để bóp chết những tiếng nói trung thực, những vụ bắt bớ phi pháp, những phiên ṭa mờ ám, thấp hèn và tàn bạo liên tục diễn ra dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Duy tŕ đảng cầm quyền đứng trên pháp luật để tham nhũng, bộ máy công cụ công an của Thủ tướng Dũng đối xử với những người yêu nước vô cùng tàn nhẫn, mất tính người. Bắt cóc trái pháp luật, giam cầm phi pháp bà Bùi Thị Minh Hằng, khủng bố tinh thần, hủy hoại thân xác để bịt tiếng nói yêu nước của người đàn bà quả cảm. Nhưng bộ máy công cụ bạo lực của Thủ tướng Dũng càng độc ác, man rợ th́ tiếng nói lương tâm của người phụ nữ Việt Nam quả cảm, tiếng của lịch sử Việt Nam càng lay động mạnh mẽ những trái tim Việt Nam, càng vang xa ra thế giới văn minh, tố cáo với thế giới văn minh về một Nhà nước bạo lực, chà đạp luật pháp, chà đạp quyền Con Người.
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo với những tiếng nói trung thực và yêu nước là đặc trưng những phiên ṭa thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Những phiên ṭa đó sẽ đi vào lịch sử với tên gọi Phiên – Ṭa – Nguyễn – Tấn – Dũng như lịch sử đă ghi nhận những phiên ṭa đưa cổ những người Cộng sản vào máy chém theo luật 10/59 dưới thời ông Ngô Đ́nh Diệm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam là Phiên – Ṭa – Ngô – Đ́nh – Diệm!
Mức độ mờ ám, thấp hèn và tàn bạo của những Phiên – Ṭa – Nguyễn – Tấn – Dũng càng ngày càng tăng và đỉnh điểm về sự mờ ám, thấp hèn, tàn bạo của Phiên – Ṭa – Nguyễn – Tấn – Dũng là phiên ṭa xử ba nhà báo nồng nàn yêu nước và lẫm liệt khí phách đấu tranh đ̣i tự do, đ̣i quyền Con Người, nhà báo Nguyễn Văn Hải, nhà báo Tạ Phong Tần, nhà báo, luật sư Phan Thanh Hải.
Ông tướng công an là cố vấn kè kè bên cạnh ông Thủ tướng nên trong xă hội, công an cũng luôn kè kè bên người dân, công an trở thành chủ thể, là bộ mặt, là tiếng nói của chính quyền với người dân và cũng là hung thần, là hiện thân của cái ác trong cuộc sống.
Những trí thức viết Kiến nghị gửi lănh đạo Nhà nước, những nơi nhận Kiến nghị đều im lặng. Những người lănh đạo Nhà nước coi dân, coi trí thức như hư vô, như không có, nếu có cũng chỉ là bầy đàn, bầy ong bầy kiến, không đáng trả lời. Lănh đạo Nhà nước không thèm trả lời Kiến nghị của trí thức nhưng công an th́ đến từng nhà người kí Kiến nghị dằn mặt, răn đe.
Công an chặn cửa không cho người dân ra khỏi nhà đi biểu t́nh chống Đại Hán cướp biển đảo Việt Nam, giết dân lành Việt Nam. Công an chốt chặn suốt đêm ngày, ngày này qua ngày khác quanh nhà người có chính kiến khác biệt với chính quyền, đi đâu một bước công an bám theo một bước. Người có tiếng nói khác biệt với chính thống vẫn là công dân mà bị công an ngang nhiên tước đoạt quyền công dân, trở thành người tù ngay trong nhà ḿnh, là người tù ngay trong cuộc sống đời thường quí giá của cuộc đời. Công an vô cớ xông vào nhà khám xét, bắt người có chính kiến khác biệt vất lên ô tô chở về đồn công an như chở một đồ vật. Công an bắt người dân yêu nước biểu t́nh chống Đại Hán xâm lược rồi vật ngửa ra, khiêng lên ô tô như khiêng heo cho một công an khác đứng trên bậc cửa ô tô đạp tới tấp vào mặt người dân yêu nước.
Hành xử với dân như vậy là hành xử của đám lưu manh, côn đồ. Và lưu manh, côn đồ thứ thiệt cũng được công an sử dụng như công cụ bạo lực Nhà nước để khủng bố, đàn áp dân. Tự xưng là thương binh xông vào cơ quan Nhà nước hành hung cán bộ Nhà nước, chửi tục và tụt quần ăn vạ giữa cơ quan Nhà nước th́ chỉ có lưu manh, côn đồ mới hành xử như vậy. Người dân b́nh thường cũng đủ tỉnh táo nhận ra đám người tự nhận thương binh làm tṛ côn đồ đó theo lệnh của ai. Bảy trăm cơ quan ngôn luận Nhà nước làm ngơ trước những biểu hiện của xă hội đang bị bạo lực hóa, côn đồ hóa nhưng có tờ báo lớn của chính thống lại lu loa lên án người bị nạn, bị côn đồ gây sự đe dọa!
Chế tạo ra những thứ hôi thối, bẩn thỉu ném lên tường nhà, đổ vào cửa nhà dân. Đổ sơn, đốt cổng nhà dân . . . Những người dân phải hứng chịu tṛ côn đồ bẩn thỉu đó là những người đă từng là tù chính trị trong nhà tù Cộng sản, đă nhiều lần bị công an vô cớ bắt giữ, khám xét nên người dân đều biết rơ ai đă ra lệnh cho lũ côn đồ làm tṛ bẩn thỉu đó!
Công an đánh chết dân ngoài đường, đánh chết dân trong đồn công an diễn ra khắp nơi, ngày càng nhiều. Doanh nghiệp nước ngoài bị mất một số sản phẩm trong kho. Anh công nhân theo dơi việc xuất sản phẩm được mời lên đồn công an hôm trước th́ hôm sau đă là cái xác không hồn. Cái chết của anh công nhân cao trên một mét bảy, nặng trên bảy mươi cân được công an giải thích là do anh tự treo cổ bằng sợi dây điện thoại mỏng manh! Anh công nhân mới cưới vợ trẻ, hai vợ chồng trẻ có việc làm ổn định, có cuộc sống vững vàng, đă mua được đất chuẩn bị xây ngôi nhà mơ ước để đón những đứa con của hạnh phúc và điều quan trọng là anh đă khẳng định ḿnh vô tội trong vụ mất sản phẩm của doanh nghiệp và đang chứng minh sự vô tội đó vậy mà viện Kiểm sát tối cao sau ít ngày “điều tra” lấy lệ lại xưng xưng kết luận là anh công nhân tự t́m đến cái chết v́ hối hận! Đó là kết luận của những thế lực liên kết tạo thành những nhóm lợi ích, kết luận của bạo lực Nhà nước, không phải là kết luận của công lí, của lương tâm , của lẽ phải.
Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bạo lực đă thay công lí. Cuộc sống chỉ có Bạo lực! Bạo lực! Và Bạo lực! Công lí như mặt trời trong đêm, không c̣n có trong cuộc sống nữa. Bóng công an, bóng bạo lực, bóng tối Trung Cổ đè xuống cuộc sống. Công an giết dân. Côn đồ giết dân. Mạng sống của người dân quá mong manh. Xă hội đầy nhiễu nhương, bất an.
Cuộc sống bị công an hóa, bạo lực hóa và Nhà nước đi đầu nêu tấm gương sử dụng bạo lực trong nhiều mối quan hệ dân sự với dân. Đại tá, giám đốc công an thành phố chỉ huy cuộc hành quân binh chủng hợp thành, công an và quân đội phối hợp, bài binh bố trận như một trận đánh sống mái với quân thù, bao vây, nă súng vào ngôi nhà đơn sơ, chơ vơ trên băi biển chỉ có đàn bà và trẻ con của gia đ́nh anh nông dân Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lăng, Hải Pḥng. Ba ngàn cảnh sát chiến đấu của Bộ Công an cùng lực lượng công an huyện, công an tỉnh, áo giáp, tay khiên, tay súng trùng trùng đội ngũ, ầm ầm ra quân, trấn áp, xua đuổi vài trăm nông dân tay không, đầu trần, chân đất ở Văn Giang, Hưng Yên. Bạo lực Nhà nước được huy động cao nhất giành mảnh đất sống của người nông dân giao cho nhà tư bản để họ kinh doanh làm giầu trên sự khốn cùng của những người nông dân đă góp xương máu mồ hôi dựng lên Nhà nước này. Hàng chục người dân lương thiện đă bị công an đánh chết trong các đồn công an trên cả nước khi người dân bị công an bắt chỉ v́ những lỗi nhỏ trong sinh hoạt như đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, to tiếng căi nhau với người thân, với hàng xóm . . .
Đau xót và tủi nhục cho nền văn minh Sông Hồng rực rỡ và cho mảnh đất Thăng Long – Hà Nội ngàn năm Văn hiến là chính ở trung tâm văn minh Sông Hồng, chính ở kinh đô ngàn năm văn hiến lại là nơi người dân bị công an đánh chết nhiều nhất, chết thương tâm nhất. Giữa thủ đô Hà Nội công an treo cao cái slogan chữ lớn bầy tỏ ḷng trung thành của công an với đảng Cộng sản: Công an nhân dân chỉ biết c̣n đảng c̣n ḿnh, dưới cái slogan ấy nhiều người dân Hà Nội đă bị công an đánh chết thê thảm: Ngày 21. 11. 2009, anh Nguyễn Mạnh Hùng, 33 tuổi bị đánh chết trong trại tạm giam của công an quận Hà Đông, Hà Nội. Chỉ ba tháng sau, ngày 21. 1. 2010, anh Nguyễn Quốc Bảo, 33 tuổi, bị đánh chết trong trại tạm giam của công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Năm tháng sau, ông Nguyễn Phú Trung, 41 tuổi bị hai công an xă Thủy Xuân Tiên, huyện Chương Mĩ, Hà Nội đánh chết. Tám tháng sau, ngày 28. 2. 2011, ông Trịnh Xuân Tùng, 53 tuổi, bị trung tá Nguyễn Văn Ninh, công an phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội đánh găy cổ ở bến ô tô Giáp Bát dẫn đến cái chết trong đau đớn. Đau đớn cho người đang chờ chết, càng đau đớn gấp bội cho người sống c̣n lương tâm. Người dân Hà Nội c̣n chưa nguôi ngoai, chưa thể vơi nỗi căm phẫn ghê tởm trước sự độc ác, nhẫn tâm giết người của viên trung tá công an Nguyễn Van Ninh th́ ngày 30. 8. 2012, công an xă Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội ngay trong buổi chiều bắt giam ông Nguyễn Mậu Thuận, 54 tuổi, v́ xích mích với hàng xóm, đă đánh chết ông Thuận ngay trong trụ sở công an xă!
Nhà nước nào, xă hội đó. Nhà nước bạo lực tất tạo ra xă hội bạo lực. Những va chạm xích mích nhỏ từ trong gia đ́nh đến ngoài xă hội đều giải quyết bằng bạo lực, bằng máu, bằng sự tước đoạt mạng sống của nhau. Cha giết con. Vợ giết chồng. Anh giết em. Người yêu giết người yêu . . . xảy ra hàng ngày trên khắp đất nước. Những cuộc thanh toán đẫm máu thường xuyên xảy ra trên đường phố, trong làng quê. Chú bé Lê Văn Luyện chưa đến tuổi thành niên lạnh lùng vung dao giết cả nhà bốn người chủ tiệm vàng để vơ một nắm vàng. Thời bạo lực Nguyễn Tấn Dũng đă sản sinh ra tội ác Lê Văn Luyện.
Đất nước của những bài dân ca, của những câu ca dao, thành ngữ chan chứa t́nh yêu thương: Thương Người như thể thương thân, bây giờ là đất nước của bạo lực, hận thù, của máu và nước mắt! Đất nước Việt Nam hiền ḥa, gấm vóc của tôi ơi, có bao giờ đau đớn và tối tăm thế này chăng?
Văn minh tin học đă mang lại cho Con Người cuộc sống ḱ diệu, Với văn minh tin học, Con Người làm được những việc mà trước đây chỉ có thần thánh trong những câu chuyện cổ tích, thần thoại mới làm được. Con Người đă trở thành thần thánh. Được sống với những tiện nghi kĩ thuật do công nghệ thông tin mang lại, Con Người c̣n được sống trong những giá trị nhân văn cao cả. Quyền Con Người đă là phổ quát, là đương nhiên ở mọi xă hội. Nhưng trên đất nước Việt Nam thân yêu của tôi với ông Thủ tướng khinh trí tuệ, trọng bạo lực, giữa kỉ nguyên văn minh tin học, người dân Việt Nam vẫn chưa được sống kiếp Người, vẫn chỉ là bầy đàn, bầy ong, bầy kiến, vẫn phải sống trong bạo lực Trung Cổ. Quyền Con Người b́nh dị vẫn chỉ là thứ xa xỉ, vẫn là nỗi khao khát, mơ ước của người dân Việt Nam!
Tôi viết trong nghẹn ngào, đến đây nước mắt đă làm nḥe tất cả, tôi không thể viết được nữa!
NV Phạm Đ́nh Trọng
(ABS)
|