View Single Post
Old 01-02-2013   #2
vuitoichat
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
Join Date: Jan 2008
Posts: 148,878
Thanks: 11
Thanked 14,096 Times in 11,257 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 184
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
Default

Giờ đây, cho dù được khoác bằng những chữ vàng về t́nh anh em, được tô son trát phấn bởi đủ thứ mỹ tự, th́ quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, trên thực tế là quan hệ giữa một con mănh thú luôn đói mồi với một con nhím chỉ muốn yên thân nhưng bất khuất, đầy kinh nghiệm thoát hiểm và có khả năng làm đối phương phải tổn thương. Người Trung Quốc có thể cũng rất muốn có sự yên ổn ở phía Nam, nhưng với điều kiện các đ̣i hỏi về lănh thổ và lănh hải – đặc biệt là lănh hải – của họ phải được thoả măn. Mà điều vô lư theo kiểu sô-vanh đó th́ không bao giờ được chấp nhận, một khi người Việt chưa diệt vong. V́ vậy, mọi sự hữu hảo giữa hai đảng, hai nước, hai dân tộc… chỉ là sự vờ vịt mà cả hai bên đều đọc thấy hết những ǵ thật sự ẩn chứa bên trong, sẽ c̣n kéo dài chưa biết đến bao giờ, ít nhất là chừng nào chúng ta c̣n chưa giành lại được Hoàng Sa, hoặc chừng nào Trung Quốc chưa trở thành một cường quốc dân chủ, có trách nhiệm và do đó từ bỏ tham vọng ngông cuồng, đầy ảo tưởng thể hiện trên bản đồ lănh hải h́nh lưỡi ḅ.

Có thể đă thừa căn cứ để nói rằng: Không ai mong muốn làm láng giềng núi liền núi, sông liền sông với Trung Quốc như những ǵ thế giới chứng kiến ở họ. To lớn như nước Nga hay Ấn Độ họ cũng không thích thú ǵ có một ông bạn thâm hiểm, tham tàn và khó lường như Trung Quốc ở bên cạnh. Trong nửa sau thế kỷ 20, Trung Quốc trực tiếp và gián tiếp gây chiến tranh với hầu hết bạn bè lân bang, đúng tinh thần của Binh pháp Tôn Tử: “Viễn giao, cận công”. V́ thế, số phận quả là khắc nghiệt đă đặt chúng ta bên cạnh Trung Quốc, lại ở phía dễ tổn thương nhất. Việc thất bại trong quá tŕnh đồng hoá và xâm lược Việt Nam suốt hai ngàn năm, chưa phải là bài học cuối cùng cần khép lại vĩnh viễn với người Trung Quốc. Họ sẵn sàng theo đuổi tiếp hai ngàn năm nữa để thực hiện mục tiêu đó. Mấy chục năm hữu hảo, mấy trăm triệu đô la viện trợ để chúng ta có thể “đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng” chỉ là bước đi nhỏ, của một tính toán dài hạn, lạnh lùng, không thay đổi một li một lai mà người Trung Quốc vạch ra chi tiết cho việc thôn tính chúng ta. Xét về mọi khía cạnh th́ đây là một thực tế bi thảm mà chúng ta phải đối mặt. Bi thảm v́ chúng ta luôn ở thế lép vế so với họ; bi thảm v́ chúng ta không có quyền lựa chọn không gian sống khác; bi thảm v́ dân tộc chúng ta là một dân tộc quật cường, hoặc sống hoặc chết chứ không trở thành họ, càng không trở thành một bộ phận dơ dáy của họ. Bi thảm c̣n v́ chúng ta không thể nhắm mắt lại rồi hy vọng khi mở ra đă ở bên một nước khác không phải Trung Quốc. Chúng ta, trong bất cứ khoảnh khắc nào đều không được phép sao lăng công việc để ư ông bạn láng giềng. Bỗng dưng nó mạnh lên là phải cảnh giác. Nhưng đột nhiên nó có nguy cơ tan vỡ cũng lại là mối nguy hiểm. Thấy họ căi nhau với người hàng xóm khác (chẳng hạn như những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc với Nhật Bản hay Philippines), phải nghĩ ngay đến việc họ đang giương đông kích tây, đánh lừa dư luận khỏi chú ư đến mục tiêu chính ở Biển Đông, tức là có thể bất ngờ đánh úp ḿnh bất cứ lúc nào.

Nhưng có lẽ bi thảm nhất là vô t́nh chúng ta đóng vai tṛ vật cản tự nhiên của tham vọng bành trướng Đại Hán Trung Quốc. Đây là thực tế phũ phàng xác định tính thực chất lâu dài cho mối quan hệ Việt-Trung.

Nói gọn lại, chừng nào Trung Quốc c̣n nuôi ư đồ độc chiếm Biển Đông, chừng nào Trung Quốc c̣n chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa, t́m cách gặm dần Trường Sa của Việt Nam, chừng nào người Việt Nam c̣n không chấp nhận sự chiếm đóng của Trung Quốc trên một phần lănh thổ, không chấp nhận sự lệ thuộc tinh thần, th́ chừng đó quan hệ Việt-Trung là quan hệ của hai đối thủ, mọi sự hữu hảo chỉ là tạm thời và vờ vĩnh. Thực chất của mối quan hệ đó là bên này t́m cách cô lập, làm suy yếu bên kia càng nhiều càng tốt (trên thực tế điều này chỉ đang diễn ra một chiều, từ phía Trung Quốc). Với Trung Quốc là cả một chiến lược toàn diện, dài hạn, nhất quán, được chuẩn bị kỹ với tầm nh́n hàng trăm năm từ chuẩn bị lực lượng quân sự, chèn ép về buôn bán, giao thương, xâm lược văn hoá, quấy nhiễu, gây rối an ninh, áp đặt dư luận bằng quy mô tuyên truyền lớn, thao túng hàng hoá, tiền tệ, công nghệ, làm suy thoái ṇi giống Việt (***)… không thể kể hết, đến những can dự vào chính trị, chia rẽ nội bộ, kiềm toả về ngoại giao, kinh tế, nhằm làm cho Việt Nam suy yếu toàn diện, … C̣n về phía Việt Nam, chúng ta chỉ có một cách duy nhất là tỉnh táo thoát khỏi những mưu mô đó của Trung Quốc, tận dụng thời cơ trong đó có cả những mâu thuẫn giữa các cường quốc để phát triển. Về phần Trung Quốc, họ nắm toàn bộ sự chủ động, có thể đề ra luật chơi theo ư ḿnh nhưng tuyệt đối không phải v́ thế mà họ có quyền định đoạt. Về phần ḿnh, chúng ta bắt buộc phải sống bên cạnh họ – nhiều người có vẻ không nhớ thực tế đơn giản này – đành ở vào thế phải nương theo và v́ vậy chúng ta chỉ có thể tồn tại và phát triển bên cạnh Trung Quốc bằng một đối sách khôn ngoan.

-------------------------------------------------------

(*) Tôi muốn nhắc đến trường hợp bài trả lời phỏng vấn của ông Lê Vĩnh Trương trên báo Pháp luật TPHCM ngày 4/11/2012 (và trước đó nữa là bài của giáo sư Ngô Bảo Châu). Ông Trương – trong khuôn khổ của một tờ báo chính thống – đưa ra được một số thông điệp như vậy là rất cố gắng, thực tế là chưa có tiền lệ trong thời gian từ sau năm 1991. Ông không đáng bị “ném đá” như những ǵ đă xảy ra, nếu mỗi người tỉnh táo, suy ngẫm thấu đáo hơn. Tôi đồng ư với đánh giá khá b́nh tĩnh của ông Dương Danh Huy. Những người ném đá ông Trương quên mất một thực tế là, do bị nhồi sọ quá lâu, hàng triệu người –những người cần biết thực tế của mối quan hệ Việt-Trung cũng như những việc hệ trọng khác của đất nước – vẫn chưa có thói quen tin vào những trang mạng tự do. Những thông tin trên đó bị “hàng rào chính trị” trong đầu họ gói tuốt vào một rổ với những thứ chống phá đất nước. Chúng ta có thể trách họ nhưng đó đang là thực tế. Theo tôi, những người b́nh thường có thể xả ra mọi bức xúc, hay vẫn gọi là “ném đá”, c̣n thứ mà giới trí thức “ném ra” chỉ nên là những quan điểm, ư tưởng có giá trị phản biện.

(**) Năm 2002 tôi có chuyến sang Hoa Kỳ và khi đến vùng có nhiều người Việt sinh sống th́ tôi được người dẫn đường nói nhỏ vào tai: Đừng nói ǵ nhé, kẻo bị hành hung đấy. Hành hung th́ chưa, nhưng tôi bị một cháu sinh viên Việt lừ mắt hỏi “Sang đây làm chi?” đáp lại vẻ mặt hớn hở và lời hỏi thăm đầy t́nh đồng bào của tôi sau một tháng xa nhà. Sau đó tôi được biết nhà văn N. K. từng bị chính đồng bào ḿnh nện mũ cối vào đầu, nhà văn L. M. K. và H. A. T. th́ phải nhờ đến cảnh sát Hoa Kỳ làm hàng rào mới thoát khỏi cuộc vây hăm của hàng trăm người Việt, nhà văn N. H. T. bị bao vây khi ông đến nói chuyện tại một trường đại học… Lư do chỉ là những nhà văn đầy tinh thần dân chủ này (tất nhiên không ai thèm biết điều đó!) từng và đang làm việc cho nhà nước Cộng sản. Khi về nước tôi cứ đau buồn măi về chuyện này và tự hỏi: Bao giờ th́ quan hệ của những “đồng bào Việt” mới không gắn với chính trị và bao giờ th́ họ mới tha thứ cho nhau?.

(***) Ở tầm vĩ mô, ngoài những ǵ ghi trong sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam năm 1979, có thể kể thêm vụ ngăn cản Việt Nam b́nh thường hóa với Hoa Kỳ, gia nhập WTO, ép các nhà thầu dầu khí nước ngoài không hợp tác với Việt Nam… C̣n ở những tiểu xảo th́ muôn h́nh vạn trạng. Những chuyện như thu mua rễ cây hồi, đuôi trâu, đỉa, râu ngô có thể là một vài ví dụ. Năm 1995, một anh bạn thạo tin rỉ tai tôi là Trung Quốc bỏ ra khoảng 27 tỉ nhân dân tệ (hơn 4 tỉ USD) để trợ giá cho những mặt hàng như điện máy, điện tử, giày dép, đồ may mặc của họ… để giết chết những ngành này ở Việt Nam bằng buôn bán tiểu ngạch. Tôi không có điều kiện kiểm chứng thông tin này. Nhưng năm 1995, khi tôi sang Bằng Tường rồi vào sâu trong lănh thổ Trung Quốc khoảng 30 km, tôi tận mắt chứng kiến những mặt hàng đă kể, cùng chủng loại, cùng nhăn mác… ở nội địa Trung Quốc bán cao gấp từ 2 đến 3 lần ở Lạng Sơn, Móng Cái… V́ thế những người dân Trung Quốc ở vùng biên bèn sang Việt Nam để mua hàng Trung Quốc, rẻ chưa bằng một nửa khi bán tại nước họ, về tiêu dùng.

Năm 1999 tôi có dịp thăm cửa khẩu Sóc Giang, Cao Bằng, chứng kiến cảnh Trung Quốc xua người dân lấn đất của Việt Nam bằng các cách sau: Dịch cột mốc tạm thời, cho người cắt cỏ theo đường phân giới, lấn sâu vào phía Việt Nam rồi cứ thế căn cứ vào màu cỏ để coi là ranh giới, trồng cây sao cho gốc chéo sang đất Việt Nam nhưng ngọn vẫn ở bên đất Trung Quốc rồi chờ đêm đến cho người ra dựng thẳng cái cây đó lên, coi như gốc cây là điểm giáp biên. Hoặc ở cửa khẩu Tà Lùng, có một con suối trở thành một đoạn đường biên tự nhiên giữa hai nước. Phía Trung Quốc bèn xui Việt Nam cùng họ đắp đập để lấy nước tưới. Nhưng khi tháo nước th́ chỉ có phía Việt Nam thực hiện. Bờ sông phía Việt Nam lập tức bị nước khoét lơm vào khoảng vài chục mét – do áp lực nước quá lớn – và phía Trung Quốc lấy ngay cái bờ mới đó để chia lại đường phân thủy, kết quả là họ được lợi vài ngàn mét vuông. Chính anh em biên pḥng bảo với tôi, phía Trung Quốc định ra mức thưởng 1000 nhân dân tệ (khoảng hơn 2 triệu đồng Việt Nam lúc ấy) cho một héc ta đất rừng lấn chiếm được. Người dân Trung Quốc ở vùng giáp biên với Việt Nam đa phần rất nghèo, có thể là nghèo nhất thế giới, nên họ thấy tiền là bất chấp tính mạng để lao vào. Cũng phải chứng kiến tận nơi mới thấy bộ đội biên pḥng của chúng ta cũng như đồng bào Việt Nam ở vùng biên gian khổ nhưng bất khuất và giàu ḷng yêu nước như thế nào.

Nguồn: Tạ Duy Anh/ Bauxite Việt Nam
vuitoichat_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10453 seconds with 10 queries