View Single Post
Old 02-24-2013   #1
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default Sai lầm của Hoa Kỳ

GS Lê Xuân Khoa

“… nếu dân tộc ta không phải chịu sự tàn phá của hai cuộc chiến tranh và nếu Việt Nam không theo đuổi chủ nghĩa cộng sản th́ xứ sở đă được hiện đại hoá từ lâu và Việt Nam ngày nay có thể đă trở thành một trong những con rồng của Á châu. Ôn lại kinh nghiệm về những sai lầm và những cơ hội bỏ lỡ của mỗi phe lâm chiến trong suốt thời kỳ từ 1945 đến 1975 qua hai cuộc chiến tranh, chúng ta có thể rút ra được nhiều bài học lịch sử cần thiết cho những thế hệ sau trong nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đất nước“. – Lê Xuân Khoa

Sự thể đă rơ ràng là sự sụp đổ của chính thể quốc gia ở miền Nam và chiến thắng của chính thể cộng sản miền Bắc là nguyên nhân trực tiếp của tị nạn 1975. Biến cố này đă xảy ra mau chóng hơn cả kế hoạch tổng tấn công mà các chiến lược gia Hà Nội dự tính phát động vào năm 1976. Tuy nhiên, cũng như chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), cuộc chiến lần thứ hai này đă đem lại nhiều kinh nghiệm khác nhau cho tất cả các phe liên hệ.

So với chiến thắng 1954, cái giá của chiến thắng 1975 c̣n tốn kém và đau thương hơn gấp bội về tài sản và nhân mạng ở cả hai miền. Theo Hà Nội, tổng số bộ đội miền Bắc và MTGPMN bị chết là 1,100,000 trong số đó có khoảng 300,000 chưa t́m được xác. Số thường dân ở miền Bắc bị chết v́ chiến tranh lên tới khoảng hai triệu người. Số nạn nhân chết riêng trong những cuộc dội bom ở miền Bắc, theo Hoa Kỳ, là khoảng 30,000 người, về phía VNCH, có 110,357 quân nhân tử trận và 499,026 bị thương, số thường dân bị chết không được biết đích xác nhưng dự đoán ít nhất là 415,000 người.1 Phí tổn cho cuộc chiến về phía Hoa Kỳ khoảng 200 tỉ đô-la, viện trợ của Bắc Kinh cho Hà Nội từ 1950 đến 1975 vào khoảng 22 tỉ. Viện trợ của Liên Xô cho Hà Nội trong cuộc chiến chống Pháp (qua Trung Quốc để giữ mối quan hệ với Pháp) là một tỉ, sau Genève được tiếp tục bởi Khruschev (1956-1964), gia tăng dưới thời Kosygin (1964-1980), trung b́nh một tỉ mỗi năm. Từ 1975, Liên Xô là nguồn viện trợ duy nhất cho Việt Nam.2

Cũng phải tính thêm rằng nếu dân tộc ta không phải chịu sự tàn phá của hai cuộc chiến tranh và nếu Việt Nam không theo đuổi chủ nghĩa cộng sản th́ xứ sở đă được hiện đại hoá từ lâu và Việt Nam ngày nay có thể đă trở thành một trong những con rồng của Á châu. Ôn lại kinh nghiệm về những sai lầm và những cơ hội bỏ lỡ của mỗi phe lâm chiến trong suốt thời kỳ từ 1945 đến 1975 qua hai cuộc chiến tranh, chúng ta có thể rút ra được nhiều bài học lịch sử cần thiết cho những thế hệ sau trong nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đất nước. Chương Năm trên đây đă kiểm điểm vai tṛ của bốn phe liên hệ trong cuộc chiến 1945-1954. Những chương sau đây sẽ lần lượt xem xét vai tṛ của ba phe chủ yếu trong cuộc chiến lần thứ hai được nhen nhúm từ 1955 và gia tăng cường độ cho đến 1975 mới châm dứt. Trước hết là Hoa Kỳ.

Khi dấn thân vào cuộc chiến chống cộng sản ở Việt Nam trong hai mươi năm sau hội nghị Genève, Hoa Kỳ chẳng những không rút ra được những kinh nghiệm sai lầm của Pháp, và của chính ḿnh trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất mà c̣n phạm phải nhiều sai lầm mới.

Người Mỹ vốn là một dân tộc năng động, ưa đổi mới và thiếu kiên nhẫn. Lập quốc trên một lục địa nằm giữa hai đại dương với tài nguyên phong phú, người Mỹ c̣n có khuynh hướng biệt lập (isolationism), không thích tham gia hay can thiệp vào t́nh h́nh thế giới bên ngoài. Ngay cả sau khi đă bị lôi cuốn vào hai trận Thế chiến, Hoa Kỳ vẫn chỉ muốn trở về với chủ trương biệt lập khi cuộc chiến chấm dứt. Nhưng khi Chiến tranh Lạnh khởi sự do mối đe dọa của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản quốc tế, Hoa Kỳ nhận thấy không thể hoàn toàn giao phó nhiệm vụ duy tŕ ḥa b́nh thế giới cho Liên Hiệp Quốc, Trong cuộc tranh đua với quốc tế cộng sản, Hoa Kỳ phải từ bỏ khuynh hướng biệt lập để giữ vai tṛ “lănh đạo thế giới tự do”, tham gia vào những cuộc chiến tranh cục bộ trên thế giới, như ở Á châu là chiến tranh Triều Tiên rồi đến chiến tranh Việt Nam. Đây là một sứ mệnh mới của Hoa Kỳ mà John F. Kennedy, từ trước khi làm Tổng Thống, đă xác định khi nói về vai tṛ bảo vệ và đẩy mạnh công cuộc xây dựng dân chủ trong vùng Đông Nam Á. “Trách nhiệm lănh đạo đă được đặt lên vai chúng ta, không phải bởi một nước nào hay bởi chính chính phủ hay công dân Hoa Kỳ, mà bởi định mệnh và thời cuộc, bởi thực tế của sức mạnh vật chất và kinh tế của chúng ta, và bởi vai tṛ của chúng ta là đối lực thực sự duy nhất để chống lại các lực lượng cộng sản trên thế giới ngày nay.”3 Vai tṛ lănh đạo có tính chất nghiệp dĩ này nhiều năm sau được Joseph Nye, Khoa trưởng Chính trị của Đại học Harvard khai triển trong cuốn sách mang tựa đề Buộc phải Lănh đạo.4

Với một sứ mệnh đương nhiên như thế, các nhà lănh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ thường tự hào về các giá trị tự do dân chủ hàng đầu của ḿnh và tin tưởng ở sức mạnh vô địch về tiền bạc và vũ khí của Hoa Kỳ. V́ vậy, tuy không muốn trực tiếp can thiệp vào những vụ tranh chấp bên ngoài nhưng một khi đă nhảy vào ṿng chiến th́ Hoa Kỳ thường tin tưởng sẽ chiến thắng mau chóng do lực lượng quân sự hùng hậu của ḿnh. Những yếu tố tâm lư đó đă tạo thành cơ sở của chính sách đối ngoại chung cho cả hai đảng cộng hoà và dân chủ, chỉ khác biệt ở mức độ áp dụng bảo thủ hay cởi mở, cứng rắn hay ôn hoà. Nói đơn giản, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ là hợp tác và giúp đỡ những nước tán thành các giá trị vật chất và tinh thần của Mỹ; phong tỏa hay, nếu cần, sử dụng biện pháp quân sự đối với những nước chống lại hoặc tranh giành ảnh hưởng với Hoa Kỳ. Điển h́nh cho chính sách này ở mức độ cao nhất của nó là lời tuyên bố của Tổng thống George W. Bush, “Những ai không ở cùng phe với chúng ta là chống lại chúng ta.” Nhà tỉ phú George Soros nhận xét, “Đây là một tầm nh́n đế quốc theo đó Hoa Kỳ lănh đạo và thế giới phải tuân theo.”5

Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận những đặc tính tốt của dân tộc Hoa Kỳ, v́ nếu người giàu và mạnh thường có ḷng tự hào và tự tôn th́ họ cũng thường hay bênh vực và giúp đỡ kẻ nghèo và yếu thế. Ngoài ngân sách dành cho những chương tŕnh ngoại viện của chính phủ, nước Mỹ c̣n có một nguồn tài trợ tư nhân rất quan trọng do tài sản cá nhân, quỹ đặc biệt dành cho các hoạt động từ thiện và công ích của những gia đ́nh giàu có hay các xí nghiệp kinh doanh lớn, và cả một mạng lưới các tổ chức thiện nguyện ngoài chính phủ với những hoạt động gây quỹ nhân đạo nhiều khi lên tới hàng chục triệu đô la.6 Hơn một triệu người tị nạn Việt Nam, Lào và Kam-pu-chia đă nhận được sự giúp đỡ rất đáng kể trong nhiều năm của nhiều gia đ́nh bảo trợ, nhà thờ, cơ quan thiện nguyện, và các chương tŕnh định cư công và tư ở Hoa Kỳ. Những năm gần đây, một số người tị nạn Việt Nam thành công vẻ vang ở Hoa Kỳ không chỉ về nghề nghiệp mà cả về tài chánh cũng đă lập ra những “Sáng hội” hay Quỹ tài trợ (foundations) để giúp thực hiện những dự án nhân đạo hay có lợi ích công cộng. Khác với các chương tŕnh ngoại viện của chính phủ, những đóng góp th́ giờ và tiền bạc của các cá nhân cũng như những ngân khoản tài trợ của các cơ quan tư nhân đều không có những điều kiện ràng buộc về chính trị hay đ̣i hỏi một sự đền đáp nào ngoài việc thi hành cho đúng mục đích xin trợ giúp.

Trọng quan hệ với những quốc gia nhận viện trợ, Tổng thống và Quốc hội Hoa Kỳ thường rất nhiệt t́nh ủng hộ người lănh đạo đă được Hoa Kỳ lựa chọn hay chấp thuận, cho đến khi người đó không chịu nghe theo những lời khuyến cáo của Hoa Kỳ. Đến lúc đó th́ chính phủ Mỹ sẽ t́m đủ mọi cách, kể cả bạo lực nếu cần, để thay thế người lănh đạo đó. Điều này dễ hiểu nhưng chỉ có thể biện minh trong trường hợp có sự phản bội hay bội ước thực sự, chứ không thể chỉ v́ ư kiến bất đồng về phía người nhận viện trợ. Quan hệ hợp tác chỉ có kết quả tích cực và lâu dài nếu hai bên thông hiểu những sự khác biệt của nhau và t́m cách thích ứng với nhau để đạt mục tiêu chung, thay v́ có sự áp đặt từ một phía. Áp dụng quan niệm và phương pháp làm việc của Hoa Kỳ một cách máy móc vào một xứ sở và dân tộc có một nền văn hoá khác biệt và một lịch sử tranh đấu lâu dài cho độc lập như Việt Nam tất không thể tránh khỏi nhiều ngộ nhận và những hành động đáng tiếc. Trong sách lược chống cộng sản quốc tế của Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam là một trường hợp trắc nghiệm về khả năng của Hoa Kỳ giúp cho một quốc gia đối phó với ‘chiến tranh giải phóng’ của cộng sản. Đáng tiếc là cuộc trắc nghiệm này thiếu cơ sở kiến thức về lịch sử và văn hoá Việt Nam, về những người lănh đạo mà Hoa Kỳ muốn ủng hộ, và thiếu chuẩn bị để có thể hợp tác với đồng minh và đối phó với địch thủ một cách có hiệu lực. Nếu Hoa Kỳ có những chính trị gia và chuyên gia hiểu biết muốn chọn phương cách thích ứng th́ tiếng nói của họ lại không đủ mạnh để được chấp nhận thành chính sách. Như Thomas J. McCormick đă xác nhận: “Nếu có một sự ngạo mạn nào đó trong thái độ của những nhà lănh đạo Hoa Kỳ th́ đó là sự ngạo mạn của chính nghĩa và quyền lực.”7

Cũng nên nhắc lại rằng sở dĩ vào tháng Sáu 1954 Bảo Đại yêu cầu Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng là v́ Bảo Đại tin tưởng rằng Diệm sẽ được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, qua những nhân vật có ảnh hưởng mà ông Diệm đă quen biết trong thời gian ở Mỹ. Bảo Đại cũng nghĩ rằng đây là cơ hội cho ông có thể thoát khỏi sự khống chế của Pháp.8 Trong khi đó, giới lănh đạo Pháp ủng hộ quyết định của Bảo Đại v́ tin chắc rằng chính phủ Ngô Đ́nh Diệm sẽ bị các lực lượng chính trị và tôn giáo vũ trang thân Pháp lật đổ, kết quả là Pháp sẽ củng cố được sự hiện diện của ḿnh ở miền Nam Việt Nam sau hội nghị Genève. Trong trường hợp này, Bảo Đại sẽ bổ nhiệm một người khác làm Thủ tướng và vẫn tiếp tục lănh đạo QGVN dưới ảnh hưởng của Pháp. Tuy nhiên, nhờ sự trung thành của những binh sĩ di cư từ miền Bắc, nhất là những đơn vị người Nùng và binh chủng nhảy dù vốn không chấp nhận có những đoàn quân biệt lập với quân đội quốc gia, Ngô Đ́nh Diệm đă mau chóng loại trừ được các lực lượng nổi loạn vào cuối tháng Tư 1955. V́ Bảo Đại có quan hệ với những nhóm nổi loạn này, nhất là quan hệ tiền bạc với nhóm B́nh Xuyên, Ngô Đ́nh Diệm nhân dịp này truất phế Bảo Đại qua một cuộc trưng cầu dân ư ngày 23.10.1955. Từ ngày đó, Bảo Đại ở luôn bên Pháp không có cơ hội nào trở về nước nữa. Quốc Gia Việt Nam (QGVN) được đổi tên thành Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) và ngày 26.10, Ngô Đ́nh Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam.

Trước khi Ngô Đ́nh Diệm làm Thủ tướng, chính phủ Hoa Kỳ biết rất ít về ông và trong mười tháng đầu tiên đă không tin tưởng ở khả năng lănh đạo của ông. Ngay trước khi Ngô Đ́nh Diệm dẹp được các nhóm nổi loạn, Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles đă đồng ư với Đại sứ J. Lawton Collins là cần phải thay thế chính phủ Diệm. Nhờ báo cáo thuận lợi của đại tá Edward Lansdale và quyết định tấn công B́nh Xuyên của ông Diệm, chính phủ Hoa Kỳ đă thay đổi hoàn toàn thái độ.9 Năm 1957, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm được mời sang công du Hoa Kỳ, hội kiến với Tổng thống Eisenhower và đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc Hội. Chính giới và báo chí Mỹ ca ngợi ông Diệm như một vĩ nhân của Á châu.

Sai lầm của Hoa Kỳ là không hiểu rơ đầu óc độc lập của dân Việt Nam, nhất là ở một người lănh đạo như Ngô Đ́nh Diệm vốn có thêm một niềm tin tuyệt đối ở sứ mạng thiêng liêng mà ông được giao phó. Với tư cách một siêu cường, Hoa Kỳ tin tưởng có thể thuyết phục bất cứ lănh tụ nào của một quốc gia kém mở mang miễn là người đó thật sự chống cộng. Ngô Đ́nh Diệm là một người chống cộng nhưng cũng là một người có quan niệm về quốc gia xă hội theo truyền thống Khổng giáo, tức là người lănh đạo phải có đạo đức và nhân dân biết tuân phục. Ông Diệm rất tự tin và tự hào về quan niệm trị nước của ḿnh và rất nhạy cảm về chủ quyền quốc gia, không muốn bị mang tiếng là lệ thuộc vào Hoa Kỳ. Ông chỉ muốn Hoa Kỳ, v́ lợi ích chung, giúp cho ông lănh đạo công cuộc chống cộng và củng cố miền Nam qua viện trợ kinh tế và quân sự với một số cố vấn kỹ thuật. Ông chống lại việc Hoa Kỳ đưa quá nhiều cố vấn vào Việt Nam và ép buộc ông làm những chuyện ông cho là không thích hợp. Ngô Đ́nh Diệm có lư khi không muốn để cho Việt Nam bị lệ thuộc vào nước ngoài, và không ai có thể nghi ngờ ḷng ái quốc và tính liêm khiết của cá nhân ông, nhưng ông đă sai lầm khi ông trở thành độc tài, một nền độc tài gia đ́nh trị, không phải chỉ nhắm loại trừ cộng sản mà c̣n loại trừ tất cả những người quốc gia không đồng chính kiến và không chịu phục ṭng ông.

Trong những năm đầu, Hoa Kỳ đă hết ḷng ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm, ngay cả việc ông xây dựng hệ thống đảng cần Lao v́, như lời tân Đại sứ G. Frederick Reinhardt thông báo cho Edward Landsdale biết quyết định của chính phủ Hoa Kỳ: “Người Mỹ chúng ta phải tận t́nh giúp đỡ việc xây dựng một đảng chính trị quốc gia mạnh sau lưng Diệm. Nay Diệm đă được bầu làm Tổng thống, ông ta cần phải có một đảng riêng của ông.”10 Việc Hoa Kỳ đồng ư để ông Diệm lập đảng chính trị riêng hay chấp nhận việc hạn chế tạm thời một số tự do trong thời chiến không có nghĩa là đồng ư ủng hộ một chế độ độc tài. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đă không hiểu rơ quan niệm trị nước và cá tính của ông Diệm để đặt những điều kiện viện trợ với ông ngay từ lúc đầu và chuẩn bị sẵn những phương cách giải quyết thích hợp trước khi ông đủ mạnh để trở thành độc đoán. Dù bất măn với ông Diệm, Hoa Kỳ vẫn phải tiếp tục ủng hộ ông v́ không c̣n có cách nào khác, và không biết ứng xử thích hợp khi t́nh trạng càng ngày càng tồi tệ đưa tới những phản ứng bạo động cùa quân đội, như cuộc đảo chính hụt năm 1960, vụ ném bom dinh Độc lập năm 1962 và sau cùng là vụ thảm sát năm 1963.

Quyết định “Mỹ hoá” cuộc chiến năm 1965 là một sai lầm quan trọng khác do việc chính phủ Mỹ đánh giá sai vai tṛ khả năng của quân đội VNCH. Nhiều nhà lănh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ thường chê tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH so với bộ đội cộng sản miền Bắc khiến cho Hoa Kỳ phải đưa quân vào cứu văn t́nh trạng nguy ngập ở miền Nam. Điều đó đúng một phần nhưng không phải v́ người quốc gia không yêu nước bằng người cộng sản cho nên quân dân miền Nam không chiến đấu dũng cảm bằng quân dân miền Bắc. Trên toàn thể lănh thổ Việt Nam chỉ có một dân tộc, không thể bảo rằng người Việt miền Nam không can đảm bằng người Việt miền Bắc.11 Lịch sử chống thực dân Pháp đă cho thấy bao tấm gương anh dũng của những nhà ái quốc ở miền Nam, từ các nho sĩ triều Nguyễn tới các trí thức Tây học, trước và sau khi có đảng cộng sản Việt Nam. Trong những trận chiến chống quân đội cộng sản, có những bằng chứng rất hiển nhiên về tinh thần chiến đấu kiên cường của quân đội VNCH. Cuộc phản công mănh liệt của quân đội VNCH đến thắng lợi trong trận Tết Mậu Thân (1968), hay trận đại tấn công thất bại của Bắc Việt mùa Xuân năm 1972 là những thí dụ điển h́nh. Tinh thần chiến đấu ấy nhất định phải giảm sút trong thời gian khủng hoảng chính trị trước cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Đ́nh Diệm và trong những cuộc tranh quyền giữa các tướng lănh, trầm trọng nhất là những tháng cuối cùng (1974-1975) khi Hoa Kỳ cắt viện trợ quân sự khiến quân lực VNCH không có đủ phương tiện chiến đấu trước lực lượng hùng hậu của đối phương.

Ở đây cần nhắc đến một nhận xét của Sir Robert Thompson, chuyên gia Anh quốc chống du kích thành công ở Mă Lai và Phi- líp-pin, khi được báo Newsweek phỏng vấn về khả năng chiến đấu của quân đội VNCH trong những ngày nguy ngập trước khi Sài- g̣n thất thủ.
Hanna_is_offline  
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1.jpg
Views:	14
Size:	10.1 KB
ID:	446172  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.11914 seconds with 10 queries