R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Thompson nói:
Trước cuộc tấn công này, quân lực VNCH chiến đấu rất giỏi, đặc biệt là những sư đoàn tinh nhuệ như Nhảy dù, Sư đoàn I và Thủy quân lục chiến. Chính tôi đă nói với tướng Weyand, Tham mưu trưởng Quân lực Hoa Kỳ, rằng trong lúc này ông chưa có được một sư đoàn nào trong quân đội Mỹ có thể sánh ngang khả năng chiến đấu của họ (VNCH) hiện thời, chiến đấu như những bộ binh không có không quân và pháo binh yểm trợ. Tôi nói không có sư đoàn Mỹ nào làm được chuyện ấy.12
Và tướng Ira Hunt, Tư lệnh phó Cơ quan Hoạt động Yểm trợ của Hoa Kỳ ở Thái Lan từ 1973 đến 1975 cũng nhận xét:
Sau khi chúng ta rút quân về, quân đội miền Nam hoàn toàn đổi khác về tinh thần tiến công, về khả năng chiến đấu và t́nh báo. Người Việt Nam phải nhận lănh mọi gánh nặng và thật đáng ngạc nhiên là họ đă làm được việc đó rất giỏi…. Người Việt miền Nam đă đóng góp nhiều hơn là nhận, đó là một điều không thể nghi ngờ được. Nhưng khi chúng ta cắt tiếp viện hậu cần th́ họ không thể có cách nào tiếp tục được nữa.13
Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam không phải là để chiến đấu cho quân đội VNCH mà để tăng cường lực lượng chống cộng, khi cuộc khủng hoảng lănh đạo kéo dài ở miền Nam Việt Nam ảnh hưởng tai hại tới tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Sau khi t́nh h́nh chính trị đă ổn định với sự ra đời của Đệ nhị Cộng ḥa năm 1967 và một bộ máy chính quyền hợp hiến, hợp pháp, việc tổ chức và khả năng chiến đấu của quân đội VNCH mới lại có hiệu lực. Đặc biệt sau khi chiến dịch Tổng công kích/Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968) của miền Bắc bị thất bại, quân dân miền Nam đều mang ḷng oán hận cộng sản đă vi phạm giao ước hưu chiến ngày Tết và tàn sát tập thể những người bị bắt giữ như đă xảy ra ở Huế. Trong nhiều trận đánh chung với quân Mỹ, quân đội VNCH giữ vai chủ động và giết được nhiều địch quân hơn là quân Mỹ. Như trong trận tấn công Tết 1969, một năm sau Tết Mậu Thân, các dữ kiện do Bộ Tư lệnh Mỹ ghi nhận được ở Quân khu III cho thấy 31 phần trăm quân miền Bắc bị giết khi lâm chiến (killed in action – KIA) là bởi quân Mỹ, 67 phần trăm là bởi quân VNCH.14 Thật đáng buồn và không có ǵ đáng hănh diện khi nói đến thành tích giết hại lẫn nhau giữa quân đội hai miền Nam, Bắc, nhưng điều này được nhắc đến chỉ cốt để đính chính thành kiến sai lầm của dư luận phản chiến ở Mỹ hồi đó đối với quân đội miền Nam. Mặt khác, cũng cần phải nh́n nhận tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội cộng sản, và có thể nói là họ chiến đấu liều lĩnh hơn quân đội quốc gia. Điều đó dễ hiểu v́ miền Nam chiến đấu để tự vệ, và một quốc gia không cộng sản không thể có một bộ máy tuyên truyền để rèn luyện quân đội thành những chiến sĩ cuồng tín sẵn sàng hi sinh cho một sứ mệnh thiêng liêng. Đối với quân đội miền Bắc, ngoài việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin như một chân lư tuyệt đối và một tín điều duy nhất, họ c̣n có sứ mệnh thiêng liêng là “chống Mỹ cứu nước” và “giải phóng đồng bào khỏi sự đàn áp dă man của đế quốc và tay sai”. Họ được khuyến khích và sẵn sàng thi đua tấn công, thi đua lập công và hi sinh tính mạng ở chiến trường.
Cũng cần nói thêm là quân đội Mỹ được huấn luyện rất thành thạo về kỹ thuật chiến tranh và chiến đấu rất can đảm. Nhà báo Susan Katz Keating nghiên cứu về quân Mỹ chiến đấu ở Việt Nam cho biết là hai phần ba quân nhân Mỹ phục vụ ở Việt Nam là thành phần t́nh nguyện, và những người này rất hănh diện về hoạt động của họ. “Khi mọi chuyện đă lắng dịu vào thập kỷ 1980, 91 phần trăm tuyên bố với nhân viên điều tra của viện Harris rằng họ hài ḷng v́ đă phục vụ; 74 phần trăm cho biết họ ưa thích thời gian trong quân đội; và hai trong ba người nói họ sẵn sàng trở lại phục vụ dù có được biết kết quả của cuộc chiến.”15 Cũng không phải chỉ có dân nghèo và trong tuổi quân dịch mới bị đưa ra mặt trận. Kết quả một cuộc nghiên cứu của Đại học MIT về lư lịch các quân nhân Mỹ tử trận cho thấy là “những binh sĩ chết ở Việt Nam hầu hết là da trắng, thuộc giai cấp trung lưu và t́nh nguyện, không phải như lời đồn đại rằng họ là người da đen, nghèo và làm nghĩa vụ quân dịch.”16 Những vụ tàn sát không phân biệt quân du kích hay thường dân vô tội như vụ Mỹ Lai năm 1968 đă được xét xử hay vụ Lực lượng Con Cọp (Tiger Force) năm 1967 mà gần đây mới được mở ra lại để điều tra, đều chỉ là những hành động đơn lẻ của một số sĩ quan và binh lính có thái độ tàn ác bất thường trong những cuộc hành quân trả thù cho đồng đội. Trong những năm sau chiến tranh đă có nhiều tổ chức và cá nhân cựu chiến binh Mỹ về thăm lại Việt Nam với những chương tŕnh giúp đỡ nhân đạo, đóng góp rất có ư nghĩa vào công cuộc ḥa giải giữa hai nước.
Một điểm khác cần được biết là số quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với số quân làm nhiệm vụ hậu cần. Một cuộc điều tra của kư giả nổi tiếng Jack Anderson cho thấy là cứ 4 lính Mỹ sẵn sàng chiến đấu th́ có 5 người phục vụ ở hậu tuyến kể cả những người làm bếp, làm cà-rem, thợ sửa máy, nhân viên làm việc ở những trung tâm giải trí và kho hàng PX17 Để trả lời cho sự chỉ trích này, tướng Westmoreland giải thích: “Nhân viên không tham chiến rất quan trọng cho tinh thần quân đội. Trong cuộc chiến tranh này hầu hết các binh sĩ của chúng ta đều có những bữa ăn nóng ngay cả ở trong rừng. Chuyện đó cho thấy cần phải có một số lớn hỏa đầu quân và những nhân viên tương tự khác, nhưng những bữa ăn nóng rất tốt cho tinh thần (binh sĩ).” 18
Lối đánh trận kiểu nhà giàu này rất tốn kém và phí phạm. Vào thời điểm khai mạc hội nghị Paris năm 1968, số quân Mỹ bị chết là 300 người mỗi tuần và chi phí quân sự của Mỹ ở Việt Nam lên tới 20 tỉ mỗi năm. Tiến sĩ Nguyễn Phú Đức, nguyên cố vấn Đặc biệt của Tổng thống Thiệu, nhận xét rằng “nếu Hoa Kỳ rút quân dần dần và có phương pháp, và giảm tổn thất nhân mạng xuống gần con số không, song song với sự cắt giảm quan trọng các chi phí quân sự, Nam Việt Nam sẽ có thể bảo vệ tự do của ḿnh trong trường kỳ với viện trợ Mỹ ở mức độ vừa phải, và chỉ riêng điều đó cũng có thể đoán chắc một sự hỗ trợ lâu dài của nhân dân Hoa Kỳ.”19 Ông Đức cũng nhắc đến một nhược điểm trong thời hạn phục vụ một năm của binh sĩ Hoa Kỳ. Trong thời gian ngắn ngủi này người lính Mỹ mới vừa có đôi chút kinh nghiệm chiến trường th́ đă chuẩn bị để về nước, và điều dễ hiểu là càng gần đến ngày về với gia đ́nh th́ họ càng muốn tránh sự nguy hiểm. Cựu Đại tá Quân đội Nhân dân Bùi Tín cũng nhấn mạnh đến nhược điểm này của quân đội Mỹ khi ông sang Hoa Kỳ trao đổi với nhiều giới chính trị và quân sự ở nhiều nơi vào giữa thập kỷ 1990.20
Các nhà lănh đạo Hoa Kỳ cũng chỉ trích các tướng lănh VNCH chỉ quan tâm đến việc tranh chấp quyền hành và bảo vệ quyền lợi phe nhóm trong quân đội hơn là lo chiến đấu chống cộng sản. Điều đó đúng và sẽ được đề cập đến dưới đây nhưng cũng cần phải nói ngay rằng đó là hậu quả của chính sách sai lầm của Hoa Kỳ đối với Việt Nam từ thời Ngô Đ́nh Diệm, chỉ ủng hộ người lănh đạo mà không quan tâm đến những điều kiện ngăn ngừa nạn chuyên quyền cho đến khi thất vọng với người đó. Khi thấy cần phải can thiệp th́ những người Mỹ có trách nhiệm lại có thái độ đối xử không thích hợp và gây nên bất măn. Trường hợp Đại sứ Maxwell Taylor làm mất mặt tướng Nguyễn Khánh và nhóm tướng lănh trẻ do những vụ thay đổi chính quyền và âm mưu đảo chánh liên tiếp năm 1964 là một thí dụ điển h́nh của thái độ đối xử bất xứng này. Stanley Karnow gọi đó là một “tội lỗi căn bản” (cardinal sin) đă khiến nhóm Nguyễn Khánh dọa trục xuất Taylor như một persona non grata.
Ngày 21.12.1964, Taylor yêu cầu Nguyễn Khánh và nhóm tướng trẻ đến gặp ông ở ṭa Đại sứ. Chỉ có bốn tướng đến dự là Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Lê Nguyên Khang. Taylor nói:
“Các ông có hiểu tiếng Anh không?” Sau khi nhóm Việt Nam cho biết là họ hiểu, Taylor nói tiếp: “ Trong bữa ăn ở nhà tướng Westmoreland, tôi đă nói rơ cho tất cả các ông biết rằng người Mỹ chúng tôi đă chán ngấy những vụ đảo chánh. Dường như tôi đă phí lời. Có lẽ tiếng Pháp của tôi không được rành v́ rơ ràng là các ông đă không hiểu. Tôi đă nói rơ là tất cả những kế hoạch quân sự mà tôi biết các ông muốn thi hành đều tùy thuộc vào sự ổn định của chính quyền. Bây giờ th́ các ông đă làm nát bét hết. Chúng tôi không thể cưu mang các ông măi nếu các ông cứ làm những chuyện như thế này. Ai là người nói thay cho cả nhóm? Các ông có người phát ngôn không?21
Những vụ xúc phạm danh dự như vậy cũng hay xảy ra giữa một số cố vấn Mỹ và sĩ quan chỉ huy Việt Nam, nhất là khi cố vấn Mỹ lại trẻ tuổi và kém cấp bậc hơn sĩ quan chỉ huy người Việt. Chester A. Cooper, Phụ tá đặc trách về Á châu trong Hội đồng An ninh Quốc gia thời Tổng thống Johnson, đă nhận xét xác đáng:
Những đại úy Mỹ hai-mươi-lăm tuổi mới ra trường từ New York hay Kansas City thường hăm hở với ư muốn cách mạng hóa cơ cấu kinh tế và chính trị ở tỉnh mà anh ta được phái đến công tác —và muốn hoàn tất công việc đó trong nhiệm kỳ một năm của anh. Vấn đề “cố vấn” là một nghệ thuật, không phải là một khoa học, và nhiều người Mỹ đă thi hành nghệ thuật này bằng những cách làm cho các “đối tác” người Việt bị xúc phạm hoặc bối rối. Một sĩ quan Mỹ nhiều kinh nghiệm đă tóm tắt rành rẽ vấn đề này: “Thái độ ‘ngạo mạn về uy quyền’ của người Mỹ được biểu thị trong cách cư xử của nhiều cố vấn, tương tự như câu nói ‘Hăy đi ra chỗ khác chơi, để tôi làm lấy việc này!’ Ông Diệm có lư do chính đáng đặt vấn đề liệu những người Mỹ thiếu kinh nghiệm và ‘phục vụ ngắn hạn’ này có thể truyền thụ sự hiểu biết quan trọng ǵ cho người Việt để giúp đạt được chiến thắng. Ngoài ra, nếu người Mỹ cứ hành xử như những kẻ canh chừng cho Đại sứ quán hay Cơ quan Chỉ huy Viện trợ Quân sự dưới danh nghĩa cố vấn, ông Diệm cũng có thể tự hỏi liệu công cuộc viện trợ có đáng nhận hay không.” 22
Tập “Hồ sơ Ngũ giác đài” cũng có những nhận định tương tự:
Sự cam kết và dấn thân của Hoa Kỳ càng sâu bao nhiêu th́ những va chạm giữa các cố vấn Mỹ và đối tác Việt Nam ở mọi cấp bậc càng tăng thêm bấy nhiêu. Ông Diệm, do ảnh hưởng của ông Nhu, đă than phiền về số lượng và sự hăng say của các cố vấn Mỹ. Ông nói rằng những cố vấn này đang gây ấn tượng thời thuộc địa trong dân chúng.23
Có những chuyện đối với người Mỹ là b́nh thường nhưng lại rất nghiêm trọng đối với người Việt. Tướng Lâm Quang Thi kể chuyện một cố vấn Mỹ trong khi thị sát vũ khí của một đơn vị pháo binh thấy một khẩu súng không sạch. Ông ta bèn chùi vết bẩn ở khẩu súng đó lên tay của sĩ quan chỉ huy sư đoàn trước mặt các binh sĩ. Vị Chỉ huy này nổi giận tát viên cố vấn và sau đó bị mất chức.24
Điểm tai hại lớn nhất trong chương tŕnh “Mỹ hoá” chiến tranh là quân đội VNCH bị đẩy xuống vai tṛ phụ thuộc, giúp cho Hà Nội có chính nghĩa để động viên tinh thần nhân dân và quân đội trong cuộc “chiến tranh giải phóng chống đế quốc Mỹ”. Thật ra, việc Hoa Kỳ đưa quân chiến đấu vào Việt Nam sẽ có lư do chính đáng nếu chỉ để đáp ứng một t́nh trạng khẩn cấp có hạn kỳ, hoặc chỉ để trợ giúp về kỹ thuật trong khi tăng cường lực lượng của quân đội VNCH với đầy đủ vũ khí để giữ vai tṛ chủ động ở chiến trường. Nên biết rằng Trung Quốc cũng đưa quân vào miền Bắc, tổng số quân có mặt trong ṿng ba năm từ 1965 đến 1968 lên đến trên 320,000 người. Riêng trong năm 1967 đă có 170,000 quân Trung Quốc ở miền Bắc. Nhưng hoạt động chủ yếu của những đoàn quân này là trợ lực về pḥng không, vét và gỡ ḿn, xây cất và sửa chữa cầu đường, công xưởng, và các đơn vị hậu cần, mục đích là giúp cho miền Bắc có thể gửi nhiều quân chiến đấu vào miền Nam. Tính đến ngày người lính Trung Quốc cuối cùng rút về nước vào tháng Tám 1973, chỉ có 1,100 binh sĩ thiệt mạng và 4,200 bị thương.25 Vào những năm này, đảng Lao Động Việt Nam đă trở nên rất cảnh giác trong các quan hệ với Trung Quốc, v́ thế đă t́m mọi cách ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc, thậm chí c̣n hạn chế cả những cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa đoàn quân yểm trợ với dân chúng địa phương, vấn đề chủ quyền thường được sách vở báo chí nhắc nhở qua những bài viết về những cuộc chiến đấu chống quân xâm lăng phương Bắc trong lịch sử Việt Nam.26
|