R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Quả thật là bộ đội cộng sản Bắc Việt và MTGPMN đă “chiến đấu và chết cho những niềm tin và giá trị của họ”, v́ Hồ Chí Minh và những người lănh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đă gây cho họ niềm tin tưởng mănh liệt ở chính nghĩa “giải thoát đồng bào miền Nam khỏi sự đô hộ tàn ác của đế quốc Mỹ”. Riêng bộ đội miền Bắc c̣n được giao phó thêm sứ mệnh thiêng liêng là “thống nhất đất nước” để sớm thực hiện đời sống tự do, no ấm cho toàn thể dân tộc. Hoa Kỳ đă làm mất chính nghĩa chống cộng sản của VNCH bằng quyết định “Mỹ hoá chiến tranh” và chỉ chú trọng vào chiến thắng quân sự khiến cho dân chúng nông thôn sợ hăi và oán ghét. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận những lỗi lầm to lớn của những người lănh đạo chính trị và quân sự VNCH nhưng để chứng tỏ nhận định thiếu sót và sai lầm của McNamara về “chính nghĩa” của phe Cộng sản trong chiến tranh Việt Nam. McNamara cũng không biết rằng khi cán bộ, quân đội và dân chúng vào thăm thân nhân hay vào làm việc ở miền Nam sau chiến thắng 1975 th́ họ đă sững sờ khi thấy đời sống ở miền Nam dân chủ, tự do và thịnh vượng hơn nhiều so với miền Bắc, trái hẳn với những điều mà Đảng và Nhà nước đă hun đúc thành một niềm tin và ư chí sắt đá ở nơi họ trong sứ mạng “giải thoát đồng bào miền Nam đau khổ”.
Điểm số 4: Những xét đoán sai lầm của chúng ta về bạn cũng như thù cho thấy chúng ta không hiểu biết ǵ về lịch sử, văn hoá và chính trị của dân chúng ở trong vùng, và những cá tính và thói quen của những người lănh đạo của họ. Chúng ta có thể đă có những xét đoán sai lầm tương tự về Liên Xô trong những vụ đối đầu thường xảy ra—chẳng hạn vấn đề Bá Linh, Cuba, hay Trung Đông—nếu chúng ta không có những cố vấn như Tommy Thompson, Chip Bohlen, và George Kennan. Những nhà ngoại giao lăo luyện này đă bỏ ra hàng chục năm đê nghiên cứu khối Liên Xô, dân tộc và giới lănh đạo khối này, nguyên do các hành động của họ và những phương cách phản ứng của họ đối với hành động của chúng ta. Ư kiến của những nhà ngoại giao này rất có giá trị cho việc h́nh thành các phán đoán và quyết định của chúng ta. Trong trường hợp Việt Nam, chúng ta không có những nhân vật am hiểu về Đông Nam Ả như thế để cho các giới chức cao cấp tham khảo và lấy các quyết định.
Nhận xét xác đáng này tuy có tính chất kiểm thảo nội bộ về phía Mỹ nhưng vẫn được kể ra ở đây để chứng tỏ rằng những sự hiểu biết thiếu sót về Việt Nam của Hoa Kỳ nêu ra ở phần đầu chương này cũng được McNamara xác nhận là những sai lầm tai hại đối với cả “bạn cũng như thù.”
Điểm số 5: Chúng ta đă không nhận ra được—và cho đến nay cũng vậy— những giới hạn của vũ khí tối tân với kỹ thuật cao, của các lực lượng chiến đấu, và của lư thuyết chiến tranh khi phải đương đầu với những phong trào nhân dân phi qui ước và có động lực chiến đấu cao. Chúng ta cũng thất bại trong việc thích ứng chiến thuật quân sự của chúng ta vào công cuộc chiếm lấy ḷng người trong một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt.
McNamara nhận xét đúng về sai lầm của Hoa Kỳ khi quá tin cậv vào khả năng của vũ khí tối tân, hỏa lực thật mạnh, và lư thuyết chiến tranh qui ước để đối phó với loại chiến tranh nhân dân phi qui ước, hăng say v́ lư tưởng và dùng yếu chống mạnh bằng chiến thuật du kích. Hơn ai hết, ông là người hiểu rơ “ḷng ngạo mạn tự nhiên của kẻ rất mạnh.”33 Nhưng McNamara đă sai khi ông cho rằng Hoa Kỳ cũng thất bại khi không thể sử dụng những chiến thuật quân sự vào mục tiêu tranh thủ nhân tâm v́ có sự khác biệt về văn hóa.
Không hiểu những chiến thuật quân sự mà McNamara nói đến ờ đây là những chiến thuật ǵ, nhưng điều chắc chắn là khó có thể lấy được cảm t́nh của dân chúng bằng phương tiện quân sự. Dân chúng, nhất là ở miền quê, vốn nghi kỵ và sợ hăi quân đội ngoại quốc, chỉ có thể được thuyết phục bằng những chương tŕnh giúp đỡ về y tế, giáo dục, xă hội và phát triển kinh tế, kèm theo những biện pháp hữu hiệu chống nạn hà hiếp và tham nhũng của các viên chức địa phương. Một khi dân chúng thực sự nhận được những sự giúp đỡ này, họ sẽ đương nhiên ủng hộ chính quyền quốc gia và đồng minh Hoa Kỳ.
Trở lại các cơ hội bỏ lỡ, Hoa Kỳ đáng lẽ đă có thể t́m được giải pháp chính trị thích hợp cho Việt Nam khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm càng ngày càng mất sự tín nhiệm của dân chúng sau vụ đảo chánh hụt tháng 11,1960 và sự ra đời của MTGPMN cuối năm đó. Những năm đầu thập kỷ 1960 là thời kỳ mâu thuẫn Liên Xô- Trung Quốc trở nên gay gắt nhất, và Trung Quốc không c̣n muốn cho Bắc Việt tiếp tục khai thác cả hai nước đàn anh. Trong tài liệu ghi chép một phiên họp nội bộ, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho biết Đặng Tiểu B́nh đă nói thẳng với ông: “Đồng chí! Tôi sẽ giúp cho đồng chí hàng tỉ bạc mỗi năm. Đồng chí không được nhận ǵ của Liên Xô nữa.” Lê Duẩn không đồng ư và yêu cầu khối cộng sản phải đoàn kết. Năm 1963, Lê Duẩn cùng Trường Chinh được mời sang Trung Quốc để góp ư về bản dự thảo 25 điểm chống chủ nghĩa xét lại của Khruschev. Khi hai người lại yêu cầu duy tŕ t́nh đoàn kết cộng sản th́ Đặng Tiểu B́nh phản đối. Sau đó, trong buổi tiếp kiến hai lănh tụ Việt Nam, Mao Trạch Đông nhắn nhủ: “Tôi muốn cho các đồng chí biết điều này. Tôi là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ đưa một đạo quân tiến xuống vùng Đông Nam Á.”34
Lê Duẩn vốn rất oán hận Trang Quốc về việc bắt ép Bắc Việt chấp nhận các điều khoản hạn chế thắng lợi của hiệp định Genève, sau đó c̣n ngăn chặn các hoạt động chống đối chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Lê Duẩn tố cáo Bắc Kinh cấm cản Hà Nội tiến hành chiến tranh du kích ở mịền Nam. Khi Đảng Lao động Việt Nam không nghe lời, Đặng Tiểu B́nh lại cảnh cáo Lê Duẩn: “Bây giờ sự sai lầm của đồng chí đă lỡ xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức tiểu đội trở xuống mà thôi!” Khi Hà Nội chứng tỏ có khả năng gây chiến ở miền Nam, th́ Trung Quốc lại nảy ra ư đồ xâm lược. Lê Duẩn nói: “Sau khi chúng ta đă chiến đấu và Trung Quốc thấy rằng chúng ta có thể chiến đấu tốt, Mao bỗng có một đường lối suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng v́ Mỹ đánh chúng ta, ông sẽ đưa quân đội vào giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là t́m hiểu t́nh trạng của nước ta để sau này có thể đánh chúng ta và từ đó tràn sang các nước Đông Nam Á. Không có lư do nào khác. Chúng ta biết ró ư đồ này nhưng phải đồng ư. Thôi th́ cũng được. Họ quyết định đưa quân vào với súng đạn. Tôi lại phải chịu điều này. Về sau, Mao lại bắt chúng ta phải nhận cho 20,000 quân của ông vào xây con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ. Tôi không chịu. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ áp lực tôi phải để cho quân họ vào nhưng tôi không chấp thuận. Họ tiếp tục ép buộc nhưng tôi vẫn không chịu. Tôi đưa những thí dụ này để các đồng chí thấy mưu đồ của họ muốn cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc đến thế nào”. 35
Mâu thuẫn trầm trọng giữa Liên Xô và Trung Quốc vào những năm cuối thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960, thế mắc kẹt của Bắc Việt giữa hai đại cường cộng sản, và niềm nghi kỵ sâu sắc của giới lănh đạo Hà Nội đối với đầu óc bá quyền của Bắc Kinh, là những yếu tố rất thuận lợi cho Hoa Kỳ t́m một giải pháp chính trị không những cho Việt Nam mà cho cả ba nước Đông Dương. Đó là giải pháp trung lập hóa những điều kiện mà mỗi phía đều coi như những mẫu số chung để đạt được đồng thuận. Phe cực hữu có lư do để tin rằng “trung lập hóa” chỉ là một bước đi chiến thuật của cộng sản, một giai đoạn chuyển tiếp để đạt được mục tiêu tối hậu của họ. Tuy nhiên, giữa những tương quan đầy sức ép này, giới lănh đạo Bắc Việt có thể mong muốn Việt Nam trở thành một nước trung lập thật sự hay đúng hơn là một nước cộng sản độc lập như Nam Tư để có thể giao thiệp b́nh thường với các nước phương Tây kể cả Hoa Kỳ. Trong khi chờ đợi ít nhất Bắc Việt cũng muốn trung lập hóa miền Nam như đă được phát biểu trong bản tuyên ngôn của MTGPMN để một mặt tránh được chiến tranh với Hoa Kỳ, một mặt thoát khỏi áp lực của Trung Quốc và có th́ giờ củng cố miền Bắc. Trong viễn tượng ấy, Hoa Kỳ cũng có đủ thời gian chuẩn bị kế hoạch cải thiện các mối quan hệ kinh tế và chính trị với các nước ở Viễn Đông.
Đối với Liên Xô, mối quan tâm chính vẫn là t́nh trạng ở Âu châu. V́ vậy, mặc dù quan hệ với Hoa Kỳ đang căng thẳng v́ t́nh trạng Bá-Linh, Khruschev vẫn có thể thỏa hiệp với Hoa Kỳ về giải pháp trung lập hoá Đông Dương, và sẵn sàng giúp cho Việt Nam thoát khỏi tham vọng bá quyền của Trung Quốc. Trên thực tế, Liên Xô vẫn khuyến cáo Bắc Việt không nên gây chiến ở miền Nam và nên điều đ́nh với Hoa Kỳ. Về phía Trung Quốc, trong khi ngăn cản Bắc Việt tiếp xúc với Mỹ, giới lănh đạo Bắc Kinh sẽ không từ chối nói chuyện với Hoa Thịnh Đốn về vấn đề thiết lập quan hệ song phương và một giải pháp chính trị cho Việt Nam. Đáp ứng thuận lợi của Mao Trạch Đông trong những cuộc tiếp xúc thăm ḍ của Henry Kissinger từ 1971 đưa tới cuộc thăm viếng chính thức của Tổng thống Nixon ở Bắc Kinh năm 1972 là một bằng chứng rơ rệt của triển vọng hợp tác giữa hai nước.
Thực ra, giải pháp trung lập hoá miền Nam đă được hai nhà ngoại giao kỳ cựu Averell Harriman và Chester Bowles nêu ra từ tháng Mười Một 1961. Bowles đề nghị mở rộng giải pháp trung lập và độc lập của Lào bao gồm Nam Việt Nam, Cam bốt, Thái Lan, Miến Điện và Mă Lai. Ông lư luận rằng nếu cộng sản t́m cách lợi dụng một hay tất cả những chính phủ trung lập này, Hoa Thịnh Đốn sẽ vận dụng được sự ủng hộ của quốc tế chống lại ư đồ này dễ dàng hơn là trong những trường hợp khác. Harriman th́ đề nghị giải pháp “tăng cường và hiện đại hoá” hiệp định Genève 1954, tức là có bầu cử và thống nhất đất nước.36 Đề nghị này không chắc đă thích hợp với hoàn cảnh của những năm đầu 1960, nhưng nếu ngay sau hội nghị Genève, Hoa Kỳ có những điều kiện thỏa thuận có tính cách ràng buộc với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm về một kế hoạch “dựng nước” thật sự, qui tụ được mọi thành phần yêu nước và lấy được ḷng dân qua những chương tŕnh phát triển kinh tế, giáo dục và xă hội, th́ chưa chắc Hà Nội đă muốn thực hiện cuộc bầu cử thống nhất đất nước năm 1956. Nếu kế hoạch dựng nước này được tiến hành nghiêm chỉnh, miền Nam có thể sớm lấy lại được chính nghĩa quốc gia không chỉ riêng ở miền Nam mà cả ở miền Bắc nữa.
Quả thật, khi chế độ cộng sản chính thức xuất hiện trên toàn miền Bắc qua việc thi hành triệt để chính sách cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và chỉnh huấn trí thức sau hội nghị Genève, guồng máy cai trị của đảng Lao động bị lung lay trầm trọng v́ phản ứng bất măn kịch liệt trong quần chúng và t́nh trạng khủng hoảng niềm tin trong các tầng lớp cán bộ. Thậm chí vào cuối năm 1956, không những Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cáo lỗi trước quốc dân, Đảng Lao động c̣n phải đưa anh hùng Điện Biên Phủ Vơ Nguyên Giáp ra nhận lỗi thay cho Đảng và chính phủ, cách chức Tổng bí thư Trường Chinh và thi hành một loạt các biện pháp sửa sai. Cuộc khủng hoảng chính trị to lớn đó được diễn ra trong khi nhân dân toàn miền Bắc đang phải phấn đấu chật vật với t́nh trạng nghèo đói sau gần chín năm chiến tranh chống Pháp.
Những khó khăn nội bộ này cộng với thế kẹt giữa Liên Xô và Trung Quốc và nguy cơ phải đối đầu quân sự với Hoa Kỳ đă khiến cho đảng Lao động Việt Nam càng ngày càng nhận thấy phải nghĩ đến giải pháp chính trị (trung lập) cho miền Nam như một sự tŕ hoăn chiến lược của cách mạng toàn diện. V́ vậy, mặc dù chủ trương giải phóng miền Nam trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự, Đại hội Đảng thứ 15, tháng Giêng 1959, đă mong muốn có thể thực hiện thống nhất đất nước bằng con đường hoà b́nh, vừa tránh được chiến tranh với Hoa Kỳ vừa thỏa măn được nguyện vọng của những thành phần không cộng sản trong MTGPMN:
Để phối hợp cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam với phong trào cách mạng của nhân dân trên thế giới, Đảng ta chủ trương thống nhất đất nước bằng con đường hoà b́nh… Đại hội Đảng thứ 15 tiên liệu rằng cuộc cách mạng ở miền Nam có thể thực hiện một cách ḥa b́nh bằng sự chuyển hoá dần dần t́nh trạng chính trị thuận lợi cho cách mạng. Dù khả năng này rất nhỏ, chúng ta không loại bỏ nó mà phải nắm chặt lấy nó.37
Cũng như phe quốc gia ở Việt Nam, Hoa Kỳ có đủ hiểu biết và kinh nghiệm để thấy rằng “chính phủ liên hiệp” hay “trung lập” chỉ là kế sách chính trị của Bắc Việt để có th́ giờ giải quyết những khó khăn to lớn về đối nội cũng như đối ngoại, một sự tŕ hoăn có thể kéo dài nhiều năm trước khi thực hiện thống nhất hai miền dưới chế độ cộng sản. Nhưng chính sự tŕ hoăn đó lại thuận lợi cho Hoa Kỳ tạo điều kiện cho một chính phủ liên hiệp, trung lập ở miền Nam, trong một thời gian đủ lâu để có thể ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đă không khai thác những yếu tố thuận lợi ấy, và ngày 15 tháng 11, 1961, Tổng thống Kennedy đă lựa chọn giải pháp quân sự theo đề nghị của tướng Taylor. Đến khi hội nghị Genève về Lào kết thúc ngày 23 tháng Bảy 1962, Kennedy mới đồng ư cho trưởng đoàn Harriman thăm ḍ bộ trưởng ngoại giao VNDCCH Ung Văn Khiêm về giải pháp trung lập cho miền Nam Việt Nam tại hội nghị Genève về Lào. Harriman đă chia sẻ quan điểm của ông với phó trưởng đoàn William Sullivan:
Một khi thu xếp xong được chuyện Lào… ta sẽ có thể mở rộng thỏa thuận đó sang một khu vực lớn hơn, đặc biệt là nếu ta được Xô-viết nh́n nhận rằng việc đó sẽ kết hợp được những lợi ích của họ cũng như của ta trong nỗ lực trung lập hóa toàn thể Đông Dương, nếu không th́ khu vực này sẽ làm mồi cho Trung Quốc.38
Nhưng trái với kỳ vọng của Harriman, Ung Văn Khiêm chỉ dùng buổi tiếp xúc này như một cơ hội để kịch liệt chỉ trích Hoa Kỳ. Harriman trả đũa lại bằng những lời chỉ trích Bắc Việt, sau đó báo cáo với Kennedy là Hà Nội không có ư định thảo luận về giải pháp ḥa b́nh.39 Các nhà ngoại giao Bắc Việt tại những phiên họp Việt-Mỹ năm 1997 giải thích là do hệ thống thông tin nội bộ, Ung Văn Khiêm không được biết chủ trương của Bộ Chính trị ở Hà
Nội.40 Sullivan ghi nhận cảm tưởng về cuộc trao đổi này là “Chúng tôi đă đụng vào vách đá.”41 McNamara không thỏa măn với lời giải thích về trường hợp Ung Văn Khiêm nhưng chúng ta có thể ngờ rằng có sự ngăn cản của Trung Quốc đối với việc thảo luận tay đôi giữa Mỹ và Bắc Việt về một giải pháp chính trị cho Việt Nam. Nếu các đại diện Bắc Việt trong phiên họp Việt-Mỹ 1997 không nhắc đến áp lực của Trung Quốc th́ cũng là một điều dễ hiểu.
Dù sao chăng nữa, Hoa Kỳ đă không chú trọng đến việc áp dụng giải pháp trung lập hóa nước Lào cho miền Nam Việt Nam, và đă tính sai nước cờ khi bỏ mặc Lào để chỉ lo chuyện bảo vệ VNCH bằng quân sự.
McNamara có nhắc đến một cơ hội thứ nh́ để cho Hoa Kỳ có thể tránh được chiến tranh ở Việt Nam là vào mùa Hè năm 1963, khi quan hệ giữa hai chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và Kennedy đă căng thẳng cao độ và các ông Diệm và Nhu bắt đầu t́m đường thảo luận với Hà Nội về một chính phủ liên hiệp và trung lập, qua trung gian của Roger Lalouette, Đại sứ Pháp và Mieczyslaw Manelli, đại diện Ba-Lan trong ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến. Cơ hội này không được tŕnh bày và thảo luận chi tiết ở đây v́ nó được tạo dựng bởi những yếu tố mơ hồ không được bên nào tỏ dấu hiệu chính thức xác nhận. Có thể đây chỉ là phản ứng giận dữ và tuyệt vọng hay một ngón đ̣n chính trị của ông Nhu trước áp lực của Hoa Kỳ trong cuộc tranh đấu của Phật giáo. Đây cũng là cơ hội mà chính phủ de Gaulle vẫn từng trông đợi để đóng vai trọng tài giải quyết vấn đề Việt Nam thay cho Hoa Kỳ. Đối với Bắc Việt th́ đây là cơ hội rất tốt để rút ngắn thời gian chuyển tiếp tiến đến thống nhất đất nước dưới chế độ cộng sản. Nhưng một sự thỏa thuận về chính phủ liên hiệp và trung lập dựa trên những giả thuyết này không có tính khả thi v́ Ngô Đ́nh Diệm rơ ràng không phải là người có thể thỏa hiệp và chia sẻ quyền hành với cộng sản, và ngược lại. Đấy là chưa nói đến vấn đề ai sẽ lănh đạo chính phủ liên hiệp trung lập, nếu được thành lập th́ không phải do sự chia sẻ lư tưởng chung mà chỉ v́ những điều kiện nhất thời của t́nh thế.42 Ngoài ra, c̣n phải kể đến việc Hoa Kỳ không thể nào chấp nhận cho Ngô Đ́nh Diệm qua mặt ḿnh để tự ư giải quyết vấn đề Việt Nam, loại bỏ Hoa Kỳ ra khỏi một vùng chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á. Cũng phải kể đến thái độ của Trung Quốc khi đó đang thúc đẩy Bắc Việt theo đuổi chiến tranh chống Mỹ và không khi nào muốn thấy có một nước Việt Nam thống nhất và cường thịnh.
Khi đă quyết định dùng biện pháp quân sự, Hoa kỳ lại bỏ lỡ những cơ hội có thể chấm dứt được chiến tranh trước khi Tổng thống Nixon phải vội vă rút quân và Quốc Hội Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi VNCH. Thời gian Hoa Kỳ chính thức lâm chiến được kể từ ngày 7 tháng Tám 1964, khi Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận Nghị quyết Vịnh Bắc Việt mặc dù trước đó vài ngày, Tổng thống Johnson đă cho máy bay ném bom kho dầu ở Vinh để trả đũa vụ tàu Maddox. Cuộc oanh tạc Bắc Việt chỉ thực sự bắt đầu bằng chiến dịch “Phi tiêu Lửa” (Flaming Dart) sau khi phi trường Pleiku bị cộng sản tấn công ngày 7 tháng Hai 1965. Tổng thông Johnson có liệt kê gần một trăm nỗ lực và “sáng kiến ḥa b́nh” của ông, hầu hết qua các nước trung gian, trong khoảng từ tháng Năm 1965 đến tháng Mười Một 1968, nhưng tất cả đều không đạt được kết quả.43 Trong sáu phiên họp ở Hà Nội (giữa tháng Mười Một 1995 và tháng Sáu 1997,) và một phiên họp ở Hội trường của Rockefeller Foundation tại Bellagio, nước Ư (tháng Hai 1998,) một số học giả và giới chức dân sự và quân sự Việt-Mỹ đă kiểm điểm lại những sai lầm, ngộ nhận của đôi bên và những cơ hội hoà b́nh đă bỏ lỡ. McNamara đúc kết các nhận định về sáu sáng kiến then chốt —bốn của Wash*ington, hai của Hà Nội— trong khoảng thời gian từ tháng Năm 1965 đến tháng Mười 1967,44 Ông cho rằng cả hai bên đều sai lầm v́ trong mỗi cơ hội, nếu không v́ thiếu hiểu biết và nghi ngờ quá đáng lẫn nhau, hai bên đă có thể thương thuyết và chấm dứt chiến tranh được sớm hơn. Chúng ta hăy lần lượt duyệt qua sáu cơ hội này, được Hoa Kỳ đặt dưới sáu tên khác nhau, để rút ra được những kinh nghiệm hữu ích về chiến tranh và thương thuyết hoà b́nh giữa hai đối thủ có hai nền văn hoá khác nhau.
I. MAYFLOWER (11.5-18.5.1965) – Sáng kiến ḥa b́nh này được McNamara đề nghị nhằm tránh việc phải đưa quân chiến đấu vào Việt Nam. Trước hết, Hoa Kỳ ngưng oanh tạc miền Bắc mà không cần tuyên bố, sau đó chuyển một lá thư kín cho Hà Nội qua Đại Sứ Mỹ ở Mát-scơ-va. Nội dung chính của lá thư do Ngoại trưởng Dean Rusk kư ngày 11 tháng Năm 1965, cho biết “Hoa Kỳ rất chăm chú theo dơi xem trong thời gian ngưng oanh tạc này những cuộc tấn công chống lại chính phủ và nhân dân miền Nam Việt Nam có giảm bớt đáng kể hay không.” Trong cùng ngày, Dean Rusk gặp Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin và trao bản sao của lá thư này. Ngày 12 tháng Năm, Tổng thống Johnson kêu gọi Hà Nội lưu tâm tới một “giải pháp chính trị.” Đại sứ VNDCCH ở Mat-scơ- va không chịu tiếp Đại sứ Mỹ, viện lẽ hai nước không có quan hệ ngoại giao. Khi lá thư được gửi đến Đại sứ quán VNDCCH, thư không được mở ra và gửi trả lại. Ngày 15 tháng Năm, khi Dean Rusk gặp Ngoại trưởng Liên Xô Andrei Gromyko ở Vienna, ông này cho biết lá thư của Hoa Kỳ có tính chất “hỗn xược”. Ba ngày sau, Mỹ tiếp tục các phi vụ oanh tạc.
Theo McNamara, Hoa Kỳ thất bại trong nỗ lực này v́ lời lẽ trong thư có tính chất đe dọa và không đưa ra một đề nghị cụ thể nào. Sai lầm lớn nhất là chọn Mat-scơ-va làm địa điểm trung gian trong khi Hà Nội đang phải đu giây giữa Liên Xô và Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Hà Nội từ chối tiếp nhận lá thư cho thấy rằng VNDCCH không muốn thương thuyết hoà b́nh, và như vậy chỉ làm cho phe diều hâu ở Mỹ có lư do thúc đẩy tiếp tục chiến tranh. Trong cuộc đối thoại Việt-Mỹ ở Hà Nội, Lưu Doăn Huỳnh, nhân vật then chốt trong nhóm soạn thảo các tài liệu ḥa đàm, nh́n nhận rằng MAYFLOWER là cơ hội tŕ hoăn việc Mỹ quyết định đưa quân vào Việt Nam, và Hà Nội đáng lẽ đă phải đáp ứng sáng kiến này bằng cách yêu cầu thảo luận Bốn điểm mà Hà Nội đă công bố từ hơn một tháng trước.
|