|
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
Join Date: Feb 2008
Posts: 12,104
Thanks: 2,801
Thanked 3,502 Times in 1,843 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 583 Post(s)
Rep Power: 32
|
Cối tuần nên hơi "lang bang" 1 tí. Xin gởi đến ACE đọc cho vui nhân chuyện lạm bàn về ngày tàn của việt+ đă cận kề...
Núi Lang Biang sạt lở, điềm suy tàn của chế độ
Lời thầy dạy: Vạn vật vô thường, đổi thay là quy luật của tạo hóa. Luật này không miễn trừ cho bất cứ ai hoặc định chế nào. Quy luật huyền biến của vũ trụ, sự vật thịnh rồi lại suy, suy rồi lại thịnh, nên mới tiến bộ theo thời, cái mới ra đời thay thế cái cũ lạc hậu phải ra đi. Nhưng trước khi sự việc thay đổi xảy ra đều có hiện tượng báo trước mà nhiều khi con người không để ư. Hiện tượng đó được gọi là “Điềm”.
“Điềm” là hiện tượng bất thường dẫn đến một suy nghiệm tiên tri, hoặc chứng nghiệm về một sự kiện sẽ xảy đối với cuộc sống con người được xác định đúng trong tương lai.
Có hai yếu tố xác quyết liên quan đến khái niệm “Điềm” như sau:
1- Phải có yếu tố dự đoán về một sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai và được chứng nghiệm đúng.
Thí dụ như, vài tuần trước khi xảy ra trận động đất và sóng thần năm 2011, các ngư dân tại các vùng phía Đông Bắc nước Nhật phát hiện nhiều con cá Oarfish dính trong lưới. Họ cho là “Điềm gở” và dự đoán nước Nhật sẽ gặp chuyện chẳng lành.
Đúng như dự đoán, ngày 11/03/2011, một trận động đất có tâm chấn cách thủ đô Tokyo 382 km về phía Đông Bắc đă xảy ra. Với cường độ 9 độ Richter, trận động đất dữ dội nhất trong lịch sử nước Nhật, gây ra nhiều cơn sóng thần khủng khiếp tàn phá miền Đông Bắc nước Nhật, làm cho 19.000 người thiệt mạng, các ngôi làng gần biển bị tàn phá hoàn toàn.
Sau khi nghiên cứu dự đoán của các ngư dân, cơ quan truyền thông Iore của Nhật loan báo, Oarfish là loại cá hiếm, ḿnh dẹp và có chiều dài như rắn, chỉ sống ở độ sâu vài trăm thước dưới mặt nước, tập trung trong các đường nứt của ṿng đai lửa, loại cá này đă bị đẩy lên mặt nước bởi các chấn động thông thường trước khi trận động đất lớn xảy ra.
2- Có thể hiện tượng bất thường xảy ra không có dự đoán, nhưng sau khi sự kiện đă xảy ra th́ có sự liên hệ đến hiện tượng bất thường trước đó.
Thí dụ như, sau trận động đất 7 độ Richter ở Tứ Xuyên vào ngày 12/5/2008, dân cư trong vùng mới nhớ đến một hiện tượng bất thường xảy ra trước đó, là ếch nhái rời bỏ chỗ ở di cư hàng loạt ra khỏi Tứ Xuyên. Hiện tượng bất thường này được coi là “Điềm”.
Như vậy, “Điềm” là dấu hiệu báo trước sự kiện bất thường sắp xảy ra. Nó được phân ra hai loại:
- Điềm lành báo trước sẽ gặp sự việc tốt đẹp. Chẳng hạn như cây thiên tuế trước nhà trổ hoa hay trong sân vườn có cây hoa đẹp nở nghịch mùa th́ chủ nhà sắp được tài lộc.
- Điềm gở báo trước sự việc chẳng lành sắp đến. Như mưa sao băng, núi bị sạt lở, bầu trời không có mây đen (chuyển mưa) mà có sấm động (sấm sét), cột cờ gẫy trước khi ra chiến trận, mực nước tại băi biển tự nhiên bị rút ra xa…
Trong cuốn “Những ngày cuối cùng của Mao Trạch Đông”, viết theo lời kể của Tiểu Mạch (người chăm sóc sức khỏe cho Mao suốt 20 năm), thuật lại câu chuyện xảy ra vào những ngày cuối đời Mao như sau:
“Chiều thứ Tư ngày 10/3/1976, cô thư kư đọc báo cho Mao nghe, vào ngày thứ Hai 8. 3. 1976 có một thiên thạch rơi với tốc độ lớn vào khí quyển địa cầu, cháy sáng như một quả cầu lửa khổng lồ rồi phát nổ trên vùng trời ngoại ô Cát Lâm. Thiên thạch nổ bắn ra khắp nơi, tạo thành trận mưa thiên thạch. Trong đó có 3 tảng lớn rơi xuống tạo thành hố sâu. Tảng lớn nhất nặng gần 1,8 tấn.
Mao nghe xong, nhờ người đỡ ngồi dậy ra đứng bên cửa sổ nh́n ra ngoài, rồi trầm ngâm nói: “Trung Hoa có một thuyết gọi là Thiên Nhân Cảm Ứng, ngụ ư nói nếu nhân gian sắp xảy ra một biến cố lớn th́ thiên nhiên sẽ có những điềm báo trước. Trời long, đất lở, đá lớn từ trên không rơi xuống là điềm gở. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, trước khi Gia Cát Lượng, Triệu Vân, Quan Công qua đời đều xảy ra các hiện tượng bất thường như sao rụng, đá rơi”.
Sau hơn 4 tháng, vào ngày 28/7/1976, trận động đất kinh hoàng xảy ra tại Đường Sơn (Hà Bắc) làm thiệt mạng hơn 240 ngàn người và 160 ngàn người bị thương. Không biết chuyện thiên thạch rơi và cơn động đất có tác động ǵ đến sức khỏe của Mao không, nhưng đến ngày 9/9/1976 th́ Mao qua đời. Dư luận cho rằng, 3 tảng thiên thạch lớn rơi xuống đất là điềm báo hiệu đảng CS Trung Quốc mất 3 nhân vật cao cấp trong năm 1976, đó là Tổng tư lệnh quân đội Chu Đức, Thủ tướng Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông”.
Năm 1976 là năm có 3 tháng dương lịch 1, 2, 3, ngày dương lịch đều trùng với ngày âm lịch. Từ ngày 1. 1. 1976 (mùng 1 tháng Chạp năm Ất Măo) đến ngày 30. 3. 1976 (30 tháng Hai năm Bính Th́n).
Và đầu năm 1997, sau cơn sao bang, một tảng thiên thạch lớn rơi xuống tỉnh Sơn Đông, 4 ngày sau, Đặng Tiểu B́nh chết lúc 9 giờ tối thứ Tư ngày 19. 2. 1997. Đặng Tiểu B́nh là người gây ra cuộc chiến tranh Trung-Việt vào năm 1979, đă đẩy 300 ngàn quân tấn công Việt Nam để cũng cố quyền lực cá nhân. Đặng cũng chính là người đă nói câu “Việt Nam là bọn côn đồ, phải dạy cho bọn chúng một bài học” trong chuyến viếng thăm mấy nước Á châu vào tháng 12 năm 1978.
C̣n Sấm kư là những dự báo hợp lư, được đưa ra trước để tiên tri những điều sẽ xảy ra trong tương lai, nhưng rất khó bàn. Như Sấm Trạng Tŕnh là cuốn sách ghi lại những lời tiên tri của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của nước Việt Nam trong khoảng hơn 500 năm (từ năm 1509 đến năm 2019).
Chẳng hạn như câu Sấm “Bao giờ trúc mọc qua sông, Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây” nói về thời Tây Sơn, Tôn Sĩ Nghị đem quân xâm chiếm nước Nam . Khi đến thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị cho quân bắc một cây cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng. Sau khi dẹp được giặc Thanh ở trận Đống Đa vào năm Kỷ Dậu (1789), đức Nguyễn Huệ lên ngôi xưng là Quang Trung Hoàng Đế (từ trúc để chỉ tre và non Tây là nhà Tây Sơn).
Sấm giảng là quyển sách ghi lại những lời dạy dỗ về đạo pháp của một bậc thầy, khuyên người đời làm lành lánh dữ và trong đó có nhiều lời tiên tri về một số các biến cố chính trị của đất nước sắp xảy ra. Như quyển “Khuyên người đời Tu niệm” của đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ đạo Ḥa Hảo viết vào năm 1939 (Kỷ Măo).
Và Cơ bút là nghi lễ cầu cơ và chấp bút, là nền tảng của đạo Cao Đài. Cơ bút được cho là đă khai sinh ra và là phương tiện truyền giảng đạo pháp của tôn giáo này. Cầu cơ và chấp bút là những phương pháp thông linh, đạo Cao Đài gọi là những phương pháp Thông Công.
Con hăy phân biệt và ghi nhớ.
*****
Lang Biang
Lang Biang là hai ngọn núi nằm cách thành phố Đà Lạt khoảng 12 km, thuộc địa phận huyện Lạc Dương tỉnh Lâm Đồng. Đỉnh Lang Biang nằm ở độ cao 2167 m so với mặt biển.
Ngày xưa người Thượng (dân tộc thiểu số) sống trong vùng này gọi một ngọn núi là Klăng (núi Ông) và ngọn núi kia là Biêng (núi Bà), ghép chung thành Klăng Biêng. Về sau người Pháp phiên âm là Lang Biang, sau đó người Kinh đổi thành Lâm Viên, gọi vùng cao nguyên này là cao nguyên Lâm Viên.
Lang Biang được ví như “nóc nhà” của Đà Lạt và được xem như một biểu tượng của thành phố này. Trên núi có thể nh́n thấy Suối Vàng và Suối Bạc và toàn cảnh Đà Lạt với mây trắng và sương mù.
Do nằm ở độ cao, Lang Biang được xem là một trong những ngọn núi cao nhất vùng, hiện nay được xem là khu du lịch, nơi t́m hiểu nét văn hóa dân tộc thiểu số và c̣n là điểm thu hút du khách thích mạo hiểm chinh phục đỉnh cao.
Đà Lạt
Thành phố Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lang Biang, phía bắc tỉnh Lâm Đồng. Bắc giáp với huyện Lạc Dương. Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương. Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng. Hàng trăm năm trước, Đà Lạt là địa phận cư trú của người Lạch và người Cil. Thành phố Đà Lạt có diện tích hơn 400 km², bao bọc bởi các ngọn núi cao và nhiều dăy núi liên tiếp:
- Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dăy Chorơmui, Yô Đa Myut (1816 m).
- Tây Bắc dựa vào chân dăy núi Chư Yang Kae (1921 m), thuộc quần sơn Lang Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang Sinh (1408 m).
- Phía Đông là chân dăy núi Bi Doup (2278 m), dốc xuống cao nguyên Dran.
- Phía Đông Nam chắn bởi dăy Cho Proline (1629 m).
- Phía Nam và Tây Nam có dăy núi Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc.
Đà Lạt có nhiều nhiều dinh thự và biệt thự đẹp xây cất theo kiểu kiến trúc của người Pháp. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Bảo Tàng Viện và nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương.
Bác sĩ Alexandre Yersin
Trước năm 1893, cao nguyên Lang Biang là nơi cư trú của các sắc tộc người Thượng. Người Kinh đầu tiên muốn khám phá vùng rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng do nhiều khó khăn, nên măi đến cuối đời ông vẫn không thực hiện được ư định.
- Năm 1880 và 1881, bác sĩ Hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans có những chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng cao nguyên này. Họ được xem là người đầu tiên đặt chân đến Lang Biang, mở đường cho nhiều chuyến đi về sau của A. Gautier (năm 1882), L. Nouet (1882), Humann (1884).
- Ngày 3/8/1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ư định t́m đường núi từ Nha Trang vào Sài G̣n, nhưng chuyến đi này thất bại.
Năm sau, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên Đắc Lắc đến Stung Treng, nằm bên bờ sông Mekong (địa phận Miên).
- Tháng 1/1893, Yersin nhận nhiệm vụ từ toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan, 3 lần đi khảo sát bằng đường bộ từ Sài G̣n xuyên vào vùng người Thượng. Nhiệm vụ của Yersin là t́m hiểu tài nguyên về lâm sản, khoáng sản... Và chiều ngày 21/6/1893, Yersin đă phát hiện ra Lang Biang, nên Yersin được xem là người đầu tiên t́m ra vùng đất này.
- Ngày 1/1/1899, Doumer kư nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng ở Trung Kỳ, với 2 cơ quan hành chính được thiết lập tại Tánh Linh và cao nguyên Lang Biang.
- Ngày 20/4/1916, vua Duy Tân ra đạo dụ thành lập khu thị tứ cho tỉnh Lâm Viên.
Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đă xây dựng hai tuyến đường từ Sài G̣n và từ Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt nhanh chóng phát triển.
- Ngày 30/10/1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày 11/10 của vua Khải Định về việc thành lập thành phố Đà Lạt cùng với tỉnh Đồng Nai Thượng nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở Đông Dương.
- Năm 1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Viên tân lập. Thị trưởng Đà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.
- Ngày 10/11/1950, vua Bảo Đại kư dụ số 4 QT/TD ấn định địa giới thị xă Đà Lạt.
Theo Địa phương chí Đà Lạt (Monographie de Dalat) năm 1953, thị xă Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km² với dân số 25.041 người.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ miền Bắc, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học.
- Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Tuyên Đức. Nhiều trường học, huấn luyện và viện nghiên cứu được thành lập như: Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Vơ bị Quốc gia Đà Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), Trường Đại học Chiến tranh Chính trị (1966), Trường Chỉ huy và Tham mưu (1967)...
- Sau năm 1975, dân số gia tăng bởi số lượng cán bộ và dân miền Bắc nhập cư lên khoảng 86 ngàn người. Và vào những năm đầu thập niên 1990, hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa vào dịch vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một thành phố du lịch quan trọng của Việt Nam .
- Tháng 2/1976, tỉnh Tuyên Đức, tỉnh Lâm Đồng và thị xă Đà Lạt xác nhập lại thành tỉnh Lâm Đồng.
Những vụ sạt lở núi
Sạt lở núi Cấm
Ngày 5/5/12, đoạn gần Vồ Đầu trên tuyến giao thông nối từ chân núi với đỉnh núi Cấm, xă An Hảo (huyện Tịnh Biên) đă xảy ra vụ sạt lở vách núi kinh hoàng. Tảng đá lớn nặng khoảng 10 tấn đă lăn từ độ cao khoảng 300m xuống, đè bẹp chiếc xe 7 chỗ ngồi, làm thiệt mạng 6 người. Đây là tai nạn thảm khốc lần đầu tiên xảy ra tại vùng Núi Cấm.
Sạt lở núi tại Nghệ An
- Ngày 11/7/2013, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An xảy ra vụ sạt lở núi khiến 5 người thương vong.
- Ngày 29/8/2013, đoạn đường qua xă Chiêu Lưu, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An có hàng chục nơi sạt lở nghiêm trọng, khiến đất đá từ trên núi đổ xuống quốc lộ 7A, làm cho giao thông bị tắc nghẻn.
Sạt lở núi tại Điện Biên
Ngày 23/8/2013, quốc lộ 279, đoạn đường từ huyện Tuần Giáo đi thành phố Điện Biên Phủ bị tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng do sạt lở núi. Khu vực sạt lở được xác định tại đoạn qua xă Nà Nhạn, huyện Điện Biên. Cả một vạt núi 50 m, dài 150 m đă sạt xuống lấp ngang quốc lộ 279. Khối lượng đất đá ước khoảng 60 ngàn m3. Đây là vụ sạt lở được ghi nhận là nghiêm trọng nhất trên địa phận tỉnh Điện Biên từ xưa đến nay.
Sạt lở núi tại Yên Bái
Ngày 25/8/13 hàng trăm tấn đất đá sạt lở trên quốc lộ 32, thuộc địa phận giáp ranh giữa huyện Than Uyên và huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, gây tắc nghẽn giao thông.
Sạt lở núi Lang Biang
Ngày 25/8/2013, núi Lang Biang có độ cao 2167m bị sạt lở tạo thành một vệt dài rộng từ đỉnh xuống chân núi.
Anh Bon Đing Đim, sống dưới chân núi cho biết trong đêm 25/8/13, âm thanh ầm ầm như sấm trời kéo dài 20 phút. Sáng ra, anh thấy ngọn núi Lang Biang như bị xẻ đôi.
Vị trí sạt lở xuất phát từ gần đỉnh núi, một lượng đá khổng lồ tuột xuống núi khoảng 500 thước, làm cho nhiều cây cổ thụ bị cuốn ngă theo tạo thành một vết đỏ dài giống như núi bị nứt đôi.
Theo cư dân địa phương, vào năm 1970, núi Lang Biang bị sạt lở một lần. Sau 43 năm, núi Lang Biang lại bị sạt lở thêm một lần nữa và lần này nghiêm trọng hơn lần trước.
Theo nhạc sĩ Krajan Plin, một vị cao niên trong làng sống lâu năm dưới chân núi cho biết, tất cả dân chúng sống ở vùng Nam Tây Nguyên đều coi ngọn Lang Biang là núi thần. Ông nhận định: “Sạt lở núi Lang Biang lần này sụp lở là hoàn toàn do thiên nhiên, bởi độ cao rất hiểm trở, chỗ sạt lở th́ không ai có thể phá hoại bằng dụng cụ lao động hay máy móc”.
Theo truyền thuyết, ngọn núi này là công tŕnh tạo dựng cuối cùng của thần linh và được ví như một cái rốn trời. Núi Lang Biang được xem là nơi linh thiêng như núi Cấm (Thất sơn) v́ có nhiều truyền thuyết. Các tộc người Lạch, Cil cư trú dưới chân núi đều cho rằng núi Lang Biang có một sức mạnh mà không có biến cố nào có thể làm thay đổi được. Trong cuộc sống hằng ngày, để nói đến những điều không tưởng, dân làng có câu nói: “Nếu làm được như thế, th́ núi LangBiang cũng phải sụp lở”. V́ vậy, khi thấy ngọn núi bị lở, nhiều người Lạch và Cil bàn tán cho rằng, núi Lang Biang sụp lở là do thần linh đang tỏ thái độ không vừa ḷng với chế độ và hiện tượng này báo hiệu một điều ǵ bất thường sắp xảy ra.
|