R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
* * *
Các Nước liên kết không thuần nhất, VN gồm nhiều miền, đảng phái chủng tộc, tôn giáo.. mà không có tinh thần quốc gia chân chính nào được kết hơp. Lào chống Việt Minh, Miên phong kiến, lănh chúa, đảng cướp làm hỏng Hoàng gia. Pháp muốn hạn chế độc lập, các Nước liên kết muốn hoàn toàn độc lập. Quan điểm Pháp-Mỹ khác nhau, Mỹ giúp Pháp v́ cần Pháp trong chính sách ngăn chận CS lan rộng xuống Đông nam Á nhưng không muốn Pháp giữ Việt, Mên, Lào trong Liên hiệp Pháp, họ không muốn chế độ thực dân tồn tại.
Khi đối phương là một khối kết hợp, năng động, cương quyết đạt mục tiêu cuối cùng th́ Pháp chia rẽ, khuynh hướng mơ hồ khác nhau. Trong khi Pháp dựa vào những cái xưa cũ và những nhận định lỗi thời, người già th́ Việt Minh dựa vào những quan niệm mới, người trẻ
Sinh hoạt hai bên khác nhau: Thủ đô Việt Minh bí mật trong rừng phía bắc Hà Nội, di động luôn, sợ máy bay. Tại Thủ đô này, bộ đầu năo chính phủ có chừng 12 người, sinh sống đạm bạc như thầy tu, hoạt động bí mật, một bộ chỉ huy bí mật thời chiến
Phía Pháp – một thành phố lớn, ăn chơi, dịch vụ, tiếp tân sang trọng, tiệc rượu sâm banh, các bà ăn mặc sang trọng, đoàn ngoại giao nhàn hạ, Bộ trưởng, Nghị viên, báo chí tiêt lộ bi mật.
VM chiến đấu, phía Pháp quân đội dấn thân trận mạc, đổ máu bên cạnh đó là cảnh thanh b́nh hậu phương
T́nh thế quân sự
T́nh h́nh quân sự với bẩy năm khói lửa được định đoạt bằng những yếu tố địa dư, chủng tộc trên chiến trường Đông dương và do diễn tiến chính trị như trên.
H́nh thức chiến tranh khó tưởng tượng ra nếu không ở trong cuộc, nó không giống bất cứ cuộc chiến nào, nó không phải là cái mà các sĩ quan tham mưu cao cấp Pháp Mỹ đă nghiên cứu, không giống chiến tranh Âu châu, Triều tiên. Nhiều vị đă phán xét cuộc chiến Đông dương mà không hiểu ǵ đă đưa tới những yếu tố chính trị quân sự tại Paris , Hoa Thịnh Đốn.
Cuộc chiến tranh không giới tuyến, khác hẳn chiến tranh cổ điển, chiến tranh Đông Dương chưa có trường vơ bị nào nghiên cứu kỹ. Nó gồm kháng chiến do khối đông đảo người dân yểm trợ và quân đội chính qui chủ động chiến tranh, nó giống cuộc chiến Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ, cuộc chiến dân Nam tư chống Đức quốc xă.
Vùng đồi núi Việt, Mên, Lào thưa dân, ít đường giao thông chỉ có những trận nhỏ, phục kích đánh đồn, trái lại tại đồng bằng châu thổ sông Hồng và Cửu Long, đồng bằng duyên hải miền trung cuộc chiến thật sự diễn ra. Đồng ruộng ph́ nhiêu, dân cư đông nghèo khổ không ưa CS đă khiến hai bên khai thác: VM cần lúa gạo, nhân lực và tiền mà chỉ có vùng đồng bằng mới cung cấp được; Pháp cần an ninh căn cứ, cửa ngơ và bảo vệ chính quyền các Nước Liên kết tại những vùng có lợi ích.
Ngay cả những vùng này diễn ra những trận đánh không phải là cổ điển, Pháp muốn đưa vào chiến tranh cổ điển nhưng VM không chịu đánh lối này. VM luôn di động, uyển chuyển, xảo quyệt như du kích, họ luôn tính toán để có ưu thế, trang bị nhẹ, nhiệt t́nh, chịu gian khổ, cơm nắm cá khô, rất đông, trang bị tối tân, nặng, họ có lợi thế tuyển quân tại chỗ, biết địa h́nh, được dân ủng hộ.
Hai phương diện chiến tranh đó khiến người Pháp tập trung các lực lượng tinh nhuệ tại các vùng châu thổ, tại những vùng thưa dân đồi núi để những lực lượng yếu hơn: lính Thái, Lào, Mên. Pháp trang bị những phương tiện chiến tranh tại đồng bằng mà không nghĩ rằng sau này đánh trong rừng, núi. Từ 1952 VM thôi đánh đồng bằng Bắc Việt mà đánh xứ Thái, thượng, trung Lào, Cao nguyên VN, họ đánh ở đâu cũng được. Năm 1950 Tướng Giáp đọc lời kêu gọi gồm những giai đoạn như.
-Giai đoạn đầu là du kích lấy súng địch, cầm chân quấy phá, giành dân
-Giai đoạn hai chiếm diện địa từ 1952, thực hiện những chiến dịch hành quân, những trận lớn.
-Giai đoạn ba chuẩn bị tổng tấn công, giải phóng toàn Đông dương kể cà Mên, Lào.
Nó phụ thuộc vào ba điều kiện ưu thế quân sự, đạt thuận lợi chính trị quốc tế và tạo khủng hoảng nội bộ địch. Bộ tham mưu VM nghĩ thời cơ đă đủ có thể là 1955, 56. Chiến lược tương ứng với tổ chức quân đội, tạo một đạo quân uyển chuyển mạnh, thích hợp địa h́nh.
Những nguyên tắc (quân sự) của VM hoàn toàn khác với Tây phương, nó giống như một h́nh tháp mà đáy của nó ăn sâu vào đất nước. Nấc thang chót là dân quê, đàn bà, đàn ông, trẻ con dùng làm dân công tải đạn, đào hầm, giao liên. Sau đó nâng cấp lên du kích, vũ trang sơ sài, lựu đạn, súng cũ, sinh sống trong làng, ngày đi làm ruộng,tối phá đường, gài ḿn, phục kích, mỗi làng có một đạo quân du kích.
Trên đó tuyển ra thành địa phương quân ngày càng được trang bị súng tốt hơn, đông hơn thành những đơn vị chắc chắn của VM, chấp nhận những trận quyết định thường là tại địa phương về ban đêm, tổ chức thành đại đội, tiểu đoàn, đôi khi trung đoàn.
Đỉnh của tháp là quân đội chính qui tạo lên một quân đoàn ngày càng được Trung cộng trang bị tối tân, uyển chuyển, lưu động mang tính chất một đạo quân tối tân và từ nay có thể chủ động tấn công lớn trên trận địa Đông Dương như đă chứng tỏ trong chiến dịch 1952-1953
Quân đoàn VM gồm 7 sư doàn bộ binh chính qui 304, 308, 312,316, 320,325 và mợt sư đoàn không tên hoạt động giữa Tourane (Đà nẵng) và mũi Varella (mũi Diều), cộng thêm nhiều trung đoàn chính qui độc lập đưa lực lượng lên tới 9 sư đoàn. Thêm vào một sư đoàn vũ khí nặng gồm những đơn vị pháo binh và pḥng không đang được thành lập, sức mạnh trội hơn đối phương.
Quân đội VM năng động v́ trẻ, họ chịu đựng gian khổ v́ được tuyển tại miền quê rất thiếu thốn cơ cực, họ cuồng tín v́ được giáo dục chính trị trước khi học quân sự khiến họ có niềm tin vững chắc và căm thù kẻ địch. Họ sống với dân, được dân giúp đỡ nhưng cũng ép buộc người dân dấn thân tham gia cuộc chiến tới cùng.
* * *
Phía người Pháp, chính phủ không có kế hoạch thống nhất về cuộc chiến nên kế hoạch các Tư lệnh kế tiếp nhau gồm chiến dịch hay tổ chức lượng không bao giờ liên tục.
Tinh trạng trong bẩy năm rời rạc thật bi đát, miền Bắc Pháp kiểm soát được châu thổ sông Hồng (đồng bằng Bắc việt) nhưng không biết địch sẽ tấn công lúc nào. Pháp kiểm soát vùng bờ biển tới Móng cáy, họ chỉ c̣n giữ Thượng du từ sau thất bại chiến dịch 1952-1953, mà những căn cứ Nasan, Lai châu bị đe dọa. Thượng Lào bị sứt mẻ tiếp theo khi VM chiếm đóng Điện biên phủ và Sầm Nứa, c̣n lại do thổ phỉ chiếm. Pháp chỉ c̣n làm chủ Luang Prabang , Vạn tượng , Cánh đồng Chum và Parksane. Đạo quân Việt Minh sẽ tới Thượng Cửu long nếu Pháp không ngăn chận ngay.
Tại miền nam về lư thuyết Pháp kiểm soát hết nhưng VM chiếm những điểm quan trọng để gây ảnh hưởng hoặc lập căn cứ để mở những cuộc tấn công. Cà Mâu hoàn toàn trong tay VM, miền Trung từ Tourane tới Mũi Diều (Varella). VM có 30,000 tay súng, trong đó 18,000 là chính qui hay Địa phương quân ưu tú thường xuyên đe dọa miền Trung và nam Đông dương, trung và hạ Lào. Nam kỳ và Cao Miên, t́nh h́nh ngày càng nghiêm trọng.
Những vùng mà Pháp kiểm soát trên lư thuyết bị Địa phương quân và chính qui VM quấy phá mất an ninh, chủ lực quân VM gồm 60,000 người ở Bắc kỳ, 25,000 người ở miền Trung và 40,000 ở miền nam, 6,000 ở Lào, 8,000 ở Mên. Pháp phải đóng vô số đồn bót để canh giữ đường sắt, kho hàng, phi trường, ṿng đai bảo vệ Châu thổ.
Một phần quân đội dùng làm trừ bị cho địa phương, bảo đảm tiếp tế liên lạc các đồn trại và đánh giải thoát nếu họ bị tấn công, do đó Pháp mất một số lớn chủ lực quân thí dụ giữ một đọan đường từ 20 tới 40 km phải mất một tiểu đoàn, một pháo đội. Châu thổ Bắc kỳ bị ung thối, Pháp chỉ giữ được các thành phố lớn và ngoại ô, trục giao thông, và một số vùng như Phát Diệm, Sơn Tây, Hà Đông. Pháp không làm chủ được Châu thổ, đa số quân phải trấn đóng hàng ngh́n đồn bót tương đương năm sư đoàn. Trong số 7,000 làng có tới 5,000 làng do Việt Minh kiểm soát, họ tuyển quân, lấy thóc gạo, tiếp tế đủ các loại.
Đồng bằng Bắc việt bị ung thối mà cả Đông dương cũng vậy, đó là ác mộng của bộ tham mưu và người lính chiến Pháp, 90% chủ lực quân là bất động một chỗ hoặc ít lưu động. Từ 1-11-1953 có 917 đồn bót, 810 đồn đă lỗi thời, 80 tối tân và 25 cái đang cải tiến, hơn 100,000 chủ lực quân đóng một chỗ.
Việt Minh có 125,000 chính qui, 75,000 địa phương quân, 150,000 du kích, những con số này do Pḥng nh́ ghi nhận tháng 3-1953, thực ra nó ít hơn con số thật nhất là về địa phương quân, du kích (VM có khoảng từ 350 tới 400 ngàn quân). Quân VM đa số lưu động.
Pháp có khoảng 500,000 nhưng đa số đóng đồn, khoảng một phần tư lưu động chiến thuật, một phần mười chiến lược. Quân Pháp gồm bộ binh 175,000 chính qui (54,000 Pháp, 30,000 Bắc phi, 18,000 Phi châu, 20,000 Lê dương, đa số Đức, 53,000 bản xứ tức VN) và 55,000 phụ lực quân, Hải quân 5,000, Không quân 10,000.
Quân đội các Nước liên kết: QGVN 150,000 chính qui và 50,000 phụ lực quân, Lào 15,000, Mên 10,000.
VM có tương đương 9 sư đoàn trong khi Pháp chỉ từ 1/3 tới một nửa của VM (7 Liên đoàn lưu động, 8 tiểu đoàn dù), trong khi Pháp chỉ hoạt động nhỏ, VM hoạt động lớn vô cùng. Lợi thế mà Pháp dành cho VM trong việc tổ chức quân đoàn, về chiến lược đó là sự thiếu sót lớn của Pháp, sai lầm từ cấp chỉ huy cao cấp đưa tới hậu quả tai hại.
Pháp có hỏa lực mạnh của không quân, pháo binh, chiến xa nhưng nặng nề lỗi thời. Xe lội nước chỉ ra được vài trăm mét trên bờ biển chứ không được nhiều cây số, đại bác chỉ di chuyển trên đường được thôi, xe tăng nặng quá không qua được tất cả các loại cầu, máy bay phạm vi hoạt động ít cũng như khả năng chở bom. Pháp lệ thuộc nhiều hạ tầng cơ sở giao thống.
“Chúng ta xử dụng nhất là những “dư thừa của Mỹ” (vũ khí) cho một cuộc chiến tranh có một dạng hoàn toàn khác. Chúng ta không bao giờ nghĩ tới những vũ khí thích ứng với cuộc chiến đặc biệt tại Đông Dương. Chúng ta cũng không bao giờ chi những khoản tiền cần thiêt để chế tạo những chiến cụ đó hay để hướng kỹ nghệ của ta hoặc Mỹ thích ứng với việc chế tạo chúng”
(Trang 47,48)
Về bộ binh, Pháp đă chế ngự bộ binh VM từ lâu nay thua VM, trước hết do không thích hợp với hoàn cảnh, thiếu nhân lực, thiếu tuyển quân. Về trang bị chậm hơn VM, quân chính qui VM được vơ trang những vũ khí nhẹ tự động rất hữu hiệu trong những trận đánh gần, họ hơn Pháp, Pháp không thay đổi từ nhiều năm nay.
Vả lại, nói về người bản xứ (VN), họ không tác chiến giỏi, trong hàng ngũ VM th́ họ giỏi nhưng khi vào hàng ngũ ta, tinh thần họ thường thôi và chiến đấu kém. Quân viễn chinh, Lê dương, Bắc Phi, Phi châu dù thiếu sĩ quan, thiếu huấn luyện nhưng vẫn giữ được phẩm chất truyền thống.
C̣n về người Pháp, họ chiến đấu anh dũng, là lính nhà nghề dưới danh dự lá cờ và binh nghiệp nhưng không phải v́ chiến đấu cho đất nước họ. Quân đội hoạt động quá sức, không được nghỉ ngơi, bộ binh Pháp bị bất lợi.
Tóm lại sau bẩy năm chiến tranh, so sánh chung về những phương diện của Pháp và của VM th́ thấy Pháp bất lợi.
Trong bài tường tŕnh gửi chính phủ ít ngày sau khi Navarre cầm quyền, ông tóm tắt t́nh trạng quân đội
“Sự phân tán và bất động của lực lượng ta chỉ cho việc chỉ huy những khả năng điều khiển rất hạn hẹp. Chúng ta không có Quân đoàn chiến đấu đương đầu với Quân đoàn Việt Minh. Lực lượng tổng trừ bị không được kết hợp và bị giảm xuống một mức mà tất cả những vận động chiến lược trong một mức độ nào đó không thể thực hiện được trong t́nh trạng hiện thời.”
(Trang 50)
Nếu quân đội Pháp mất thế lưu động và tinh thần tấn công, phải nói là nó trở thành tầm thường, đó không phải là do họ hoặc cấp chỉ huy mà do những nguyên nhân từ chính trị
Nếu sĩ quan chủ lực quân yếu đó là v́ các cấp lănh đạo chính trị đă không biết phân phối cho Đông dương những lực lượng Pháp, không cho họ đủ lực lượng cần thiết để hoàn thành trách nhiệm quân sự mà Pháp muốn đảm nhận. Huấn luyện không đủ, thời gian ngắn ngủi, phương tiện không được phong phú, tổ chức cũ rich, đó là v́ các vị trong chính quyền không muốn đ̣i hỏi đất nước những cố gắng cần thiết.
Nếu vũ khí không thích nghi là v́ người ta muốn chỉ đạo cuôc chiến tranh với giá rẻ bằng trang bị vũ khí dư thừa của Mỹ viện trợ. Nếu tinh thần không nhiệt t́nh là v́ nước Pháp không cho những người lính này biết họ chết cho mục đích nào. Điều đáng lo ngại hơn cả việc thiếu cấp chỉ huy quân sự là t́nh trạng đáng lo ở Đông dương là do chính sách chính trị ở Paris .
Trở ngại Tầu
T́nh trạng đáng lo là sự can thiệp của Trung Cộng, họ đóng quân ở biên giới đe dọa Đông dương như viện trợ vũ khí, gửi chí nguyện quân, những sự can thiệp này khiến Pháp nguy khốn, đó là vấn đề sinh tử. Trong khi nguồn tiếp liệu của họ ngay trên đất Bắc kỳ th́ người Pháp phải đợi gửi từ bên Pháp và Mỹ hàng ngh́n km, địch có thể đánh ta th́nh ĺnh mà ta không thể đỡ được.
Thiếu bí mật
Việt minh giữ bí mật, Pḥng nh́ Pháp không khai thác được mấy, những tin hạng nh́ cũng khó lấy. Pháp không biết tí ǵ về những kế hoạch dài tham mưu cao cấp địch như VM nhận được viện trợ tăng vọt mà Pháp không biết. Tuy nhiên Pháp cũng biết tin tức ở mức độ trung gian như chuyển quân cấp trung đoàn, sư đoàn, họ biết kịp thời. Pháp cũng biết lượng hàng tiếp tế từ Tầu khi vào BV từ đó Pháp chỉ tránh được những bất ngờ chiến thuật, những bất ngờ chiến lược th́ hoàn toàn phụ thuộc không tránh được. Pháp không lấy được tin của VM nhưng họ lấy được tin của Pháp, họ cho người ŕnh rập lấy tin địch.
Tổ chức lực lượng Pháp thua VM, trong khi họ ở trong rừng ruộng, không quân phục, linh động di chuyển mà người Pháp khó thấy, c̣n Pháp th́ nhiều xe cam nhông, máy móc nặng, đóng quân lộ liễu, họ dễ quan sát địch, Pháp khó mà dấu họ và khó tấn công họ bất ngờ. Pháp khó thực hiện bất ngờ chiến lược khi cần bí mật sửa soạn và thi hành. Pháp tăng quân hay tăng viện, VM biết trước khi tới Đông Dương, đôi khi họ biết kế hoạch Pháp đang bàn do sơ ư khi tŕnh từ Đông Dương về Paris . Cách lấy tin của địch rất nhiều, những cuộc nói chuyện không giữ ǵn trong văn pḥng, nơi công cộng không cẩn thận, giao công văn, tất cả đă cho VM những nguồn tin tức sơ khởi. Quân Pháp cũng như quân đội quốc gia VN, Mên, Lào không giữ được bí mật, phải trả giá.
Ngoài ra họ c̣n lấy được nguồn tin quan trọng từ báo chí, thống chế De Lattre vừa tử tế nhưng cũng nghiêm khắc, sau khi ông đi rồi, các đệ tử của ông lại không nghiêm khắc . Một số nhà báo tuyên bố họ có thể đưa lên cao hoặc hạ sự nghiệp các ông Tướng, một số ông muốn được họ đưa lên đă cung cấp tin cho họ. Ngoài ra các kư giả Mỹ từ sau chiến tranh Triều tiên tới mang theo lối làm việc của họ. Tại Đông dương đầy những kư giả, chỉ có môt số đàng hoàng , c̣n lại không có khả năng, giá trị, chỉ t́m những bản tin giật gân bất kể hư thật, Một số vô lương tâm không có trách nhiệm, họ không biết ǵ về quân sự, họ được cấp vé máy bay miễn phí, được đi lấy tin chiến trường. Họ coi như cấp chỉ huy phải cung cấp tin cho họ mà đó là bí mật, coi như họ có quyền biết và nói hết không cần biết nó ảnh hưởng tới đất nước và quân đội và làm lợi cho địch.
Rất may những điện tín, những bài của họ thường là sai bét, hậu quả của tưởng tượng và dốt nát. Pḥng Nh́ Pháp lọc lựa đúng sai, VM cũng vào khai thác. Tư lệnh không có thẩm quyền với báo chí, VM cũng lấy được những tin rất quan trọng từ ṛ rỉ, từ chính quyền Pháp về khuynh hướng đường lối chiến tranh, kế hoạch hành quân, tóm lại, một bên là vách ngăn kín mít, bên kia là cái sàng, mọi vật lọt qua được hết.
Chủ bài của Pháp
Pháp thua VM nhiều tuy nhiên cũng có những lợi điểm.
Các vũ khí hạng nặng xe tăng, pháo binh, oanh tạc cơ, tuy nó không có ưu thế nhẹ nhưng Pháp cũng có những ưu thế mà VM không có
Một ưu điểm khác là vận chuyển chiến lược của Pháp gồm đường bộ, xe vận tải, xe lửa, đường thủy và nhất là hàng không, tuy nhiên có khuyết điểm, số lượng máy bay không đủ, thiếu phi trường. Pháp tuyển quân có lợi thế hơn VM, chủ lực quân chưa tận dụng việc thành lập quân đội quốc gia các Nước liên kết măi cho tới năm 1950 mới bắt đầu, quan trọng nhất là quân đội QGVN. Tướng De Lattre có kế hoạch thành lập 8 sư đoàn nhưng chưa đầy đủ, những đơn vị tự trị đông nhất là Liên đoàn lưu động, c̣n lại từng đơn vị nhỏ thuộc Quân đoàn viễn chinh Pháp.
Hơn nữa, những đơn vị VN do những đơn vị bản xứ trong Quân đội viễn chinh chuyển qua họ chỉ đổi lá cờ. Chủ lực quân của ta không tăng lên mấy, phẩm chất không c̣n. Việc thành lập quân đội của VN vẫn chưa thực hiện nghiêm chỉnh, chưa có lệnh cưỡng bách quân dịch, cho tới 1953 Quân đội VN (tức QGVN) chỉ có bề ngoài. Năm 1953 tướng Nguyễn văn Hinh Tổng tham mưu trưởng qua Paris , coi như mới bắt đầu, thật là quá trễ. Hinh đề nghị thành lập nhiều tiểu đoàn khinh binh tuyển trong t́nh trạng quân dịch cưỡng bức do sĩ quan, hạ sĩ quan VN chỉ huy. Đề nghị đă được chính phủ Pháp chấp thuận trên nguyên tắc. Cuối tháng 2-1953 đă có quyết định thành lập 54 đơn vị mới trong 1953-1954 và một số tương đương trong 1954-1955, cũng dự liệu thành lập những đơn vị yểm trợ, Mỹ sẽ cung cấp vũ khí
Kế hoạch thành lập quân đội Mên Lào thực hiện 1952, mỗi nước 8 tiểu đoàn do chuyển từ lính bản xứ trong Quân đoàn viễn chinh, nó cũng không làm tăng lực lượng Pháp. Quân đội các Nước liên kết là một lợi thế cho Pháp nhưng chỉ có kỳ hạn. Việc thành lập quân đội các Nước liên kết gặp những vấn đề chính trị, kỹ thuật, trước hết đ̣i hỏi tinh thần yêu nước mà cả hy sinh tiền bạc vật chất cho cuộc chiến
Pháp luôn đánh giá thấp Việt Minh về chính trị, quân sự, ảnh hưởng của họ đối với dân. Tinh thần, động lực, khả năng kinh tế, nguồn nhân lực, khả năng quân sự của cấp chỉ huy cao hơn người Pháp tưởng.
Navarre tóm tắt:
Ư chí địch rất cao, mục đích rơ ràng, động cơ vĩ đại và một tinh thần nhất trí hành động tuyệt đối trong chỉ đạo cuộc chiên cũng như trong mọi chiến dịch. Người Pháp mất niềm tin, do dự, hoàn toàn thiếu ḥa hợp chính trị, kinh tế, quân sự. Một sự liên minh các nước có quyền lợi khác nhau hay trái ngược nhau không rơ ràng về mục đích và về những phương tiện của họ để đạt tới
Phía Việt Minh coi đó là cuộc chiến tranh nhân dân v́ ư thức hệ hoặc bị bó buộc đóng vai tích cực, ngược lại cuộc chiến Pháp không hợp ḷng dân (Pháp), dư luận quần chúng không thích, không tha thiết, giao phó cho nhưng người lính nhà nghề mà họ không biết tại sao lại chiến đấu. VM là môt đạo khinh binh nhẹ nhàng, lưu động, sức mạnh tầm thường nhưng ngày càng tăng. Pháp có sức mạnh hơn nhưng có khuyết điểm nặng nề và không thích hợp môi trường về vật chất và con người
Ở VM lưu động chiến thuật, ở Pháp lưu động chiến lược, địch quân số ít hơn nhưng bù lại lực lượng lưu động rất nhiều, người Pháp hy vọng sẽ có lực lượng lớn hơn địch nhờ các Nước liên kết gia tăng lực lượng nhưng buồn thay t́nh trạng chính trị và bầu không khí tinh thần, xă hội không mấy thuận lợi.
VM trước mắt lợi thế chính là Quân đoàn, thích hợp với những chiến dịch lớn, hầu như gấp ba Pháp, mà bề lâu bề dài Pháp không hy vọng cân bằng, từ đó sẽ có một viễn tượng đen tối cho mặt trận mùa đông 1953-1954. VM được tiếp tế mạnh, Pháp được Mỹ xa xôi viện trợ đều nhưng kế hoạch tỉ mỉ, cứng ngắc. Phía sau VM, Trung cộng sát ngay sau lưng cung cấp hạn chế nhưng có khả năng cấp ồ ạt (v́ ở gần.)
Trước bảng tổng kết u ám đó có thể kết luận chắc chắn Pháp sẽ thua, chính phủ phải nhận hậu quả sự việc. Hai yếu tố mà ta có thể hành động, nếu chính trị tích cực khéo léo có thể chế ngự vấn đề: Nếu viện trợ Tầu cho VM có giới hạn th́ Pháp không sợ tai họa, thứ hai nếu thực hiện được việc thành lập quân đội các Nước liên kết Việt, Mên, Lào th́ cơ hội thành công sẽ lớn mạnh. Từ tháng 5-1953 không thể xác nhận có một lối thoát nào cả.
Trước khi rời Sài G̣n trở về Pháp, cựu Cao ủy Létourneau và cựu Tư lệnh Salan nói t́nh h́nh sẽ được cải thiện.
Sau ba tuần quan sát tại Đông dương, Thống chế Juin làm một báo cáo sẽ thay đổi t́nh trạng trong hai năm. Theo Navarre ư kiến của giới chức quân sự cao cấp nhất của Pháp cũng không hy vọng tin tưởng được.
(Lược dịch từ lời tựa Avant-propos, Chương I – Ma prise de commandement, Chương II – La Situation en Indochine à mon arrive. Từ trang I tới trang 61 trong Agonie de l’Indochine)
© Đàn Chim Việt
|