Căn cứ vào Phần XV- Về giải quyết tranh chấp, Mục 1- Các quy định chung từ Điều 280 đến Điều 285 của UNCLOS, đặc biệt là Điều 281 đă quy định, “1. Khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đă thỏa thuận t́m cách giải quyết tranh chấp này bằng một phương pháp ḥa b́nh theo sự lựa chọn của ḿnh, th́ các thủ tục được trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu không đạt được một cách giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa thuận giữa các bên không loại trừ khả năng tiến hành một thủ tục khác. 2. Nếu các bên cùng thỏa thuận về một thời hạn, th́ khoản 1 chỉ được áp dụng kể từ khi kết thúc thời hạn này”. Theo quy định này, từ khi phát sinh tranh chấp Việt Nam đă tiến hành đàm phán, trao đổi quan điểm với Trung Quốc nhưng Trung Quốc vẫn không thiện chí để giải quyết và cũng không có bất kỳ thoả thuận nào với Việt Nam, tranh chấp không được giải quyết và ngày càng căng thẳng, phức tạp. Đây chính là căn cứ quan trọng để Việt Nam sử dụng biện pháp tài phán theo qui định tại Điều 287 của UNCLOS. Phần XV- Giải quyết tranh chấp, Mục 2- Các thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết định bắt buộc, Điều 286 của UNCLOS quy định, với điều kiện tuân thủ Mục 3
[37], mọi tranh chấp liên quan đến giải thích hay áp dụng UNCLOS khi không được giải quyết bằng cách áp dụng Mục 1, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được ra trước Ṭa án có thẩm quyền theo mục này.
(iii)Việt Nam và Trung Quốc không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ giải quyết tranh chấp cụ thể nào trong các điều ước quốc tế đa phương hoặc song phương.
Cho đến nay Việt Nam và Trung Quốc không bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ giải quyết tranh chấp dẫn đến các kết quả ràng buộc từ các Hiệp chung, khu vực hay hai bên theo Điều 282. Trên thực tế, Việt Nam và Trung Quốc chỉ bị ràng buộc bởi Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 (DOC); Hiệp định Hợptác thân thiện giữa các quốc gia Đông Nam Á (TAC) năm 1976; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vần đề biên giới, lănh thổ giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa năm 1993 và Thỏa thuận về nguyên tắc 6 điểm giải quyết các vấn đề trên biển năm 2011. Tuy nhiên, các văn bản này không định bất kỳ biện pháp giải quyết tranh chấp cụ thể nào mà chỉ qui định chung về ḥa b́nh giải quyết tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế.
(iv) Thủ tục trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII là thủ mặc nhiên.
UNCLOS mặc nhiên coi các bên đă chọn Ṭa trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII. Điều 287 của UNCLOS quy định, khi kư hay phê chuẩn UNCLOS hoặc tham gia UNCLOS, hay ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn, h́nh thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng UNCLOS:
(1) Ṭa án quốc tế về luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
(2) Ṭa án công lư quốc tế;
(3) Một Ṭa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
(4) Một Ṭa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII để giải quyết một hay nhiều loại tranh chấp đă được qui định rơ trong đó
[38].
Và khi một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố c̣n có hiệu lực bảo vệ, th́ được xem là đă chấp nhận thủ tục trọng tài đă trù định ở Phụ lục VII
[39]. Cho đến nay cả Việt Nam và Trung Quốc đều chưa có tuyên bố nào theo quy định tại khoản 1 Điều 287. Do vậy, chiếu theo khoản 3 Điều 287 th́ Việt Nam và Trung Quốc mặc nhiên đă chọn Ṭa trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOSđể giải quyết tranh chấp về giải thích và áp dụng UNCLOS
[40].
(v) Về phạm vi và nội dung khởi kiện của Việt Nam (nếu thực hiện) không vi phạm giới hạn và các ngoại lệ theo quy định tại Điều 297 và Điều 298 của UNCLOS.
Về phạm vi và nội dung khởi kiện của Việt Nam (nếu thực hiện) liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS sẽ không vi phạm giới hạn phạm vi áp dụng của các biện pháp bắt buộc theo qui định tại Điều 297 (các tranh chấp liên quan đến việc thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển về nghiên cứu khoa học biển và đánh bắt hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế sẽ đương nhiên bị loại trừ khỏi phạm vi giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS).
Mặt khác, vụ kiện của Việt Nam (nếu thực hiện) sẽ không vi phạm các qui định tại Điều 298 của UNCLOS về những ngoại lệ không bắt buộc giải quyết trước các cơ quan tài phán đó là 4 loại tranh chấp về:
(i) Giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển
[41];
(ii) Các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử;
(iii) Các vụ tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của Nhà nước được sử dụng cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các vụ tranh chấp liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành, đă được thực hiện trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán mà Điều 297, khoản 2 và 3, đă loại trừ khỏi thẩm quyền của một ṭa án
[42];
(4) Các vụ tranh chấp mà Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, trong khi thi hành các chức năng của ḿnh do Hiến chương Liên hợp quốcgiao phó có trách nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng bảo an quyết định xóa vấn đề trong chương tŕnh nghị sự của ḿnh hay yêu cầu các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp của họ bằng các phương pháp đă qui định trong UNCLOS
[43]. Đây cũng là các ngoại lệ mà Trung Quốc đă bảo lưu theo tuyên bố ngày 25/8/2006
[44].
Chúng tôi cho rằng, nếu Việt Nam quyết định khởi kiện Trung Quốc ra Ṭa trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS sẽ có một số thuận lợi sau đây:
- Toà trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS sẽ giải quyết vụ kiện kể cả khi Trung Quốc không đồng ư;
- Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm từ vụ kiện của Philipines và các quốc gia đă giải quyết tại Ṭa trọng tài quốc tế về luật biển như: Barbados, Trinidad và Tobago, Ireland, Anh, Guyna, Suriname… trong việc chuẩn bị hồ sơ khởi kiện và chiến thuật tranh tụng tại Ṭa.
- Phán quyết của Toà có ư nghĩa chính trị, ngoại giao và dư luận quốc tế rất lớn nhằm góp phần ngăn ngừa các hành động tiếp theo của Trung Quốc;
- Tạo niềm tin và nguồn động viên to lớn đối với nhân dân Việt Nam trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay.
Tuy nhiên, nếu Việt Nam quyết định khởi kiện Trung Quốc ra Ṭa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS, Việt Nam có thể gặp một số khó khăn nhất định như phản ứng tiêu cực của Trung Quốc đối với hành vi khởi kiện của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư sẽ tác động đáng kể đến t́nh h́nh chính trị, kinh tế – xă hội của Việt Nam. Điều này sẽ có tác động không nhỏ đối với Việt Nam. Bởi lẽ, khác với Philippines, Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có lănh thổ liền kề, có mối quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa…chặt chẽ hơn rất nhiều so với Philippines; mặc dù phán quyết của Ṭa trọng tài có giá trị chung thẩm nhưng không có cơ chế bảo đảm thi hành. Do vậy, việc thực thi phán quyết của trọng tài là không cao.
Chính v́ vậy, trong thời điểm hiện nay Việt Nam cần tính toán hết sức khoa học, thận trọng khi quyết định khởi kiện Trung Quốc.
Theo VHNA
……………………….
[1]Tiến sĩ Luật học, Trưởng bộ môn Công pháp quốc tế, khoa luật Quốc tế, trường Đại học Luật TP.HồChí Minh.
[2]Theo công hàm mà BộNgoại giao Trung Quốc đă gửi Tổng thưkư LiênHợp quốc vào ngày 7/5/2009. Xem Phụlục 1, bản đồđường chữU 9 đoạn (đường lưỡi ḅ) phi pháp của Trung Quốc.
[3]Nơi đặt trụsởchính quyền thành phốTam Sa là đảo Phú Lâm, tên quốc tếlà Woody Island. Đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất quần đảo Hoàng Sa. Đến ngày 24/11/2012 Trung Quốc đă chính thức công bốbản đồthành phốTam Sa. Xem Phụlục 2, mô tảbản đồthành phốTam Sa được thành lập trái pháp luật quốc tếcủa Trung Quốc.
[4]Xem Phụlục 3, h́nh ảnh Trung Quốc đang tôn tạo, xây dựng trên băi cạn Gạc Ma.
[5]Xem Phụlục 4, bản đồđường chữU 10 đoạn của Trung Quốc. Với bản đồkhổdọc này, lần đầu tiên trong lịch sử, bản đồTrung Quốc được vẽtheo khổdọc thay v́ khổngang nhưtrước đây. Với cách vẽnày, Trung Quốc đă “biến” bản đồcũ có chiều ngang 5.200km và chiều dọc là 3.000km thành bản đồmới có chiều ngang 5.200km và chiều dọc là 5.500km. Cần lưu ư rằng, tấm bản đồnày bao trùm cảBiển Đông, Biển Hoa Đông và bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ.
[6]Xem Phụlục 5, vịtrí tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp ngầm của tàu B́nh Minh 2 đang thăm ḍ dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tếvà thềm lục địa của Việt Nam ngày 26/5/2011.
[7]Xem Phụlục 6, bản đồ9 lô dầu khí nằm hoàn toàn trong thềm lục địa của Việt Nam mà Trung Quốc đă ngang ngược mời thầu quốc tế.
[8]Xem h́nh ảnh và vịtrí các lô dầu khí của Việt Nam hợp tác khai thác với các công ty nước ngoài nhưng bịTrung Quốc cản trởtại Phụlục số7.
[9]Xem h́nh ảnh và vịtrí Trung Quốc hạđặt giàn khoan Hải Dương 981trong vùng đặc quyền kinh tếvà thềm lục địa Việt Nam tại Phụlục số8.
[10]Điều 57 UNCLOS.
[11]Điều 56 UNCLOS.
[12] Điều 73 UNCLOS.
[13]Điều 58 UNCLOS
[14]Điều 77 UNCLOS
[15]Điều 78,79,80,81 UNCLOS.
[16]Điều 15 Luật biển Việt Nam năm 2012.
[17]Điều 16 Luật Biển Việt Nam năm 2012.
[18]Điều 17 Luật Biển Việt Nam năm 2012
[19]Điều 18 Luật Biển Việt Nam năm 2012.
[20]Xem Tuyên bốDOC bằng tiếng Anh tại địa chỉwebsite của Asean:
http://www.asean.org/asean/external-...outh-china-sea.
[21]Xem nội dung Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á ngày 24/2/1976 (Treaty of Amity and Cooperation inSoutheast Asia Indonesia, 24 February 1976) tại địa chỉwebsite:
http://www.asean.org/news/item/treat...a-24-february- 1976-3
[22]Điểm 1 của DOC.
[23]Điểm 2 của DOC.
[24]Điểm 3 của DOC
[25]Điểm 4 của DOC
[26]Điểm 5 của DOC
[27]Điểm 6 của DOC.
[28]Điểm 7 của DOC
[29]Điểm 8 của DOC
[30]Điểm 10 của DOC
[31]. Theo thống kê, hơn 90% lượng vận tải thương mại của thếgiới thực hiện bằng đường biển và 45% trong sốđó phải đi qua Biển Đông. Khoảng 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc, 60% của Nhật Bản và 66% của Hàn Quốc cũng đi qua vùng biển này.
[32]Việt Nam đă chủđộng liên hệ, kêu gọi, đềxuất với Trung Quốc giải quyết t́nh h́nh hiện nay hơn 30 lần kểcảsửdụng diễn đàn ASEAN, ARF, Liên Hợp quốc nhưngTrung Quốc vẫn không thiện chí giải quyết.
[33]Trích bài trảlời phỏng vấn của Thủtướng Chính phủnước CHXHCN Việt Nam với hăng tin Bloomberg ngày 30/5/2014.
[34]Ṭa trọng tài thường trực La Haye (PCA) được thành lập vào năm 1899, trên cơsởCông ước La Haye 1899 (c̣n được gọi là Công ước La Haye I) vềgiải quyết ḥa b́nh các tranh chấp quốc tế. Với tưcách là một thiết chếquốc tếgiúp các quốc gia có thểgiải quyết các tranh chấp quốc tếbằng biện pháp ḥa b́nh, ṭa trọng tài thường trực La Haye có trụsởchính tại Cung điện Ḥa B́nh, thành phốLa Haye của Hà Lan, bắt đầu đi vào hoạt động từnăm 1902. Từkhi thành lập cho đến nay, PCA đă đóng vai tṛ quan trọng trong việc duy tŕ ḥa b́nh, an ninh quốc tếcũng nhưgóp phần quan trọng vào sựphát triển của pháp luật quốc tế. Hiện nay Ṭa có 115 quốc gia và vùng lănh thổlà thành viên, PCA đă tham gia giải quyết nhiều vụviệc tranh chấp liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của các quốc gia thành viên. Việt Nam đă là thành viên của Ṭa trọng tài thường trực La Haye (Việt Nam chính thức tham gia Công ước La Haye 1899 từ29/12/2011 và Công ước La Haye 1907 từ27/02/2012). Với việc kư kết Hiệp định nước chủnhà với PCA ngày 23/6 vừa qua, Việt Nam đă chính thức công nhận Ṭa trọng tài thường trực có tưcách pháp lư cần thiết đểtiến hành các hoạt động giải quyết ḥa b́nh các tranh chấp quốc tếthông qua trọng tài, trung gian, ḥa giải và ủy ban điều tra. PCA sẽcó tưcách pháp lư đểcung cấp các hỗtrợthích hợp khác liên quan đến hoạt động giải quyết ḥa b́nh các tranh chấp quốc tếdo Ṭa trọng tài thường trực tiến hành tại Việt Nam, cũng nhưtiến hành các hoạt động hợp tác với Việt Nam.
[35]Theo quan điểm của tác giả, thời điểm này Việt Nam chưa nên đưa tranh quần đảo Trường Sa ra giải quyết tại ICJ và PCA v́ liên quan đến nhiều bên, trong đó có Việt Nam, Trung Quốc, Philipines, Malaysia, Brunei, Đài Loan, t́nh h́nh sẽphức tạp thêm.
[36]Có 3 phương thức đểcác quốc gia trao quyền giải quyết tranh chấp cho ICJ và PCA đó là phương thức chấp nhận trước và phương thức chấp nhận sau: Phương thức chấp trước được thực hiện bằng cách (1) Các quốc gia kư kết các điều ước quốc tếtrao quyền giải quyết cho ICJ và PCA trước khi tranh chấp phát sinh hoặc (2) Các quốc gia tuyên bốđơn phương chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của ICJ và PCA trước khi tranh chấp phát sinh. Phương thức chấp nhận sau được thực hiện bằng cách, (1) khi tranh chấp phát sinh các bên tranh chấp thỏa thuận đồng thỉnh cầu ICJ và PCA giải quyết hoặc (2) khi tranh chấp phát sinh một bên tranh chấp khởi kiện bên kia ra ICJ hoặc PCA và bên tranh chấp kia tuyên bốchấp nhận.
[37]Giới hạn và ngoại lệđối với áp dụng được quy định cụthểtại Điều 297 và Điều 298.
[38]Khoản 1 Điều 287 UNCLOS.
[39]Khoản 3 Điều 287 của UNCLOS.
[40]Trong 4 cơquan tài phán được qui định tại Điều 287, th́ ICJ và ITCLOS không thểcó thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc nếu Việt Nam khởi kiện nhưng Trung Quốc không chấp nhận. V́ hai cơquan tài phán này chỉcó thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi được các bên tranh chấp đồng thuận yêu cầu. C̣n Ṭa trọng trọng tài đặc biệt, theo Phụlục VIII của UNCLOS chỉcó chức năng
điều tra và
xác lập các sựkiện từnguồn gốc vụtranh chấp liên quan đến đánh bắt hải sản, bảo vệvà ǵn giữmôi trường biển, nghiên cứu khoa học biển và hàng hải kểcảnạn ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhận ch́mchứkhông thực sựlà một cơquan giải quyết tranh chấp. Bởi lẽ, nếu tất cảcác bên trong vụtranh chấp yêu cầu th́ Toà trọng tài đặc biệt có thểthảo ra các khuyến nghị; những khuyến nghịnày không có giá trịquyết định mà chỉlà cơsởđểcác bên tiến hành xem xét lại những vấn đềlàm phát sinh ra tranh chấp mà thôi.
[41]Phân định lănh hải, đặc quyền kinh tếvà thềm lục địa.
[42]Điều 298, khoản 1, điểm b của UNCLOS.
[43]Điều 298, khoản 1, điểm c của UNCLOS.
[44]Xem toàn văn Tuyên bốcủa Trung Quốc ngày 25/8/2006 tại địa chỉwebsite:
http://www.un.org/ Depts/ los/convention_agreement s/convention_declarati ons.htm#China Upon ratification. Theo đó, Trung Quốc tuyên bốrằng,
“Chính phủnước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa không chấp nhận bất kỳ thủtục quy định tại Mục 2 Phần XV củaUNCLOS
đối với tất cảcác loại tranh chấp quy định tại khoản 1 (a) (b) và (c) với Điều 298 của UNCLOS
”.

tm