View Single Post
Old 12-07-2014   #2
Romano
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
Romano's Avatar
 
Join Date: May 2007
Posts: 136,900
Thanks: 9
Thanked 6,550 Times in 5,496 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 38 Post(s)
Rep Power: 172
Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10
Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10
Default

Vì nhiều lý do, Tổng thống Thiệu đã sống sót được qua năm 1968. Người kế nhiệm ông Johnson trong Nhà Trắng là vị Tổng thống Mỹ thứ 37 Richard Nixon về sau đã được biết về âm mưu ám sát tổng thống Thiệu qua lời cảnh báo của cố vấn Henry Kissinger. Ông Kisinger nói: “Nếu ông Thiệu chịu chung một số phận với ông Diệm thì tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ nghĩ rằng làm kẻ thù của Mỹ có thể là nguy hiểm, chứ làm bạn với Mỹ chắc chắn là chết…”.

Tuy nhiên, khi Nixon đã làm chủ Nhà Trắng rồi thì cũng chính Nguyễn Văn Thiệu vẫn gây nên những nỗi đau đầu bất tận cho các quan thầy Mỹ. Để có thể tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ nữa, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã gia tăng những nỗ lực để “Việt Nam hóa chiến tranh” và loại dần sự có mặt về quân sự của quân đội Mỹ ở Việt Nam.

Một mặt, Washington gia tăng viện trợ quân sự cho quân đội Sài Gòn. Mặt khác, sau những thất bại của các đợt ném bom tàn bạo xuống miền Bắc Việt Nam, chính quyền Mỹ đã buộc phải tìm cách thương thảo với Hà Nội tại bàn hội nghị ở Paris. Lo sợ vì bị quan thầy “đem con bỏ chợ”, Nguyễn Văn Thiệu lại thêm một lần trở nên cứng đầu cứng cổ, tìm mọi cách chống phá quá trình thương thảo ở Paris.

Đến mức ngay cả Henry Kissinger, Trưởng phái đoàn đàm phán của Mỹ ở Paris, trong hồi ký của mình cũng đã phải nhận xét rằng, trong suốt 5 năm từ 1968, Nguyễn Văn Thiệu, với tư cách là tổng thống của chế độ Việt Nam cộng hòa, đã phá hoại tất cả những nỗ lực của quan thầy như muốn “bóp nát trái tim nước Mỹ”. Nắm 1972, khi mọi việc đã gần như suôn sẻ ở Paris, Nguyễn Văn Thiệu đã nhất định không chấp nhận ký Hiệp định. Cực chẳng đã, Tổng thống Mỹ Nixon đã phải nhắn khéo về một nguy cơ đảo chính có thể xảy ra ở Sài Gòn.

Trong bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon viết: “Tôi yêu cầu ông cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...”.

Bản tính lì lợm, lại phải đối mặt với vấn đề sinh tử là mất hay còn tương lai, Nguyễn Văn Thiệu bất chấp những đe dọa từ phía Mỹ vẫn ngoan cố chống phá việc ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam. Già néo dễ đứt dây, Tổng thống Mỹ Nixon, chuẩn bị cho lễ nhậm chức lần thứ hai trong Nhà Trắng, tỏ ra rất bức xúc vì thái độ hỗn hào của kẻ “muốn ăn không muốn làm” theo ý người trả tiền trong Dinh Độc Lập, đã viết thẳng toẹt ra cho Nguyễn Văn Thiệu về nguy cơ đảo chính: “Tôi nhất quyết cho phê chuẩn bản Hiệp định vào ngày 23/1, và sẽ ký vào ngày 27/1/1973 tại Paris. Tôi sẽ làm việc này dù phải làm một mình… Kết quả không tránh khỏi sẽ là việc cắt viện trợ quân sự và kinh tế ngay lập tức, mà dù có sự thay đổi về nhân sự trong chính phủ của ông cũng không thể cứu vãn được…”.

Và đành “thân lươn chẳng quản lấm đầu”, dù rất cay đắng nhưng rốt cuộc Nguyễn Văn Thiệu vẫn bắt buộc phải xuống nước và thế là Hiệp định Paris về Việt Nam đã được ký kết coi như là suôn sẻ vào đúng thời hạn mà Nixon đã nói…

Một tay sai như thế hiển nhiên không thể được quan thầy ưa chuộng. Henry Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã dành những lời rất nặng nề để nói về Nguyễn Văn Thiệu, mặc dù không phủ nhận rằng Tổng thống Thiệu là một người khôn ngoan hoạt bát nhưng lại cho rằng, Nguyễn Văn Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu “tàn bạo”, “xấc láo”, “ích kỷ, độc ác” với những “thủ đoạn gần như điên cuồng” khi làm việc với người Mỹ… Kissinger cũng tiết lộ rằng, trong những câu chuyện riêng, khi nói về Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Mỹ Nixon đã giận dữ thốt lên: “Đó là một thằng chó đẻ” (!)

Ngày tàn tức tưởi

Cuộc tấn công và nổi dậy của quân và dân ta mùa xuân năm 1975 đã dồn chế độ Việt Nam cộng hòa vào con đường cùng. Tới lúc đó thì người Mỹ không thể không nhìn thấy sự phá sản của con bài Nguyễn Văn Thiệu trong ván cờ thế sự ở đây. Washington đã cố gắng tạo mọi sức ép để buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức và đưa một nhân vật nào đó khả dĩ hơn lên sân khấu chính trị nhằm vớt vát được chừng nào hay chừng ấy những điều kiện thuận lợi nào đó.

Ngày 21/4/1975, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn Martin đã báo cáo cho ông Kissinger, lúc này là Ngoại trưởng Mỹ: “Tôi sẽ nói cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu từ chức thì các tướng lĩnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông ta làm điều này…”. Và thế là, cùng ngày 21/4/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã phải từ chức trong một tâm trạng thật là tức tưởi và đầy oán hận đối với các quan thầy Mỹ.

Người lên thay Nguyễn Văn Thiệu là một gương mặt rất cựu trào ở Sài Gòn thuở đó, ông Trần Văn Hương. Ông Hương cũng chẳng hẹp lòng gì mà đuổi Nguyễn Văn Thiệu ra khỏi Dinh Độc Lập ngay nhưng dưới sức ép của dư luận xã hội, đã phải tìm cách để cựu Tổng thống Thiệu tháo lui ra hải ngoại.

Nhân dịp có tang lễ Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, ông Hương lại sử dụng bài bản cũ là đề cử Nguyễn Văn Thiệu cũng như Trần Thiện Khiêm làm đại sứ lưu động sang Đài Loan dưới danh nghĩa phái đoàn đại diện Việt Namcộng hòa đến phúng điếu Tưởng Giới Thạch… Và thế là đêm 25/4/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã vĩnh viễn phải rời khỏi Việt Nam.

Câu chuyện khởi hành ly hương của kẻ đã từng một thời làm mưa làm gió ở Sài Gòn đã được các thuộc hạ về sau tường thuật như sau: “Vào khoảng 7 giờ 30 tối, Tổng thống Thiệu thay bộ đồ bốn túi trong phòng ngủ rồi qua phòng nhỏ bên cạnh nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống.

Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp một chiếc xe Mercedes màu xanh đậm đã đậu sẵn. Người lái xe là Đại tá Nhan Văn Thiệt. Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu vội vã rút trong hộc tủ cây Browning đã lắp đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo.

Ông xuống tầng trệt bằng thang máy. Khi cánh cửa mở ra thì Đại tá Trần Thanh Điền đã túc trực tại đó. Ông vừa bước xuống bậc tam cấp thì cũng vào lúc có hai binh sĩ (tên là Sanh và Khình) xuất hiện làm ông giật mình. Thực ra là họ chỉ đến để đổi gác.

Ông Thiệu và ông Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải Tổng thống Thiệu ở băng sau. Như vậy là ông Điền đã ngồi vào chỗ chính thức của tổng thống và chịu làm Lê Lai liều mình cứu chúa! Vừa ngồi vào xe, ông Thiệu hỏi: “Có mấy cây súng?”. Đại tá Điền đáp: “Có hai cây, một cây dài, một cây ngắn”.

Như vậy thì vào lúc đó, Tổng thống Thiệu đã nhận thấy ông bị nguy hiểm trên đường tới Bộ tổng tham mưu (ta nhớ lại là Tổng thống Diệm đã bị sát hại trên đường tới Bộ tổng tham mưu).

Việc ông Điền ngồi vào chỗ chính thức của tổng thống thì cũng trùng hợp với câu chuyện ông Thiệu kể cho chúng tôi là khi đi xe tới dự nghi lễ bên quốc hội hay nơi khác, ông thường ngồi ngay bên cạnh tài xế lái xe chứ không ngồi chỗ dành cho tổng thống ở băng sau. Khi đoàn xe tới phi trường Tân Sơn Nhất, Thiếu tá Phận kể lại là đã “giật mình khi nhận ra cả khu vực phi trường tối om. Dường như hệ thống điện hoàn toàn bị cắt…

Đoàn xe chạy vòng qua khu dành riêng cho Hãng hàng không Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường băng, tất cả xe đều tắt đèn di chuyển trong bóng đêm. Sau đó một chiếc máy bay lù lù hiện ra dưới chân trời nhờ đèn trong buồng máy cháy sáng, một loại máy bay giống như DC6. Khi tới gần chiếc máy bay, đoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người…

Xe Tổng thống Thiệu bị bao vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng đêm, xung quanh chúng tôi xuất hiện nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường phục, súng M.16 dựng đứng bên hông, trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Rồi hình ảnh ông Đại sứ Graham Martin hiện ra tại chân cầu thang máy như một vị thần hộ mạng”.

Chuyện này làm cho chúng tôi mới hiểu được tại sao khi nói về chuyến ra đi của Tổng thống Thiệu, Đại sứ Martin cứ nói úp úp mở mở là “ông Thiệu đã ra đi trong điều kiện hết sức khó khăn,” và “chúng tôi đã để ý và cố gắng sắp xếp mọi chi tiết.” Thì ra, mọi chi tiết được sắp xếp gồm cả việc cắt điện để phi trường tối om và việc đoàn xe phải di chuyển trong bóng đêm. Khi máy bay đáp xuống thì đã có sẵn một toán lính Mỹ canh gác để đề phòng những biến động có thể xảy ra vào phút chót…”.

Cho tới cuối đời, Nguyễn Văn Thiệu vẫn không nguôi nỗi oán hận quan thầy mặc dù đã phải “bó thân” về ở trên đất Mỹ. Cựu phụ tá đặc biệt Nguyễn Văn Ngân nhận xét rằng, Tổng thống Thiệu “đã mang mối hận thù xương tủy người Mỹ đến tận cuối đời…”.

Đến mức, lúc chết vào ngày 29/9/2001, Nguyễn Văn Thiệu đã bày tỏ ý nguyện rằng, nếu có thể ông ta muốn xác của mình được hỏa táng để đem tro cốt về Việt Nam, bằng không thì sẽ rải xuống biển chứ không muốn chôn trong lòng đất Mỹ…

Theo Anninhthegioi
Romano_is_offline   Reply With Quote
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10620 seconds with 10 queries