Nay ta thèm rượu nhớ mong ai
Một mình rót uống chẳng hề say
Trước kia hai thằng hết một nậm
Trò truyện dông dài, mặt đỏ xẫm
Nay một mình ta một be con
Cạn rựơu rồi thơ mới véo von
Nhà thơ đang ‘’khát ‘’, có rựơu nhưng chỉ có một mình. Rượu ngon… (lại) không có bạn hiền, nên nhớ tới Trương Tửu, đành tâm sự với bạn trong tâm tưởng rồi khẳng định: Chỉ cạn rượu (say), ‘’thơ mới véo von’’.Tiếng hót véo von của chim họa mi là tiếng hót hay.
Thơ ‘’véo von’’ cũng có thể hiểu là thơ hay. Đang có đà, NV, tiếp:
Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác
Mà coi đồng tiền như cái rác
Kiếm được xu nào đem tiêu hoang
Rủ nhau chè chén nói huyênh hoang
Xáo lộn văn chương với chả cá
Chửi Đông, chửi Tây, chửi tất cả
Rồi ngủ một đêm, mộng với mê
Sáng dậy nhìn nhau cừơi hê hê
Có hơi men, tác gỉa nhớ về qúa khứ, về thời – cả hai nghèo kiết xác. Nhưng khi có tiền, họ vẫn hoang toàng trong đời sống, vung vãi tinh lực, kiến thức – trong những trận say túy lúy càn khôn để có sức ‘’chửi Đông, chửi Tây, chửi tất cả’’ cho sướng miệng rồi kéo nhau đi thưởng thức món chả cá ngon có tiếng của đất Hà Thành.
Đêm đến tiếp tục say với mộng mơ… sáng dậy không còn nhớ chiếc ‘’Văn tự’’ mua bán… ‘’Trời’’ – kia. Sau trận ‘’quên hết sự đời’’. trở về cõi thực, cả hai nhìn nhau sảng khoái ‘’cười hê… hê’’.Giấc Nam kha dứt, chợt giật mình – ‘’Bừng con mắt dậy thấy mình tay không’’, liên hệ với cuộc sống của kiếp nhà văn mà đau, buồn.Thời đó, dân trí của ta qúa thấp, nhiều người mù chữ. Kinh tế qúa nghèo, cuộc đời đói khổ, dân lấy đâu ra tiền thừa đẻ mua báo, mua sách đọc giải trí, trừ số ít dân trung lưu, dân buôn bán nhỏ ở thành thị. Do vậy nhà văn không thể bán văn chương, thơ phú để lấy tiền sống tạm qua ngày. Cũng may, Mặt trận Bình Dân Pháp lên nắm quyền ở ‘’Mẫu quốc’’ (…), có một số thay đổi trong chính sách cai trị ở các nước thuộc địa. Chính phủ thực dân ở Đông Dương muốn lấy lòng dân thuộc địa để tô điểm cho khuôn mặt ‘’Bình dân’’ của Sếp mình, hòng ve vuốt giới trí thức bản địa – nguồn gốc của ngòi nổ phản kháng. Họ giảm bớt sức ép cai trị khiến dân chúng dễ thở hơn (…) trong đó có phần kiểm duyệt Văn chương…Mới chỉ có chút ít quyền, được ‘’nói cho sướng miệng’’thế thôi, mà văn học nghệ thuật thời kì này đã nở rộ, ra đời nhiều tác phẩm gía trị . Còn đời sống của cả xã hội vẫn chưa có gì thay đổi lớn. Chúng ta nên nhớ: Giới Văn Nghệ Sĩ khi xưa không được nhà nước cho ăn lương như VNS thời XHCN – hôm nay. Tất cả đều tùy thân vận động’’Tùy nghi di tản’’ để tự nuôi sống mình mà…viết. (Nhân dân cần lao tất nhiên còn bi thảm hơn, ngoài chịu số phận của kẻ nô lệ – ‘’Một cổ đôi tròng’’(Thực dân – Phong kiến), còn bị cường hào, quan lại ‘’Đè đầu cưỡi cổ’’, ức hiếp…). Sau phút ưu tư, trước hoàn cảnh bi đát… tác gỉa ghi lại cảm xúc đang dâng trào:
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút nói văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Và nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm giời: Kiết vẫn kiết!
Mà thương cho tôi, thương cho anh
Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh
Ông trở nên bất đắc chí, đem so sánh cuộc sống của nhà Văn với kiếp sống của chó – con vật mạt hạng nhất trong số các vật nuôi của dân ta.Hãy bình tĩnh, hãy ghìm mình lại, đừng tự ái khi gã say ví ta với chó! Thật ra đây chỉ là’’Ngoa dụ’’ mà Nguyễn Vỹ dùng để miêu tả sự khốn cùng của kiếp nhà văn Việt dưới chế độ thực dân xâm lược. Quan niệm của cả xã hội:
Nhà Văn thưộc tầng lớp ở trên cao mà còn khổ như vậy thì dân đen sẽ như thế nào? Lời ví von có hơi cường điệu nếu đem kiếp sống của nhà Văn mà ví với chó gia súc của dân ta thì hơi…qúa. Song, nếu ví với chó Berger, chó cảnh của dân giầu, chó săn của ông chủ thì… cũng chẳng ngoa chút nào! Lại nữa – Người Việt có tính hay mẫn cảm: Tuy nghèo, đói nhưng, tính sĩ diện thì hết chê. Mặt khác: Quan niệm, cái nhìn về chó của người Việt hoàn toàn khác dân văn minh Tây Âu bởi con chó của dân ta cũng… ‘’khác‘’chú khuyển của họ.
Dù thế nào, đem Nhà văn – đại diện cho một tầng lớp Trí thức hạng cao – VNS – ví với chó thì thật… qúa xá!Thi sĩ Tản Đà – nổi danh trên Văn trường Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 (Tản Đà sinh năm 1888. Nguyễn Vĩ sinh năm 1912) dù là bậc trưởng thượng nhưng không hề phân biệt tuổi tác, thi tài, cụ vẫn coi NV là bạn văn, thường cùng uống rượu. Khi đọc được bài thơ của ‘’hậu bối bất trị’’ – cụ bất bình, hỏi:
Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó, anh không sợ xấu hổ à? Nguyễn Vĩ mơ mơ màng màng – trả lời tiền bối đáng kính: Ví như vậy thì chó xấu hổ chú chúng ta xấu hổ cái nỗi gì?(5).
Ngay trong lúc mê, say… nhà thơ vẫn mơ giấc mơ đầy hoang tưởng:
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng
Tôi làm Trạng Nguyên, anh Tể Tướng
Và anh bên Võ, tôi bên Văn
Múa bút vung gươm há một phen
…(*)
Theo nhà phê bình Nguyễn Tấn Long: Bắt đầu từ đây – 14 câu thơ – ‘’Thực dân Pháp không cho Nguyễn Vỹ nói’’ – bị kiểm duyệt cắt bỏ (chắc Hoài Thanh không được đọc đoạn thơ này):
Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu, mục, nát, thối
Cho người làm ruộng, kẻ làm công
Đều được an vui, hớn hở lòng?
Bao giờ chúng mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho lịch sử!
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ ngồi dậy cười say sưa
Để xem hai chàng trai quắc thước
Quyét sạch quân thù trên đất nước?
Để cho toàn thể dân Việt Nam
Đều được tư do muôn muôn năm
Để cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét lầm than tang tóc
(hết đoạn bị kiểm duyệt)
Không thể ngờ được : Câu thơ NV viết đã hơn 70 năm trước, hôm nay đọc lại, ta cứ cảm thấy như nhà thơ vừa mới viết ,vẫn đang sống, trăn trở cùng chúng ta…
Rồi tiếp dòng mơ say, ông liên hệ với thực tại – so sánh:
Chứ như bây giờ là trò chơi
Làm báo làm bung, chán mớ đời
Anh đi che tàn một lũ ngốc
Triết lí con Từơu, văn chương Cóc (6)
Còn tôi bưng thúng theo đàn bà (7)
Ra chợ bán văn, ngày tháng qua
Đi che Tàn (lọng, ô) nghĩa là đi hầu.
Anh đi che tàn một lũ ngốc (…), là bảo TT xu nịnh, phục vụ bọn quan lại dốt nát.
Còn tôi bưng thúng theo đàn bà… – tự nhận đi phục vụ các bà, các cô – cũng là một loại đi (che tàn) hầu khác, mà lại là đi hầu bà Nguyễn Thị Thảo (chủ báo)!
Anh làm Tể tướng, tôi Trạng Nguyên. Anh bên Võ, Tôi bên văn – Đúng một phần đời hiện thực, trộn với giấc mơ của của tác gỉa lúc căn bệnh Đa nhân cách – trỗi dậy!
- ‘’Con Tườu’’ là con gì?
- Con Tườu là con khỉ.
Người Trung Hoa coi con khỉ, tập trung của cái xấu trước tiên là ngoại hình. Khi ghét người nào đó, họ thường nói câu cửa miệng: Mày hãy soi gương hay đái một bãi lấy nước soi xem cái ‘’tướng Khỉ’’ của mày đi! Nhưng khó chịu nhất: Khỉ không những hay bắt chước – bắt chước rất giỏi, mà còn không có chút ‘’lịch sự’’ tối thiểu như mọi con vật khác: Khi thấy nhiều người xúm vào xem nó vừa làm được một động tác’’bắt chước người’, ngay lập tứ hậu duệ của Lão Tôn – Hoa qủa vương – vạch ngay chỗ kín ra… gãi, nghịch, hoặc tè bậy mà lẽ ra theo cách nghĩ của người: Phải kín đáo, dấu… đậy!
Con Tườu là vậy.
‘’Triết lí con Tườu’’ là thứ triết lí của kẻ hay bắt chước, triết lí đậm ’’Hầu… phẩm’’!
- Còn’’Văn Chương Cóc’’?
- Đó là văn chương giản lược, sao chép – là loại văn chương’’kể sự kiện’’ chứ không phải văn chương
’’Viết Sự Kiện’’ – như ngụ ý diễn giải trong một bài viết của cố GS Hoàng Ngọc Hiến lúc sinh thời đăng trên Báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn, nhiều người đọc và các học trò của ông – tấm tắc tán thưởng.
Ẩn dụ này bắt ngưồn từ bài thơ Con Cóc trong dân gian:
Con cóc trong hang – Con có nhẩy ra
Con có nhẩy ra – Con cóc ngồi đấy
Con cóc ngồi đấy – Con cóc nhẩy đi!
Hoặc vịnh thơ con Chim, con Chó – khi’’nhà thơ’’ nổi hứng đạt đến cảnh giới sáng tạo… cao ! (*) .
Qua phút chóang váng, tác gỉa xẹp đi, trở lại hiện trạng cuộc đời rồi tự an ủi mình, an ủi bạn… nhưng chỉ được ít phút, lại nổi xung… lần này tức giận thật sự bởi nhớ lời tiền nhân: ‘’Lập thân tối hạ thị văn chương’’, tự chửi đổng, chửi mình đã nhiễm nặng tật’’Thắu cáy – ăn cắp’’ học được trong những canh bạc Xì tố. Nhà thơ chắc mẩm đã ‘’chơi nước cờ cao’’ (…) nhưng thực tế, té ra – cuộc thắu cáy trở nên rất thấp, dẫn đến gặp bĩ, thua đâm, thất vọng, ngẩn ngẩn, ngơ ngơ…. tự nhận hành động của mình – Điên!
Cho nên tôi buồn không biết mấy
Đời còn nhố nhăng, ta chịu vậy
Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa
Bực chí thành say, mấy cũng vừa
Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ
Chơi nước cờ cao lại gặp bĩ
Rồi đâm ra điên, đâm ngẩn ngơ
Rút cục chỉ còn mộng với mơ!
(Viết trong lúc say – Báo Phụ nữ 193…(?)
Những vần thơ được tác gỉa sử dụng ngôn từ ‘’qúa thật’’ khiến nhà phê bình Hoài Thanh bức xúc đến bất mãn với NV. Có thể ông không được đọc 14 câu thơ kiểm duyệt Pháp cắt bỏ kia nên viết trong TNVN:
‘’Nguyễn Vĩ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ ra xem nhưng lại tưng hửng trở vào…’’.
Bất bình vì Nguyễn Vỹ làm ông ‘’…inh cả tai’’ (nhức óc). Hoài Thanh đã nhìn ông bằng con mắt không mấy thiện cảm. Có thể ông tự ái khi NV ví – ‘’Nhà văn An Nam… như chó’’ nên trút giận rồi viết ra những dòng văn này? Trên đời, con người không thích ai làm họ inh tai, nhất là kẻ kia lại cho họ ‘’cái bạt tai’’ làm họ ù tai, khiến nhức óc. Cái tai do trời ban cho con người, có hình thù đặc biệt: Âm thanh dội vào, được các vành tai tiếp nhận, uốn lượn đưa vào màng nhĩ. Âm thanh càng thẽ thọt, hiệu qủa có lúc – (chứ không phải mọi lúc) – càng cao. Âm thanh làm đinh tai, nhức óc, người nghe không chịu được – có lúc, (chứ không phải mọi lúc) – nổi cắu, thậm chí (phát) Điên. Người đã nổi điên, hành động vô ý thức – sẽ xẩy ra và đối tượng gây họa phải lãnh hậu qủa…
Nhưng, vì nói thẳng, nói thật, Gửi Trương Tửu vẫn có nhiều người thích nghe, thích đọc. Bài thơ được tác giả viết đã trên dưới 70 năm, đến nay vẫn còn nguyên gía trị Thời sự, Nhân văn, Nhân bản mang dấu ấn của thời đại…
xxx
Thi sĩ Nguyễn Vỹ là điển hình cho một lớp văn nghệ sĩ đương thời bất mãn với chế độ vì có tâm huyết, có tài năng nhưng không được thi thố với đời để phục vụ nhân sinh, đất nước. Gửi Trương Tửu đúng là tác phẩm gía trị của giòng văn chương ‘’Hiện Thực Phê Phán’’ – như cách xếp loại truyền thống của giới phê bình văn học Việt Nam hôm nay…Vì ông nói quá “mạnh”, viết quá “thật” nên người đọc mọi thời đại vẫn thích đọc, do vậy Gửi Trương Tửu và Nguyễn Vĩ sẽ sống mãi trong long người đọc Việt Nam !
Berlin 15.10 2007 – 15.10..2013
LXQ
——————-
Ghi chú:
1 – Chuyện vui văn nghệ kể rằng:
Có hai người rất háo danh, thích được người ta xưng tụng là nhà Thơ, thường gặp nhau đối ẩm, thù tạc. Nhân một lần uống rượu, khi đã ngà say, nổi hứng thách đố nhau. Một ông bảo: Ông thường tự nhận là vịnh thơ hay. Để chứng tỏ thực tài, ông có dám thể hiện tài của mình không?
– Sao lại không ? ông ra đề đi!
Ông kia nhìn quanh, thấy trước nhà có tổ chim câu đặt trên 4 chiếc cột, đôi chim đang’’thơm nhau’’ ở miệng tổ – bảo bạn: Vịnh chim câu đi.
Không cần suy nghĩ lâu’’Nhà thơ’’ đọc liền:
Bốn cột chênh vênh đứng giữa trời
Đứa thì bay bổng, đứa bay khơi
Ngày sau nó đẻ ra con chắu
Rán chả, băm viên đánh chén chơi!
Dứt lời cười vang vẻ thoả mãn với’’sang tác’’ của mình.
Ông kia có phần nể bạn …
Đột nhiên tác giả vịnh…chim, bảo: Tôi đã thể hiện xong tài năng, đến lượt ông: Tôi đã vịnh con trên trời, bây giờ ông hãy vịnh con dưói đất xem!
Nhà thơ nhìn quanh thấy con chó nằm chầu hẫu dứơi chân, như đã tìm được ý, gật gù – ông nghe đây:
Chẳng phải voi, chẳng phải trâu
Chính là con chó cắn gâu gâu
Khi ngủ với nhau thì phải đứng
Quanh năm chẳng được chén trà tầu
… rồi cứ thế hai’’nhà Thơ’’ theo giòng văn thơ’’tả thực’’tiếp tục ngâm vịnh cho đến khi cả hai ngã kềnh vì say xỉn.
2– Thơ cũ: Đường luật, lục bát, song thật lục bát – có nhiều quy tắc… Thơ Mới ngược lại, không gò bó như thơ cũ…
(2) – Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân cho rằng: Nguyễn Vĩ sinh năm 1910.
(3) –Theo TNTCVN Toàn Tập – Nguyễn Tấn Long – nxb Văn Học – 1998.
(4) – Câu thơ tiếng Pháp này chỉ diễn giải qúa trình hút thuốc: Một hai ba bốn (đều) hút thuốc , nhưng lại rất đúng ý – nghĩa, vần điệu câu thơ nối, đúng niêm – luật…
(5) – Thi nhân Việt Nam. NXB Văn học 2002.
(6) – Trương Tửu lúc đó viết cho báo Hữu Ích của Lê Văn Trương. Nguyễn Vỹ viết cho báo Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Thảo.
(7) – Thời Nguyễn Vỹ làm bài thơ này, các Mẹ, các Bà, các Cụ Bà, vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng (Nam Định, Thái Bình…) – đi chợ thường đội thúng, khi đến chợ hạ thúng, bưng thúng, bầy hàng trên mẹt đậy – bán cho khách
vnn