|
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
Join Date: Dec 2007
Posts: 2,805
Thanks: 6,547
Thanked 3,913 Times in 1,337 Posts
Mentioned: 21 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 596 Post(s)
Rep Power: 24
|
D. Quá nhiều tiếng lóng và ngôn ngữ đường phố:
1) Báo Tuổi Trẻ ngày 6/9/2016: “ Dự án khu luyện thép Cà Ná: Dư luận ném đá do đố kỵ? Rồi VnPlus ngày 10/9/2016, “Đầu bếp người Mỹ bị ‘ném đá’ v́ dạy cách ăn phở Việt Nam”. Bây giờ tại Việt Nam những danh từ như: “phê b́nh”, “chỉ trích”, “lên án”, “công kích” đă chết và được thay thế bằng “ném đá”. Đúng là loại ngôn ngữ “đường phố”.
2) Báo An Ninh Thủ Đô ngày 6/9/2016: “Bắt quả tang cả trăm dân chơi đất Cảng “bay lắc” điên cuồng.” Tôi không hiểu “bay lắc” ở đây là ǵ? Phải chăng là “quay cuồng theo tiếng nhạc ?“ hay “ say thuốc/say ma túy”? Hai chữ “bay lắc” là loại ngôn ngữ “đưởng phố” của bọn cờ bạc, buôn lậu, mánh mung, đứng bến. Trong báo chí, bài tường thuật cần dùng ngôn ngữ đứng đắn, dễ hiểu chứ không phải lời nói rỡn chơi hoặc tiếng lóng của dân mánh mung, chụp giật.
3) Báo An Ninh Thủ Đô ngày 13/9/2016: “Ổ nhóm “cú đêm” chuyên “nhảy xe” sa lưới pháp luật”. Ăn cắp xe bây giờ được thay bằng ngôn ngữ đường phố “nhảy xe”.
4) VOV (Đài Tiếng Nói Việt Nam) ngày 16/9/2016: “Vài mẹo thú vị sử dụng gậy tự sướng”. Đây chi là việc sử dụng “cây gậy cho máy tự chụp h́nh”, nhưng đă được diễn tả bằng loại văn chương vô cùng thô tục và bát nháo “gậy tự sướng”.
5) “Một số h́nh ảnh “, “một loạt h́nh ảnh” , “một số bài thơ” được thay thế bằng “chùm ảnh”, “chùm thơ”. Chữ “chùm” khiến người ta liên tưởng tới “chùm nhăn”, “chùm nho”, “chùm khế ngọt”, “dính chùm”. Bao nhiêu danh từ vốn đă có sẵn, vừa rơ nghĩa, vừa thanh tao không dùng lại “sáng chế” chữ mới, nhưng sáng chế một cách bát nháo. Ngày xưa để ngạo báng những người hay “nói chữ” người Miền Nam thường nói, “Thằng cha đó hay xổ nho chùm”.
6) “Nói không biết ngượng” được thay bằng, “Mồm không biết ngượng”. Thật thô lỗ quá mức!
E. Tiếng Việt có “đuôi:
Tiếng Việt trong nước bây giờ rất lạ là có thêm cái “đuôi” dĩ nhiên là cái “đuôi” thừa thăi và dị hơm.
Thí dụ:
1)“Trồng cây” trở thành “trồng cây xanh”. “Cây” trở thành “cây xanh”. “Hà Nội trồng thêm một số loại cây” trở thành “Hà Nội trồng cây xanh”. Cây nào chẳng “xanh”, thêm chữ “xanh” là thừa. Ngoài ra có rất nhiều loại cây lá màu nâu, màu vàng…chẳng lẽ “trồng cây xanh” là không trồng những loại cây này sao?
2)“Đóng tàu” trở thành ‘Đóng mới”. “Xây nhà “trở thành “Xây mới mấy căn nhà”. Đóng tàu, xây nhà đương nhiên đóng tàu mới, xây nhà mới. Không ai đóng tàu cũ, xây nhà cũ. Do đó thêm chữ “mới” là thừa.
3)“Khách mời”. Thí dụ: “Chương tŕnh hôm nay có một vị khách mời”. Hoặc BBC Việt Ngữ ngày 8/9/2016: “Khách mời Bàn tṛn Thứ Năm b́nh luận về chuyến đi…” Đương nhiên ḿnh mời người ta, sắp xếp chương tŕnh th́ người ta mới tới, mới xuất hiện. Chứ chẳng lẽ họ tự nhiên đứng ngoài cửa rồi nhảy vào chương tŕnh của ḿnh sao? Thêm chữ “mời” là thừa và rất kém cỏi về Việt Ngữ. Nhưng câu văn sau đây khi dùng chữ “mời” lại rất đúng. Thí dụ: “Hôm nay chúng tôi mời hai vị khách để tham dự chương tŕnh.” Một thí dụ nữa: “Tổng Thống Obama là vị khách danh dự của đại tiệc ngày hôm nay.” Dĩ nhiên muốn Ô. Obama tới th́ phải mời, phải sắp xếp chương tŕnh đâu vào đó chứ Ô. Obama đâu có lang thang ngoài đường để nhảy vào dự đại tiệc này? Do đó không thể viết, “Tổng Thống Obama là vị khách mời danh dự của đại tiệc ngày hôm nay.” Ngoài ra, nếu nói “khách mời” th́ lại có “khách không mời” sao? Chẳng hạn bố ḿnh nói, “Hôm nay nhà ḿnh có khách đến chơi.” th́ vị khách này có thể là bạn từ xa đến chơi hoặc do bố ḿnh mời tới chơi. Khách là khách, đâu cần phải thêm chữ “mời” nữa. Do đó, câu văn đơn giản nói ở trên của BBC Việt ngữ chỉ là, “Khách tham dự bàn tṛn Thứ Năm b́nh luận về chuyến đi…”
4)“Thăm” trở thành “Thăm chính thức”. Hai chữ chính thức có nghĩa là rơ ràng, không c̣n úp mở, không c̣n hồ nghi ǵ nữa.
Thí dụ:
-Đôi trai gái yêu nhau đă lâu nhưng không chịu làm đám cưới, nay chính thức kết hôn.
-Sau nhiều phiên họp của nội các để bàn căi, thủ tướng chính thức quyết định nghỉ Tết 8 ngày.
-“Thủ tướng đă chính thức lên đường công du Hoa Kỳ.” Câu văn này chỉ đúng khi thủ tướng ra phi trường, lên máy bay để đi Hoa Kỳ. Khi thủ tướng đă đặt chân tới Mỹ th́ không cần phải nói “chính thức” nữa v́ chính thức quá rồi. Thật buồn cười khi báo chí trong nước đăng ảnh của Tổng Thống Hollande đang duyệt đội quân danh dự mà lại viết, “Tổng Thống Pháp Hollande chính thức thăm Việt Nam”. Rồi, “Thủ tướng kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Trung Quốc”. Đọc tiêu đề này tôi thắc mắc không biết, ngoài chuyến thăm “chính thức”, ông thủ tướng c̣n có chuyến thăm “không chính thức”, “thăm bán chính thức” nào không? Thật là loại tiếng Việt quái đản! Nguyên do là v́ không được dạy dỗ Việt Văn đàng hoàng ở Tiểu Học và Trung Học.
5)“Cặp đôi” Bây giờ ở trong nước để chỉ hai người trai hay gái đi chung với nhau làm chuyện ǵ đó họ đều dùng danh từ “cặp đôi”. Đây là sự ghép chữ vô cùng cẩu thả và không hiểu nghĩa “cặp” và “đôi” là ǵ.
Cặp là 2. Thí dụ: Một cặp vợ chồng, một cặp bánh chưng, một cặp gà, cặp bài trùng, đóng cặp là hai người đóng chung với nhau trong các vở tuồng.
Đôi là 2: Thí dụ: Đôi bạn, đôi lứa, đôi nơi, đôi ngả, đôi giày, đôi vớ, đôi gian phu dâm phụ, đi đôi là hai người đi chung với nhau. Như vậy “cặp đôi” là bốn người chứ không phải hai người.
6)“Mới sinh được tám tháng” nay có thêm cái đuôi,” Mới sinh tám tháng tuổi ”. Những người viết văn như vậy chắc chắn là không bao giờ nghe nói tiếng Việt dù họ là người Việt Nam. Ngày xưa khi các bà hỏi, “Cháu sinh được mấy tháng? “ hoặc, “Cháu được mấy tháng” tức em bé chưa đầy 1 tuổi. Khi người ta hỏi, “Cháu được mấy tuổi?” tức em nhỏ từ một tuổi trở lên. Câu trả lời sẽ là, “Cháu được 1, 2 hay 3 tuổi.”
Bây giờ dường như trong nước viết tiếng Việt bằng tiếng Anh dịch qua tiếng Việt chứ không phải bằng tiếng mẹ đẻ hay học từ thầy cô Việt Nam ngay từ Mẫu Giáo. Không phải cứ tốt nghiệp đại học là giỏi tiếng Việt. Muốn giỏi tiếng Việt phải “thiên kinh vạn quyển”, phải học suốt đời và hết sức cẩn thận chứ không phải chuyện chơi. Chính v́ thế mà các tờ báo lớn của Hoa Kỳ đều có chủ bút đọc và duyệt lại tất cả các bản tin, dù bản tin này do các phóng viên gạo cội gửi về. Một câu văn ngớ ngẩn, sai văn phạm, tối nghĩa, gây hiểu lầm, xúc phạm, bát nháo sẽ làm uy tín tờ báo tiêu tan. Xin nhớ cho càng giỏi ngoại ngữ như Anh-Pháp, càng uyên thâm Hán học, tiếng Việt càng phong phú. Xưa các học giả như Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hăn…đều uyên thâm Hán Học và tiếng Pháp. Tôi c̣n nhớ, tại Đại Học Luật Khoa Sài G̣n và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, các vị giáo sư, nhiều vị là Thạc Sĩ (trên Tiến Sĩ) và Tiến Sĩ, thông thạo hai ngoại ngữ Anh- Pháp thế mà giảng khóa của các vị đều thuần tiếng Việt, không một câu “ba rọi” chen vào. Khi gặp một danh từ Anh-Pháp mới chưa thông dụng, các vị đều chú thích để mong có một lối dịch thuật khác rơ nghĩa hơn. Giáo dục Miền Nam làm việc như thế đó. Và nó chính là khuôn thước cho sinh viên ra đời sau này. Những kẻ du học Âu Mỹ, ăn bánh ḿ và bơ sữa mấy chục năm, trở về với bằng Tiến Sĩ hay Thạc Sĩ trên tay, lại thương mến và bồi đắp cho tiếng Việt tinh ṛng. C̣n những kẻ vốn liếng tiếng Anh tiếng Pháp “ba rọi” ở trong nước, ngày nào cũng ăn cơm với nước mắm, lại phá nát tiếng Việt. Thật đáng buồn!
G. Tiếng Việt cụt lủn:
Tiếng Việt ngày nay một số bị cắt cụt một cách dị hợm, khiến gây hiểu lầm:
Thí dụ:
1)Đội Tuyển Việt Nam chỉ c̣n “Tuyển Việt Nam”
Nếu vậy: Tuyển phu = Đội tuyển chồng chăng?
Tuyển quân=Đội tuyển quân đội chăng?
Tuyển mộ=Đội tuyển mộ chăng?
Tuyển chọn=Đội tuyển chọn sao?
2)”Chuyên môn” “chuyên ngành” chỉ c̣n “chuyên”. Thí dụ: THPT Chuyên Môn/Chuyên Ngành Lê Quư Đôn nay chi c̣n “THPT Chuyên Lê Quư Đôn”. Đọc cái tên trường như vậy tôi khó chịu quá v́ làm cho tôi hiểu lầm rằng trường Trung Học này chuyên nghiên cứu về Lê Quư Đôn v́ chúng ta thường nói, “Bà đó chuyên nói dối”, “Thằng cha đó chuyên ăn cắp”.
Xin nhớ cho, chữ “chuyên” đứng một ḿnh nó có nhiều nghĩa: di dời, chuyền, chăm chú, chăm chỉ.
Chỉ khi nào nó đứng chung/ghép chung với chữ “môn” nó mới có nghĩa là “chuyên môn”.
3)“Lệ phí “ nay chỉ c̣n “phí”. Chẳng hạn “Thu phí đường cao tốc”, “Tăng phí giữ xe”
Chữ “phí” đứng một ḿnh nó có nhiều nghĩa, chẳng hạn, “Em tiêu phí quá” (Em tiêu hoang, tiêu tiền không đúng cách), “Vứt cái này đi th́ phí quá” (Vứt cái này đi th́ uổng quá). Chỉ khi nào chữ “phí” đứng chung với chữ “ lệ” th́ nó mới có nghĩa là số tiền ḿnh phải trả, chẳng hạn: Lệ phí qua cầu, lệ phi đi vào xa lộ, lệ phí qua phà, lệ phí điền đơn, lệ phí giữ xe…Tại Mỹ này khi ḿnh nạp đơn xin phép một chuyện ǵ đó th́ phải đóng “fee” tức lệ phí. Nếu ḿnh nói tôi phải đóng “phí” th́ người ta sẽ cười ồ lên là tiếng Việt của ḿnh “có vấn đề” v́ không ai hiểu ḿnh nói ǵ.
4)”Giá rẻ như bèo” nay chỉ c̣n “ bèo”, “lương bèo”, “tiển thưởng Tết bèo”, “Lương tiếp viên hàng không khủng hay bèo?” . Đây là ngôn ngữ của bọn mánh mung, đứng bến. Ngôn ngữ đứng đắn phải là: Giá rẻ như bèo, tiền thưởng Tết nghèo nàn, tiền thưởng Tết quá ít, lương thấp, đồng lương chết đói…
H. Vứt bỏ những chữ có cả ngàn năm nay và thay bằng những chữ sai nghĩa hoặc lai Tàu hoăc cường điệu, đao to búa lớn:
Thí dụ:
-Căn nhà trở thành căn hộ.
-Gia đ́nh trở thành hộ dân.
-Quần áo lót, đồ lót trở thành nội y. Nghe hai chữ “nội y” tôi có cảm tưởng đây là ngôn ngữ của các thái giám Trung Hoa. Khi bà hoàng hậu hay quư phi mặc đồ lót, các thái giám không dám dùng hai chữ “đồ lót” v́ b́nh dân quá cho nên phải nói là “nội y” để không phạm thượng và để tỏ ra tôn kính lệnh bà.
-Tiết kiệm, rẻ tiền trở thành kinh tế. Chẳng hạn, “Mua món này kinh tế lắm”, rồi “Giá kinh tế” tức giá rẻ, giá b́nh dân. Nếu nói thế th́ “Bộ Kinh Tế” là ǵ? Phải chăng là bộ chuyên môn mua đồ rẻ để tiết kiệm? Trong nước đă hiểu sai danh từ “economy” nên dịch là “kinh tế”. Theo Tử Điển Anh-Việt Hiện Đại xuất bản ở trong nước th́ “economy”nghĩa là, “sự quản lư kinh tế, sự tiết kiệm”.
-Giảm bớt nhân viên trở thành tinh giản biên chế, thật đao to búa lớn và khó hiểu.
-Bài giảng trở thành giáo án.”Soạn bài giảng” trở thành “soạn giáo án” nghe ghê quá, tưởng chừng như án lệnh của ṭa.
-Hành tŕnh khám phá một vụ án nay trở thành “hành tŕnh phá án”. Xin nhớ cho “phá án” là bác bỏ phán quyết của ṭa dưới và yêu cầu xét xử lại cho nên quốc gia nào cũng có Ṭa Phá Án (Court Of Appeals).
-Xe vận tải hạng nặng trở thành “xe siêu trường, siêu trọng”, “xe container”.
-Nước dâng cao trở thành “triều cường” nghe giống như đối thoại trong phim bộ Hồng Kông.
-Một con, một cái trở thành “một cá thể”. Thí dụ: “Một cá thể hổ”.
-Có một cái ǵ đó nay gọi là “sở hữu”.Thí dụ: “Hoa hậu ABC sở hữu một sắc đẹp khó cưỡng”, “Cô ta sở hữu một đôi môi đẹp”,”để sở hữu eo thon” , “Việt Nam đang sở hữu một loại quả…” (Việt Nam có một loại trái cây…) Theo tôi nghĩ, danh từ “trái cây” rơ nghĩa hơn là “quả” v́ “quả” có thể là quả bóng, quả cầu, quả tạ. Quả phải đi với với bổ tức từ th́ mới rơ nghia. Thí dụ: Quả chanh, quả táo, quả bưởi. C̣n “trái cây” th́ tổng quát và rơ nghĩa, không cần bàn căi ǵ nữa.
-“Doanh nhân” trở thành ” Doanh nghiệp”. Bây giờ tất cả các hăng xưởng, công ty, tổ hợp tài chính, thương mại, tổ hợp thép, tổ hợp đóng tàu, đại công ty… đểu gom chung vào danh từ “doanh nghiệp” như thế là hoàn toàn sai. Chúng ta hăy xem:
-Nông nghiệp là nghề trồng trọt.
-Ngư nghiệp là nghề đánh cá.
-Lâm nghiệp là nghề khai thác rừng/đốn gỗ.
-Doanh nghiệp là nghề kinh doanh, buôn bán.
Xin nhớ cho “nghề” và “người hành nghề” khác nhau. Chẳng hạn nghề đánh cá là “ngư nghiệp” nhưng người đánh cá là “ngư dân” hay “ngư phủ”. Như vậy người làm ăn, buôn bán, kinh doanh là “doanh nhân/doanh gia/ thương gia” chứ không phải doanh nghiệp.
-“Nhân đạo”trở thành “nhân văn”. Khi đọc tiêu đề của một bản tin trong nước, “Giáo Hoàng khuyên Hoa Kỳ đối xử nhân văn với dân tỵ nạn”. Rồi tất cả những sự “đối xử nhân đạo” trong nước đều đổi thành “đối xử nhân văn” tôi rất ngạc nhiên và không tin vào trí nhớ và hiểu biết của ḿnh nữa. Tôi vội tra các từ điển để t́m hiểu nghĩa của hai từ “nhân văn” và “nhân đạo”.
Nhân văn: Theo Tử Điển Tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Văn Hóa-Thông Tin trong nước sau 1975 th́ “nhân văn” có nghĩa là “văn minh loài người”.
Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh th́ “nhân văn” có nghĩa là,”văn hóa của loài người”. Nhân văn chủ nghĩa lấy con người làm đối tượng chứ không phải thần linh và chủ trương nghiên cứu tư tưởng và nghệ thuật cổ Hy Lạp.
Nhân đạo: Theo Tử Điển Tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Văn Hóa-Thông Tin trong nước sau 1975 th́ “nhân đạo” có nghĩa là, “đạo người, lấy ḷng thương của người này đối (xử) với người kia”.
Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức xuất bản ở Miền Nam trước 1975 th́ “nhân đạo” có nghĩa là “biết thương kẻ nghèo khó, chịu chia sớt đau đớn với kẻ khốn cùng”.
Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh th́ “nhân đạo” có nghĩa là, “Cái đạo lư phải tôn trọng quyền loài người như không được xâm phạm đến sinh mệnh…”.
Như vậy “nhân văn” chỉ là những nét, những đặc điểm của con người. Do đó, Khoa Học Nhân Văn khoa nghiên cứu về con người. Nhân văn không phải là một con đường, một đức tính nên theo. C̣n nhân đạo là con đường, là đức tính phải theo. Hành vi cứu trợ nạn nhân các cuộc động đất, cứu trợ di dân chết trên biển, cứu trợ nạn đói… đều gọi là “cứu trợ nhân đạo” và chưa thấy ai nói “cứu trợ nhân văn”. Ngoài ra khi đối xử tử tế với nhau người ta c̣n nói, “đối xử có t́nh người”. Người trong nước đă không phân biệt được thế nào là nhân đạo, thế nào là nhân văn cho nên đă dùng bừa băi, di họa cho các thế hệ mai sau.
“Đổi giống” trở thành “chuyển giới ”. Tôi đă cố t́m hiểu các từ điển tiếng Việt xuất bản trước và sau 1975 nhưng không thấy từ điển nào mà chữ “giới” có nghĩa là giống đực hay giống cái. Theo các từ điển này, chữ “giới” có nghĩa là giới hạn, hạn, biên giới, cương vực, sự ngăn cấm (giới luật). C̣n “giống” mới có nghĩa là giống đực hay giống cái. Trong Từ Điển Anh-Việt Hiện Đại xuất bản ở trong nước sau 1975, chữ “gender” có nghĩa là: Giống đực hay giống cái. Vậy th́ giải phẫu để biến đàn ông thành đàn bà và ngược lại là “đổi giống” chứ không phải “chuyển giới”. Ngoài ra cũng không được nói “giới tính” mà phải nói “phái tính” v́ trước đây chúng ta thướng nói “ phái nam, phái nữ”.
“Công du”trở thành “thăm cấp nhà nước”. Trong nước tiếng Anh kém cho nên đă dịch danh từ “state visit” thành “thăm cấp nhà nước”. Mà “state visit” có nghĩa là “công du’ tức thăm viếng một quốc gia khác v́ việc công, việc của đất nước. Nếu nói “Chủ tịch A thăm cấp nhà nước” th́ ông bộ trưởng phải “thăm cấp bộ” rồi ông chủ tịch UBND “thăm cấp tỉnh” c̣n ông chủ tịch UBND huyện sẽ “thăm cấp huyện” sao? Thật tức cười quá! Xin nhớ cho hai chữ “công du” chỉ dành cho các vị nguyên thủ quốc gia. Một ông bộ trưởng thăm một quốc gia khác không thể dùng hai chữ “công du”.
tieng-viet-3
I. Những từ ngữ làm người ta sợ:
Tôi không hiểu những người trong nước nghĩ ǵ về những từ ngữ mà họ “sáng chế” ra khi đọc lên khiến người ta sợ. Thí dụ:
1) “Giải phóng mặt bằng” khiến người ta liên tưởng tới “Giải phóng nô lệ”, “Giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân”, “Giải phóng Miền Nam”. Tại sao không dùng danh từ “giải tỏa” như Miền Nam trước đây đă dùng. Thí dụ: “Giải tỏa một khu ổ chuột”, “Giải tỏa một khu chợ quá cũ để xây chợ mới”, “Giải tỏa một nghĩa trang để xây thư viện, công viên”.
2)“Xử lư ”. Miền Nam khi ông chánh đi vắng, ông phó tạm thời thay tế người ta gọi là “Xử lư thường vụ”. Ngoài ra th́ không bao giờ dùng danh từ “xử lư”. “Xử lư” theo nghĩa Miền Bắc dùng là : Giết, trừng trị, thanh toán, bỏ tù, thi hành kỷ luật v.v..Thí dụ: “Kẻ phản động đă bị xử lư thích đáng” Thế mà “xử lư” lại được dùng lan tràn trong các lănh vực khác như: “Nhà máy xử lư chất thải”. Tại sao không dùng, “Nhà máy lọc chất thải” để tránh hai chữ “xử lư” nghe ghê quá! Rồi đá bóng cũng “Xử lư bóng kỹ thuật lừa qua hậu vệ đối phương” (Vnplus). Tại sao không viết ngắn gọn “Khéo léo lừa bóng qua hậu vệ đối phương”? Thêm cái đuôi “xử lư” vào để làm làm ǵ? Rồi “Cầu thủ A xử lư bóng không tốt”. Cầu thủ A để mất bóng hay đưa bóng vào chân đối phương hoặc lúng túng hoặc quá chậm, hoặc đi bóng không khéo hoặc tài nghệ kém…th́ nói đại ra. Dùng danh từ “xử lư” chỉ để che dấu kiến thức nghèo nàn về môn bóng tṛn. Thế mà cũng đ̣i tường thuật các trận đá bóng. Xem một buổi tường thuật một trận bóng tṛn trong nước mà phải nghe hai tiếng “xử lư” cả ngàn lần, khiến nhức đầu, thừa thăi và vô duyên.
3) “Chốt ”. Hiện nay khi quyết định dứt khoát một việc ǵ báo chí trong nước dùng chữ “chốt”. Chảng hạn: “Thủ tướng đă chốt Tết Nguyên Đán nghỉ 8 ngày”. Rồi nào là, “Chốt phương án”. Chữ “chốt” đă gây kinh hoàng cho Miền Nam trong cuộc chiến tranh. Theo lời kể của một số sĩ quan chỉ huy chiến trường, “chốt” thường gồm 3 bộ đội tử thủ từ trong hầm/hào cho đến chết và không được tháo lui. Bom bỏ hay đạn pháo không ăn thua ǵ. Nhiều khi phải dùng cả một tiểu đội ḅ lên, quăng lựu đạn vào hầm mới có thể thanh toán cái “chốt” này. Chiến tranh đă qua đi 41 năm, sao c̣n dùng những danh từ gợi lại h́nh ảnh ghê rợn của chiến tranh?
4) “Cưỡng chế”. Trước đây tại Miền Nam, để giải tỏa một khu buôn bán, họp chợ bất hợp pháp, hoặc trục xuất một người chiếm ngụ gia cư bất hợp pháp…cơ quan công lực đều xin án lệnh của ṭa. Cơ quan công lực có tới gỡ bỏ, đập bỏ hoặc trục xuất ai th́ chỉ là “thi hành lệnh/án lệnh giải tỏa”. Nay trong nước dùng danh từ “cưỡng chế” khiến người ta sợ v́ liên tưởng tới bạo lực như trói người ta lại, c̣ng tay, đánh đập rồi tước đoạt nhà đất của người ta.
5) “Thi đấu”. Ngày nay tất cả các môn thể thao dù là bóng bàn, bóng tṛn, thể dục dụng cụ, bơi lội, đua thuyền, điền kinh v.v…đều được diễn tả bằng danh từ “thi đấu”. Theo tôi nghĩ, chữ “đấu” chỉ nên dùng cho các môn như: đấu vơ, đấu vật, đấu kiếm. C̣n các môn thể thao nhẹ nhàng khác nên dùng các danh từ như “tranh tài”, “thi tài” hay “đua tài” “trổ tài”. Thay v́ nói, “Các lực sĩ đang thi đấu ở môn điền kinh” chúng ta có thể nói, “Các lực sĩ đang tranh tài ở các môn điền kinh”. “Các cầu thủ đang đua tài trên sân cỏ”, “Các lực sĩ đang đua tài ở môn ném tạ”. “Các lực sĩ bắn cung đang trổ tài trên trường bắn”. Ngôn ngữ nên phong phú chứ không phải chỉ chết cứng ở từ ngữ “thi đấu”.
6)Thi công: Công nhân đang làm việc trong nhà máy bây giờ được gọi là, “Công nhân đang thi công.” Tại sao công nhân lại phải thi đua với nhau? Trên thế giới này, khắp năm châu bốn biển, chẳng có chỗ nào công nhân này phải thi đua với công nhân kia. Ai có phận sự của người nấy. Một công việc phải mất bao nhiêu giờ, cần bao nhiêu nhân công, kỹ sư… chủ nhân đều biết. Cứ tuần tự mà làm. Bạn là công nhân ở Mỹ mà thi đua để làm việc th́ đúng là mắc bệnh tâm thần. Nếu công việc phải 8 giờ mới hoàn tất, nay v́ muốn “kiểm điểm” cố sống cố chết hoàn tất trong 6 tiếng th́ lần sau ông chủ sẽ giao thêm việc cho bạn…tức ḿnh tự giết ḿnh mà cũng chẳng được khen ngợi hay tăng lương. Ở Mỹ chuyện ǵ cũng rơ ràng. Công việc phải hoàn tất trong 8 tiếng mà 10 tiếng ḿnh mới làm xong, người ta đuổi ḿnh v́ ḿnh không có khả năng làm việc. Công việc 8 tiếng mới hoàn thất mà 6 tiếng ḿnh đă làm xong, người ta sẽ đưa thêm việc cho ḿnh làm. Ở Mỹ không có chuyện ngồi chơi lănh lương và cũng không có chuyện phải thi đua. Nếu công việc quá nhiều mà phải làm thêm giờ (over time) th́ phải trả lương gấp rưỡi hay gấp đôi. Công nhân làm đúng bổn phận là đáng khen lắm rồi. Nhiều khi thi đua chỉ là gian dối rồi báo cáo láo. Thi đua nhiều quá công nhân kiệt sức, lao phổi chết oan mạng!
7) Phiên bản: Trong nước không hiểu nghĩa “phiên bản” là ǵ. Nếu bạn mở cuồn Từ Điển Anh-Hoa (English-Chinese Dictionary) th́ “copy” người Tàu dịch là “phiên bản”. Vậy th́ “phiên bản” là bản sao chép, bản chụp, sao y bản chính…thế mà “phiên bản “ được dùng ở khắp mọi nơi, chẳng hạn như “báo Nhân Dân phiên bản tiếng Việt”, thật ra nó chỉ là, “Báo Nhân Dân, bản tiếng Việt” (v́ báo Nhân Dân có thể có bản tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Nhật). Nếu nó là “phiên bản” th́ nó phải sao chép lại, hoặc chụp lại từ bản chính. Đúng là điếc không sợ súng, không hiểu nghĩa mà cứ viết bừa. Thật đáng sợ! Trên đời này người ta không sợ bậc trí thức mà sợ kẻ ngu dốt, V́ ngu dốt sẽ phá nát mọi thứ. H́nh như Lennin nói rằng “Ngu dốt cộng với nhiệt t́nh là phá hoại”.
Kết Luận:
Tôi xin dùng phần cuối của bài “ Thế Nào Là Tiếng Việt Trong Sáng” phổ biến ngày 24/1/2013 để tạm kết luận cho bài này:
“Ngôn ngữ và văn chương là tài sản vô giá do tiền nhân để lại, chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy cho mỗi ngày thêm sáng đẹp. Do giao tiếp với nhiều nguồn văn hóa ngoại lai, những chữ nào có thể dịch sang Việt Ngữ th́ phải cố mà dịch cho được để giữ ǵn ngôn ngữ và văn chương Việt cho thuần khiết. Chen tiếng ngoại quốc vào tiếng Việt một cách bừa băi khiến tiếng Việt trở nên lai căng, hổ lốn. Muốn thế th́ phải học hỏi và nhất là phải cẩn thận và viết với tinh thần trách nhiệm.Trách nhiệm có nghĩa là hiểu được hậu quả của những ǵ ḿnh viết ra. Nếu không giỏi th́ cứ học theo người xưa mà viết, cố “sáng chế” tức viết bậy, viết nhảm. Chúng ta không nên đùa rỡn, nói mạnh hơn là phá hoại ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc. Học tiếng nước ngoài là để giao dịch, làm ăn buôn bán và nghiên cứu những kiến thức mà sách Việt không có. Học tiếng nước ngoài không có nghĩa là để hủy hoại tiếng mẹ đẻ hoặc thỉnh thoảng “xổ” ra vài tiếng để chứng tỏ ḿnh văn minh hơn đời hoặc có vẻ ta là “Mỹ” đây. Người Mỹ có bắt chước ai đâu? Họ đứng trên đôi chân của họ. Tại sao ta phải tự ti mặc cảm về ngôn ngữ của dân tộc ḿnh? Chuyện “nói tiếng Tây ba rọi” đă xưa lắm rồi và bị mỉa mai suốt thời kỳ Thực Dân Pháp c̣n đô hộ nước ta. Sau hết, cũng xin nhớ cho muốn giữ ǵn tiếng Việt trong sáng th́ tâm hồn ḿnh cũng phải trong sáng trước đă. Tâm hồn trong sáng là tâm hồn của một người yêu nước Việt và tiếng Việt. Khi ḿnh nói ḿnh yêu cha mẹ tức là phải làm sao cho cha mẹ sung sướng. C̣n khi ḿnh nói ḿnh yêu tiếng Việt có nghĩa là ḿnh phải làm sao cho tiếng Việt mỗi ngày mỗi trở nên sáng đẹp, thanh tao. “
Đào Văn B́nh
(California ngày 7/102016)
|