View Single Post
Old 04-30-2019   #3
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,167 Times in 13,136 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Nước Việt Nam.



1. Quốc Hiệu.

Nước Việt Nam ta về đời Hồng Bàng (2897 – 258 trước Tây lịch) gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương Vương (257 – 207 trước Tây lịch) th́ gọi là Âu Lạc. Đến nhà Tần (246 – 206 trước Tây lịch) lược định phía nam th́ đặt làm Tượng Quận, sau nhà Hán (202 trước Tây lịch – 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia đất Tượng Quận ra làm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đến cuối đời nhà Đông Hán, vua Hiến Đế đổi Giao Chỉ làm Giao Châu. Nhà Đường lại đặt là An Nam Đô Hộ Phủ.

Từ khi nhà Đinh (968 – 980) dẹp xong loạn Thập Nhị Sứ Quân, lập nên một nước tự chủ, đổi quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Vua Lư Thánh Tông đổi là Đại Việt, đến đời vua Anh Tông, nhà Tống bên Tàu mới công nhận là An Nam Quốc.

Đến đời vua Gia Long, thống nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An Nam, Việt là Việt Thường, mới đặt quốc hiệu là Việt Nam. Vua Minh Mệnh lại cải làm Đại Nam.

Quốc hiệu nước ta thay đổi đă nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai chữ An Nam, nhưng v́ hai chữ ấy có ngụ ư phải thần phục nước Tàu, vậy th́ ta nên nhất định lấy tên Việt Nam mà gọi nước nhà.

2. Vị Trí và Diện Tích.

Nước Việt Nam ở về phía đông nam châu Á-tế-á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, h́nh cong như chữ S, trên phía bắc và dưới phía nam ph́nh rộng ra, khúc giữa miền trung th́ eo hẹp lại.

Đông và nam giáp bể Trung Quốc (tức là bể Nam Hải); Tây giáp Ai Lao và Cao Miên; Bắc giáp nước Tàu, liền với tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam.

Diện tích cả nước rộng chừng độ 312.000 ki-lô-mét vuông chia ra như sau này:

Bắc Việt: 105.000 km2

Trung Việt: 150.000 km2

Nam Việt: 57.000 km2

3. Địa Thế.

Nước ta hiện chia ra làm ba cơi: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Đất Bắc Việt có sông Hồng Hà (tức là sông Nhị Hà) và sông Thái B́nh. Mạn trên gọi là Thượng Du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung Châu, đất đồng bằng, người ở chen chúc đông lắm.

Đất Trung Việt th́ chỉ có một giải ở men bờ bể, c̣n ở trong có núi Trường Sơn chạy dọc từ Bắc Việt vào gần đến Nam Việt, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà thôi.

Đất Nam Việt th́ ở vào khúc dưới sông Mê Kông (tức là sông Cửu Long), lại có sông Đồng Nai chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân gian trù phú và dễ làm ăn hơn cả

4. Chủng Loại.

Người Việt Nam có nhiều dân tộc ở, như là ở về miền thương du Bắc Việt th́ có dân Thái, (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung Việt th́ có dân Mọi, và Chàm (tức là Hời), ở về miền Nam Việt th́ có dân Mọi, Chàm, Chà Và và Khách, v.v…. Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả đến non một triệu người. C̣n th́ dân tộc Việt Nam ở hết cả.

Số người Việt Nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:

Bắc Việt: 8.700.000 người

Trung Việt: 5.650.000 người

Nam Việt: 4.616.000 người

Cả thảy cộng lại được độ chừng non 19 triệu người1.

5. Gốc tích.

Theo ư kiến của nhà kê cứu của nước Pháp, th́ người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; c̣n người Thái th́ theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái Lan) và các nước Lào.

Lại có rất nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán Tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp trong rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.

Những ư kiến ấy là theo lư mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái ǵ làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, th́ tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu.

Dẫu người ḿnh thuộc về chủng loại nào mặc ḷng, về sau người Tàu sang cai trị hàng hơn một ngh́n năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi vạn binh, chắc là nói giống cũ của ḿnh cũng đă lai đi nhiều rồi, mới thành ra người Việt Nam ngày nay.

6. Người Việt Nam.

Người Việt Nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm lụng dầm mưa dăi nắng lắm, th́ nước da ngăm ngăm đen, người nào nhàn hạ phong lưu, ở trong nhà luôn, th́ nước da trăng trắng như màu ngà cũ.

Trạc người th́ thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn lẳn con người, chứ không to béo. Mặt th́ xương xương, trông hơi bèn bẹt, trán th́ cao và rộng, mắt th́ đen và hơi xếch về đàng đuôi, hai g̣ má th́ cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng th́ to mà lại nhuộm đen. Râu th́ thưa mà ít, tóc th́ nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng điệu đi đứng th́ nhẹ nhàng và xem ra bộ vững vàng chắc chắn.

Áo quần th́ dài rộng, đàn ông th́ búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu gối, tay áo th́ chật, ống quần th́ rộng. Đàn bà ở Bắc Việt và phía bắc Trung Việt th́ đội khăn, mà ở chỗ thành thị th́ mặc quần, c̣n ở nhà quê th́ hay mặc váy. Ở phía nam Trung Việt và Nam Việt th́ đàn bà hay mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.

Về đàng trí tuệ và tính t́nh, th́ người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái th́ trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quư sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính t́nh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường th́ nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự ḥa b́nh, nhưng mà đă đi trận mạc th́ cũng có can đảm, biết giữ kỹ luật.

Tâm địa th́ nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tin tông giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có ḷng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

Đàn bà th́ hay làm lụng và đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết ḷng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quư là: tiết, nghĩa, cần, kiệm.

Người Việt Nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ tiếng2, cùng giữ một kỹ niệm, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ đầu nước đến cuối nước.

7. Sự Mở Mang Bờ Cơi.

Người ṇi giống Việt Nam ta mỗi ngày một nẩy nở ra nhiều, mà ở phía bắc th́ đă có nước Tàu cường thịnh, phía tây th́ lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm Ấp, dứt Chiêm Thành, chiếm đất Chân Lạp, mở ra bờ cơi bây giờ.

8. Lịch Sử Việt Nam.

Từ khi người Việt Nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy ngh́n năm, phải người Tàu cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc biệt của giống ḿnh, ấy là đủ tỏ ra rằng khí lực của người ḿnh không đến nỗi kém hèn cho lắm. Tuy rằng ḿnh chưa làm được việc ǵ cho vẽ vang bằng người, nhưng ḿnh c̣n có thể hy vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường thịnh.

Vậy ghi chép những cơ hội gian truân, những sự biến cố của nước ḿnh đă trải qua, và kể những công việc của người ḿnh làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người trong nước đều biết, ấy là sách Việt Nam sử.

Nay ta nên theo từng thời đại mà chia sách Việt Nam sử ra 5 phần để cho tiện sự kê cứu.

Phần I: Thượng Cổ thời đại.

Phần II: Bắc Thuộc thời đại.

Phần III: Tự Chủ thời đại.

Phần IV: Nam Bắc Phân Tranh thời đại.

Phần V: Cận Kim thời đại.


Ghi chú :

1 -Số này là theo sách Địa Lư của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc đă đúng số nhất định của người ḿnh. ↩

2 - Tuy rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau, nhưng đại để th́ vẫn là một thứ tiếng mà thôi. ↩
florida80_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to florida80 For This Useful Post:
luyenchuong3000 (05-01-2019), Vietnamese (05-02-2019)
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.07949 seconds with 10 queries