Thread: Your's Health
View Single Post
Old 05-12-2019   #761
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default





THÔNG TIN Y HỌC VỀ RƯỢU

Lynn Ly tổng hợp thông tin về Rượu
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 13 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 2/2/2007 )

1/ DỊCH ÉP CỦA QUẢ BƯỞI CŨNG HIỆU QUẢ NHƯ RƯỢU VANG

Các nhà khoa học của Đaị Học Louis Pasteur (Strasbourg) đă thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm về các huyết quản được lấy từ heo. Họ đă đo lường sự sản xuất NO của huyết quản dưới sự hiện diện của nước ép quả bưởi. Các tác giả phát xuất từ nguyên tắc cho rằng một sự gia tăng sản xuất NO trong nội mạc huyết quản sẽ có tác dụng bảo vệ của một sự tiêu thụ có mức độ rượu vang để chống bệnh động mạch vành. Các nhà nghiên cứu đă nhận xét rằng các polyphénols hiện diện trong nước ép quả bưởi kích thích các tế bào nội mạc sản xuất NO, nhờ thế có tác dụng bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch, ǵn giữ sự lành mạnh của các huyết quản và cho phép duy tŕ một huyết áp b́nh thường.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/2/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 17 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 9/3/2007 )

6/ HÚT THUỐC LÀM LIỆT DƯƠNG, UỐNG RƯỢU LÀM CƯỜNG DƯƠNG.

Vào lúc mà ở nhiều nước việc cấm hút thuốc ở những nơi công cộng càng ngày càng được áp dụng th́ việc nhắc lại rằng hút thuốc rất có hại cho chức năng cương là điều đáng lưu ư.Sau đây là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu Úc Đại Lợi,đất nước có tỷ lệ hút thuốc la đặc biệt cao.Bên cạnh việc xác nhận tác dụng có hai của thuốc lá lên sự cương ,c̣n có một điều ngạc nhiên rất thú vị,đó là uống một ly rượu nhỏ sẽ bảo vệ tinh cường dương.

Cần nhắc lại rằng công tŕnh nghiên cứu Massachusetts male aging study được tiến hành trên nhóm đàn ông từ 40-70 tuổi sống ở Boston đă chứng tỏ một sự liên kết giữa nghiện thuốc lá và nguy cơ tăng gấp đôi bị rối loạn chức năng cương.

Một công tŕnh khác, lần này được tiến hành ở Việt Nam trên 4.462 cựu chiến binh tuổi từ 31 đến 49 tuổi đă phát hiện rằng những người hút thuốc bị chứng bất lực 1,5 lần nhiều hơn là những người không hút.

Úc Đại Lợi là một hiện trường rất tốt để nghiên cứu tác dụng có hại của thuốc lá v́ tỷ lệ hút thuốc lá ở đây đặc biệt cao. Mức trung b́nh đàn ông hút thuốc là 19% (so với 16% trong những vùng tương đương khác). Ở các thanh niên (trong lứa 20-29 tuổi) tỷ lệ đạt đến 24%. Để thực hiện công tŕnh nghiên cứu này, tất cả 19.307 người ở lứa tuổi trưởng thành từ 16 đến 59 tuổi đă được yêu cầu trả lời một bảng câu hỏi được thực hiện qua đường điện thoại. Hơn ¼ những người trả lời (27,2%) là những người nghiện thuốc trong số đó 20,9% hút dưới 20 điếu mỗi ngày và 6,3% hơn 20 điếu mỗi ngày. Hầu như cứ mỗi mười người đàn ông th́ có một người báo cáo bị rối loạn chức năng tính cương (9,1%). So sánh với những người không hút thuốc, nguy cơ bị rối loạn chức năng tính cương là 1,24 đối với những người hút dưới 20 điếu mỗi ngày và 1,39 đối với những người hút nhiều hơn. Công tŕnh nghiên cứu cũng đưa ra những yếu tố khác liên kết một cách đáng kể và độc lập với rối loạn chức năng tính cương: tuổi tác cao hơn, tŕnh độ học vấn thấp, dùng thuốc tác dụng lên tim.

Ngược lại, cũng trong cùng công tŕnh nghiên cứu này, có vẻ như việc uống rượu vang có mức độ liên kết với giảm nguy cơ bị rối loạn tính cương. Thế là sau cùng bí mật về ’french lovers’ đă được phát hiện! Cảm ơn các bạn Úc Đai Lợi

Ngược lại, cũng trong cùng công tŕnh nghiên cứu này, có vẻ như việc uống rượu vang có mức độ liên kết với giảm nguy cơ bị rối loạn cương. Thế là sau cùng bí mật về « french lovers » đă được phát hiện ! Cảm ơn các bạn Úc Dai Lợi.
(LE GENERALISTE 8/3/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 26 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/5/2007 )

5/ RƯỢU CHỐNG HỢP CHỨNG RANAUD.

Đặc điểm của hợp chứng Raynaud là những cơn đau ở các ngón tay do các huyết quản bị co thắt. Trong khi xét đến nhiều yếu tố có liên hệ trong bệnh này, nhất là thuốc lá, người ta nhận thấy rằng uống rượu có mức độ làm giảm 30% nguy cơ gây các cơn đau nơi phụ nữ và 60% nơi đàn ông. Những kết quả này được rút ra từ các dữ kiện thu thập được trong công tŕnh điều tra nổi tiếng Framingham được thực hiện trên 3500 người.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 29 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 04/06/2007 )

5/ VÚ PHỤ NỮ KHÔNG THÍCH RƯỢU

Đó là điều đă được chứng minh! Nguy cơ bị ung thư vú gia tăng 50 % khi các bà uống 50g alcool mỗi ngày, hoặc tương đương với 5 ly rượu vang hoặc 5 lon bia 25 cl. Đó là những kết luận của Trung Tâm Quốc Tế Nghiên Cứu về Ung Thư (CIRC= Centre international de recherche sur le cancer). Trung tâm này đă tổng hợp 50 công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học. Ngoài ra, ngay cả việc uống với lượng nhỏ hơn và đều đặn 18g alcool mỗi ngày (dưới 2 ly rượu vang) cũng làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú 7%.
(SCIENCE ET VIE 6/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 42 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/9/2007 )
4/ RƯỢU VANG ĐỎ CHỐNG UNG THU TIỀN LIỆT TUYỂN?

Resvératrol, một polyphénol thiên nhiên, có những tính chất chống oxy hóa (anti-oxydant) và một hoạt tính chống ung thư. Chất này đặc biệt được t́m thấy trong nho đỏ, quả dâu tằm (mures) và đậu phụng. Một nhóm nghiên cứu của đại học Alabama (Hoa kỳ) đă muốn biết xem phân tử này có thể có một tác dụng hoá học bảo vệ (effet chimioprotecteur) chống ung thư tuyến tiền liệt qua sự điều ḥa các thụ thể sinh dục đối với stéroides và các đuờng tín hiệu thần kinh của các yếu tố tăng trưởng (facteurs de croissance).

Trong công tŕnh nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă cho resvératrol (625 mg/kg) các chú chuột được biến đổi di truyền để mắc bệnh u xơ tiền liệt tuyết (adénome prostatique) và họ đă so sánh các chú chuột này với một nhóm kiểm chứng. Các chú chuột bị biến đổi về mặt di truyền và của nhóm kiểm chứng được thăm khám sau đó vào lứa tuổi 12 và 28 tuần. Các kết quả chứng tỏ rằng tỷ lệ mắc phải adénocarcinome có độ phân hóa thấp giảm 7,7 lần. Nguy cơ của dạng thương tổn ung thư nghiêm trọng nhất giảm 87%. Hiệu quả bảo vệ chống ung thư cực đại nhất có được sau khi cho bổ sung resvératrol trong 7 tháng. Sau cùng ở những chú chuột phát bệnh adénocarcinome, điều trị cho phép giảm hoặc làm ngưng sự tăng trưởng của khối u trong 48 % trường hợp.

Đối với các tác giả, Curt Harper và các cộng sự viên, sự giảm tăng sinh tế bào và nồng độ của yếu tố tăng trưởng, IGF-1, sự kém điều ḥa của các cơ quan tác động (effecteurs) phospho-ERKs1 và 2 và sự gia tăng của nồng độ chất hủy (suppresseur) khối u, ER-beta, là nguồn gốc của tác dụng cản của resvératrol lên trên sự phát triển của ung thư tiền liệt tuyến.

Cũng nhóm nghiên cứu này đă công bố các công tŕnh được thực hiện trên chuột, chứng tỏ tác dụng của polyphénol này lên ung thư của vú. Tuy nhiên c̣n cần đến những nghiên cứu khác để xác định vai tṛ của polyphénol này trên người và với liều lượng được sử dụng là bao nhiêu. Vài tác giả đặc biệt giải thích rằng tác dụng được xác nhận ở chuột tương ứng với nồng độ tương đương với việc tiêu thụ một chai rượu vang đỏ mỗi ngày! Thế mà, liều lượng được khuyên lại là 2 ly rượu vang đỏ mỗi ngày cho một người đàn ông và một ly cho một người đàn bà.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 11/9/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 46 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/10/2007 )
3/ RƯỢU LÀM DỄ UNG THƯ VÚ

Một công tŕnh nghiên cứu vừa được tŕnh bày mới đây ở Barcelone đă chứng tỏ rằng, so sánh với những phụ nữ uống dưới một ly đồ uống có chất rượu (boisson alcoolisée) mỗi ngày, th́ các bà uống một đến hai ly mỗi ngày có nguy cơ bị ung thư vú gia tăng 10%. Nếu uống trên 3 ly mỗi ngày th́ nguy cơ gia tăng 30%, bất kể đó là loại rượu nào.

Dù loại ruợu uống thuộc loại nào đi nữa (rượu vang, bia hay rượu mùi), chính lượng tuyệt đối rượu được tiêu thụ xác định nguy cơ bị ung thư vú. Uống 3 lần hoặc hơn đồ uống có chất rượu mỗi ngày tương ứng với một nguy cơ gây nên do tiêu thụ một gói thuốc lá mỗi ngày.

Những nghiên cứu dịch tễ học đă phát hiện vai tṛ của rượu trong sự phát sinh ung thư vú. Tuy nhiên măi đến ngày nay, chúng ta chỉ có ít dữ kiện về tác dụng của bản chất của đồ uống được tiêu thụ.

Công tŕnh nghiên cứu đă chứng tỏ rằng bản chất của đồ uống có chất rượu không làm thay đổi nguy cơ phát triển ung thư vú.Trái lại các phụ nữ uống một hoặc hai ly rượu mỗi ngày sẽ làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú lên 10% so sánh với các phụ nữ uống dưới một ly mỗi ngày. Nguy cơ sẽ gia tăng 30% nơi những phụ nữ uống 3 ly rượu mỗi ngày.Việc gia tăng nguy cơ bị ung thư vú này có thể được so sánh với sự gia tăng nguy cơ gây nên bởi tiêu thụ một gói thuốc lá mỗi ngày hoặc hơn.Từ đó các tác giả kết luận rằng đó là một lư do nữa để khuyến khích các phụ nữ giảm hoặc ngừng tiêu thụ các đồ uống có chất ruợu.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/10/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 58 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 04/01/2008 )

7/ RƯỢU, YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA GĂY DO LOĂNG XƯƠNG

BRUXELLES. Rượu là một trong những yếu tố nguy cơ có thể biến đổi được (facteurs de risque modifiables) của bệnh loăng xương (ostéoporose), cũng như chứng nghiện thuốc lá, thể trọng thấp, một chế độ ăn uống thiếu chất, luyện tập thể dục không đầy đủ, thiếu calcium hay vitamine D và té ngă thường xuyên.

Thật vậy, các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện ở Châu Âu, ở Bắc Mỹ và ở Úc Đại Lợi chứng tỏ rằng uống trên 2 đơn vị alcool mỗi ngày (hoặc 20g/ngày) sẽ làm gia tăng nguy cơ găy do loăng xương (fractures ostéoporotiques) và găy xương háng nơi đàn ông và phụ nữ, có lẽ do độc tính trực tiếp của rượu lên các tạo cốt bào (ostéoblaste), là những tế bào cấu tạo các mô xương.

Tiêu thụ hơn 4 đơn vị rượu mỗi ngày sẽ làm tăng gấp đôi, lên cả hai phái tính, nguy cơ găy xương háng. Rượu dường như có một tác dụng độc hại trực tiếp lên xương, làm giảm mật độ khoáng của xương (densité minérale osseuse).

Trong số báo ra vừa rồi, Viện pḥng ngừa và giáo dục y tế quốc gia nhắc lại rằng các nguy cơ liên kết với rượu cũng có thể được quy cho những tác dụng khác của rượu, như là sự thoái hóa của t́nh trạng sức khỏe chung, đặc biệt là nơi những người già, và sự gia tăng nguy cơ té ngă.

Trên thế giới, ở những người trên 50 tuổi, một phụ nữ trên ba người và một người đàn ông trên năm người, sẽ bị mắc phải chứng loăng xương (ostéoporose).

Đặc điểm của chứng loăng xương là sự giảm mật độ xương (densité osseuse) và điều này là nguyên nhân của sự gia tăng tính dễ vỡ của xương (fragilité osseuse). Găy xương đốt sống (fracture vertébrale) và găy đầu trên xương đùi (cổ xương đùi) là những biến chứng chính của căn bệnh loăng xương thường xảy ra hơn nơi các phụ nữ trên 50 tuổi này; 50% các phụ nữ sẽ không t́m lại được khả năng độc lập của ḿnh sau khi bị găy xương đùi.
(LE METRO 2/1/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 67 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 7/3/2008 )

9/ RƯỢU DUY TR̀ NHỮNG Ư TƯỞNG ĐEN TỐI

Ngạn ngữ nói rằng rượu giúp tiêu sầu, nhưng trên thực tế, rượu chỉ làm kéo dài nỗi âu sầu mà thôi. Đó là điều được tiết lộ bởi một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu của đại học Tokyo. Nhóm nghiên cứu được điều khiển bởi giáo sư dược học Norio Matsuki, giải thích rằng éthanol được chứa trong rượu không làm quên lăng, như chúng ta thường tưởng, nhưng trái lại bảo tồn những kỹ niệm đă ăn sâu vào trong trí nhớ. Các nhà nghiên cứu đă đạt được khám phá này bằng trắc nghiệm các con chuột pḥng thí nghiệm. Các nhà nghiên cứu đă bắt những con chuột này chịu những phóng điện nhẹ trong nhiều ngày trước khi đặt chúng vào lại trong lồng. Các chú chuột sau đó trở nên khiếp sợ mỗi lần chuồng được mở ra và các nhà nghiên cứu khi đó đă tiêm rượu vào vài con chuột và dung dịch sinh lư vào những con chuột khác để nghiên cứu các phản ứng của hai nhóm.

XOÁ BỎ ÂM TÍNH BĂNG DƯƠNG TÍNH

Công tŕnh nghiên cứu đă chứng tỏ rằng sự sợ hải kéo dài lâu hơn, trung b́nh 2 tuần lễ, nơi chuột đă nhận một liều alcool so với những con chuột khác. “Nếu chúng ta áp dụng những kết quả này lên người, điều đó có nghĩa là những kỹ niệm xấu mà chúng ta muốn tống khứ sẽ kéo dài lâu hơn nếu chúng ta uống rượu, mặc dầu điều đó có thể mang lại một sự sảng khoái nào đó ngay lúc đó”, công tŕnh nghiên cứu nhấn mạnh như vậy. “Để quên cái ǵ đó có tính chất âm tính, nên xóa bỏ nó bằng cái ǵ đó dương tính càng sớm càng tốt và không bên đụng vào rượu” M.Matsuki đă khuyên như vậy.

Các kết luận của công tŕnh nghiên cứu đă được công bố trong tạp chí hàn lâm Hoa Kỳ Neuropsychopharmacol ogy.
(LE SOIR 1/3-2/3/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 71 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/4/2008 )

5/ RƯỢU VÀ CHỨNG TINH HOÀN ẨN

Chứng tinh hoàn ẩn (cryptorchidie) tương ứng với sự ngừng di chuyển của tinh hoàn ở một điểm nào đó trong lộ tŕnh b́nh thường giữa vùng thắt lưng (nơi tinh hoàn được tạo thành) và bao tinh hoàn (scrotum), nơi tinh hoàn hiện diện vào lúc sinh.Theo các dữ kiện thu được ở Phần Lan và Đan Mạch, nguy cơ bị chứng tinh hoàn ẩn nơi trẻ em càng lớn khi việc uống rượu càng quan trọng nơi bà mẹ trong thời kỳ có thai. Sự gia tăng nguy cơ này độc lập với các yếu tố nguy cơ khác như tuổi của bà mẹ, số lần đẻ, trọng lượng lúc sinh, hay là chứng nghiện thuốc lá.
SCIENCES ET AVENIR 4/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 73 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/4/2008 )

4/ UỐNG RƯỢU VANG ĐỂ TRÁNH CHỨNG SA SÚT TRÍ TUỆ

Các phụ nữ uống đều đặn rượu vang ít bị nguy cơ trở thành sa sút trí tuệ hơn so với các phụ nữ không bao giờ uống. Trái lại các rượu mạnh làm gia tăng nguy cơ này. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu Thụy Điển. Lauren Lissner (Đại học Goteborg) và nhóm nghiên cứu đă thu thập các dữ kiện liên quan đến 1.462 phụ nữ tuổi từ 36 đến 60 trong những năm 1968-1969. Các phụ nữ này đă được theo dơi cho đến năm 2002. Ngay từ đầu của thời kỳ theo dơi và 3 lần trong lúc thực hiện công tŕnh nghiên cứu, các phụ nữ này đă được hỏi về việc uống rượu của họ. 164 phụ nữ tham dự đă được chẩn đoán sa sút trí tuệ trong thời kỳ nghiên cứu. Các tác giả đă có thể chứng nhận rằng nguy cơ bị sa sút trí tuệ là 40% thấp hơn nơi các phụ nữ đă uống rượu vang ; nguy cơ này ngay cả 70% thấp hơn nơi các phụ nữ chỉ uống rượu vang và không uống những đồ rượu khác. Tác dụng bảo vệ lại c̣n rơ rệt hơn nơi những người hút thuốc. Trái lại, các rượu mạnh làm gia tăng nguy cơ bị sa sút trí tuệ 50% .V́ lẽ chỉ có rượu vang, chứ không phải các đồ uống có chất rượu khác, dường như bảo vệ chống lại chứng sa sút trí tuệ, nên các tác giả kết luận rằng hiệu quả bảo vệ không được quy cho rượu mà cho các thành phần khác của rượu vang.
LE JOURNAL DU MEDECIN 11/4/2008

8/ UNG THƯ VÚ: CHO BÚ CÓ LỢI, UỐNG RƯỢU CÓ HẠI

Ung thư vú là ung thư thông thường nhất của phụ nữ.Trên thế giới mỗi năm có 1 triệu trường hợp mới, trong đó ở Pháp có 42.000 trường hợp.

Ung thư vú cũng đang gia tăng khắp nơi trên thế giới, ngay cả trong những nước châu Á và châu Phi, là nơi cho đến nay ít bị ảnh hưởng hơn. Cần ghi nhận rằng ở Pháp, lần đầu tiên, tỷ lệ mắc phải ung thư này nơi các phụ nữ trên 50 tuổi đang hạ xuống. Sự phân bố không đồng đều về mặt địa dư (một ung thư cho 12 phụ nữ ở châu Âu, và một cho 80 ở Nhật bản) khiến rất làm nghi ngờ một vai tṛ bảo vệ khả dĩ của chè xanh và/hoặc đậu nành. Dầu sao, báo cáo vừa qua của WCRF đă nhấn mạnh 2 thông điệp quan trọng : thông điệp đầu tiên, đó là lợi ích của sự cho con bú kéo dài, và điều này dầu cho lúc phát triển ung thư là lúc nào, trước hoặc sau thời kỳ măn kinh.Thông điệp thứ hai xác nhận ảnh hưởng có hại của rượu, đă được nghi ngờ từ nhiều năm nay. Một tháng sau báo cáo của WCRF, một báo cáo khác của Pháp, từ Viện ung thư quốc gia, đă định số cho mối nguy cơ này. Nguy cơ mắc phải ung thư vú gia tăng 10% nếu mức độ tiêu thụ trung b́nh rượu mỗi ngày tăng 10g hoặc 1 ly.
LE MONDE 3/4/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 74 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/4/2008 )

3/ UỐNG RƯỢU LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ

Việc uống rượu (alcool) làm gia tăng nguy cơ mắc phải ung thư vú. Công tŕnh nghiên cứu lớn nhất về chủ đề này, trên hơn 184.000 phụ nữ, được thực hiện bởi Viện ung thư quốc gia Hoa kỳ, đă phát hiện rằng việc uống một hay hai ly rượu mỗi ngày cũng đủ làm tăng 30% nguy cơ mắc phải ung thư vú. Nếu uống 3 ly hay nhiều hơn sẽ làm gia tăng nguy cơ 50%. Và điều đó độc lập với loại rượu được tiêu thụ. Công tŕnh nghiên cứu này đă được tŕnh bày tuần qua trong một buổi hợp của Hiệp hội nghiên cứu Hoa kỳ ở San Diego. Theo các tác giả của công tŕnh nghiên cứu, các kết quả này được giải thích bởi một sự biến đổi của chuyển hóa của các hormones oestrogènes, gây nên bởi rượu.
LE FIGARO 15/4/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 75 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 25/4/2008 )

3/ RƯỢU VÀ THUỐC LÁ LÀM DỄ NGUY CƠ BỊ BỆNH ALZHEIMER

Nhân dịp một hội nghị ở Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu đă chứng tỏ lần đầu tiên rằng những người hút thuốc lá nặng và những người uống rượu thâm niên bị mắc bệnh Alzheimer sớm hơn

Bệnh Alzheimer cũng là hậu quả của lối sống của chúng ta. Bệnh này gây bệnh cho 15% những người trên 80 tuổi. Mặc dầu nguyên nhân của bệnh Alzheimer đă không được xác định một cách rơ ràng, nhưng sự việc uống rượu và hút thuốc lá sẽ làm gia tăng nguy cơ mắc phải bệnh này.Trong một hội nghị thần kinh học được tổ chức ở Hoa Kỳ, các nhà khoa học đă chứng tỏ rằng các người uống rượu nhiều có một nguy cơ bị bệnh Alzheimer sớm hơn những người không hoặc ít uống. Cũng vậy, sự việc hút hơn một bao thuốc lá mỗi ngày cũng làm gia tốc nguy cơ. Những công tŕnh khác được tŕnh bày trong hội nghị này phát hiện một nguy cơ gia tăng bị bệnh Alzheimer đối với những người đă có một tăng cholestérol-huyết lúc ở tuổi trung niên. Những điều tra khác mới đây cũng đă chỉ rơ vai tṛ của cao huyết áp, của bệnh đái đường và của chứng béo ph́ (đặc biệt là khi được liên kết với một cái bụng phệ) như là những yếu tố làm dễ cho sự phát triển của chứng sa sút trí tuệ này. Những dữ kiện này khiến nghĩ rằng bằng sự pḥng ngừa chống lại thuốc lá, rượu, bệnh đái đường, chứng béo ph́ và cao huyết áp, chúng ta có thể nếu không ngăn cản được bệnh này, th́ ít ra cũng làm chậm sự xuất hiện của nó.

Trong một thời gian lâu, các nguyên nhân của căn bệnh thoái hóa năo bộ trầm trọng này có vẻ vừa bí ẩn vừa mang hơi hướng di truyền. Trong những năm qua, càng ngày càng có nhiều các công tŕnh nghiên cứu ăn khớp nhau chỉ rơ rằng căn bệnh bi thảm này cũng liên hệ với lối sống của chúng ta. Và có vẻ như là các yếu tố ảnh hưởng lên tim, nhất là những yếu tố trách nhiệm về các thương tổn động mạch vành, cũng ảnh hưởng lên chức năng của năo bộ khi tuổi tác gia tăng. Mặc dầu nguồn gốc của bệnh Alzheimer không được biết một cách chính xác, nhưng có vài yếu tố làm dễ cho sự phát sinh căn bệnh này. Thứ tư vừa qua, một công cuộc điều tra đă được tŕnh bày tại hội nghị hàng năm của Viện hàn lâm thần kinh học Hoa Kỳ ở Chicago. Công tŕnh nghiên cứu này đă chứng tỏ rằng bệnh Alzheimer gây bệnh sớm hơn nơi những người nghiện thuốc lá nặng và những người uống rượu thâm căn. Cũng tại hội nghị này, một công tŕnh nghiên cứu khác cho rằng những người có nồng độ cholestérol cao trong tuổi tứ tuần, cũng có một nguy cơ gia tăng bị Alzheimer sau này. Một công tŕnh nghiên cứu thứ ba được công bố ngày 26 tháng 3 xác nhận rằng có một cái bụng phệ ở tuổi trung tuần cũng được liên kết với một nguy cơ bị bệnh Alzheimer cao hơn.

Các nhà nghiên cứu của Mount Sinai Hospital de Miami Beach (Hoa Kỳ) đă khảo sát 938 người trên 60 tuổi vừa được chẩn đoán có khả năng bị Alzheimer. Sau đó họ hỏi gia đ́nh của các bệnh nhân để đánh giá sự tiêu thụ thuốc lá và rượu suốt trong cuộc sống. Như thế họ đă có thể quan sát thấy rằng những người uống rượu đều đặn (ít nhất 3 ly mỗi ngày) bị bệnh Alzheimer trung b́nh 4,8 năm sớm hơn những người không uống hoặc uống ít. Cũng vậy, những người nghiện thuốc lá nặng (hơn một gói mỗi ngày) bị bệnh Alzheimer 2,3 năm sớm hơn những người không hút thuốc. Đối với những người mang một trong những gène tố bẩm (apolipoprotéine 4), bệnh bắt đầu 3 năm trước những người khác. Đối với những người đồng thời uống rượu nhiều, nghiện thuốc lá nặng, mang gène tố bẩm, họ phát bệnh 8,5 năm sớm hơn những người không có 3 yếu tố này. 17 người thuộc trường hợp đầu đă bị bệnh Alzheimer lúc 68,5 tuổi, so với 77 tuổi đối với trường hợp thứ hai. Đối với các tác giả, việc làm chậm lại khởi đầu của bệnh càng lâu càng tốt, là điều rất quan trọng. “Người ta đă chứng tỏ rằng nếu có khả năng làm chậm khởi đầu của bệnh 5 năm, ta sẽ chia đôi số bệnh nhân bị bệnh”, giáo sư Ranjan Duara, tác giả chính của công tŕnh nghiên cứu đă giải thích như vậy.

CŨNG NHƯ ĐỐI VỚI BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG

Công tŕnh điều tra thứ hai được tŕnh bày nhân hội nghị này đă khảo sát 9.752 đàn ông và phụ nữ được thăm khám sức khỏe giữa năm 1964 và 1973, ở lứa tuổi 40-45 và sau đó đă được theo dơi cho đến năm 1994. Giữa năm 1994 và 2007, 504 người trong nhóm này bị bệnh Alzheimer và 162 người bị bệnh sa sút trí tuệ do nguyên nhân huyết quản (démence vasculaire). Các kết quả cho thấy rằng những người ở lứa tuổi trung niên, với nồng độ cholestérol trong máu cao nhất, lúc về già có thêm 50% nguy cơ bị bệnh Alzheimer so với những người có nồng độ thấp nhất. Cùng loại nghiên cứu được công bố trong tạp chí Neurology, số ngày 9 tháng 4 vừa qua đă dẫn đến cùng kết luận về bệnh đái đường. Công tŕnh này được tiến hành ở Thụy Điển theo cùng một nguyên tắc, đă phát hiện sự kiện là ở người đứng tuổi, sự việc có một glucose huyết quá cao làm gia tăng 50% khả năng phát triển về sau này bệnh Alzheimer.

Sau hết, ngày 26 tháng 3 vừa qua, vẫn trong tạp chí Neurology, các nhà khoa học Hoa Kỳ giải thích rằng họ đă đo ṿng kích thước của tầm vóc (tour de taille) của hơn 6000 người Mỹ trong những năm 1970. Khoảng 30 năm sau các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những người béo ph́ và có một bụng phệ, có nguy cơ bị bệnh Alzheimer 3,6 lần nhiều hơn so với những người mảnh khảnh ; những người với gia tăng thể trọng (surpoid) và có một bụng phệ, có nguy có bị bệnh Alzheimer 2,3 lần nhiều hơn. Béo ph́ (obésité) nhưng không có bụng phệ gia tăng nguy cơ một cách ít quan trọng hơn. Những công tŕnh nghiên cứu trước đây đă phát hiện một nguy cơ gia tăng nơi những người bị cao huyết áp và lợi ích của việc điều trị chống cao áp. Nhưng cơ chế giải thích tại sao các yếu tố này làm dễ bệnh Alzheimer không được rơ ràng lắm. “Trong bệnh Alzheimer, có sự kết hợp của các thương tổn ở vi tuần hoàn của năo bộ và các tích chứa của các mảng dạng tinh bột (plaques amyloides), giáo sư Françoise Forette đă giải thích như vậy. Bằng cách tác động lên các yếu tố nguy cơ huyết quản, nghĩa là bằng cách ngừng hút thuốc lá, điều trị bệnh cao huyết áp, cholestérol, bệnh đái đường, bằng cách tập thể dục, chúng ta sẽ làm chậm lại sự xuất hiện của bệnh Alzheimer”.
(LE FIGARO 18/4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 82 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 20/6/2008 )

9/ RAU XANH, TRÀ, RƯỢU VANG VÀ CACAO CÓ LỢI CHO NHỮNG NGƯỜI HÚT THUỐC

Các flavonoides là những chất chống gây ung thư (anticancérigènes). Nguy cơ phát triển ung thư phổi được giảm 32 đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định.

Thở, đó là tự oxy hóa ! Thật vậy việc sử dụng oxy, sinh tử, cũng sản sinh những dạng oxy được gọi là phản ứng (réactif), có thể tấn công những cấu trúc sinh học. Những hiện tượng oxy hóa này được xem như là một yếu tố lăo hóa và là một yếu tố làm dễ nhiều loại bệnh khác nhau, nhất là ung thư. Vậy phổi đứng hàng đầu trong việc chịu các hiện tượng này.

Việc tiếp xúc này lại càng rơ nét hơn đối với những người hút thuốc, và người ta đánh giá rằng sự tiếp xúc với oxy phản ứng góp phần rất lớn trong việc làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Vấn đề t́m biết xem việc hấp thụ các hợp chất có khả năng làm giảm thiểu các hiện tượng oxy hóa và các tổn hại do các hiện tượng này gây ra, đă làm ngứa ngáy các nhà nghiên cứu từ nhiều năm qua. Các hợp chất này ám chỉ các chất chống oxy hóa (antioxydants). Một vài chất chống oxy hóa là các vitamine hay những oligo-éléments, nhưng nơi dự trữ các chất chống oxy hóa lớn nhất là các flavonoide, một họ gồm hơn 4.000 phân tử.

Trong pḥng thí nghiệm, các flavonoides đă chứng tỏ, ngoài khả năng chống oxy hóa đôi khi rất mạnh, những tính chất chống đột biến (antimutagénique) và chống ung thư. Được cổ vũ, các nhà khoa học đă thăm ḍ những mối liên hệ giữa sự hiện diện của những hợp chất này trong thực phẩm và sức khỏe của dân chúng. Các thức ăn như rau xanh, trái cây, trà, rượu vang và ngay cả cacao đều giàu các flavonoides. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă báo cáo sự hiện hữu của một mối liên hệ nghịch giữa việc tiêu thụ các flavonoides khác nhau và nguy cơ của vài bệnh tật, đặc biệt là trong lănh vực tim mạch.Và chính đó là điều vừa được chứng nhận bởi một nhóm các nhà dịch tễ học bao gồm những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ và Trung Quốc, đối đầu với ung thư phổi. Các nhà nghiên cứu mà các công tŕnh được công bố trong Cancer, đă nghiên cứu sự tiêu thụ flavonoides nơi 558 người đă phát triển một ung thư phổi, và nơi 837 người làm nhóm kiểm tra.

Công tŕnh nghiên cứu tiết lộ rằng nơi những người hút thuốc, nguy cơ phát triển ung thư phổi được thu giảm từ 32% đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định rơ. Mặt khác, các rau xanh, trà và rượu vang, các nguồn thực phẩm quan trọng của flavonoides, cũng tỷ lệ nghịch với nguy cơ phát triển một ung thư phổi. Tuy nhiên không có một tác dụng đáng kể nào nơi những người không hút thuốc. Các dữ kiện của nghiên cứu gợi ư rằng các flavonoides có thể có một lợi ích đặc biệt nơi các người nghiện thuốc lá mặc dầu sẽ là ảo tưởng khi hy vọng rằng có thể huỷ bỏ tất cả các tác dụng của thuốc lá bằng các chất chống oxy hóa (antioxydants).
(LE SOIR 11/6/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 87 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 1/8/2008 )

3/ SỰ TIÊU THỤ RƯỢU CÓ MỨC ĐỘ VÀ SỰ NGĂN NGỪA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG

Việc tiêu thụ rượu rơ ràng là tốt đối với nhiều điều trong lănh vực sức khỏe, dĩ nhiên là với điều kiện việc uống rượu phải có chừng mực. Chúng ta đă biết những lợi ích của rượu, nhất là trên b́nh diện tim mạch. Và những lợi ích này dường như không chỉ giới hạn cho rượu vang đỏ (vin rouge) và resvératrol mà nó chứa. Bây giờ đây, theo một công tŕnh nghiên cứu của Polsky và các cộng sự viên của Hoa Kỳ, th́ ra việc tiêu thụ rượu đều đặn và có mức độ được liên kết với sự giảm nguy cơ chuyển qua bệnh đái đường thật sự, nơi những người trưởng thành ở trong t́nh trạng tiền đái đường (prédiabète) và thặng dư thế trọng hay bị chứng béo ph́.
LA SEMAINE MEDICALE (26/6/2008)

7/ MỘT THÀNH PHẦN TỰ NHIÊN CỦA RƯỢU VANG CÓ THỂ CÓ LỢI CHO TIM

Resvératrol, phân tử hiện diện trong rượu vang đỏ (vin rouge), có những tác dụng bảo vệ chức năng tim. Đó là kết luận của một công tŕnh được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ của đại học Madison và của công ty LifeGen Technologies. Được công bố ngày 3/6 trong tạp chí on line PloS One, các kết quả của họ, thu được trên chuột, cho thấy rằng sự tiêu thụ với lượng nhỏ resvératrol cho phép pḥng ngừa sự lăo hóa tim, giống hệt với sự pḥng ngừa được quan sát sau khi thực hiện một chế độ ăn uống hạn chế nhiều calorie.
LE MONDE (5/6/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 97 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 16/10/2008 )

6/ RƯỢU VANG ĐỎ CHỐNG LẠI UNG THƯ PHỔI

Sự tiêu thụ có mức độ rượu vang đỏ (vin rouge) làm giảm nguy cơ bị ung thư phổi nơi các người đàn ông. Đó là điều được tiết lộ bởi một công tŕnh nghiên cứu được công bố trong “Cancer Epidemiology, Biomarkers and Prevention”, một tờ báo của Hiệp hội nghiên cứu chống ung thư của Hoa Kỳ. Tính chất bảo vệ này là do khả năng chống oxy hóa của resveratrol, một phân tử hiện diện dồi dào trong rượu vang đỏ. Công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện giữa năm 2000 và 2003 trên hơn 80.000 người đàn ông, đă cho thấy rằng nguy cơ bị ung thư phổi giảm 60% nơi những người nghiện thuốc uống 1 đến 2 ly rượu vang đỏ mỗi ngày.
(LE SOIR 8/10/2008)

9/ UỐNG ÍT RƯỢU CHỐNG BỆNH SUY TIM

Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ đă cho thấy rằng một sự tiêu thụ rượu mức độ thấp đến trung b́nh dường như làm giảm nguy cơ bị suy tim nơi những người cao huyết áp.

Điều chứng thực này là của Luc Djousse và J.Michael Gaziano (Havard Medical School, Boston, Hoa Kỳ) từ các kết quả của Physician’s Health Study . Điều này có liên quan những bệnh nhân với tiền sử nhồi máu cơ tim hay đái đường cũng như những bệnh nhân không có những bệnh lư này.

Trong quá khứ, việc uống rượu đă được đặt trong mối liên quan với một sự gia tăng huyết áp và khi sự gia tăng này quan trọng, sẽ dẫn sự giăn tim. Trái lại, điều chưa được rơ ràng đó là hiệu quả, nơi những người cao huyết áp, của một sự tiêu thụ rượu ở mức độ thấp đến trung b́nh. Chính điều này đă thúc đẩy các nhà nghiên cứu phân tích các dữ kiện liên quan đến 5.153 người đàn ông cao huyết áp được tuyển mộ trong công tŕnh Physicians’ Health Study.

Những người tham dự, không có những tiền sử tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim hay ung thư vào lúc thực hiện công tŕnh nghiên cứu, đă được theo dơi trong 18 năm. Tuổi trung b́nh vào lúc bắt đầu nghiên cứu là 58 tuổi. So sánh với nhóm uống ít hơn một ly rượu mỗi tuần, những người uống nhiều có nguy cơ 11% thấp hơn (một đến 4 ly mỗi tuần) đến 62% thấp hơn (8 ly hoặc nhiều hơn mỗi tuần) phát triển một suy tim.

Cơ chế chính xác qua đó rượu có một tác dụng bảo vệ nơi những người cao huyết áp vẫn luôn luôn không được làm sáng tỏ. Có thể đó là do tác dụng lợi tiểu của nó, hoặc là do sự tăng cao nồng độ adiponectine mà nó gây ra trong huyết tương? Thật vậy, trong những mô h́nh động vật, người ta thấy rằng adiponectine bảo vệ chống lại các bệnh tim.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 7/10/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 103 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 27/11/2008 )

7/ SÀNH ĂN NHƯNG VẪN G̀N GIỮ TRÁI TIM M̀NH KHÔNG BỊ BỆNH

Trong hội nghị của Hiệp hội Tim học châu Âu, được tổ chức ở Munich ngày 30/8-3/9/2008, các thuyết tŕnh viên đă muốn chứng tỏ rằng chúng ta có thể hoàn toàn ăn uống thoải mái nhưng vẫn ǵn giữ trái tim ḿnh không bị bệnh .

RƯỢU VANG

Một sự tiêu thụ hợp lư rượu, và đặc biệt hơn là rượu vang, làm giảm nguy cơ tim mạch và nguy cơ toàn thể nơi những người lành mạnh và những người có tiền sử bệnh tim. Khả năng bảo vệ tối đa có được với 1 đến 2 ly mỗi ngày. Mọi sự tiêu thụ trên mức này làm lệch hệ số lợi-nguy cơ về phía nguy cơ.

CÀ PHÊ HAY TRÀ

Trái với một thành kiến thâm căn, cà phê về lâu về dài không làm gia tăng nguy cơ tim mạch, kể cả những người bị bệnh tim, mặc dầu trước mắt cà phê có thể gây nên một sự gia tăng huyết áp.

Về trà, hai công tŕnh phân tích méta đă chứng tỏ rằng sự tiêu thụ trà càng cao th́ tỷ lệ mắc phải những bệnh tim do xơ mỡ động mạch và những đột qụy càng thấp. Điều lạ lùng là những tác dụng bảo vệ này dường như không liên quan với những người dân của Vương Quốc Anh, mặc dầu họ là những dân nghiện trà thâm căn. Các chất chống oxy hóa thuộc loại flavonoides và catéchines, được chứa trong trà (đặc biệt là trà xanh) có vẻ là nguồn gốc của tác dụng bảo vệ tim mạch này.

CHOCOLAT ĐEN

Rất nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh những biến đổi có lợi của chocolat đen (hạ huyết áp, cải thiện sự giăn các động mạch, cải thiện chức năng của các tiểu cầu trong máu).

Phải xác định rơ là chocolat đen mới là quan trọng bởi v́ chocolat trắng (vả lại không phải là chocolat) không có một tác dụng tim mạch có lợi nào và cũng bởi v́ chocolat càng đen, th́ nồng độ cacao càng cao và chính thành phần này mới mang những đặc tính của chocolat.

MỘT ĐƠN THUỐC SẼ ĐƯỢC VIẾT NHƯ THỂ NÀY VÀO MỘT NGÀY NÀO ĐÓ :

• Chocolat vào buổi sáng .

•Cà phê vào cuối buổi ăn trưa.

•Một ly rượu vang vào hai bữa ăn chính.

•Trà xanh (đặc biệt giàu chất chống oxy hóa) dùng trong ngày.

•Một miếng vuông chocolat đen buổi chiều lúc đi ngủ.


(COEUR ET ARTERES 11/2008)

8/ RƯỢU VANG : MỘT NGUỒN BỔ SUNG POLYPHÉNOLS

Ở Pháp, người dân có một cơ may mà những người Mỹ thèm muốn. Mặc dầu có một chế độ ăn uống giàu nước chấm (sauce), phó mát, đồ thịt lợn thổ địa, gratins, nhưng người Pháp vẫn giữ một tỷ lệ bị nhồi máu cơ tim tương đối thấp. Vùng của nước Pháp, nơi tỷ lệ mắc bệnh nhồi máu cơ tim thấp nhất, thật lạ lùng chính là nơi mà món ragout là chúa tể, đó là miền Tây Nam nước Pháp. Cái “nghịch lư Pháp” (french paradox) này từ lâu đă được xem như đặc biệt liên kết với sự tiêu thụ rượu vang đỏ, thông thường ở Pháp hơn là ở bên kia Đại tây dương, ở đây bia và whisky được ưa thích hơn.
Sự kiện một sản phẩm tổng hợp có tác dụng giống polyphénol, được chứa trong vỏ của trái nho, có thể làm giảm nguy cơ bị béo ph́ và bị bệnh đái đường, có cho phép kết luận rằng chính sự tiêu thụ nho giải thích “cái nghịch lư Pháp” hay không? “Thật vậy chất polyphénol (resveratrol) được chứa chủ yếu trong nho đen. Thế mà chất này sau đó lại được thấy nhất trong rượu vang đỏ. Nhưng có lẽ phải uống hàng trăm lít rượu trong ngày để có được một liều lượng có hiệu quả chống lại chứng béo ph́ và bệnh đái đường”. Thế mà uống trên ba ly rượu vang mỗi ngày đối với đàn ông và hai đối với phụ nữ, các biến chứng do rượu sẽ bắt đầu xuất hiện. Cái “nghịch lư Pháp” có lẽ có thể được giải thích một phần bởi rượu vang, nhưng cũng có những yếu tố khác can dự vào.
(LE FIGARO 6/11/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 105 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/12/2008 )

5/ MỘT CHẤT CHỐNG BÉO PH̀ ĐẦY HỨA HẸN XUẤT PHÁT TỪ RƯỢU VANG

Pháp đă khám phá một chất tổng hợp có tác dụng giống với vài thành phần của rượu vang và cho phép chuột giữ một trong lượng không thay đổi mặc dầu co một chế độ ăn uống tăng calo (un régime hypercalorique).

Những nhà nghiên cứu người Pháp đă nhận diện một chất được mệnh danh hiện nay là SRT 1720, cho phép các chú chuột tiếp tục một chế độ ăn uống giàu mỡ, nhưng không béo ph́, không trở nên bị bệnh đái đường, đồng thời cải thiện hiệu năng cơ. Các kết quả của những công tŕnh này, được công bố hôm qua trong tạp chí Hoa Kỳ Cell Metabolism, hết sức làm lưu ư công nghiệp dược phẩm, bởi v́ có ít nhất ba hăng dược phẩm đang phát triển một thứ thuốc phát xuất từ những nghiên cứu này.

Tất cả bắt đầu cách nay vài năm, khi các thầy thuốc người Pháp khám phá ra rằng một trong những polyphénols được chứa trong vỏ của trái chanh đen, resvératrol, bảo vệ chuột chống lại bệnh đái đường và chứng béo ph́. Các nhà nghiên cứu khi đó cho thấy rằng phân tử resvératrol tác dụng lên cả hai bệnh lư này bằng cách làm hoạt hóa một protéine của cơ thể được gọi là Sirt 1. Sirtris, một hăng Hoa Kỳ có cơ sở ở Boston, quyết định đầu tư vào khái niệm này và hiện nay đang trắc nghiệm một thứ thuốc có chất cơ bản là resvératrol để chống lại bệnh đái đường mỡ (diabète gras), cũng được gọi là bệnh đái đường loại 2. Các nhà nghiên cứu người Pháp của Viện di truyền và sinh học phân tử và tế bào, nguồn gốc của những khám phá đầu tiên này, sau đó bắt đầu t́m kiếm những phân tử tổng hợp cho phép hoạt hóa chất protéine Sirt 1, chất có ảnh hưởng một cách quan trọng lên thể trọng và nguy cơ bị bệnh đái đường. Sau cùng, họ nhận diện một hợp chất tổng hợp tương tự với resvératrol trên b́nh diện hóa học, SRT 1720 và quyết định trắc nghiệm chất này trên hàng chục con chuột được cho những chế độ ăn uống khác nhau.

MỘT HIỆU QUẢ KÉO DÀI.

Những kết quả của công tŕnh nghiên cứu được công bố trong Cell Metabolism thật đặc biệt đáng quan tâm. Những chú chuột được điều trị với SRT 1720 và chịu một chế độ ăn uống rất giàu mỡ đă không lên một gam trọng lượng nào và không phát triển khối lượng mỡ (masse grasse), trái với những con chuột được nuôi cùng cách thức nhưng không được điều trị với loại thuốc này. Ngoài ra không có chú chuột nào được điều trị với SRT 1720 bị bệnh đái đường cả, trong khi những con chuột khác có một sự đề kháng với insuline sau chế độ ăn uống quá nhiều mỡ. Rơ ràng là thuốc SRT 1720 bảo vệ chống lại chứng béo ph́ và bệnh đái đường loại 2. Thời gian tác dụng lên chuyển hóa kéo dài : tác dụng xuất hiện ngay tuần lễ thứ tư và tiếp tục trong suốt thời gian quan sát các chú chuột hoặc 15 tuần

“Những con chuột được điều trị bởi thuốc SRT 1720 đă giữ một trọng lượng không thay đổi mặc dầu chế độ ăn uống nhiều mỡ, trong khi những chú chuột khác đă tăng 2/3 trọng lượng của chúng. Thuốc này kích thích sự sử dụng mỡ, một cách tương tự như điều mà chúng ta quan sát trong trường hợp hạn chế calo, mặc dầu thức ăn giàu mỡ mang lại sự thặng dư năng lượn” , BS Jérome Feige (Viên di truyền và sinh học phân tử Illkirch) đă giải thích như vậy.

Nhiều hăng dược phẩm đă khởi đầu những thứ nghiệm để trắc nghiệm SRT 1720 chống lại chứng béo ph́, bệnh đái đường. Một vài hăng cho là hợp lư đánh giá tác động của nó lên những bệnh khác liên quan với tuổi tác, và nhất là trong bệnh Alzheimer. Công việc vẫn gay go. Đến măi ngày nay, các thuốc chống béo ph́ đă không có cơ may, v́ lẽ chúng hầu như bị rút ra khỏi thị trường sau vài năm, do những tác dụng phụ của chúng.
(LE FIGARO 6/11/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 106 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/12/2008 )

3/ MỘT LY, C̉N ĐƯỢC… HƠN HAI LY TH̀ …

Một trong những nguyên nhân khả dĩ của tỷ lệ tử vong tim mạch vào dip cuối năm là bệnh rung nhĩ (fibrillation auriculaire), liên kết với sự uống rượu gia tăng. Tác dụng có hại của một sự tiêu thụ rượu lâu dài lên nguy cơ phát sinh rung nhĩ nơi đàn ông đă được công nhận với một sự nhất trí rộng răi, nhưng các dữ kiện hiện có về phụ nữ đến nay vẫn tỏ ra mâu thuẫn.

Tư liệu y học đề cập dưới những góc độ khác nhau tác động của việc uống rượu lên nguy cơ tim mạch. Uống rượu có chừng mực làm giảm nguy cơ mạch vành, tai biến mạch máu năo và suy tim sung huyết. Trái lại, uống cấp tính những lượng lớn rượu (binge drinking) được thấy liên kết với một nguy cơ gia tăng bị nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo và rung nhĩ. Đó là những dữ kiện đă được xác nhận. Tuy nhiên có một sự nghi ngờ về ảnh hưởng của việc uống rượu đều đặn lên nguy cơ phát triển bệnh rung nhĩ, và nhất là ở các phụ nữ : những công tŕnh nghiên cứu khác nhau đă chỉ chứng tỏ một mối liên kết có ư nghĩa nơi đàn ông. Có thể có hai cách giải thích cho điều được quan sát này. Hoặc là các phụ nữ ít nhạy cảm đối với rượu, hoặc số phụ nữ tham gia vào các công tŕnh nghiên cứu quá thấp nên không thể xác lập được một mối liên hệ.

BẮT ĐẦU TỪ HAI LY.

Một công tŕnh nghiên cứu mới đây mang lại một thông tin bổ sung. Trên 34.000 phụ nữ hơn 45 tuổi và mạnh khỏe vào lúc bắt đầu nghiên cứu, đă được theo dơi trong một thời gian trung b́nh 12 năm. Họ đă báo cáo mức độ uống rượu của họ trong một bảng câu hỏi : không uống ly nào, dưới một ly mỗi ngày, dưới hai ly mỗi ngày, hay hơn hai ly mỗi ngày. Những kết quả cho thấy rằng chỉ những phụ nữ đă uống hơn hai ly mỗi ngày mới có một nguy cơ gia tăng quan trọng bị rung nhĩ lâu dài. Những kết quả này có khuynh hướng cho thấy rằng trên thực tế phụ nữ nhạy cảm với rượu hơn là đàn ông. Thật vậy, một điều tra trước đây đă thiết lập ngưỡng 5 ly mỗi ngày nơi đàn ông.

CẤP TÍNH VÀ MĂN TÍNH.

Chúng ta hăy trở lại với những người ăn Noel và Năm Mới. Công tŕnh nghiên cứu nói trên không liên hệ với việc uống những lượng rượu cao nơi những người hầu như không hề uống rượu trong năm.Về vấn đề này, chẳng phải hoài nghi bao nhiêu : những người này có nguy cơ bị rung nhĩ gia tăng, dầu cho số lượng rượu uống trong năm là bao nhiêu. Vậy một nồng độ rượu cao đúng là có hại về lâu về dài đối với điện sinh lư của tim
(LE GENERALISTE 18/12/2008)

4/ RƯỢU VÀ CÁC HUYẾT QUẢN

Nếu một hoặc hai ly rượu vang mỗi ngày có thể có lợi cho tim và các huyết quản, th́ trái lại sự hấp thụ những lượng lớn rượu trong một khoảng thời gian giới hạn làm gia tăng nguy cơ bị xơ mỡ động mạch (athérosclérose). Một thí nghiệm được thực hiện in vitro bởi John P.Cullen và các cộng sự viên (Đại Học Rochester, Hoa Kỳ) đă làm sáng tỏ một cơ chế khả dĩ. Những liều lượng cao acétaldéhyde, chất chuyển hóa chính của rượu, có thể kích thích sự dính kết của các bạch cầu mono (monocytes) với hậu quả là làm gia tốc quá tŕnh xơ mỡ động mạch.

Vậy rượu dường như gây nên những tác dụng đối nhau, tùy theo cách uống : uống có mức độ (1-2 ly mỗi ngày) có một tác dụng bảo vệ tim. Nhưng hoàn toàn trái lại nếu ta “ tiết kiệm ” những nồng độ có ích hàng ngày trong năm, để uống chúng chỉ trong một lần vào dịp đêm Giáng Sinh.
(LE GENERALISTE 18/12/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 109 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/1/2009 )

5/ RƯỢU VANG, TRÀ VÀ CHOCOLAT ĐỐI VỚI NĂO BỘ ?

Các ông và các bà lớn tuổi, tiêu thụ rượu vang giàu flavonoide, trà và chocolat, có những hiệu năng tốt hơn lúc thực hiện những trắc nghiệm về khả năng nhận thức (tests cognitifs). Đó là điều đă được chứng minh bởi một nhóm nghiên cứu Anh-Na Uy. Nhóm nghiên cứu này đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ 3 thức ăn thức uống chứa flavonoides (chocolat, rượu vang và trà) và những hiệu năng nhận thức (performances cognitives). 2.031 người tham dự (70-74 tuổi, 55% là phụ nữ) đă được tuyển mộ và đă chịu những trắc nghiệm về khả năng nhận thức.

Các kết quả cho thấy rằng, so sánh với những người không ăn chocolat, không uống rượu vang hay trà, những người tiêu thụ chúng có những điểm số tốt hơn một cách đáng kể lúc làm những trắc nghiệm nhận thức và có tỷ lệ hiệu năng nhận thức kém thấp hơn.

Những người tiêu thụ ba loại thức ăn nước uống này có những điểm số tốt hơn và nguy cơ có những hiệu năng kém lúc làm trắc nghiệm thấp nhất. Những mối liên kết giữa sự tiêu thụ các thức ăn nước uống này và khả năng nhận thức (cognition) tùy thuộc vào liều lượng (dose-dépendante), với một hiệu quả tối đa đối với những tiêu thụ khoảng 10g chocolat mỗi ngày và khoảng 75-100 ml rượu vang mỗi ngày, nhưng theo đường thẳng đối với trà. Phần lớn những chức năng nhận thức được trắc nghiệm bị ảnh hưởng bởi 3 thức ăn thức uống này. Hiệu quả rơ rệt hơn đối với rượu vang và hơi thấp hơn đối với chocolat.

Do đó, trong tuổi già, một chế độ thức ăn thức uống nhiều flavonoides được liên kết với những hiệu năng tốt hơn đối với vài năng lực nhận thức và điều này tùy thuộc vào liều lượng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/1/2009)[/color]

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 138 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 9/8/2009 )

5/ RƯỢU TỐT VÀ XẤU CHỐNG BỆNH ALZHEIMER

PREVENTION. Theo một công tŕnh nghiên cứu được công bố mới đây, uống một hoặc hai ly rượu vang mỗi ngày làm giảm bớt nguy cơ bị bệnh Alzheimer nơi những người già.

Về rượu, dường như không bao giờ có ǵ là quyết định và lư tưởng cả. Trong khi cuốn sách mỏng của viện quốc gia ung thư (Inca) cách nay vài tháng chỉ rơ rằng việc uống chỉ một ly rượu mỗi ngày làm gia tăng một ít nguy cơ mắc phải ung thư, th́ một công tŕnh nghiên cứu mới đây, được tŕnh bày vào đầu tuần này, nhấn mạnh rằng cũng sự uống rượu có mức độ này làm giảm xác suất trở thành nạn nhân của bệnh Alzheimer.Tài liệu xuất bản sau cùng này, được tŕnh bày nhân hội nghị các chuyên gia ở Vienne, Áo, dành cho căn bệnh thoái hóa thần kinh Alzheimer, dựa trên một cuộc điều tra, được tiến hành nơi 3.079 người tuổi từ 75 và hon. Những người này đă được quan sát trong 6 năm và đă được yêu cầu ghi chú một cách chính xác việc uống rượu của họ. Rồi họ được chia thành 4 loại : không hề uống rượu, từ 1 đến 7 ly rượu mỗi tuần, 8 đến 14 ly mỗi tuần và hơn 14 ly được uống trong cùng thời gian, theo Kaycee Sink, một trong các tác giả của công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi đại học Hoa Kỳ Wake Forest de Winston-Salem (Bắc Caolina). Sau khi xem xét các bệnh nhân mỗi 6 tháng, th́ ra trong số những người chỉ uống giới hạn mỗi ngày một hay hai ly rượu, nhất là rượu vang, th́ nguy cơ bị bệnh Alzheimer được giảm 37%.

Ngược lại, trong số những người vốn đă có những rối loạn nhẹ về trí nhớ và đă uống hơn 14 ly mỗi tuần, nguy cơ bị bệnh Alzheimer tăng cao đến 2 lần nhiều hơn so với những người kiêng uống bất cứ loại rượu nào.

MỘT LỰA CHỌN “ CORNELIEN ”

Trong một báo cáo, được xuất bản năm 2007, đối chiếu một số lớn các công tŕnh được thực hiện trên toàn thế giới, Inca kết luận rằng “ việc uống rượu đều đặn không được khuyến nghị. Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể ngay cả đối với một sự tiêu thụ rượu có mức độ với một nguy cơ càng cao khi sự tiêu thụ càng lớn ”. Ư niệm này hiển nhiên gây nên sự la ó phản đối nơi những nhà làm rượu và những nhà trồng nho, nhưng cũng nơi vài thầy thuốc, xác nhận rằng tiêu thụ rượu mức độ thấp là có lợi, đặc biệt là chống lại các bệnh tim mạch. G.S Dominique Marininchi, tổng giám đốc Inca, đă t́m cách làm giảm bớt cuộc luận chiến : “ Chúng tôi đă muốn cho một thông tin. Và nói rằng, về rượu, ngưỡng tiêu thụ không nguy cơ, nghĩa là ngưỡng mà người ta không quan sát thấy tác dụng có hại về mặt ung thư, là rất thấp. Lời phát biểu của chúng tôi không phải là cấm đoán, nhưng là để thông tin.” Thực ra, tất cả vấn đề là muốn biết chúng ta có muốn một cuộc sống với một nguy cơ zero hay không : bởi v́ uống rượu có mức độ cũng có những lợi ích khác (cảm thấy thoải mái và làm dễ đời sống xă hội).

Ở Vienne, người ta nhắc lại rằng với sự gia tăng tuổi thọ, khoảng 16 triệu người sẽ bị bệnh Alzheimer ở Châu Âu vào năm 2050, so với 7 triệu được thống kê năm 2.000. Bị một ung thư hay mất trí nhớ : một lựa chọn cornélien.
(LE FIGARO 6/8/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 150 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 30/11/2009 )
4/HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH : MỘT ÍT RƯỢU CÓ TÁC DỤNG BẢO VỆ.

Các lối sống của 40.000 phụ nữ, mà trong số đó 2000 người được nhập viện v́ huyết khối tĩnh mạch (thrombose veineuse), đă được phân tích bởi một công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ. Các tác giả t́m mối tương quan giữa chế độ ăn uống và sự xuất hiện của bệnh huyết khối tĩnh mạch. Ngược lại với mọi chờ đợi, nguy cơ đă được thu giảm 26% nơi các phụ nữ tuyên bố là đă uống rượu mức độ nhẹ mỗi ngày, so với các phụ nữ kiêng cữ.
(PARIS-MATCH 15/10-21/10/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 157 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/1/2010 )
6/ RƯỢU : SỰ TÁI PHÁT CỦA UNG THƯ VÚ.

Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng rượu làm dễ sự xuất hiện của ung thư vú. Nhưng tác dụng thật sự của nó lên các phụ nữ đă được điều trị vẫn không được rơ ràng. Một nhóm nghiên cứu California (của Kaiser Permanente, Auckland) đă tŕnh bày, nhân hội nghị mới đây ở San Antonio, những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu : hơn 3 hay 4 ly nước uống có chất cồn mỗi tuần làm gia tăng 30% nguy cơ tái phát khối u ! Các nhà nghiên cứu đă thực hiện một theo dơi đều đặn các bệnh nhân theo thời gian, ngay khi họ được đưa vào công tŕnh nghiên cứu (1997) trong 8 năm. Tổng cộng, 1900 phụ nữ được chia thành hai nhóm, một nhóm tập hợp những phụ nữ uống rượu, nhóm kia gồm các phụ nữ không uống hay chỉ uống đôi khi. Sau 8 năm, 349 phụ nữ đă có một tái phát ung thư vú. Những tái phát này đă xảy ra thường hơn nơi các phụ nữ măn kinh uống rượu đều đều. Rượu vang (vin) là thức nước uống được tiêu thụ thường hơn hết (bởi 90% các phụ nữ). Theo Marilyn Kwan, rượu gây nên một sự gia tăng nồng độ œstrogène, thế mà phần lớn các ung thư vú đều phụ thuộc hormone này (oestrogénodépendant ).
(PARIS MATCH 23/12-30/12/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 160 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 8/2/2010 )
3/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CÁC FLAVONOIDE CỦA RƯỢU VANG, TRÀ, CACAO.

Viện hàn lâm dược học quốc gia hôm qua đă thảo luận về những đóng góp có lợi lên tim và năo bộ của những chất được chứa trong vài loại thức ăn.

PREVENTION. Rượu vang, trà, chocolat, là chủ yếu, và những thực phẩm khác chứa những chất flavonoides, có những tác dụng chống oxy hóa (antioxydant) và chống viêm, với một hiệu quả bảo vệ lên tim và năo bộ. Từ 15 năm nay, các nghiên cứu gia tăng về những chất được chứa trong thực phẩm này. Hôm qua, Viện dược học quốc gia đă dành một trong những buổi họp để bàn về những tác dụng lên sức khỏe của những chất flavonoides đầy hứa hẹn này. Tuy nhiên, trong khi nhiều xí nghiệp dược phẩm đề nghị các viên thuốc mà chất căn bản là flavonoides, th́ viện hàn lâm lại đánh giá rằng những dữ kiện hiện nay không cho phép khuyến khích các “ điều khẳng định sức khỏe ” (“ assertions santé ”) của các chất bổ trợ dinh dưỡng (adjuvants alimentaires).

Lịch sử của các flavonoides bắt đầu trong những năm 1990, với sự phát hiện của nghịch lư Pháp (paradoxe français) : các người Pháp, đặc biệt trong vùng Tây Nam, có một tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp hơn so với những nơi khác, mặc dầu một sự tiêu thụ cao các chất mỡ bảo ḥa (một yếu tố nguy cơ tim mạch quan trọng). Ngoại lệ này được quy cho sự tiêu thụ rượu vang đỏ, đặc biệt cao ở Pháp. Các flavonoides (các hợp chất polyphénol) của rượu đă được nhận diện như là các chất trung gian của tác dụng có lợi này. Và nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học đă cố gắng phân tích mối liên hệ giữa chế độ ăn uống giàu flavonoides và các bệnh tim mạch (đột qụy, nhồi máu) hay thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson).

“ Toàn bộ các thông tin có được như thế cho thấy một khuynh hướng chung tán trợ cho việc liên kết giữa sự tiêu thụ rượu vang đỏ có mức độ (một hay hai ly mỗi ngày), (trên mức này, những tác dụng có hại của rượu làm đảo ngược khuynh hướng), của sự tiêu thụ trà xanh hay trà đen và cacao và tỷ lệ tử vong nguồn gốc tim mạch hay thoái hóa thần kinh, GS Jean-Claude Stoclet, ủy viên của Hội hàn lâm dược học (đại học Strasbourg) đă giải thích như vậy.

Vậy có vẻ hợp lư khi đưa ra giả thuyết, theo đó sự tiêu thụ đều đặn của vài loại trái cây giàu flavonoides hay những chế phẩm phát xuất từ đó, rượu vang đỏ, một vài nước nho vắt, trà xanh và đen (trong một chừng mực ít hơn), cacao, được liên kết với một sự giảm tỷ lệ tử vong… ”

SỰ ỨC CHẾ CỦA MỘT VÀI GENE .

Bằng cớ chính thức chỉ có thể được mang lại, sau những thử nghiệm lâm sàng so sánh một chế độ ăn uống giàu flavonoides với một chế độ ăn uống nghèo flavonoides. Chúng ta hăy ghi nhận rằng hầu hết các công tŕnh nghiên cứu không phát hiện mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu flavonoide và ung thư. Nhiều công tŕnh nghiên cứu thí nghiệm, trên cấy tế bào hay mô h́nh động vật, đă phát hiện một tác dụng của các flavonoides lên thành trong của các huyết quản, với một sự gia tăng của các yếu tố giăn mạch và chống tăng sinh (facteurs vasodilatateurs en antiprolifératifs). Những chất này cũng tác dụng bằng sự ức chế của vài loại gène, để dẫn đến một tác dụng kháng viêm.

Người ta t́m thấy ở đâu các flavonoides này ? Nhiều trăm flavonoides khác nhau đă được nhận diện. Mặc dầu có nhiều điều không chắc chắn, nhưng có vẻ như rằng các flavonoides có một tác dụng bảo vệ, thuộc về các lớp của các flavonols (rượu vang đỏ, trà, cacao) và của các chất anthocyanines (các trái cây đỏ, quả anh đào, cassis). “ Khi tính đến các dữ kiện mới đây về các hiệu quả và các cơ chế tác dụng của vài flavonoides, ta có thể dễ bị cám dỗ khi chủ trương ngay từ bây giờ một sự tăng cường flavonoides trong chế độ ăn uống, GS Stoplet đă đánh giá như vậy. Cần phải cưỡng lại sự cám dỗ này : ngoài những điều không chắc chắn về bản chất của các hợp chất hữu ích, về những lượng cần phải cho, không hoàn toàn loại bỏ sự hiện diện của những tác dụng phụ. ” Đối với GS François Chast, chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa, “ trên cơ sở của các dữ kiện hiện nay, một sự tăng cường các cố gắng nghiên cứu có vẻ được biện minh và khẩn cấp ”.
(LE FIGARO 28/1/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 167 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 29/3/2010 )
1/ RƯỢU VANG CÓ ĐƯỢC CHỨNG MINH LÀ TỐT CHO SỨC KHỎE HAY KHÔNG ?

Ngày nay chúng ta thường chấp nhận rằng một sự tiêu thụ có mức độ nhưng đều đặn rượu vang đỏ (vin rouge) (một hay hai ly mỗi ngày) bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch. Đó là “ nghịch lư Pháp ” (paradoxe français) nổi tiếng từ 40 năm nay. Các cổ nhân đă nói rằng “ ruợu ngon làm vui trái tim của con người ”(Le bon vin réjouit le cœur de l’homme).

Gần chúng ta hơn, Louis Pasteur đă không do dự khi xác nhận rằng“ rượu vang là nước uống lành mạnh nhất và vệ sinh nhất mà ta có được. Tuy vậy những tác dụng có hại của rượu đúng là được xác lập. Rượu vang phải chăng là ngoại lệ trong số các nước uống được pha chế cồn (boissons alcoolisées) hay phải chăng chính cách uống “ theo kiểu Pháp ”, có chừng mực nhưng đều đặn mà ta phải quy kết ?

Nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học với những kết quả nói chung giống nhau ủng hộ cho giả thuyết về một tác dụng bảo vệ của rượu vang đỏ, (mà những nước uống có chất cồn khác không có được), được thể hiện chủ yếu bởi một sự giảm huyết áp và các nguy cơ bị tai biến mạch máu năo và tim.

Nhưng những thử nghiệm lâm sàng dài hạn, cho phép rút ra những kết luận về các hiệu quả của một sự tiêu thụ có mức độ rượu vang, trên thực tế không thể thực hiện được. Thật vậy, xét v́ tiến triển rất chậm của các bệnh tim mạch, để cho những kết quả về mặt thống kê có giá trị, trong nhiều năm buộc cần phải có một chế độ kiểm soát nghiêm ngặt nơi một số rất lớn những người t́nh nguyện, được chia thành những người chứng và những người được điều trị,

NHỮNG THÍ NGHIỆM KHÔNG HOÀN TOÀN.

Ngoài cồn (alcool), rượu vang chứa các chất polyphénols, trong số đó có những hợp chất tạo nên sắc màu rượu vang đỏ, dường như có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại những tác dụng có hại của “ stress oxy hóa ”, một hiện tượng oxy hóa (oxydation) các hợp chất trong tế bào, gia tăng với tuổi tác và can thiệp trong các bệnh măn tính có liên quan với sự lăo hóa.

Polyphénols của rượu vang, hay sự liên kết của chúng với những nồng độ nhỏ cồn, có thể tham dự vào những tác dụng bảo vệ của rượu vang lên hệ tim mạch. Tuy nhiên những kết luận này được rút ra từ những thí nghiệm trên các tế bào hay động vật, hay những thử nghiệm lâm sàng ngắn hạn. Nhiều nghi vấn khoa học tồn tại về sự hấp thụ bằng đường tiêu hóa và số phận của các chất polyphénols này trong cơ thể .

Mặt khác, các polyphénols này được t́m thấy trong các loại thức ăn khác : chúng hiện diện với những lượng quan trọng trong vài nước vắt nho đỏ (raisin rouge), nhưng cũng có mặt trong các trái cây đỏ, trong vài loại rau xanh, trong trà và cacao, với cùng những tác dụng bảo vệ.

Nhưng người ta cũng chứng thực rằng tỷ lệ tử vong tim mạch thấp nhất được quan sát chủ yếu trong miền nam nước Pháp và trong những nước khác của vùng Địa trung hải ; thế mà, ở đó rượu vang cạnh tranh với những thành phần khác của món ăn cổ truyền của những vùng này, các trái cây và các rau xanh, không quên dầu olive.

Xét v́ nhiều điều không chắc chắn về những tác dụng có thể có lợi của rượu vang (vin), ngược với những tác dụng có hại được xác lập của cồn (alcool), do đó khuyến nghị tiêu thụ đều đặn rượu vang, ngay cả với lượng vừa phải, v́ một lư do không phải là sự lạc thú thưởng thức một cách khôn ngoan, là điều không thận trọng.
(LE FIGARO 8/3/2010)
florida80_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.09515 seconds with 10 queries