R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
UNG THƯ : CHỈ MỘT LY RƯỢU CŨNG ĐỦ LÀM TĂNG NGUY CƠ.
Alimentation. Được biến đổi trong cơ thể thành chất sinh ung thư, cồn (alcool) làm gia tăng 168% khả năng bị ung thư miệng, hầu và thanh quản.
Đây là một tin xấu đối với những kẻ thích uống rượu, dầu chỉ một tí ít thôi, và nghĩ rằng như vậy là “phải chăng”. Thật vậy, những công tŕnh nghiên cứu mới đây cho thấy rằng không có sự tiêu thụ rượu nào mà không có nguy cơ bị ung thư. Như là, sự việc chỉ uống một ly rượu vang mỗi ngày cũng đủ để làm gia tăng nguy cơ này từ 9% lên đến 168% tùy theo định vị của ung thư. Hôm qua, các giáo sư Dominique Maraninchi, giám đốc của viện ung thư quốc gia, và Didier Houssin, tổng giám đốc y tế, đă tŕnh bày một cuốn sách mỏng dành cho các thầy thuốc và đưa ra những lời khuyến nghị ăn uống để pḥng ngừa ung thư Những lời khuyến nghị này, được căn cứ trên một báo cáo quốc tế năm 2007, đă phân tích hơn 7000 điều tra khoa học, nhấn mạnh vào mối liên quan giữa rượu và ung thư. Khoảng 10,8% các ung thư nơi đàn ông và 4,5% nơi phụ nữ là do rượu.
Trong những năm 1990, nước uống này đă được xem như là có lợi cho sức khỏe nếu uống với liều lượng nhỏ. Nhưng thời thế đă thay đổi. Những nguy cơ liên kết với những liều lượng nhỏ sóng điện từ, dioxine, hoạt động phóng xạ là đối tượng của những bàn căi và âu lo mạnh mẽ trong xă hội. Nguy cơ mắc phải ung thư liên kết với sự tiêu thụ một hay hai ly rượu vang mỗi ngày có vẻ rơ ràng và không hề là đối tượng của một tranh căi nào. Ngay cả những lợi ích của rượu vang lên tim cũng bắt đầu bị xét lại.
Các nước uống cồn (boissons alcoolisées) được liên kết với một sự gia tăng của các ung thư của miệng, của hầu, của thanh quản, của thực quản, của đại trực tràng, của vú và của gan. Nguy cơ gia tăng với lượng tiêu thụ. Một ly rượu được tiêu thụ mỗi ngày làm gia tăng 168% nguy cơ bị ung thư miệng, hầu và thanh quản, làm gia tăng 28% nguy cơ ung thư thực quản, 10% nguy cơ ung thư vú và 9% nguy cơ ung thư đại tràng.
WHISKY, RƯỢU VANG HAY BIA
Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể bắt đầu từ một ly mỗi ngày, Paul Martel, nữ giám đốc nghiên cứu của Inra đă giải thích như vậy hôm qua. Hậu quả tùy thuộc vào lượng cồn tiêu thụ và không tùy thuộc vào loại nước uống cồn. Một ly cồn (alcool) tương ứng với 3 centilitres whisky, với 10 centilitres rượu vang hay champagne, với 25 centilitres bia...
Làm sao cồn làm gia tăng nguy cơ bị ung thư? Một báo cáo năm 2007 của Viện ung thư quốc gia đă tŕnh bày vấn đề này. Như là, rượu hay éthanol được biến hóa trong cơ thể thành acétaldéhyde, một phân tử được công nhận là chất sinh ung thư nơi người, chủ yếu bởi một enzyme, ADH (alcool déshydrogénase), hiện diện trong gan, nơi miệng... Acétaldéhyde cuối cùng được thải bởi một enzyme khác. Tuy nhiên nồng độ của phân tử sinh ung thư là acétaldéhyde này có thể tồn tại rất lâu trong cơ thể nơi những người uống rượu nhiều hay nơi những người được chương tŕnh hóa về mặt di truyền để làm thoái hóa rất chậm acétaldéhyde. Rượu cũng tác dụng trực tiếp, tại chỗ (lên miệng, hầu, thanh quản, thực quản) như một chất dung môi (solvant), làm gia tăng tính thẩm thấu của các niêm mạc đối với những chất gây ung thư như thuốc lá. Điều này giải thích tác dụng hiệp đồng của hai yếu tố này. Năm 2007, Trung tâm quốc tế chống ung thư đă xếp loại cồn (alcool) trong loại các tác nhân gây ung thư đối với người..
(LE FIGARO 18/2/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 119 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 31/3/2009 )
1/ CUỘC LUẬN CHIẾN VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA UNG THƯ VÀ SỰ TIÊU THỤ RƯỢU
Các chuyên gia khẳng định: việc uống rượu đều đặn là việc không nên làm.
Cuốn sách mỏng của Viện ung thư quốc gia và của Tổng giám đốc y tế, trong tháng qua đă giải thích rằng ngay việc uống một ly rượu mỗi ngày cũng làm gia tăng một ít nguy cơ bị ung thư, đă gây nên sự la ó ầm ĩ. Những nhà làm rượu, những người trồng nho, và ngay cả một vài thầy thuốc đă lâm chiến chống lại tài liệu này và xác nhận rằng sự tiêu thụ rượu với mức độ thấp là có lợi, đặc biệt là chống lại bệnh tim mạch. Ngay cả một cuốn sách mỏng nhằm nói chống lại cũng đang được sửa soạn để phát hành. “ Chủ đề này đă bị hiểu sai, giáo sư Dominique Maraninchi, tổng giám đốc viện quốc gia ung thư, đă giải thích như vậy. Chúng tôi đă muốn đưa ra một thông tin. Chúng tôi nói rằng, về rượu, ngưỡng tiêu thụ không gây nguy cơ, nghĩa là ngưỡng trong đó người ta không nhận thấy tác dụng có hại về mặt ung thư, là rất thấp. Những lời phát biểu của chúng tôi không phải là để cấm đoán bất cứ điều ǵ, nhưng chỉ là những thông tin.” Đối với giáo sư Michel Reynaud, “ tất cả vấn đề là xem liệu chúng ta có muốn có một cuộc sống với một nguy cơ số không hay là không. Nếu những lợi ích của một lượng nhỏ rượu vang trên các bệnh tim mạch vẫn không chắc chắn, trong khi những nguy cơ bị ung thư được xác lập khá rơ, th́ việc tiêu thụ rượu vẫn có những lợi ích khác. Uống rượu đặc biệt cho phép con người ta cảm thấy thoải mái. Uống rượu làm dễ sự giao tiếp trong đời sống xă hội của ḿnh. Ngược lại, điều chắc chắn là, những liều lượng nhỏ rượu, được tiêu thụ một cách đều đặn, là nguy hiểm hơn những liều nhỏ thuốc trừ sâu hay c̣n nguy hiểm hơn cả các antennes-relais ”. Nguy cơ của những liều lượng nhỏ rượu cũng được liên kết với một tố bẩm cá nhân, với sự liên kết với những độc chất khác như thuốc lá..
Sự phân tích các mối liên kết giữa ung thư và rượu được căn cứ trên những điều tra dịch tễ quy mô lớn, so sánh trên những nhóm người với số lượng to lớn, tỷ lệ mắc phải ung thư với những thói quen tiêu thụ rượu. Những nghiên cứu thí nghiệm cho phép kiểm tra tính đúng đắn của những kết luận này, bằng cách xem xét tác dụng của rượu lên các canh cấy tế bào, lên các mô h́nh động vật.
MỘT SỰ VỮNG VÀNG KHÔNG THỂ TRANH CĂI
Năm 2007, Viện ung thư quốc gia đă phát hành một báo cáo hoàn chỉnh về vấn đề này, xem xét mức độ nguy cơ tùy theo lượng rượu được uống vào. Các kết quả không phải là kết quả của một điều tra, nhưng là tổng số của nhiều công tŕnh nghiên cứu khoa học trên thế giới. Điều này mang lại một sự vững chắc không thể tranh căi được. Mặc dầu vài con số khiến những giải thích dị biệt bởi v́ dịch tễ học thường để tồn tại những vùng không rơ ràng. Bản báo cáo này, được biên soạn bởi một nhóm chuyên gia, dầu sao đảm bảo một cách rơ ràng rằng “ việc tiêu thụ rượu đều đặn là không nên. Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể ngay cả đối với một sự tiêu thụ mức độ trung b́nh, với một nguy cơ càng cao nếu sự tiêu thụ càng cao. ” Ngay cả đối với những lợi ích tim mạch, mối liên hệ cũng không rơ ràng lắm. Trong những năm 1980, rượu vang với mức tiêu thụ thấp đă được xem là một yếu tố bảo vệ. Ngày nay, những điều chắc chắn này đă hơi bị tan biến đi. Vài chuyên gia, nhưng không phải là tất cả, cho rằng những kết quả này là thiên lệch. Từ nay uống rượu với mức độ thấp chỉ có lợi ích là cho cảm giác khoái trá và cảm giác dễ chịu. Trong thời buổi của chúng ta hiện nay, điều đó không phải là không đáng kể.
(LE FIGARO 25/3/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 123 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 24/4/2009 )
4/ UỐNG RƯỢU BỊ TRANH CĂI NƠI PHỤ NỮ.
Một công tŕnh nghiên cứu trên hơn 1 triệu phụ nữ ở Vương Quốc Anh gợi ư rằng việc tiêu thụ rượu, ngay cả với những lượng nhỏ, làm gia tăng nguy cơ phát triển vài loại ung thư. Naomi Allen và những cộng sự viên (Đại học Oxford) đă phân tích các dữ kiện có liên quan đến 1.280.296 phụ nữ tuổi trung niên, đă tham dự vào công tŕnh nghiên cứu Million Women Study. Nh́n toàn thể, những người tham dự uống khoảng một ly mỗi ngày. Một tỷ lệ thấp hơn trong số những người tham dự đă uống 3 ly hoặc nhiều hơn mỗi ngày, 24% đă không bao giờ uống rượu. Trong một thời kỳ theo dơi trên 7 năm, 68.775 phụ nữ đă phát triển một ung thư. Trong số những phụ nữ uống đều đặn dưới 3 suất rượu mỗi ngày, người ta quan sát thấy một sự gia tăng 1,5% nguy cơ bị ung thư, đặc biệt là ung thư miệng, họng, thực quản, hầu, trực tràng, gan và vú. Việc tiêu thụ rượu mỗi ngày càng gia tăng, th́ nguy cơ bị ung thư càng lớn. Những nguy cơ giống nhau dầu loại rượu được uống là loại nào. Trái lại, uống rượu ít hay có mức độ, được liên kết với sự giảm rơ rệt nguy cơ phát triển ung thư tuyến giáp và lymphome non-Hodgkinien.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 21/4/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 169 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/4/2010 )
3/ NGHIỆN RƯỢU : NHỮNG HƯỚNG MỚI.
Mặc dầu những thuốc mới đang được thử nghiệm, nhưng ta không thể không biết tầm quan trọng của hỗ trợ tâm lư (soutien psychologique).
DROGUE. Đối với 2 triệu người Pháp tiêu thụ quá nhiều rượu và đă bị phụ thuộc (dépendant), vấn đề không những là cai rượu (sevrage) mà c̣n là ngăn ngừa các tái phát. Các con số chứng tỏ điều đó : sau khi cai rượu, một năm sau, khoảng 1/3 đă không đụng trở lại một giọt rượu nào. 1/3 khác trải qua những giai đoạn kiêng khem và những thời kỳ tái phát. Sau cùng, 1/3 c̣n lại đă không bao giờ thành công cai được rượu. Đối với GS Patrice Couzigou (thay thuốc chuyên khoa gan-dạ dày-ruột, CHU de Bordeaux), điều đó không có ǵ là ngạc nhiên : “ Vấn đề không phải là có một cuộc sống không rượu (une vie sans alcool) mà là t́m ra một cân bằng mới trong cuộc sống, không có chất cồn. Thế mà chỉ với việc kê đơn thuốc mà thôi điều đó không có thể và sẽ không bao giờ có thể thực hiện được. Phải thay thế sự phụ thuộc rượu (dépendance à l’alcool), có hại, bằng những phụ thuộc khác dương tính hơn (thể thao, giải trí, âm nhạc...) tùy theo những quan tâm chính của mỗi người. Điều đó đ̣i hỏi một “ prise en soins ” sur mesure và đ̣i hỏi thời gian.” Về thuốc men, nó chỉ có thể mang lại một sự hỗ trợ bổ sung. Hiện nay nhiều thử nghiệm điều trị đang được tiến hành ở Pháp và Hoa Kỳ, với một thứ thuốc đầy hứa hẹn, baclofène (Loresal), được cho là làm giảm sự thèm rượu, nhưng không phải v́ thế là một giải pháp nhiệm màu.
Một trong những vấn đề được đặt ra bởi sự lạm dụng rượu (abus d’alcool), đó là sự lạm dụng này bị che khuất quá thường và quá lâu. Khi người ta lo lắng th́ thường đă quá muộn. Người ta thường có thói quen gợi ra một nguy cơ đối với sức khỏe khi uống trung b́nh trên 3 ly chuẩn mỗi ngày (như các ly rượu được phục vụ ở các bar) đối với những người đàn ông hay 2 ly mỗi ngày đối với các phụ nữ (hoặc 21 ly mỗi tuần đối với những người đàn ông và 14 ly đối với các phụ nữ) nhưng chúng ta không b́nh đẳng trước sự phụ thuộc (dépendance), vài người mẫn cảm hơn nhiều so với những người khác. “ Ngoài ra, việc không thể kiêng uống trong vài trường hợp, ví dụ mỗi lần ra đi vui chơi giữa các bạn bè, th́ có lẽ đă là một dấu hiệu phụ thuộc tâm thần (dépendance psychique), mặc dầu khoảng 2 triệu người Pháp có liên hệ nghĩ là minh không bị như vậy, lấy cớ là họ có thể nhiều ngày không uống khi họ không ra khỏi nhà ”, BS Kiritzé-Topor, thầy thuốc chuyên khoa về rượu đă nhấn mạnh như thế.
Sau cùng, không cần phải là “ nô lệ ” của rượu mới khỏi trả giá cho các hậu quả : khoảng hai trường hợp tử vong sớm th́ có một được liên kết với rượu, xảy ra noi những người tiêu thụ rượu nhưng không phụ thuộc. Như thế, để làm tốt, cần phải xét lại công tác phát hiện những người có nguy cơ.
“ Hiện nay, trên 5 triệu người Pháp lạm dụng rượu, rất ít được theo dơi bởi một thầy thuốc v́ vấn đề này ”, BS Kiritzé-Topor đă xác nhận như vậy. Việc cai (sevrage) của những người phụ thuộc rượu (alcoolo-dépendant) tự nó không đặt vấn đề. Sự cai rượu này dựa trên một phác đồ (protocole) đă chứng tỏ có hiệu quả : 1,5 đến 2 lít nước uống mỗi ngày (không cồn, không đường và không caféine). Các benzodiazépine trong 48 giờ với liều mạnh, rồi giảm dần, không vượt quá 10 ngày. Vitamine B1 và acide folique. Và trong 3 đến 10 ngày, vụ việc được giải quết : ít mệt hơn, ít các thay đổi tính khí đột ngột hơn, nhưng ăn ngon hơn … ít nhất, cho đến các ly rượu sắp đến. Bởi v́ các tái phát là rất (quá) thường xảy ra và đó mới đúng là vấn đề.
Để cố giải quyết điều này, khoảng 100.000 bệnh nhân nhận một trong hai điều trị hiện nay giúp duy tŕ sự cai rượu : naltrexone (Nalorex) và acamprosate (Campral), nhằm làm cho sự duy tŕ kiêng khem được dễ dàng hơn. Những loại thuốc này nhằm ức chế sự ham muốn liên kết với việc uống rượu. Tỷ lệ thấp các bệnh nhân được điều trị bởi những thuốc này nói lên sự ưa thích hơn của các chuyên gia đối với tâm lư liệu pháp (psychothérapie), đặc biệt là những liệu pháp hành vi và nhận thức (thérapie comportementale et cognitive).
Và không phải sự nghiên cứu hiện nay về baclofène (không được phép đưa ra thị trường trong chỉ định này) làm thay đổi cục diện. Chất giăn cơ (myorelaxant) này, b́nh thường được chỉ định để điều trị các co thắt (contracture spastique), lại làm bệnh nhân ít nhiều hờ hững với rượu khi thuốc được cho với liều rất cao (2 đến 4 lần liều lượng b́nh thường). Một công tŕnh nghiên cứu của Ư, được công bố trên The Lancet năm 2007, đă cho thấy rằng có nhiều người kiêng rượu trong số những bệnh nhân được điều trị với baclofène hơn so với những người được cho placebo. Nhưng trong thời gian bao lâu ? Với những tác dụng phụ trước mắt và lâu dài nào ? Những công tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành sẽ mang lại câu trả lời.
(LE FIGARO 22/3/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 178 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/6/2010 )
8/ TẠI SAO RƯỢU LÀ MỘT NGUYÊN NHÂN QUAN TRỌNG CỦA CÁC UNG THƯ ?
GS Roger Normann
Biologiste et Spécialiste en Santé Publique
Trong khi tất cả chúng ta đều ư thức về vai tṛ của chứng nghiện thuốc lá (tabagisme) là nguồn gốc của các ung thư, th́ sự liên kết giữa việc tiêu thụ rượu quá mức và các ung thư thường ít được biết đến.Tuy vậy, ở Châu Âu, khoảng 150.000 trường hợp ung thư có thể được quy trực tiếp cho rượu. Ở Pháp, gần 10% các trường hợp tử vong do ung thư được liên kết với sự lạm dụng rượu nơi đàn ông và 3% nơi phụ nữ. Như thế ruợu là nguyên nhân thứ hai có thể tránh được của ung thư sau thuốc lá. Sự liên kết giữa việc tiêu thụ các đồ uống có chất cồn (boissons alcooliques) và các ung thư đặc biệt rơ ràng đối với các ung thư của phần trên của những đường hô hấp-tiêu hóa trên (cancers des voies aéro-digestives supérieures), các ung thư đại-trực tràng, cũng như những ung thư gan và vú, nhưng, mặc dầu các cơ chế gây bệnh khác nhau đối với mỗi loại ung thư, nhưng người ta biết rằng, dầu đó là loại ung thư ǵ chăng nữa, không phải loại rượu là nguyên nhân gây bệnh, mà luôn luôn là lượng cồn được tiêu thụ.
KHUẨN CHÍ RUỘT : KẺ ĐỒNG LƠA CỦA RƯỢU.
Các vi khuẩn và các men hiện diện trong xoang miệng và phần tận cùng của ruột có những enzymes có tác dụng xúc tác sự biến đổi rượu thành acétaldéhyde. Không phải chính rượu mà là sự tích tụ acétaldéhyde mới là độc. Nồng độ acétaldéhyde trong nước miếng có thể 10 đến 100 lần cao hơn trong máu, làm dễ sự xuất hiện của ung thư. Nồng độ này càng mạnh khi người ta đồng thời vừa hút thuốc và uống rượu, tạo nên một tác dụng cộng lực của rượu và thuốc lá trong các ung thư của các đường hô hấp-tiêu hóa trên (voies aéro-digestives supérieures) (miệng, thanh quản, hầu, thực quản). Thiếu vệ sinh răng• miệng cũng làm dễ sự hiện diện trong miệng của quần thể vi khuẩn gây nên sự tích tụ tại chỗ của acétaldéhyde từ alcool. Sự oxy hóa của alcool bởi khuẩn chí ruột với sự tích tụ tại chỗ acétaldéhyde cũng giải thích sự gia tăng quan trọng của nguy cơ ung thư đại-trực tràng nơi những người tiêu thụ đều đặn các đồ uống có chất cồn.
NHỮNG GỐC TỰ DO, VŨ KHÍ BÍ MẬT CỦA RƯỢU.
Sau khi được hấp thụ ở ruột, alcool được oxy hóa ở gan và được loại bỏ. Đó là xa lộ mà các đồ uống cồn đi qua với hiệu quả năng lượng mà ta đă biết... cho đến lúc, bị bảo ḥa, xa lộ gởi trả lại rượu thặng dư về phía các đường nối (bretelles), ở đó hoành hành cac gốc tự do, những loại phản ứng khả dĩ gây nên những chỗ găy và những thương tổn của các hệ sửa chữa của ADN, cũng như những rối loạn của sự điều ḥa của các gène bảo vệ, với sự tăng sinh vô tổ chức của các tế bào. Như thế, stress oxy hóa, liên kết với sự tăng sản xuất các gốc tự do trong lúc chuyển hóa rượu theo đường này, là một nguyên nhân quan trọng của ung thư gan. Theo cùng hiện tượng, rượu làm tăng tác dụng sinh ung thư của các độc chất có thể được chứa trong thức ăn hay các loại thuốc. Sự lạm dụng rượu cũng tác động lên cân bằng hormone với một vai tṛ làm dễ ung thư vú.
TIÊU THỤ CÓ MỨC ĐỘ : MỘT KHẨU HIỆU NGUY HIỂM...
Nguy cơ ung thư gia tăng theo lượng rượu được tiêu thụ. Nhưng điều này chỉ có tính cách chỉ dẫn, v́ lẽ mỗi người có một khả năng phản ứng và tính nhạy cảm khác nhau đối với rượu. Những chiến dịch pḥng ngừa giải thích những cái mốc “ tiêu thụ có ít nguy cơ hơn ” không nhấn mạnh đầy đủ nguy cơ mắc phải ung thư, phần lớn không được biết đến đối với những đồ uống cồn. Những chiến dịch hẳn phải khiến các người tiêu thụ giảm bớt sự tiêu thụ của họ, nhưng điều quan trọng là ghi chú rằng một nguy cơ tiềm tàng làm gia tăng một ung thư hiện hữu ngay cả đối với những tiêu thụ dưới những điểm mốc này. Cần khuyến nghị, trên cơ sở một đơn vị rượu =10g, đối với một người đàn ông, đừng vượt quá 21 đơn vị cồn mỗi tuần và 14 đối với một phụ nữ.
(LE FIGARO 17/5/2010)
9/ MỘT GENE LÀM BUỒN NGỦ VÀ BẢO VỆ KHỎI BỊ NHIỄM ĐỘC RƯỢU.
ADDICTION. Tại sao vài người rơi vào giấc ngủ chỉ sau một ly rượu van trong khi những người khác có thể liên hồi ly này qua ly khác cho đến cuối đêm mà chẳng thấy buồn ngủ chút nào ? Sự khác nhau có thể là do một gène. Một gène, theo các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, bảo vệ các cá thể , mà người ta thường nói là “ không chịu được ” rượu, khỏi bị phụ thuộc vào sản phẩm này.
Để đạt được kết luận độc đáo này, nhóm nghiên cứu của Denis McCarthy (đại học Missouri) đă theo dơi hành vi của 91 thanh niên Mỹ gốc Phi Châu trong những giờ sau khi uống một lượng rượu vừa phải. Người ta nhận thấy rằng những người có khuynh hướng buồn ngủ nhất sau khi đă uống thường mang một gène được gọi là ADH1B3 hơn. Thế mà, các nhà nghiên cứu khác đă xác lập rằng loại gène này của ADH (alcool déshydrogénase, một trong những men có trách nhiệm trong sự chuyển hóa của rượu) được liên kết với với một sự phụ thuộc rượu thấp. Gène này có một đặc điểm khác : nó hầu như chỉ được t́m thấy nơi những nhóm dân có nguồn gốc châu Phi. Theo Denis MacCarthy, công bố những kết quả trong tạp chí Clinical &Experimental Research, tác dụng an thần của rượu được quan sát nơi những người mang gène ADH1B3 có thể là một trong những giải thích về sự phụ thuộc ruợu (alcoolodépendance) của họ,“ những người ít muốn uống lượng lớn nếu điều đó làm họ mệt hơn là nếu đều đó kích thích hay làm mất ức chế họ, ông ta đă nêu lên như vậy. Thật vậy các nhà nghiên cứu chưa hẳn đă chọc thủng được tất cả các bí mật của các hành vi của chúng ta đối với rượu. Nhiều gène chịu trách nhiệm sự nhạy cảm đối với chứng nghiện này đă được nhận diện, chúng tương tác một cách phục hợp đối với môi trường. Nhiều yếu tố cá nhân và xă hội cũng được nhận biết : thất nghiệp, t́nh trạng công ăn việc làm mong manh, sự cô lập, chồng/vợ nghiện rượu hay các bệnh tâm thần như bệnh trầm cảm, bệnh tâm thần phân liệt hay các rối loạn nhân cách...
Ở quy mô gia đ́nh, nguy cơ phát triển một sự phụ thuộc rượu được nhân lên ba lần nơi các trẻ có người thân nghiện rượu, nhưng chỉ có một tỷ lệ nhỏ trong số các trẻ này cuối cùng trở thành phụ thuộc rượu (15% các con trai và 5% con gái ). Ngoài các gène, hành vi của các bố mẹ chúng và sự giáo dục của họ, các đứa trẻ bị ảnh hưởng nhiều bởi ...cinéma. Việc xem các phim cấm trẻ vị thành niên, trong đó 90% có những biểu diễn về rượu, có một vai tṛ không phải là không đáng kể, một cuộc điều tra nơi 3600 học sinh trung học Hoa kỳ mới được công bố gần đây đă kết luận như vậy. Trong hai năm theo dơi, chỉ 3% các thiếu niên đă không xem những phim như thế đă bắt đầu uống, trong khi tỷ lệ này là 19% trong số những thiếu niên đă đôi khi được xem những phim như vậy, và 25% nơi những thiếu niên đă được xem một cách không hạn chế những phim như vậy.
(LE FIGARO 10/5/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 183 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/7/2010 )
7/ BỆNH LOĂNG XƯƠNG : SỰ PH̉NG NGỪA LÀ CÔNG VIỆC CỦA SUỐT CẢ CUỘC ĐỜI.
Không phải bởi v́ bệnh loăng xương thường bắt đầu sau 60 tuổi nên phải đợi dến năm 50 tuổi mới bắt đầu phản ứng. Bởi v́ chúng ta vốn sinh ra không được b́nh đẳng và rằng khung xương của chúng ta cũng không thoát khỏi quy tắc đó, nên phải hành động để bù các xương mỏng manh (os fragiles), bằng cách tuân theo một cách rất nhanh chóng những thói quen tốt. “ Cái vốn xương (capital osseux) của chúng ta, ta có được phần lớn là do sự kế thừa của chúng ta (khoảng 70%). Cách dinh dưỡng của chúng ta, hoạt động vật lư của chúng ta,... can thiệp đến 30%. Tuy nhiên điều đó có thể đủ để làm nghiên cán cân của khối lượng xương của chúng ta về phía tốt và như thế ngăn ngừa hay hạn chế sự xuất hiện của một bệnh loăng xương ”, GS Thomas đă đánh giá như vậy.
Trong thời thiếu niên, kẻ thù tệ hại nhất của xương là chứng chán ăn (anorexie). Rối loạn hành vi ăn uống (trouble du comportement alimentaire) này có thể gây nên một bệnh loăng xương thật sự ngay lúc c̣n rất trẻ, với những hậu quả sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời. Lại c̣n tệ hại hơn khi chứng chán ăn này xảy ra nơi một cô thiếu nữ bởi v́ trong trường hợp này, sự sản xuất oestrogène có tính chất bảo vệ bị ngưng lại, như thế cô ta bị măn kinh. Và sự tiết các hormone khác cũng bị rối loạn, bắt đầu là leptine, một kích thích tố có nhiệm vụ điều ḥa sự ăn ngon miệng và có một tác động lên mô xương.
CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG, THUỐC LÁ, RƯỢU...
Ngoài chứng chán ăn, vài chế độ ăn uống, ở một mức độ nhỏ hơn, có thể đóng một vài tṛ có hại. Đó đặc biệt là trường hợp của những chế độ ăn uống quá nhiều muối và đạm (thí dụ quá nhiều thịt) làm dễ sự thất thoát calcium trong nước tiểu. Về thuốc lá và rượu được tiêu thụ quá mức, chúng có một tác dụng độc hại trực tiếp lên xương. Vả lại cũng như lên hầu hết các cơ quan khác..
Một chế độ ăn uống cân bằng, đủ dồi dào calcium (không nhất thiết là calcium phát xuất từ các sản phẩm sữa) là thiết yếu. Thế mà calcium, ta t́m thấy trong nhiều thức ăn : các nước uống, nhưng cũng có trong sardine (khoảng 330 mg đối với 100g), các brocolis (105mg/100g),các rau lá (légumew feuilles) (80mg/100g)…Dĩ nhiên phải ăn uống một cách cân bằng suốt cả cuộc đời, nhưng có lẽ c̣n hơn thế nữa vào tuổi dậy th́. Và v́ vitamine D là cần thiết cho sự hấp thụ và sự gắn của calcium lên xương, nên việc đi ra ngoài vào mùa đông hay dùng các bổ sung vitamine D trong trường hợp thiếu hụt là điều hợp lư. Đó là điều hầu như không thể thoái thác được khi lớn tuổi, bởi v́ khả năng hấp thụ của calcium ở ruột bị giảm. “ V́ lư do này, các thầy thuốc thường đề nghị calcium và vitamine D cho những bệnh nhân có một mật độ xương hơi thấp và điều này, trước khi kê đơn những loại thuốc của bệnh loăng xương ”, GS Thomas đă xác nhận như vậy.
(LE FIGARO 31/5/2010)
10/ RƯỢU VÀ CÁC THIẾU NIÊN : CÁC TẾ BÀO THẦN KINH BỊ LÂM NGUY.
Ở các thiếu niên, khuynh hướng các “ cuộc chè chén tốc hành ” (biture express) (hyperalcoolisation) , ngoài những nguy cơ xảy ra các tai nạn, là rất có hại cho năo bộ của chúng. Một công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ vừa cho thấy rằng trên mức nồng độ cồn trong máu 1,7g, việc lập đi lập lại những ngộ độc này gây nên những tổn hại nghiêm trọng cho các tế bào thần kinh của thùy hải mă (hippocampe) (nơi của trí nhớ và học tập).
(PARIS MATCH 1/7-7/7/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 186 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 09/8/2010 )
8/ SỰ SAY RƯỢU CÓ HẠI NGHIÊM TRỌNG CHO TUỔI TRẺ.
Một công tŕnh nghiên cứu trên các động vật linh trưởng (primate) xác nhận ảnh hưởng của rượu lên sự phát triển của thùy hải mă (hippocampe), vùng năo bộ cần thiết cho học tập và ghi nhớ.
Nơi các thiếu niên, một ly đă là quá nhiều, c̣n nhiều ly, th́ xin chào các tổn hại trên năo bộ ! Ít nhất cũng nơi khỉ macaque. Một công tŕnh nghiên cứu, được tiến hành trên động vật linh trưởng này, lần đầu tiên mang lại bằng cớ về ảnh hưởng của rượu lên sự phát triển của hồi hải mă (hippocampe), một vùng của năo bộ chủ yếu trong việc ghi nhớ và học tập. Các nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu Scripps (Californie) đă tạo khả năng cho hai nhóm khỉ macaque thiếu niên, được uống tha hồ, một lần mỗi ngày : những con khỉ thuộc nhóm thứ nhất uống nước đường, c̣n những con khỉ thuộc nhóm thứ hai uống nước tương tự nhưng có pha rượu. Và như thế trong 1 tháng. Kết luận : nhóm tiếp cận với rượu đă uống không có mức độ, thường đi đến một t́nh trạng say thực sự. Hai tháng sau khi cai rượu, bilan đối với thùy hải mă của chúng đă không thể đảo ngược : số các tế bào mới cũng như sự tăng sinh của chúng đă bị sụt giảm một nửa so với những động vật kiêng rượu.
Những kết quả này, than ôi, theo cùng chiều hướng với một công tŕnh nghiên cứu, được công bố bởi American Journal of Psychiatry vào tháng năm năm 2000, lần này được tiến hành trên người. Công trinh nghiên cứu này đă phát hiện, nơi các thiếu niên, một sự nhạy cảm mạnh hơn của thùy hải mă đối với rượu : thể tích của thùy hải mă càng bị thu giảm khi việc uống rượu đă bắt đầu càng sớm và càng kéo dài. Bây giờ chúng tôi biết rằng, năo bộ đang được tạo thành của các thiếu niên là rất nhạy cảm với độc tính của rượu, BS Georges Picherot, trưởng khoa nhi đồng của CHU de Nantes đă lấy làm lo ngại như vậy.Thế mà, việc tiêu thụ rượu mạnh lập đi lập lại, càng ngày càng có liên hệ đến các trẻ em dưới 15 tuổi.” Thật vậy, mặc dầu sự tiêu thụ rượu nh́n toàn bộ đang giảm đều đặn từ 50 năm qua, nhưng những hành vi đáng lo ngại như chứng nghiện rượu do nhu cầu giao tiếp xă hội (alcoolisme mondain) của những người trưởng thành và “ những cuộc chè chén tốc hành ” (beuveries express) nơi các vị thành niên. Chúng được liên kết với sự tiêu thụ rượu mạnh càng ngày càng thường xảy. Việc bán rượu whisky đă nhảy vọt 20% trong 5 năm vừa qua. Nơi các thiếu niên, nh́n toàn bộ sự tiêu thụ rượu vẫn ổn định và thấp hơn so với những nơi khác ở châu Âu, Georges Picherot đă nói thêm vào như vậy. Nhung chúng ta không thoát khỏi sự xuất hiện những trường hợp say cấp tính nơi những trẻ em càng ngày càng nhỏ tuổi. ”
(SCIENCES ET AVENIR 8/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 189 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 30/8/2010 )
8/ NHỮNG TÁC DỤNG CHỒNG BÉO PH̀ CỦA MỘT CHẤT DẪN XUẤT TỪ RƯỢU VANG.
Resvératrol cũng rất được nghiên cứu trong sự lăo hóa và các bệnh tim mạch.
OBESITE. Trong thiên nhiên, hiện diện nơi các loại rượu vang, nhưng cũng trong hơn 70 loài thực vật, trong đó có nho, lạc (arachide) hay cacao, resvératrol không ngừng làm say mê và làm ngạc nhiên các nhà nghiên cứu. Trong ṿng 20 năm, resvératrol (thuộc họ lớn các polyphénols) đă là đối tượng của hơn 3.300 ấn bản khoa học. Trước hết, do tính chất chống oxy hóa của nó, bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch và các ung thư. Resvératrol, được mang lại do sự hấp thụ đều đặn rượu vang, là một trong những giải thích sinh học cho cái nghịch lư Pháp (paradoxe français), cái mâu thuẫn rơ ràng giữa một tỷ lệ tử vong tim mạch thấp và một chế độ ăn uống giàu mỡ và đường. Những công tŕnh khác cũng phát hiện những lợi ích lên tuổi thọ, các bệnh thoái hóa thần kinh (affections neuro-dégéneratives), bệnh đái đường, chứng béo ph́. Mặc dầu chung đối với các polyphénols, nhưng những tác dụng này mạnh mẽ đối với resvératrol.
Công tŕnh nghiên cứu mới nhất, được công bố tuần này bởi một nhóm nghiên cứu người Pháp trong tạp chí BMC Physiology, mang lại những dữ kiện chưa từng có trước đây nơi những động vật linh trưởng (primate), khi chứng tỏ rằng resvératrol, khi được cho bổ sung, làm giảm một cách đáng kể sự lên cân vào mùa đông, do một sự gia tăng các tiêu hao năng lượng và một tác dụng cắt đói (effet coupe-faim). Cho măi đến nay, phần lớn các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trên những động vật gặm nhấm được làm béo ph́ bằng biến đổi di truyền (manipulations génétiques) hay bằng một chế độ tăng calo (régime hypercalorique). Nhóm nghiên cứu của Fabienne Aujard (CNRS, Museum national d’histoire naturelle, Brunoy) đă chọn nghiên cứu các microcèbe, những động vật linh trưởng nhỏ bé, nặng khoảng 100 g, có sinh lư học rất đặc biệt.
Những động vật họ vượn cáo (lémuriens) này có một nhịp theo mùa rơ rệt, chúng gia tăng gần như gấp đôi trọng lượng của chúng vào mùa đông nhờ một sự tích trữ mỡ dần dần. Ngoài ra, chúng là những sinh vật dị nhiệt (hétérotherme), nghĩa là nhiệt độ nội tại của chúng có thể giảm rất mạnh, điều này cũng là một nguồn tiết kiệm năng lượng. Với tuổi thọ từ 8 đến 10 năm, những động vật này là một mô h́nh càng ngày càng được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu để nghiên cứu sự lăo hóa, đặc biệt là năo bộ.
NHỮNG KẾT QUẢ CÓ SỨC THUYẾT PHỤC.
Trong ṿng 4 tuần, vào cái mùa khi mà chúng thường có khuynh hướng tích trữ mỡ cho mùa đông, 6 microcèbe đă chịu một chế độ ăn uống giàu resvératrol : 200mg/kg/ngày, một liều lượng lớn hơn liều mà một con người tiêu thụ một cách b́nh thường. Trọng lượng, nhiệt độ thân thể, các cung cấp và tiêu hao năng lượng đă được theo dơi cẩn thận.
Các kết quả rất có sức thuyết phục. “ Sự lên cân, thường là một gam mỗi ngày vào thời kỳ này, đă được chia cho năm ”, Fabienne Aujard đă kể lại như vậy. Một cán cân hơi dương tính, được giải thích bởi một sự gia tăng rơ rệt các tiêu hao năng lượng (gia tăng 29% của chuyển hóa lúc nghỉ ngơi) và một sự giảm các cung cấp năng lượng (13%, từ tuần lễ thứ ba). Các nhà nghiên cứu cũng nêu lên những biến thiên nhỏ nhất về nhiệt độ cơ thể của các microcèbe, mà không giảm hoạt động vật lư của chúng, trong khi b́nh thường chúng ở trong trạng thái đờ đẫn. “ Chúng tôi đă chờ đợi sự gia tăng các tiêu hao năng lượng, đă được mô tả nơi các con chuột. Điều đă làm cho chúng tôi ngạc nhiên, đó là tác dụng lên sự no nê (satiété), thuộc loại cắt đói (coupe-faim), hiện tượng này trước đây không được biết đến ”, Fabienne Aujard đă nhấn mạnh như vậy.
Công tŕnh của các nhà nghiên cứu của Brunoy chưa hẳn đă hoàn tất. Với cùng các con linh trưởng này, họ khảo sát các tác dụng lâu dài của resvératrol lên các bệnh lư liên quan đến tuổi tác và tuổi thọ của các động vật này.
TÁC DỤNG CẮT ĐÓI.
“ Những kết quả này rất là lư thú, đặc biệt là tác dụng cắt đói (effet coupe-faim), nhưng cần phải biết xem hiệu quả này có hiện hữu với những liều lượng sinh lư hơn của resvératrol hay không, GS Norbert Latruffe (unité Inserm 866“ lipides nutrition et cancers ”, Dijon), nghiên cứu các cơ chế tác dụng của resvératrol, đặc biệt trong lănh vực viêm và sự sinh ung thư (cancérogenèse), đă nhận xét như vậy. GS Johan Auwerx, thuộc Trường bách khoa liên bang của Lausane, cũng chào đón các công tŕnh trên một mô h́nh các động vật linh trưởng này. “ Đó là một bước nữa tiến về phía con người. Cách nay vài năm, nhà nghiên cứu này đă xác lập rằng các tính chất chống đái đường và chống béo ph́ của resvératrol được liên kết với sự hoạt hóa của một enzyme (sir1) thuộc họ các sirtuines. Thật vậy, resvératrol tác dụng bằng cách kích thích các ty lạp thể (trung tâm năng lượng của tế bào), do đó cơ thể bắt đầu đốt cháy các dự trữ của ḿnh.
Sau khám phá này, GS Auwerx đă nhận diện một phân tử tổng hợp, SRT 1720, một loại super-resvératrol, mà những kết quả đă là ngoạn mục nơi các con chuột. Từ nay, các chất hoạt hóa của sirtuines đang được thử nghiệm nơi người trong nhiều bệnh lư, trong đó có bệnh đái đường và các tim-mạch. Thay v́ các thuốc điều trị, từ nay GS Auwerx t́m cách dự kiến một chất bổ sung dinh dưỡng có chất căn bản là resvératrol. Nhưng c̣n lâu mới có để sử dụng . “Thànhphần cuối cùng chưa được xác định. Và với điều lệ mới của Châu Âu về các alicament, việc phát triển hứa hẹn sẽ dài lâu như đối với việc phát triển một loại thuốc ”, nhà nghiên cứu thở dài phát biểu như vậy.
(LE FIGARO 24/6/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 191 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 13/9/2010 )
9/ UỐNG MỘT ÍT RƯỢU LÀ TỐT ĐỂ LÀM GIẢM NGUY CƠ BỊ VIÊM ĐA KHỚP.
Uống rượu với lượng vừa phải được liên kết với một sự giảm đáng kể của nguy cơ phát triển một loạt các bệnh thấp khớp (maladies rhumatismales).
Uống rượu với lượng vừa phải được xác nhận là làm giảm nguy cơ phát triển một viêm đa khớp dạng thấp (polyarthrite rhumatoide), chứng hư khớp (arthrose), bệnh viêm khớp phản ứng (arthrite réactionnelle), viêm khớp vẩy nến (arthrite psoriasique) và đặc biệt là bệnh viêm cứng khớp đốt sống (spondylarthrite ankylosante), theo một công tŕnh nghiên cứu Ḥa Lan, được thực hiện trên 997 bệnh nhân bị những bệnh thấp khớp viêm (rhumatisme inflammatoire) khác nhau và 6.874 người chứng. Tác dụng đặc biệt có tính cách bảo vệ nơi những bệnh nhân bị viêm đa khớp dạng thấp với sự hiện diện của các kháng thể chống protéines citrullinées (ACPA : anticorps anti-protéines citrullinées).
Các nhà nghiên cứu đă chứng thực rằng mức độ viêm toàn thể càng gia tăng khi lượng rượu được tiêu thụ càng giảm, nhưng người ta không quan sát thấy một cách thật sự mối liên hệ giữa liều lượng-đáp ứng (relation dose-réponse). Đối với các tác giả của công tŕnh nghiên cứu, ta có thể đề xuất hai cách giải thích rất khác nhau trước điều chứng thực này : hoặc là các bệnh nhân vốn bị bệnh nặng hơn nên tiêu thụ ít rượu hơn trong khung cảnh sự biến đổi lối sống của họ do chính căn bệnh, hoặc sự hiện diện của rượu trong cơ thể có một tác dụng bảo vệ chống lại sự viêm toàn thể.
Thật vậy người ta đă làm một chứng thực như thế đối với viêm đa khớp dạng thấp, nhưng công tŕnh nghiên cứu cho thấy rằng tác dụng bảo vệ này của rượu cũng đóng một vai tṛ trong một loạt những bệnh viêm khớp khác, BS Anekoos Leonoor Huidekoper (đại học Leiden, Hoà lan) đă nhấn mạnh sự cần thiết một công tŕnh nghiên cứu đi xa hơn trong lănh vực các đường viêm (voie de l’inflammation) để hiểu một cách chính xác rượu có thể đóng vai tṛ bảo vệ của nó ở mức nào.
GS Paul Emery (Đại Học Leeds), chủ tịch của EULAR, thêm vào loại chứng chứng thực này lời cảnh cáo bắt buộc, khi nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là tiêu thụ rượu với lượng vừa phải, v́ lẽ một số vấn đề không những y khoa mà cả xă hội liên kết với việc uống rượu quá mức. Do đó, những lời khuyến nghị sử dụng rượu phải được đặt lại trong bối cảnh rộng lớn hơn này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 3/9/2010)
10/ RƯỢU VÀ RỐI LOẠN NHỊP TIM.
Sự tiêu thụ nhanh một lượng tương đối cao rượu có thể gây nên một loạn nhịp nhanh (tachyarythmie). Mặc dầu một sự cố như thế nói chung có một tiên lượng thuận lợi, nhưng bệnh nhân cần nên xem đó là một tín hiệu báo động.
Người ta biết từ lâu rằng sự lạm dụng măn tính rượu có thể là nguồn gốc của một bệnh cơ tim (cardiomyopathie) gây giăn sau một số năm nào đó, một bệnh cơ tim tự bản thân gây nên các loạn nhịp nhĩ hay thất (arythmie auriculaire ou ventriculaire). Cách nay khoảng hai mươi năm, các nhà nghiên cứu cũng đă khám phá rằng một sự hấp thụ ồ ạt rượu có thể gây nên những rối loạn nhịp nơi những người không hề bị bệnh tim trước đó.
17 LY MỖI NGÀY !
Vào năm 1978, thầy thuốc chuyên về tim Hoa Kỳ Philip Ettinger đă mô tả 32 đợt rối loạn nhịp nơi 24 bệnh nhân uống đều đặn những lượng lớn rượu. Mặt khác, đó trường hợp ngay trước đợt loạn nhịp của họ. Công tŕnh nghiên cứu này làm xuất hiện thuật ngữ holiday heart syndrome. Trên nguyên tắc, những người Mỹ hiểu chữ holiday là những ngày hội hè cuối năm. Tuy nhiên, thuật ngữ binge drinking, tương ứng với sự uống vào một lượng lớn rượu trong một thời gian ngắn, là một hiện tượng phát triển rộng răi và trước hết liên quan đến những kỳ nghỉ hè, và nhất là những người trẻ tuổi. Năm nay, Viện khoa học y tế công cộng flamand (Bỉ) đă xác lập rằng cứ 8 thanh niên từ 15 đến 24 tuổi th́ có một nhiễm độc alcool ít nhất một lần mỗi tuần. C̣n Viện chống cồn Ḥa Lan (Nederlands Instituut voor Alcoholbeleid) xác nhận rằng những thanh niên, trải qua những kỳ nghỉ học xa cha mẹ, uống trung b́nh 17 ly rượu mỗi ngày, so với 7 ly đối với các con gái. Nhiều cơ chế khác nhau giải thích tác dụng gây rối loạn của rượu lên nhịp tim. Ta có thể chia những cơ chế này thành những tác dụng trực tiếp và gián tiếp. Rượu làm giảm lượng sodium xuyên qua tế bào và khiến pH nội bào bị hạ xuống. Về các cơ chế gián tiếp, đó là sự phóng thích gia tăng adrénaline và noradrénaline, và một sự gia tăng các nồng độ trong máu của axít béo tự do cũng như sự sản xuất acétaldéhyde, chất chuyển hóa chính của éthanol.
TUỲ THEO TRƯỜNG HỢP.
Phải nghĩ đến holiday heart syndrome đứng trước một loạn nhịp nhanh nơi một người không có tiền sử về tim. Rối loạn thường gặp nhất là rung nhĩ (fibrillation auriculaire), thường biến mất một cách ngẫu nhiên trong 24 giờ. Cần ghi nhận rằng vài người bị rung nhĩ với một sự tiêu thụ rượu hoàn toàn có mức độ, đối với một người uống trung b́nh. Nói chung, bệnh nhân ghi nhận hồi hộp khiến phải đi khám bệnh. Trong trường hợp đáp ứng tâm thất nhanh (réponse ventriculaire rapide), ta có thể thấy xuất hiện một ngất xỉu, khó thở lúc gắng sức hay cơn đau thắt ngực. Hỏi bệnh sẽ t́m kiếm, chừng nào có thể được, những tiền sử về những đợt hôn mê rượu (coma éthylique) và một sự lạm dụng caféine.
Ngoại trừ tính không đều của nhịp tim và một t́nh trạng say rượu, thăm khám vật lư thường không có ǵ đặc biệt. Tuy nhiên nên kiểm tra kali-huyết, trong khi điện tâm đồ cho phép loại trừ những vấn đề khả dĩ khác, như một thiếu máu cục bộ (ischémie) hay một nghẽn mạch phổi (embolie pulmonaire). Có thể cần t́m kiếm những chẩn đoán bổ sung khác. Thật vậy phải ghi nhớ rằng bệnh nhân có thể bị một rung nhĩ ngay cả khi không uống rượu. Sau cùng, chúng ta hăy ghi nhận rằng những đợt binge drinking đều đặn có thể dẫn đến bệnh cơ tim (cardiomyopathie) hay những vấn đề thuộc về gan.
MỘT SỰ PHỤC HỒI NHANH CHÓNG VÀ VÀI BIỆN PHÁP CẦN LÀM.
Một monitoring điện tâm đồ có thể đủ. Người ta có thể cho một chất betabloquant để làm chậm lại một đáp ứng tâm thất quá nhanh. Sau khi rối loạn nhịp biến mất, các bệnh nhân trẻ không bị bệnh tim mạch không c̣n cần phải điều trị ǵ thêm nữa. Tuy nhiên, nên tránh mọi gắng sức quan trọng trong vài ngày sau đợt thiếu máu cục bộ liên kết với rượu, bởi v́ rối loạn nhịp có thể tái phát dưới ảnh hưởng của sự phóng thích catécholamine. Cũng vậy, caféine sẽ cần tránh trong thời kỳ này, và từ nay rượu sẽ bị chống chỉ định nơi những người này.
(LE GENERALISTE 2/9/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 193 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 27/9/2010 )
5/ TA CÀNG UỐNG, THỂ TÍCH NĂO CÀNG NHỎ.
Ethanol, cái phân tử nhỏ tan trong nước và một phần trộn lẫn trong mỡ này, len lỏi vào trong tất cả các tế bào. Sau khi được hấp thụ, trong vài phút, éthanol được phân bố đến tất cả các cơ quan, trong đó có năo bộ, gây nên những tác dụng khác nhau tùy theo lượng được uống vào. Như thế, nếu nhịp tim và huyết áp gia tăng sau ly đầu tiên, th́ chúng lại sụt giảm với những liều lượng mạnh hơn. Cũng vậy, nếu người uống lúc đầu cảm thấy một sự sảng khoái (désihibition), th́ sau đó anh ta cảm thấy những rối loạn vận động và nhận thức. Tác dụng an thần được khuếch đại, có thể dẫn đến hôn mê rượu (coma éthylique), thậm chí tử vong. Ngày nay, người ta biết rằng rượu có một tác dụng kép lên các neurone. Các tế bào thần kinh này được điều ḥa bởi các chất dẫn truyền thần kinh kích thích (excitateur) (glutamate) hay ức chế (inhibiteur) (GABA). Rượu ức chế nhiều hơn các thụ thể GABA và làm giảm hoạt tính của các thụ thế đối với glutamate. Kết quả : một sự ức chế năo bộ và hành vi. Chụp h́nh ảnh xác nhận tác dụng có hại này. Một công tŕnh nghiên cứu của Pḥng thí nghiệm chụp h́nh ảnh thần kinh (Laboratoire de neuro-imagerie) của Bethesda (Mariland, Hoa Kỳ), được thực hiện trên 20 người t́nh nguyện vào năm 2006, chứng minh rằng sự hấp thụ những liều lượng vừa phải rượu làm giảm chuyển hóa glucose trong năo bộ, đặc biệt là trong vùng vỏ năo truớc trán (cortex préfrontal) (nơi của những chức năng nhận thức cao cấp). Đáng lo ngại hơn, Wellesley College (Massachusetts, Hoa Kỳ), vào năm 2008, phát hiện, trên 1839 người, một mối liên hệ thẳng giữa việc tiêu thụ rượu và thể tích toàn bộ của năo : người ta càng uống nhiều rượu th́ thể tích năo càng giảm sút. Vào năm 2007, những nhà nghiên cứu của CEA và của Inserm đă chứng thực, trên 31 người phụ thuộc rượu (alcoolodépendant) một sự giảm chất xám trong nhiều vùng năo bộ và cho đến 20% ít hơn trong những vùng trán, cũng như một thương tổn của chất trắng (các sợi thần kinh). Tuổi lúc tiếp xúc lần đầu với rượu có tính chất quyết định. “ Chúng tôi đă cho thấy rằng một con chuột uống rượu trong thời kỳ niên thiếu có một khuynh hướng gia tăng bị nhiễm độc ở tuổi trưởng thành ”, Mickael Maassila, giám đốc nghiên cứu của Inserm (Amiens) đă giải thích như vậy.
Một tai họa : “ Năo bộ ở thời kỳ niên thiếu đang trong quá tŕnh thành thục, với sự tỉa cành phân nhánh các nối kết thần kinh và sự xuất hiện những neurone mới. Rượu cản lại hai cơ chế này và khiến các neurone bị chết 2,5 lần nhiều hơn nơi người trưởng thành ”, ông nói thêm như vậy. Vào năm 2000, American Journal of Psychiatry tiết lộ rằng, hồi hải mă (hippocampe) (vùng năo bộ có can dự trong trí nhớ và học tập) càng bị thu giảm thể tích khi sự uống rượu xảy ra càng sớm. Vào năm này, Viện Scripps (Californie) xác nhận : nơi các động vật linh trưởng nhỏ tuổi uống rượu, số những tế bào hải mă và sự tăng sinh của chúng sụt giảm một nửa so với những động vật không uống. Các công tŕnh nghiên cứu nơi chuột cho thấy rằng vỏ năo vùng trán (cortex frontal) cũng rất bị ảnh hưởng. Nhóm nghiên cứu của Mickael Naassila vừa phát động một công tŕnh nghiên cứu, cộng tác với Anh, để kiểm tra tác dụng này. Các sinh viên năm thứ nhất sẽ chịu những trắc nghiệm thần kinh-tâm lư và chụp h́nh ảnh năo bộ hôm nay và trong 3 năm nữa, để quan sát xem nhưng đồ đệ của binge drinking (được định nghĩa ít nhất 5 ly rượu uống nhanh) có bị mất các năng lực của họ hay không.
(SCIENCE ET AVENIR 9/2010)
6/ NHỮNG ĐIỀU TRỊ CÁ THỂ HÓA CHỐNG CHỨNG NGHIỆN RƯỢU.
Tính hiệu quả của các thứ thuốc nhằm làm dễ sự cai rượu thay đổi tùy theo profil di truyền và lâm sàng của bệnh nhân.
ADDICTION. Những loại thuốc mới, nhưng chủ yếu những điều trị nhắm đích hơn, tùy theo profil di truyền hay lâm sàng của các bệnh nhân. Cũng như những lănh vực khác của y khoa, và nhất là ung thư, sự nghiên cứu điều trị trong alcoologie đă di vào một kỷ nguyên mới, theo các chuyên gia hội họp từ 13 đến 16 tháng 9 ở Paris, ở hội nghị quốc tế của Isbra (International Society for Biomedical Research on Alcoholism)
Sư phụ thuộc rượu (dépendance à l’alcool) là chứng nghiện (addiction) phổ biến nhất trên thế giới, và là chứng nghiện gây tàn phá nhất về mặt sức khỏe vật lư và tâm thần. Ở Pháp, sự tiêu phụ rượu đang giảm xuống, nhưng vẫn quan trọng. Số những người uống quá mức được đánh giá là 5 triệu, số những người phụ thuộc rượu (alcoolodépendants) là 2 triệu.
“ Chúng tôi biết xác định càng ngày càng rơ hơn các loại lâm sàng của phụ thuộc rượu, và liên kết chúng với những đặc điểm di truyền, để thích ứng các điều trị ”, GS Michel Raynaud, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần (Paris) và là người tổ chức hội nghị, đă loan báo như vậy. Hiện nay, chỉ có vài loại thuốc được phép lưu hành trên thị trường. Acamprosate (Aotal) và naltrexone (Revia), kềm chế sự thèm uống, là một hỗ trợ để điều trị sự cai uống. Disulfirame (Espéral) tác dụng bằng cách gây nên những rối loạn khó chịu (phừng mặt, nôn mửa...) trong trường hợp uống đồng thời với rượu. Những kết quả của chúng là không phủ nhận được nhưng nh́n toàn bộ vẫn c̣n khiêm tốn. “ Trung b́nh, sau một năm, naltrexone và acamprosate giúp cho 30% những người nghiện rượu, điều này muốn nói 70% trường hợp thất bại. Nhưng từ nay chúng ta biết rằng tỷ lệ những người đáp ứng là cao hơn nhiều trong vài nhóm, GS Karl Mann (nhà chuyên khoa về nghiện ở Đức) đă giải thích như vậy. Tỷ lệ đáp ứng đối với naltrexone lên đến 50% nơi những bệnh nhân mang một gène đặc biệt. Một đặc điểm di truyền khác ảnh hưởng lên đáp ứng đối với acamprosate.
Hiện nay, phương pháp di truyền-dược lư (pharmaco-génétique) này chỉ ở trong giai đoạn nghiên cứu, GS Michel Lejoyeux, thầy thuốc tâm thần (Paris) và chủ tịch của Hiệp hội về rượu học (alcoologie) Pháp đă nhấn mạnh như vậy. Tương tự đối với những thăm khám h́nh ảnh, và đặc biệt là IRM, một phương pháp cũng đầy hứa hẹn để tiên đoán tính hiệu quả của một thứ thuốc hay một nguy cơ tái phát.
Nhưng sự đáp ứng với điều trị cũng có thể đánh giá đơn giản hơn, theo những tiêu chuẩn lâm sàng. GS Mann đă hiệu chính một bảng câu hỏi gồm khoảng 15 đề mục cho những bệnh nhân bị tái phát. Những bệnh nhân uống rượu trở lại trong một bối cảnh hội hè đáp ứng với naltrexone tốt hơn những người uống lại trong một khung cảnh trầm uất, nhà chuyên gia người Đức đă giải thích như vậy.
Đồng thời, những loại thuốc mới đang được nghiên cứu. Trong số những thuốc mới nhất, nalmefene, đối tượng một thử nghiệm lâm sàng ở Pháp. “ Loại thuốc này tác dụng lên các thụ thể opioide như naltrexone. Nhưng ở đây mục tiêu lại khác, đó không phải là sự cai nghiện mà là trở lại một sự tiêu thụ được kiểm soát (une consommation contrôlée) ”, GS Lejoyeux đă xác nhận như vậy. Những kết quả quyết định được dự kiến năm 2011. Đối với bệnh nhân cũng như đối với các nhà nghiên cứu rượu học, khái niệm “ sự tiêu thụ được kiểm soát này mới xuất hiện gần đây. Cho măi đến ngày hôm nay, sự cai rượu (abstinence) là mục tiêu duy nhất. “ Sự tiêu thụ được kiểm soát là một hướng nghiên cứu rất lư thú, nhưng vẫn phải thận trọng đối với thực hành hàng ngày ”, GS Lejoyeux c̣n xác nhận như vậy.
Những loại thuốc cũ hơn, nhưng được kê đơn trong những căn bệnh khác, như baclofène (myorelaxant) hay topiramate (thuốc chống động kinh) cũng đang được đánh giá. Nhưng dầu hiệu quả của chúng như thế nào đi nữa, thuốc men không phải là tất cả. Điều trị thuốc, đó là 30% của điều trị, những thầy thuốc chuyên khoa tâm thần đánh giá như vậy. Sự đi kèm xă hội (accompagnement social) và tâm lư liệu pháp vẫn là yếu tố thiết yếu.
(LE FIGARO 15/9/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 195 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/10/2010 )
9/ BỆNH ALZHEIMER : UỐNG MỘT ÍT … ĐỂ KHỎI MẤT TRÍ
Ư tưởng thật nghịch lư. Nhưng những công tŕnh nghiên cứu mới đây đă gợi ư một cách nghiêm chỉnh rằng, một sự tiêu thụ có mức độ rượu, và rượu vang, có thể có một vai tṛ ngăn ngừa chống sự xuất hiện của bệnh Alzheimer. Công tŕnh nghiên cứu này, được thực hiện bởi đại học Wale Forest (Caroline du Nord, Hoa Kỳ) trên 3.000 người 75 tuổi hoặc hơn, cho thấy rằng một hay hai ly mỗi ngày sẽ làm giảm 40% nguy cơ phát triển một rối loạn nhận thức (trouble cognitif). Về các cơ chế, th́ đó c̣n là một bí mật lớn. Trong khi đó cùng nguy cơ được nhân lên hai nơi những người tiêu thụ nặng, hơn 14 ly mỗi tuần.
Một kết quả cần phải uyển chuyển, đối với BS Luc Letenneur, nhà dịch tễ học thuộc Viện y tế công cộng, dịch tễ và phát triển (Bordeaux). “ Những công tŕnh nghiên cứu khác được gọi là quan sát th́ lại không ḥa hợp. Và các ư kiến th́ mâu thuẫn, không những về liều lượng bảo vệ mà c̣n loại rượu được tiêu thụ.” Điều này có nghĩa là ta không biết phải uống bao nhiêu và uống cái ǵ. Thế th́ trên thực tiễn, phải rút ra những lời khuyến nghị nào ? “ Các lăo niên không có chống chỉ định y khoa và không có sự tiêu thụ gây vấn đề, có thể tiếp tục uống một cách chừng mực, nhà khoa học đă tŕnh bày như vậy. Bởi v́ điều đó có thể góp phần cho một chế độ ăn uống tốt lành, một khả năng giao thiệp tốt hơn, nói vắn tắt, góp phần làm cho “ già mà mạnh khỏe ” (bien vieillir). Ngược lại, không nên bắt uống người nào đó đă chưa bao giờ uống cả. “ Cồn hay rượu vang không và sẽ không bao giờ là một thứ thuốc pḥng ngừa cả.”
(SCIENCES ET AVENIR 9/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 196 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/10/2010 )
9/ BỆNH BÉO PH̀ : UỐNG MỘT ÍT...ĐỂ GẦY MỘT ÍT.
Ta tha hồ nói điều đó trong tất cả các régime : cồn (alcool), bao gồm rượu vang (vin), làm béo ph́, v́ lẽ các calo mà nó chứa. Thật vậy, mỗi gam chứa 7 kcal, so với 4 đối với glucide và protéine, 9 đối với các lipide. Điều này có nghĩa là 1 ly rượu vang 100 ml, hoặc 10 g cồn, tương ứng với 70 kcal, một ly rượu khai vị (apéritif) 25 ml tương ứng với 60 kcal và một lon bia 250 ml tương đương với 100 kcal. Nhưng, tại sao những người tiêu thụ quá mức lại không bị béo ph́ ? Một công tŕnh nghiên cứu mới đây đă chứng minh rằng ṿng thân (tour de taille) của những người nghiện rượu không quan trọng hơn ṿng thân của những người kiêng khem. Những người nghiện rượu có một chỉ số khối lượng thân thể (IMC : indice de masse corporelle) ngay cả dưới mức trung b́nh. Trả lời : các calo phát xuất từ rượu đều “ trống rỗng ”. Bởi v́ rượu được chuyển hóa trong một hệ thống đặc biệt, được gọi là hệ thống oxy hóa éthanol của ty lạp thể (Meos : système mitochondrial d’oxydation de l’éthanol), hệ thống này tiêu thụ rượu dưới dạng nhiệt lượng hơn là tích trữ nó.
Vậy chính không phải chứng béo ph́ đe dọa những người nghiện rượu, mà đúng hơn là sự suy dinh dưỡng, như xảy ra nơi 15 đến 30% những người phụ thuộc rượu (alcool-dépendant) ! Những t́nh trạng thiếu sắt, folate và vitamine được quan sát trong nhóm những người này, v́ những lư do kinh tế xă hội, thường kém dinh dưỡng. Tuy nhiên, tùy theo tính chất của rượu được uống, những calo thật sự cũng có thể được hấp thụ vào. Đó đặc biệt là trường hợp của các rượu khai vị như porto hay muscat, có nhiều đường, hay bia, chứa mạch nha (malt). Những cung cấp năng lượng thật sự như thế được tích trữ. Nhưng cũng đừng quên tất các những calo phát xuất...từ đậu phụng (cacahuètes) của rượu khai vị ! Bởi v́ rượu kích thích ăn ngon. Ngược lại, một công tŕnh nghiên cứu khác mới đây đă cho thấy rằng, nơi những phụ nữ trên 39 tuổi, những người uống từ 15 đến 30 g mỗi ngày (một ly rưởi đến 3 ly mỗi ngày), nguy cơ tăng thể trọng hạ 30% so với những người kiêng khem. Nhưng chú ư điều đó chỉ được quan sát trong 10 năm và biến mất sau 50 tuổi !
(SCIENCES ET AVENIR 9/2010)
|