Thread: Your's Health
View Single Post
Old 05-12-2019   #764
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

THÔNG TIN Y HỌC VỀ TRÀ (Tea)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Trà (Tea)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 10 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 23/1/2007 )

2/ PAS DE LAIT DANS LE THE

Sửa hủy bỏ những tác dụng có lợi của trà lên chức năng huyết quản. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm chững tỏ rằng trà có đặc tính antioxydant, chống viêm và giăn mach.Thêm sửa vào trà có biến đổi những đặc tính này không ? Một nhóm nghiên cứu người Đức, Mario Lorenz và các cộng sự viên đă phân tích trên 16 phụ nữ khoẻ mạnh. Cac phụ nữ t́nh nguyên này phai uong 3 lần, mỗi lần 500ml : hoac trà đen mới pha chế, hoặc trà đen với 10% sửa không có kem, hoặc nước sôi (nhóm kiểm chứng).

Chức năng ṇi mạc (endothélium) của động mạch cánh tay được do bằng siêu âm,trước và 2 giờ sau khi uống. Các kết quả chứng tỏ rằng, so với nước, trà đen cái thiện đáng kể chức năng nội mac huyết quản, trong khi đó thêm sửa vào trà sẽ hủy bỏ hoàn toàn tác dụng này. Trong sô các protéines khác nhau của sửa, caséine tham gia vào tác dụng cản này, có lẻ bằng cách tạo nên những phức hợp với các catéchines của trá.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 16/1/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 16 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 4/3/2007 )

4/ SỮA HUỶ BỎ HIỆU QUẢ CỦA TRÀ

Một làn sữa mỏng sẽ làm tiêu tan tác dụng bảo vệ của trà den lên các mạch máu ( tác dụng bảo vệ này là do các tính chất chống oxi hoá,chống viêm và giăn mạch của trà den).Theo nhóm nghiên cứu ở Berlin, so sánh các tác dụng của trà thiên nhiên với trà pha sữa lên độ dẻo của mạch máu,thi 3 caséines cùa sửa là nguyên nhân của tác dụng hủy bỏ này.Các protéines này liên kết với catéchines là những phân tử có tác dụng có lợi của trà.Sự biến đổi hoá học này làm giảm nồng độ catéchines và huỷ bỏ đặc tính bảo vệ của chúng
( SCIENCE ET VIE 3/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 23 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 29/4/2007 )

1/ TRÀ XANH BẢO VỆ CHỐNG BỆNH SIDA ?

Các nhà khoa học đă nhân diện một cấu chất trong trà xanh có khả năng đua tranh với siêu vi khuẩn HIV bằng cách ngăn cản tác dụng của siêu vi khuẩn này lên hệ miễn dịch.Chất cấu thành của trà xanh nêu trên là épigallocatéchine gallate (EGCG).EGCG đến tọa vị trước các thụ thể (récepteurs) CD4 của các T4 và như vậy ngăn cản virus HIV liên kết với hệ miễn dịch.Theo M.Willamson,sự việc uống trà xanh có thể làm giảm nguy cơ bị nhiễm trùng bởi HIV và giới hạn sự khuếch tán của siêu vi khuẩn.Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cho biết rằng nước trà xanh không phải là một điều trị chống bệnh Sida và dầu sao đó cũng không phải là một phương cách chắc chắn đề pḥng ngừa nhiễm trùng HIV.

Đúng hơn nếu trà xanh kết hợp với các thuốc điều trị thường dùng có thể góp phần tạo cho các bệnh nhân có huyết thanh dương tính một cuộc sống có chất lượng hơn. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng nghiên cứu của họ đang c̣n ở trong một giai đoạn rất sớm sủa: c̣n cần phải thực hiện các nghiên cứu trên động vật trước khi có thể rút ra những kết luận về một hiệu quả bảo vệ khả dĩ của trà xanh.Các nhà nghiên cứu cũng nhắc lại rằng các nghiên cứu chỉ quan tâm đến khả năng in vitro của một thành phần hóa học của trà xanh trong việc phong tỏa sự nối kết giữa HIV với những CD4 của người. Nhưng đă nhiều lần được chứng tỏ rằng các chất có khá năng in vitro ngăn cản một nhiễm trùng do HIV lại không có thể như vậy trong t́nh huống thực tế.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/4/2007)

color=purple]THỜI SỰ Y HỌC SỐ 50 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 10/11/2007 ) [/color]

6/ CAFE, TRÀ : TỐT CHO CÁC PHỤ NỮ TRÊN 65 TUỔI

Tiêu thụ ít nhất 3 tách café hoặc 6 tách trà mỗi ngày sẽ có tác dụng có lợi lên các chức năng nhận thức (fonction cognitive) của các phụ nữ 65 tuổi hoặc hơn. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được tiến hành trong 4 năm bởi nhóm nghiên cứu Karen Richie của Viện quốc gia y tế và nghiên cứu y học (INSERM) trên gần 7000 người.

Caféine đặc biệt có một vai tṛ dương tính chống lại các rối loạn liên kết với bệnh Alzheimer ( trí nhớ, luận lư, ngôn ngữ ). Các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này của họ thêm 2 năm nữa, đánh giá rằng việc tiêu thụ caféine có lẽ không đóng vai tṛ lên sự xuất hiện của bệnh Alzheimer mà chỉ có ảnh hưởng lên tiến triển của bệnh mà thôi.
(READER’S DIGEST 11/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 81 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 13/6/2008 )

2/ CÀ PHÊ, TRÀ VÀ NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ

Ganmaa và các cộng sự viên ( Hoa Kỳ) đă thu góp các dữ kiện liên quan đến 86.000 phụ nữ đă tham gia vào công tŕnh nghiên cứu Nurses’ Health Study về sự tiêu thụ cà phê, trà và caféine. Các người tham gia ở trong lứa tuổi 30 đến 55 vào lúc khởi đầu công tŕnh nghiên cứu. Suốt trong 22 năm theo dơi, 5.272 phụ nữ trong số những người tham gia, đă phát triển một ung thư vú. Sau khi điều chỉnh về các yếu tố khác nhau khả dĩ ảnh hưởng lên các kết quả (tuổi tác, chứng nghiện thuốc lá, thể dục, các tiền sử gia đ́nh ung thư vú, t́nh trạng măn kinh, các tiền sử về điều trị bằng hormone, số con có đuợc), các nhà nghiên cứu đă không nhận thấy rằng nguy cơ bị ung thư vú nơi các phụ nữ uống ít nhất 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày là cao hơn so với các phụ nữ chỉ uống mỗi tách mỗi ngày.
(LE JOURNAL DU MEDECIN (6/6/2008 )

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 82 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 20/6/2008 )

9/ RAU XANH, TRÀ, RƯỢU VANG VÀ CACAO CÓ LỢI CHO NHỮNG NGƯỜI HÚT THUỐC

Các flavonoides là những chất chống gây ung thư (anticancérigènes). Nguy cơ phát triển ung thư phổi được giảm 32 đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định.

Thở, đó là tự oxy hóa ! Thật vậy việc sử dụng oxy, sinh tử, cũng sản sinh những dạng oxy được gọi là phản ứng (réactif), có thể tấn công những cấu trúc sinh học. Những hiện tượng oxy hóa này được xem như là một yếu tố lăo hóa và là một yếu tố làm dễ nhiều loại bệnh khác nhau, nhất là ung thư. Vậy phổi đứng hàng đầu trong việc chịu các hiện tượng này.

Việc tiếp xúc này lại càng rơ nét hơn đối với những người hút thuốc, và người ta đánh giá rằng sự tiếp xúc với oxy phản ứng góp phần rất lớn trong việc làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Vấn đề t́m biết xem việc hấp thụ các hợp chất có khả năng làm giảm thiểu các hiện tượng oxy hóa và các tổn hại do các hiện tượng này gây ra, đă làm ngứa ngáy các nhà nghiên cứu từ nhiều năm qua. Các hợp chất này ám chỉ các chất chống oxy hóa (antioxydants). Một vài chất chống oxy hóa là các vitamine hay những oligo-éléments, nhưng nơi dự trữ các chất chống oxy hóa lớn nhất là các flavonoide, một họ gồm hơn 4.000 phân tử.

Trong pḥng thí nghiệm, các flavonoides đă chứng tỏ, ngoài khả năng chống oxy hóa đôi khi rất mạnh, những tính chất chống đột biến (antimutagénique) và chống ung thư. Được cổ vũ, các nhà khoa học đă thăm ḍ những mối liên hệ giữa sự hiện diện của những hợp chất này trong thực phẩm và sức khỏe của dân chúng. Các thức ăn như rau xanh, trái cây, trà, rượu vang và ngay cả cacao đều giàu các flavonoides. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă báo cáo sự hiện hữu của một mối liên hệ nghịch giữa việc tiêu thụ các flavonoides khác nhau và nguy cơ của vài bệnh tật, đặc biệt là trong lănh vực tim mạch.Và chính đó là điều vừa được chứng nhận bởi một nhóm các nhà dịch tễ học bao gồm những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ và Trung Quốc, đối đầu với ung thư phổi. Các nhà nghiên cứu mà các công tŕnh được công bố trong Cancer, đă nghiên cứu sự tiêu thụ flavonoides nơi 558 người đă phát triển một ung thư phổi, và nơi 837 người làm nhóm kiểm tra.

Công tŕnh nghiên cứu tiết lộ rằng nơi những người hút thuốc, nguy cơ phát triển ung thư phổi được thu giảm từ 32% đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định rơ. Mặt khác, các rau xanh, trà và rượu vang, các nguồn thực phẩm quan trọng của flavonoides, cũng tỷ lệ nghịch với nguy cơ phát triển một ung thư phổi. Tuy nhiên không có một tác dụng đáng kể nào nơi những người không hút thuốc. Các dữ kiện của nghiên cứu gợi ư rằng các flavonoides có thể có một lợi ích đặc biệt nơi các người nghiện thuốc lá mặc dầu sẽ là ảo tưởng khi hy vọng rằng có thể huỷ bỏ tất cả các tác dụng của thuốc lá bằng các chất chống oxy hóa (antioxydants).
: (LE SOIR 11/6/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 84 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 09/07/2008 )

10/ CAFEINE CHỐNG UNG THƯ DA

Sự tiêu thụ caféine trong một đến hai tuần làm gia tăng hiện tượng chết được chương tŕnh hóa (apoptose hay mort programmée) của các tế bào biểu b́ bị biến đổi do tiếp xúc với các tia tử ngoại B và làm giảm nguy cơ biến đổi thành ung thư của chúng. Những dữ kiện này có được nơi loài gậm nhấm với các liều lượng caféine tương đương 3 đến 5 tách cà phê mỗi ngày. Các dữ kiện này xác minh những quan sát dịch tễ học cho thấy rằng những người uống cà phê hay trà bị ung thư da ít hơn so với phần dân chúng c̣n lại.
(SCIENCES ET AVENIR 7/2008).

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 90 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 22/08/2008 )

5/ TRÀ ĐEN LÀM CHẬM SỰ SUY THOÁI CỦA NĂNG LỰC NHẬN THỨC

Công tŕnh nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm dường như cho thấy rằng trà có một tác dụng bảo vệ lên chức năng thần kinh nhận thức (fonction neurocognitive). Tuy nhiên các kết quả này chưa được chứng tỏ nơi người. Một nhóm nghiên cứu của Singapour đă cố gắng chứng tỏ điều đó. Tze-Pin Ng và các cộng sự viên đă đo lường mức độ tiêu thụ trà của một nhóm người Hoa (2.501 người) 55 tuổi trở lên, vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu và 1 đến 2 năm sau. Họ cũng bắt các người tham gia chịu một trắc nghiệm Mini mental state, hay Test de Folstein.

Các kết quả cho thấy rằng việc tiêu thụ toàn bộ trà được liên kết một cách đáng kể với tỷ lệ thấp hơn bị rối loạn nhận thức (trouble cognitif). Những tác dụng này rơ ràng hơn đối với trà đen (thé noir) (được lên men) hay oolong (được lên men một nửa), là những thứ trà chủ yếu được uống bởi những người này. Trái lại, các nhà nghiên cứu không t́m thấy mối liên hệ giữa cà phê và t́nh trạng nhận thức.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/8/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 105 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 11/12/2008 )

4/ TRÀ TRÁNH XÓI M̉N RĂNG

Uống ǵ đây? Soda, nước trái cây vắt hay trà? Theo một công tŕnh nghiên cứu Hoa kỳ, nếu mục tiêu là để tránh xói ṃn ở ngà răng, th́ tốt hơn nên uống trà đen hay xanh. Đây là điều được giải thích bởi Mohamed A.Bassiouny và các cộng sự viên trong General Dentistry, tờ báo của Viện Hàn lâm Nha Khoa Tổng Quát của Hoa Kỳ. Đó là một đặc tính được thêm vào những đặc tính khác để được chứng minh của trà, như những tính chất chống oxy-hóa, hay khả năng làm hạ tỷ lệ mắc bệnh ung thư, các bệnh tim mạch và bệnh đái đường.

Như thế các tác giả đă so sánh tác dụng xói ṃn, trước mắt và lâu dài, của trà đen và xanh, của soda và nước trái cây vắt lên các chiếc răng. Họ đă nhận thấy rằng trà có một tác dụng tương tự với nước, nghĩa là không ăn ṃn, trái với các chất uống có khí (boissons gazeuses) và các nước trái cây vắt chứa quá nhiều đường được thêm vào và quá dồi dào acide citrique. Tuy nhiên họ khuyên những người uống trà tránh thêm sữa, chanh hay đường bởi v́ chúng làm giảm tác dụng của các flavonoides. Cũng tương tự đối với các trà đá (iced tea) chứa acide citrique và những lượng lớn chất đường.

Nếu không th́ trà uống nóng hay uống lạnh đều không quan trọng, miễn rằng trà được pha chế trong gia đ́nh, không thêm các chất phụ trợ. Tuy nhiên, đối với những kẻ không thể không uống nước uống acide, các tác giả khuyên uống với một ống rơm, nhai chewgum không đường để làm gia tăng sự sản xuất nước miếng hay để súc miệng với nước nhằm trung ḥa các acide và chờ một giờ trước khi đánh răng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/12/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 109 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/1/2009 )

5/ RƯỢU VANG, TRÀ VÀ CHOCOLAT ĐỐI VỚI NĂO BỘ ?

Các ông và các bà lớn tuổi, tiêu thụ rượu vang giàu flavonoide, trà và chocolat, có những hiệu năng tốt hơn lúc thực hiện những trắc nghiệm về khả năng nhận thức (tests cognitifs). Đó là điều đă được chứng minh bởi một nhóm nghiên cứu Anh-Na Uy. Nhóm nghiên cứu này đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ 3 thức ăn thức uống chứa flavonoides (chocolat, rượu vang và trà) và những hiệu năng nhận thức (performances cognitives). 2.031 người tham dự (70-74 tuổi, 55% là phụ nữ) đă được tuyển mộ và đă chịu những trắc nghiệm về khả năng nhận thức.

Các kết quả cho thấy rằng, so sánh với những người không ăn chocolat, không uống rượu vang hay trà, những người tiêu thụ chúng có những điểm số tốt hơn một cách đáng kể lúc làm những trắc nghiệm nhận thức và có tỷ lệ hiệu năng nhận thức kém thấp hơn.

Những người tiêu thụ ba loại thức ăn nước uống này có những điểm số tốt hơn và nguy cơ có những hiệu năng kém lúc làm trắc nghiệm thấp nhất. Những mối liên kết giữa sự tiêu thụ các thức ăn nước uống này và khả năng nhận thức (cognition) tùy thuộc vào liều lượng (dose-dépendante), với một hiệu quả tối đa đối với những tiêu thụ khoảng 10g chocolat mỗi ngày và khoảng 75-100 ml rượu vang mỗi ngày, nhưng theo đường thẳng đối với trà. Phần lớn những chức năng nhận thức được trắc nghiệm bị ảnh hưởng bởi 3 thức ăn thức uống này. Hiệu quả rơ rệt hơn đối với rượu vang và hơi thấp hơn đối với chocolat.

Do đó, trong tuổi già, một chế độ thức ăn thức uống nhiều flavonoides được liên kết với những hiệu năng tốt hơn đối với vài năng lực nhận thức và điều này tùy thuộc vào liều lượng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/1/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 112 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH ( 6/2/2009 )

6/ TRÀ VÀ CÀ PHÊ CHỐNG LẠI CHỨNG SA SÚT TRÍ TUỆ DO TUỔI TÁC

Caféine kích thích hệ thần kinh trung ương ngắn hạn, nhưng tác dụng về lâu về dài của nó là tác dụng nào ? Những nhà nghiên cứu Phần lan, cộng tác với một nhóm nghiên cứu của Viện Karolinska ở Stockholm, đă nghiên cứu sự liên kết giữa việc tiêu thụ cà phê và/hoặc trà ở tuổi 50 với chứng sa sút trí tuệ/bệnh Alzheimer về sau này trong cuộc đời.

Công tŕnh nghiên cứu Cardiovascular Risk Factors, Aging and Dementia đă đưa vào nghiên cứu những người sống sót của Projet North Karelia và của công tŕnh Finmonica năm 1972, 1977, 1982 hay 1987 (thăm khám lúc ở tuổi 50). Sau một theo dơi trung b́nh 21 năm, 1.409 người (71%) tuổi từ 65 đến 79 tuổi, chịu một thăm khám y khoa hoàn chỉnh năm 1998. 61 trường hợp sa sút trí tuệ (48 với Alzheimer) đă được nhận diện.

Vào lúc thăm khám ở tuổi 50, sự tiêu thụ cà phê và trà đă được ghi nhận và những người uống cà phê được xếp thành 3 loại : những người uống ít (0-2 tách/ngày), trung b́nh (3-5 tách/ngày) và uống nhiều (hơn 5 tách/ ngày). So sánh với những người không uống hoặc uống ít cà phê, những người uống vào lúc 50 tuổi có một nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer thấp hơn về sau này trong cuộc đời. Nguy cơ thấp nhất (giảm 65%) được nhận thấy nơi những người uống 3-5 tách cà phê mỗi ngày. Uống trà tương đối hiếm và không liên kết với chứng sa sút trí tuệ/Alzheimer. Đối với các tác giả, Marjo Eskelinen và các cộng sự, uống cà phê ở tuổi trung niên được liên kết với một sự giảm nguy cơ mắc phải sa sút trí tuệ /Alzheimer vào lúc lớn tuổi sau này. Khám phá này có thể mở ra những khả năng pḥng ngừa, đặc biệt là dinh dưỡng, các chứng sa sút trí tuệ.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 23/1/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 158 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 25/1 /2010 )

4/ CHỐNG BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2 : TRÀ HAY CÀ PHÊ ?

Một nhóm nghiên cứu Úc Đại Lợi đă phân tích 18 công tŕnh nghiên cứu có chất lượng (trên 458.000 bệnh nhân) để đánh giá, từ năm 1966 đến 2000, những tương quan giữa việc tiêu thụ trà, cà phê và sự xuất hiện bệnh đái đường loại 2. Những loại nước uống này có một tác dụng bảo vệ quan trọng : 3 hay 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày làm giảm nguy cơ bị bệnh đái đường lần lượt 20% và 30% so sánh với những người không uống hoặc cà phê hoặc trà. Lợi ích này là do sự hiện diện của các chất chống oxy hóa (oxydant) và của magnésium
(PARIS MATCH 14/1-20/1 /2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 160 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 8/2/2010 )

3/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CÁC FLAVONOIDE CỦA RƯỢU VANG, TRÀ, CACAO.

Viện hàn lâm dược học quốc gia hôm qua đă thảo luận về những đóng góp có lợi lên tim và năo bộ của những chất được chứa trong vài loại thức ăn.

PREVENTION. Rượu vang, trà, chocolat, là chủ yếu, và những thực phẩm khác chứa những chất flavonoides, có những tác dụng chống oxy hóa (antioxydant) và chống viêm, với một hiệu quả bảo vệ lên tim và năo bộ. Từ 15 năm nay, các nghiên cứu gia tăng về những chất được chứa trong thực phẩm này. Hôm qua, Viện dược học quốc gia đă dành một trong những buổi họp để bàn về những tác dụng lên sức khỏe của những chất flavonoides đầy hứa hẹn này. Tuy nhiên, trong khi nhiều xí nghiệp dược phẩm đề nghị các viên thuốc mà chất căn bản là flavonoides, th́ viện hàn lâm lại đánh giá rằng những dữ kiện hiện nay không cho phép khuyến khích các “ điều khẳng định sức khỏe ” (“ assertions santé ”) của các chất bổ trợ dinh dưỡng (adjuvants alimentaires).

Lịch sử của các flavonoides bắt đầu trong những năm 1990, với sự phát hiện của nghịch lư Pháp (paradoxe français) : các người Pháp, đặc biệt trong vùng Tây Nam, có một tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp hơn so với những nơi khác, mặc dầu một sự tiêu thụ cao các chất mỡ bảo ḥa (một yếu tố nguy cơ tim mạch quan trọng). Ngoại lệ này được quy cho sự tiêu thụ rượu vang đỏ, đặc biệt cao ở Pháp. Các flavonoides (các hợp chất polyphénol) của rượu đă được nhận diện như là các chất trung gian của tác dụng có lợi này. Và nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học đă cố gắng phân tích mối liên hệ giữa chế độ ăn uống giàu flavonoides và các bệnh tim mạch (đột qụy, nhồi máu) hay thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson).

“ Toàn bộ các thông tin có được như thế cho thấy một khuynh hướng chung tán trợ cho việc liên kết giữa sự tiêu thụ rượu vang đỏ có mức độ (một hay hai ly mỗi ngày), (trên mức này, những tác dụng có hại của rượu làm đảo ngược khuynh hướng), của sự tiêu thụ trà xanh hay trà đen và cacao và tỷ lệ tử vong nguồn gốc tim mạch hay thoái hóa thần kinh, GS Jean-Claude Stoclet, ủy viên của Hội hàn lâm dược học (đại học Strasbourg) đă giải thích như vậy.

Vậy có vẻ hợp lư khi đưa ra giả thuyết, theo đó sự tiêu thụ đều đặn của vài loại trái cây giàu flavonoides hay những chế phẩm phát xuất từ đó, rượu vang đỏ, một vài nước nho vắt, trà xanh và đen (trong một chừng mực ít hơn), cacao, được liên kết với một sự giảm tỷ lệ tử vong… ”

SỰ ỨC CHẾ CỦA MỘT VÀI GENE .

Bằng cớ chính thức chỉ có thể được mang lại, sau những thử nghiệm lâm sàng so sánh một chế độ ăn uống giàu flavonoides với một chế độ ăn uống nghèo flavonoides. Chúng ta hăy ghi nhận rằng hầu hết các công tŕnh nghiên cứu không phát hiện mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu flavonoide và ung thư. Nhiều công tŕnh nghiên cứu thí nghiệm, trên cấy tế bào hay mô h́nh động vật, đă phát hiện một tác dụng của các flavonoides lên thành trong của các huyết quản, với một sự gia tăng của các yếu tố giăn mạch và chống tăng sinh (facteurs vasodilatateurs en antiprolifératifs). Những chất này cũng tác dụng bằng sự ức chế của vài loại gène, để dẫn đến một tác dụng kháng viêm.

Người ta t́m thấy ở đâu các flavonoides này ? Nhiều trăm flavonoides khác nhau đă được nhận diện. Mặc dầu có nhiều điều không chắc chắn, nhưng có vẻ như rằng các flavonoides có một tác dụng bảo vệ, thuộc về các lớp của các flavonols (rượu vang đỏ, trà, cacao) và của các chất anthocyanines (các trái cây đỏ, quả anh đào, cassis). “ Khi tính đến các dữ kiện mới đây về các hiệu quả và các cơ chế tác dụng của vài flavonoides, ta có thể dễ bị cám dỗ khi chủ trương ngay từ bây giờ một sự tăng cường flavonoides trong chế độ ăn uống, GS Stoplet đă đánh giá như vậy. Cần phải cưỡng lại sự cám dỗ này : ngoài những điều không chắc chắn về bản chất của các hợp chất hữu ích, về những lượng cần phải cho, không hoàn toàn loại bỏ sự hiện diện của những tác dụng phụ. ” Đối với GS François Chast, chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa, “ trên cơ sở của các dữ kiện hiện nay, một sự tăng cường các cố gắng nghiên cứu có vẻ được biện minh và khẩn cấp ”.
(LE FIGARO 28/1/2010)

10/ TRÀ XANH HIỆU QUẢ TRONG SỰ NGĂN NGỪA UNG THƯ PHỔI.

Nguyên nhân đầu tiên của tử vong ở Đài Loan là ung thư phổi.

Rất nhạy cảm với tai ương này, nhóm nghiên cứu của BS I-Hson Lin (Chung Shan Medical University) đă tiến hành một cuộc điều tra về những thói quen sinh sống của 170 bệnh nhân bị ung thư phổi và của 340 người chứng lành mạnh. Những kết luận của công tŕnh nghiên cứu mới đây đă được tŕnh bày tại hội nghị về những cơ chế phần tử, nguồn gốc của ung thư phổi, ở Colorado (Californie). Các kết quả gây ngạc nhiên : nơi những người hút thuốc không uống trà xanh, nguy cơ được nhân lên 12,7 lần so với những người hút thuốc nhưng uống trà xanh (ngay cả chỉ uống một tách mỗi ngày). Các nhà nghiên cứu đă chứng tỏ sự hiện diện của những profil di truyền được liên kết với một sự gia tăng nguy cơ mắc phải ung thư này. Nơi những người có mức độ nhạy cảm di truyền (susceptibilité génétique) thuận lợi, trà xanh làm gia tăng tác dụng bảo vệ. Các chất có lợi, được chứa trong trà xanh, có một tác dụng lên tính ổn định của các tế bào và các gène của chúng. Đó là các polyphénol, các chất chống oxy hóa (antioxydant) được biết rơ, thí dụ như épigallocatéchine, có tác dụng 200 lần mạnh hơn vitamine E
florida80_is_offline  
 
Page generated in 0.04679 seconds with 9 queries