THÔNG TIN Y HỌC VỀ CAFE (Coffee)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Café (Coffee)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
2/ CÀ PHÊ LÀ BẠN CỦA NHỮNG TRÁI TIM NGƯỜI GIÀ ?
Một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng các đồ uống có cà phê có tác dụng bảo vệ khỏi bị nguy cơ tử vong do bệnh tim nơi những người lớn tuổi.
Caféine có thể cải thiện hạ huyết áp sau khi ăn trong trường hợp nguy cơ gia tăng bị tai biến động mạch vành và tử vong nơi người lớn tuổi.James Greeberg và các cộng sự viên,một nhóm nhà nghiên cứu của Đại học Nữu Ước,đă muốn kiểm tra giả thuyết theo đó đồ uống có cà phê làm giảm nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch trong tuổi già.Để thực hiện điều này,các nhà nghiên cứu đă căn cứ trên một nghiên cứu (National Health and Nutrition Examination Survey Epidemiologic Follow up Study) với 6594 người tham gia,lứa tuổi từ 32 đến 86 tuổi không có tiền sử bệnh tim mạch.
Các kết quả cho thấy rằng những người tham gia trên 65 tuổi và tiêu thụ nhiều đồ uống có cà phê,có nguy cơ tim mạch thấp hơn và tỷ lệ tử vong do tim nhỏ hơn so với những người uống it cà phê.Và hiệu quả bảo vệ này tùy thuộc vào lượng cà phê uống vào. Thật vậy nguy cơ tử vong do tim là 1, 0,77, 0,68, và 0,47 tùy theo lượng cà phê tiêu thụ: dưới ½ tách mỗi ngày,từ ½ đến 2 tách mỗi ngày,từ 2 đến 4 tách mỗi ngày và trên 4 tách mỗi ngày.Một hiệu quả bảo vệ tương tự cũng đă được nhận thấy khi sự tiêu thụ caféine được tính bằng mg/ngày Tuy nhiên,tác dụng có lợi này chỉ được nhận thấy đối với những người tham gia không bị chứng huyết cao nghiêm trọng và không một hiệu quả bảo vệ đáng kế nào được xac định ở những người dưới 65 tuổi hoặc đối với tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo của những người trên 65 tuổi.
Từ những kết quả trên,các tác giả kết luận rằng các đồ uống có cà phê có tác dụng bảo vệ đối với nguy cơ tử vong gây nên bởi bệnh tim nơi những người già.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/2/2007)
8/ CAFEINE VÀ TRỌNG LƯỢNG LÚC SINH.
Giảm sự tiêu thụ cà phê trong thời kỳ thai nghén từ 3 tách cà phê mỗi ngày xuống c̣n một tách không có tác dụng lên trọng lương lúc sinh của trẻ sơ sinh.Các nhà nghiên cứu Đan Mạch đă báo cáo như vậy.
Một vài công tŕnh nghiên cứu đă gợi ư rằng giảm sự tiêu thụ cà phê có thể làm gia tăng trọng lượng trung b́nh lúc sinh ,nhung phân tích một nghiên cứu mới đây trên hơn 1.200 phụ nữ khỏe mạnh đă không cho thấy anh hưởng lên thể trọng lúc sinh hay thời gian thai nghén
Các nhà nghiên cứu đă tuyển mộ 1.207 phụ nữ có thai 5 tháng hay hơn.Các phụ nữ này cho biết uống it nhất 3 tách cà phê có caféine mỗi ngày.Một nửa trong số các phụ nữ này được cho uống cà phê có caféine trong khi đó một nửa kia được chỉ thị cho uống cà phê không có caféine suốt trong thời gian thai nghén.Kết quả cho thấy rằng trọng lượng trung b́nh của trẻ sơ sinh nhóm các bà mẹ uống cà phe không có caféine cao hơn nhóm các bà mẹ uống cà phê với caféine một cách không đáng kể về mặt thống kê(14 gr).
Các nhà nghiên cứu công nhận rằng sự tiêu thụ caféine không phải là vô hại nhưng mặt khác sự giảm uống cà phê không có ảnh hưởng đáng kể nào lên trọng lượng của trẻ sơ sinh
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 15/2/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 31 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 15//6/2007 )
6/ CAFE LÀM GIẢM NGUY CƠ BỊ UNG THƯ GAN
Có một số dữ kiện gợi ư rằng việc uống café có thể bảo vệ gan chống lại mọi tấn công có nguồn gốc khác nhau và làm giảm nguy cơ bị carcinome hépatocellulaire (CHC). Một phân tích mới đây gợi ư rằng việc uống café có thể làm giảm nguy cơ bị ung thư gan. Các BS Susanna và Alicja thuộc Viện Karolinska , Stockholm đă thực hiện sự phân tích này.Tổng cộng có 9 công tŕnh nghiên cứu với 2.260 trường hợp và 239.146 kiểm chứng đă hội đủ các chỉ tiêu đề ra. Nh́n toàn bộ, một gia tăng tiêu thụ 2 tách café mỗi ngày liên kết với sự giảm nguy cơ bị ung thư gan 43%.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/6/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 38 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 9/8/2007 )
9/ CAFEINE BẢO VỆ TRÍ NHỚ CỦA PHỤ NỮ
Sự tiêu thụ ít nhất 3 tách cà phê (hoặc 6 tách trà) mỗi ngày bảo vệ các phụ nữ trên 65 tuổi khỏi bị sa sút trí nhớ, so với các phụ nữ uống một tách hoặc ít hơn. Đó là kết luận của các công tŕnh của đơn vị Inserm 888 «Các Bệnh lư của hệ thần kinh: nghiên cứu dịch tễ và lâm sàng ». Gần 4.197 phụ nữ và 2.820 đàn ông tuổi 65 hoặc hơn, đă được theo dơi trong ṿng 4 năm. Đối với đàn ông th́ không có một hiệu quả nào có thể định mức được.
(LE FIGARO 7/8/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 39 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 25/8/2007 )
1/ CAFEINE BẢO VỆ TRÍ NHỚ CỦA CÁC PHỤ NỮ
Một nhóm nghiên cứu người Pháp thuộc Inserm đă nhận thấy ở những người nghiện café (trên 3 tách mỗi ngày) có trí nhớ ngôn từ (mémoire verbale) ít bị sa sút hơn và trí nhớ thị giác và không gian (mémoire visuo-spatiale) cũng vậy nhưng với mức độ ít hơn. Karen Richie, cộng tác với Alex de Mendona của pḥng thí nghiệm khoa học thần kinh thuộc Đaị Học Lisbonne, đă nghiên cứu mối liên hệ giữa việc tiêu thụ caféine và các hiệu năng về nhận thức (performances cognitives) (trí nhớ, ngôn ngữ, logique) nơi những người già trên 65 tuổi hoặc hơn. Như thế các nhà nghiên cứu đă theo dơi 4.197 phụ nữ và 2.820 đàn ông suốt trong 4 năm : các nhà khảo sát đă đánh giá các hiệu năng về nhận thức của những người này, sự xuất hiện chứng sa sút trí tuệ (démence) và việc tiêu thụ caféine vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu, sau 2 và 4 năm. Công tŕnh nghiên cứu này, được đặt tên là 3C, đă được tiến hành ở Montpellier, Dijon và Bordeaux.
Có những suy đoán vững chắc về caféine từ khi các công tŕnh nghiên cứu trên động vật đă gợi ư rằng caféine, bằng cách tác động lên các thụ thể adénosine, làm giảm thiểu những tổn hại trên năo bộ. Karen Ritchie đă xác định rơ như vậy trong một thông báo của Inserm.
Thật vậy, những kết quả nghiên cứu chứng tỏ rằng caféine có một hiệu quả bảo vệ, nhưng chỉ xảy ra ở phụ nữ mà thôi. So sánh với các phụ nữ chỉ uống một tách hoặc ít hơn mỗi ngày, người ta nhận thấy ở các bà nghiện nặng café (hơn 3 tách mỗi ngày) ít có sự sa sút trí nhớ về ngôn từ (mémoire verbale) hơn, cũng như trí nhớ thị giác và không gian (mémoire visuo-spatiale). Hiệu quả bảo vệ của café càng ngày càng gia tăng với tuổi. Ngược lại, việc tiêu thụ caféine đă không làm giảm nguy cơ mắc phải chứng sa sút trí tuệ (démence) trong 4 năm theo dơi của công tŕnh nghiên cứu.
Các kết quả của chúng tôi chứng tỏ rằng các phụ nữ càng xa dần thời kỳ măn kinh th́ lợi ích của caféine càng quan trọng. Chúng tôi cần theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này thêm hai năm nữa để xem xét tốt hơn mối liên hệ giữa caféine và bệnh Alzheimer. Có thể việc tiêu thụ caféine không có vai tṛ trong sự xuất hiện của bệnh Alzheimer nhưng có ảnh hưởng trong tiến triển của bệnh này. Cần phải t́m hiểu tại sao caféine chỉ bảo vệ cho phụ nữ mà thôi: có thể là đàn ông và phụ nữ chuyển hoá caféine một cách khác nhau hoặc cũng có thể do tác dụng hổ tương của các hormone. Phải làm sáng tỏ cơ chế sinh học để đánh giá xem một điều trị với caféine có thể hữu ích hay không.”
“(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/8/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 40 ( 2/9/2007 )
2/ NHIỀU CAFE HƠN, ÍT NGUY CƠ HƠN
Ít nguy cơ ǵ? Ung thư gan! Đó là kết luận gây xao xuyến đạt được bởi một nhóm nghiên cứu của Viện nghiên cứu dược liệu học Milan dưới sự lănh đạo của Francesca Bravi. Thế mà kết luận này không phải là không có tầm quan trọng bởi v́ ung thư gan là một trong những ung thư gây chết người nhất sau ung thư phổi và dạ dày. Tổ Chức Y Tế Thế Giới đă quy cho ung thư này là nguyên nhân của 660.000 trường hợp tử vong trên quy mô hành tinh.
Bravi và nhóm nghiên cứu đă thực hiện một phân tích các tài liệu khoa học liên quan đến mối quan hệ giữa việc tiêu thụ café và nguy cơ carcinome hépatocellulaire (dạng ung thư chiếm tỷ lệ 90% trên toàn bộ các trường hợp ung thư gan). Các tác giả chỉ đưa vào trong công tŕnh phân tích những nghiên cứu đề cập đến những dữ kiện về lượng liên hệ đến việc tiêu thụ café và tỷ lệ mắc bệnh carcinome hépatocellulaire. Theo tiêu chuẩn này, tổng cộng có một chục công tŕnh nghiên cứu với tổng số khoảng 2.260 bệnh nhân. 6 nghiên cứu được thực hiện ở Nam Âu và Nhật bản (1.551 trường hợp) trong khi đó 4 nghiên cứu khác là những nghiên cứu nhóm (études de cohorte) của Nhật bản.
NGUY CƠ ĐƯỢC THU GIẢM
Các tác giả xác nhận rằng nh́n toàn bộ th́ những người uống café có nguy cơ bị carcinome hépatocellulaire giảm 41% so với những người không bao giờ uống café. Sự giảm nguy cơ này cũng rơ rệt nơi những người Nhật mặc dầu họ ít thích café hơn so với dân vùng Nam Âu. Ngoài ra sự giảm nguy cơ ít rơ rệt hơn nơi những người uống café có chừng mực (30%) so với những người tiêu thụ nhiều (55%)
Các nhà nghiên đă quan sát thấy rằng uống thêm một tách café mỗi ngày cho phép làm giảm từ 23% đến 25% nguy cơ mắc phải carcinome hépatocellulaire. Bravi và nhóm nghiên cứu cũng đă gợi ư rằng café làm giảm nguy cơ mắc phải những bệnh lư khác của gan. Đến lượt sự suy giảm này làm giảm tỷ lẽ carcinome hépatocellulaire.
CÂU HỎI BỎ NGỎ
Các tác giả cũng đă xác định rằng việc xem xét các thành phần hóa học của café đă phát hiện những tác dụng có lợi lên gan của vài cấu tử này. Café dường như liên kết với một mối nguy cơ bị xơ gan ít hơn. Ngược lại, các nghiên cứu trên động vật và in vitro đă xác lập rằng những thành phần khác của café cản trở quá tŕnh khử độc các chất gây ung thư và do đó có một tác dụng không thuận lợi lên gan. Như vậy việc khẳng định café tốt cho gan hơi bị thu giảm. Ngoài ra mối liên hệ giữa việc tiêu thụ café và sự thu giảm nguy cơ mắc phải carcinome hépatocellulaire không cho phép kết luận rằng vế thứ hai là kết quả của vế thứ nhất. Cũng có thể rằng những người bị ung thư gan uống café ít hơn, dẫu cho hai yếu tố này thường không liên kết với nhau. Nếu mối liên hệ giữa việc uống café và sự phát sinh ung thư gan là không thể phủ nhận được th́ vấn đề c̣n lại là phải xác định đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả..
(LE GENERALISTE 30/8/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 44 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 30/9/2007 )
3/ CAFE PH̉NG NGỪA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2
Một phân tích méta xác nhận rằng việc tiêu thụ đều đặn café làm giảm nguy cơ mắc phải bệnh đái đường loại 2. Nhiều công tŕnh nghiên cứu ngang (études transversales) đă chứng tỏ một hiệu quả bảo vệ của café trên nguy cơ phát triển bệnh đái đường loại 2. GS André Scheen, trưởng khoa đái đường thuộc CHU Sart (Liège) đă thực hiện một tổng hợp các công tŕnh nghiên cứu dọc (études longitudinales) về vấn đề này.
Tại sao phải quan tâm vấn đề này đến thế? Là bởi v́ sự khẩn cấp được đặt ra do trận dịch đái đường loại 2 đă được loan báo sẽ xảy ra trong những năm sắp đến và bởi v́ café là một loại nước uống phổ biến khắp nơi trên thế giới, v́ vậy café sẽ là một công cụ pḥng ngừa thực tiễn.
Theo kết quả của những công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh (prospective study) th́ hiệu quả bảo vệ của café lên sự phát triển của bệnh đái đường loại 2 được xác nhận. “ Tầm quan trọng của tác dụng bảo vệ được quan sát không phải là không đáng kể (giảm nguy cơ từ 30 đến 60 %) và mức độ hiệu quả có thể so sánh với các điều trị bằng dược liệu. Phần lớn các công tŕnh này được thực hiện trên quảng đại quần chúng và sẽ là lư thú khi biết được các tác dụng đặc hiệu hơn của café lên những người có nguy cơ cao ”. Các tác giả đă xác định như vậy. Ngoài ra, một tác dụng tuỳ thuộc liều lượng (dose-dépendant) được quan sát và hiệu quả này rơ rệt hơn với café décaféiné hơn là với café chính quy ” (regular).
Vấn đề cơ chế và chất chịu trách nhiệm cho tác dụng lợi ích này chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên các tác giả cho rằng giả thuyết về acide chlorogénique, mặc dầu chưa được chứng minh nhưng khá hấp dẫn. Song tất cả những nhận xét này khiến ta phải thận trọng : “ Tuy nhiên c̣n hơi sớm để đưa ra những lời khuyên quả quyết về vấn đề này ”. Các tác giả đă kết luận như thế.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 25/9/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 50 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 10/11/2007 )
6/ CAFE : TỐT CHO CÁC PHỤ NỮ TRÊN 65 TUỔI
Tiêu thụ ít nhất 3 tách café hoặc 6 tách trà mỗi ngày sẽ có tác dụng có lợi lên các chức năng nhận thức (fonction cognitive) của các phụ nữ 65 tuổi hoặc hơn. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được tiến hành trong 4 năm bởi nhóm nghiên cứu Karen Richie của Viện quốc gia y tế và nghiên cứu y học (INSERM) trên gần 7000 người.
Caféine đặc biệt có một vai tṛ dương tính chống lại các rối loạn liên kết với bệnh Alzheimer ( trí nhớ, luận lư, ngôn ngữ ). Các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này của họ thêm 2 năm nữa, đánh giá rằng việc tiêu thụ caféine có lẽ không đóng vai tṛ lên sự xuất hiện của bệnh Alzheimer mà chỉ có ảnh hưởng lên tiến triển của bệnh mà thôi.
(READER’S DIGEST 11/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 61 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (27/1/2008)
7/ CAFFEINE CÓ LIÊN HỆ TRONG VIỆC LÀM SẨY THAI
Uống quá nhiều cà phê trong thời kỳ thai nghén có thể làm gia tăng nguy cơ sẩy thai, một công tŕnh nghiên cứu mới đă phát biểu như vậy, và các tác giả gợi ư rằng các phụ nữ có thai có thể cần giảm bớt lượng cà phê uống vào hoặc phải từ bỏ toàn bộ.
Nhiều Bác sĩ chuyên khoa Sản đă khuyên các phụ nữ hạn chế caffeine, mặc dầu vấn đề này đă gây nhiều tranh căi, với các công tŕnh nghiên cứu mâu thuẫn nhau, các dữ kiện không rơ ràng và những lời khuyến nghị khác nhau trong nhiều năm qua.
Công tŕnh nghiên cứu mới, được công bố hôm thứ hai trên tờ Journal of Obstetrics and Gynecology, nhận thấy rằng các phụ nữ có thai uống 200 mg caffeine hoặc hơn mỗi ngày (lượng được chứa trong 10 ounces cà phê hoặc 25 ounces trà), có thể làm tăng gấp đôi nguy cơ sẩy thai của họ. 10 ounces tương đương với khoảng 300 ml.
Các phụ nữ có thai nên từ bỏ caffeine trong ít nhất 3-4 tháng đầu của thời kỳ thai nghén, BS De-Kun Li, tác giả lănh đạo công tŕnh, một nhà dịch tễ học về sinh sản thuộc Kaiser Permanente Division of Research, ở Oakland, California, đă phát biểu như vậy. “Nếu v́ bất cứ lư do nào đó, họ thật sự không thể từ bỏ được, th́ nên cắt giảm chỉ c̣n một tách hoặc chuyển sang decaf (cà phê không có caffeine)”, BS Li nói như vậy. “Ngừng uống caffeine thật sự không có một tác dụng âm tính nào”
Các nhóm chuyên môn nghề nghiệp như American College of Obstetricians and Gynecologists và American Society for Reproductive Medicine đă không có lập trường chính thức về caffeine, các đại diện đă nói như vậy.
Hôm thứ sáu, Website của March of Dimes đă nói rằng hầu hết các chuyên gia đồng ư rằng lượng caffeine được chứa trong 8-16 ounces cà phê uống mỗi ngày là an toàn. Website ghi nhận rằng vài công tŕnh nghiên cứu đă liên kết việc tiêu thụ caffeine với liều lượng cao hơn với sự sẩy thai và với trọng lượng lúc sinh thấp, nhưng web site phát biểu: “Tuy nhiên không có bằng cớ vững chắc cho rằng caffeine gây nên những vấn đề này. Cho đến khi được biết rơ nhiều hơn, các phụ nữ tốt hơn nên giới hạn lượng caffeine uống vào trong thời kỳ thai nghén”. Bây giờ đây, sau khi đă duyệt lại công tŕnh nghiên cứu mới, March of Dimes dự kiến thay đổi thông điệp của ḿnh, khuyên các phụ nữ đang có thai hoặc đang cố thụ thai, giới hạn việc tiêu thụ caffeine hàng ngày c̣n 200 mg hoặc ít hơn, Janis Biermann đă nói như vậy.
Công tŕnh nghiên cứu của Li bao gồm 1.063 phụ nữ có thai được phỏng vấn một lần về lượng caffeine được tiêu thụ. Vào lúc phỏng vấn, thời gian thai nghén trung b́nh là 71 ngày. Nhưng 102 người đă sẩy thai (không đáng ngạc nhiên v́ hầu hết các trường hợp sẩy thai xảy ra rất sớm trong thời kỳ thai nghén). Sau đó thêm 70 phụ nữ nữa bị sẩy thai. Như vậy tỷ lệ sẩy thai toàn thể là 16%.
Trong số 264 phụ nữ nói là họ đă không dùng caffeine, 12,5% bị sẩy thai. Nhưng tỷ lệ sẩy thai là 24,5 % nơi 164 phụ nữ đă tiêu thụ 200mg caffeine hoặc hơn mỗi ngày. Nguy cơ sẩy thai gia tăng được liên kết với chính caffeine chứ không phải với các yếu tố nguy cơ đă được biết như tuổi của người mẹ hoặc thói quen hút thuốc, các nhà nghiên cứu đă nói như vậy.
Li nói rằng công tŕnh nghiên cứu đă trả lời một câu hỏi quan trọng mà nghiên cứu trước đây vẫn để bỏ ngơ. Các phụ nữ bị chứng nôn mửa vào buổi sáng (morning sickness) ít bị sẩy thai hơn là những phụ nữ không có chứng khó ở này, có lẽ bởi v́ những thay đổi về hormone là nguyên nhân của chứng nôn mửa này, đă góp phần cho sự phát triển của một thai nghén lành mạnh. Nhưng các nhà nghiên cứu đă nói rằng chứng nôn mửa vào buổi sáng có thể dẫn đến những kết quả làm sai lạc trong công tŕnh nghiên cứu caffeine.
Những nhà nghiên cứu này lư luận rằng bởi v́ cảm thấy khó ở, vài phụ nữ có thể đă uống ít caffeine. Khuynh hướng này có thể làm cho có cảm tưởng rằng sự việc các phụ nữ có vẻ ít bị sẩy thai hơn là bởi v́ họ đă tránh tiêu thụ caffeine.
Li nói rằng ông ta và các đồng nghiệp đă cẩn thận phân tích các dữ kiện và đă xác định rằng nguy cơ làm sẩy thai do caffeine là thật sự và không thể được giải thích bởi các tỷ lệ khác nhau trong chứng nôn mửa buổi sáng.
BS Carolyn Westhoff, một giáo sư sản phụ khoa và dịch tể học, thuộc Columbia University Medical Center, Nữu Ước, đă tỏ ra dè dặt về công tŕnh nghiên cứu. Bà ghi nhận rằng nghiên cứu hoặc giải thích sự sẩy thai là việc khó làm. Bà nói rằng hầu hết các trường hợp sẩy thai đều là do bất thường về nhiễm sắc thể, và không có bằng chứng cho rằng caffeine có thể gây nên những vấn đề đó.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 21/1/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 69 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 22/3/2008 )
2/ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2 : COI CHỪNG CAFEINE !
Caféine làm gia tăng đường trong máu. Đó là một thông điệp mà BS James Lane thuộc đại học Duke ( Durham, Caroline du Nord, Hoa Kỳ) đă gởi đến cho các bệnh nhân đái đường loại 2 ( đái đường không phụ thuộc vào insuline, hay đái đường béo). Các bệnh nhân thuộc loại đái đường này đông nhất (85% các trường hợp). Bằng một loạt các xét nghiệm khá phức tạp (đường huyết, insuline…) được thực hiện nơi 14 người bị bệnh đái đường béo ( 11 đàn ông, 3 phụ nữ), công tŕnh nghiên cứu của ông đă chứng tỏ rằng sự hấp thụ caféine làm gia tăng nồng độ glucose trong máu, 9% sau bữa ăn sáng, 15% sau bữa ăn trưa và 26% sau bữa ăn chiều. Nguyên nhân chính xác vẫn không được biết tới.
(PARIS MATCH 13/3-19/3/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 75 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (2/5/2008)
10/ MỘT ÍT CÀ PHÊ CHỐNG LẠI BỆNH AZHEIMER
Những nồng độ cao cholestérol và những rối loạn của hàng rào huyết-năo (barrière hémato-encéphalique) có liên quan trong bệnh sinh của bệnh Alzheimer. Bằng cách dùng các con thỏ được nuôi dưỡng theo một chế độ ăn uống giàu cholestérol (2%), K.Chen và các cộng sự viên đă kiểm chứng giả thuyết về một tác dụng bảo vệ của việc uống cà phê kinh niên (3mg mỗi ngày được đưa vào trong nước uống trong 12 tuần). Các nhà nghiên cứu đă nhận thấy rằng lượng tương đương với một ly cà phê mỗi ngày bảo vệ barrière hémato-céphalique chống lại những tổn hại gây nên bởi một chế độ ăn uống giàu chất mỡ. Thật vậy caféine dường như phong bế một vài trong những tác dụng làm rối loạn của cholestérol làm dễ vỡ barrière hémato-encéphalique. Các kết quả này xác nhận những dữ kiện trước đây chứng tỏ rằng caféine ngăn ngừa chứng mất trí nhớ trong tuổi già và trong bệnh Alzheimer. Đối với các tác giả caféine là một chất công hiệu và dễ có và khả năng làm ổn định barrière hémato-encéphalique làm cho caféine có một vài tṛ quan trọng trong điều trị các rối loạn thần kinh.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 29/4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 76 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (10/5/2008)
10/ CÀ PHÊ KHÔNG CÓ TÁC DỤNG LÊN NHỊP TIM.
Nhiều bệnh nhân cho rằng cảm thấy hồi hộp khi uống quá nhiều cà phê. Tác dụng của caféine lên tỷ lệ rối loạn nhịp tim đă được thăm ḍ qua một công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh của Đan mạch, được thực hiện bởi Frost và các cộng sự viên trên 48.000 người. Sau khi uống những lượng quan trọng caféine (997 mg caféine mỗi ngày), không có một tác dụng nào đă được quan sát cả. Một công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh khác của Hoa Kỳ, được thực hiện bởi Klatsky và các cộng sự viên, đă theo dơi trong 8 năm 129.000 người và đă không thể xác lập được mối liên hệ giữa sự tiêu thụ cà phê và việc xảy ra tử vong do các rối loạn nhịp tim. Cũng vậy không có một tương quan nào thuộc loại này được phát hiện qua các nghiên cứu trong đó caféine được tiêu thụ với các liều lượng lên đến 450 mg mỗi ngày. Cũng có vẻ như là cà phê không ảnh hưởng loại hoặc tần số các rối loạn nhịp tim. Trái lại, việc hạn chế tiêu thụ cà phê không chứng tỏ tác dụng lên tim đập nhanh thất (tachycardie ventriculaire).
Nguồn : LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 77 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (17/5/2008)
6/ CÀ PHÊ KHÔNG ẢNH HƯỞNG LÊN TRÁI TIM BỊ BỆNH
Trong các nước công nghiệp hóa, các bệnh tim mạch là một trong những nguyên nhân chính của tử vong. Các công tŕnh nghiên cứu khác nhau đă được tiến hành để t́m mối liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và sự phát triển của các bệnh tim mạch. Sự liên hệ của cà phê trong việc xuất hiện các bệnh lư này đă không có thể được chứng minh, ngay cả bởi các công tŕnh nghiên cứu quy mô lớn. Ngoài ra, tiên lượng sau nhồi máu cơ tim đă không bị ảnh hưởng bởi việc tiêu thụ cà phê.Về mặt lâu dài, các nghiên cứu viễn cảnh cũng đă không chứng tỏ được sự liên hệ giữa caféine và các bệnh tim mạch. C̣n về vai tṛ bảo vệ của cà phê th́ như thế nào? Năm 2006, một công tŕnh nghiên cứu của Women’s Health Study, được tiến hành trên hơn 41.000 phụ nữ tiêu thụ cà phê, đă kết luận rằng nguy cơ tử vong nơi những người tiêu thụ cà phê là thấp hơn so với những người không tiêu thụ. Hiệu quả có lợi này có thể là do một tác dụng chống oxy hóa của một vài thành phần trong cà phê, làm kềm hăm quá tŕnh viêm và như thế làm giảm các nguy cơ tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu Thụy Điển được thực hiện trên 7.500 đàn ông đă t́m thấy lại những nguy cơ được biết rơ của suy tim : tuổi tác, bệnh sử gia đ́nh nhồi máu cơ tim, bệnh đái đường, các cơn đau ngực, chứng nghiện thuốc lá, lạm dụng rượu, chỉ số khối lượng cơ thể (BMI : body mass index) cao và cao huyết áp. Cà phê được nhận thấy liên kết đồng thời với một nguy cơ thấp bị bệnh đái đường và một nguy cơ thấp tử vong do nguyên nhân tim mạch nơi một người bị bệnh đái đường. Ngoài ra, một công tŕnh được thực hiện năm 2006 đă cho thấy rằng việc cho caféine nơi những bệnh nhân bị suy tim làm gia tăng sự chịu đựng của họ đối với sự gắng sức.
LE MAGAZINE DES GLEMS (4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 78 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (25/5/2008)
5/ CÀ PHÊ KHỔNG LÀM TĂNG CAO HUYẾT ÁP
Về mặt nhất thời, cà phê gây nên một cao huyết áp nhẹ. Tác dụng này thấy rơ ngay sau khi uống cà phê và có thể so sánh với tác dụng của nhiều t́nh huống thông thường của đời sống hàng ngày. Trái lại, các nghiên cứu đă chứng tỏ rằng về lâu về dài, cà phê không ảnh hưởng (hoặc ít) lên huyết áp. Các kết quả của một phân tích méta 16 công tŕnh nghiên cứu so sánh tác dụng của cà phê và tác dụng của caféine, đă chứng tỏ rằng caféine gây nên cao huyết áp động mạch quan trọng hơn cà phê. Từ các công tŕnh nghiên cứu này người ta suy ra rằng tác dụng của caféine rất có thể được bù trừ bởi những thành phần khác của cà phê như potassium, magnésium hay các polyphénols. Những công tŕnh nghiên cứu khác c̣n đưa đến kết luận rằng cà phê không có tác dụng hoặc có tác dụng rất thu hẹp lên huyết áp. Vậy, một sự tiêu thụ b́nh thường cà phê không gây nên vấn đề về huyết áp: không cần thiết phải áp đặt những hạn chế lên bệnh nhân cao huyết áp tiêu thụ cà phê một cách b́nh thường. Mặc dầu vậy vẫn khôn ngoan khuyên những người thái quá nên uống cà phê có chừng mực.
Nguồn : LE MAGZINE DES GLEMS (4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 81 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 13/6/2008 )
2/ CÀ PHÊ, TRÀ VÀ NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ
Ganmaa và các cộng sự viên ( Hoa Kỳ) đă thu góp các dữ kiện liên quan đến 86.000 phụ nữ đă tham gia vào công tŕnh nghiên cứu Nurses’ Health Study về sự tiêu thụ cà phê, trà và caféine. Các người tham gia ở trong lứa tuổi 30 đến 55 vào lúc khởi đầu công tŕnh nghiên cứu. Suốt trong 22 năm theo dơi, 5.272 phụ nữ trong số những người tham gia, đă phát triển một ung thư vú. Sau khi điều chỉnh về các yếu tố khác nhau khả dĩ ảnh hưởng lên các kết quả (tuổi tác, chứng nghiện thuốc lá, thể dục, các tiền sử gia đ́nh ung thư vú, t́nh trạng măn kinh, các tiền sử về điều trị bằng hormone, số con có đuợc), các nhà nghiên cứu đă không nhận thấy rằng nguy cơ bị ung thư vú nơi các phụ nữ uống ít nhất 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày là cao hơn so với các phụ nữ chỉ uống mỗi tách mỗi ngày.
(LE JOURNAL DU MEDECIN (6/6/2008 )
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 84 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 09/07/2008 )
10/ CAFEINE CHỐNG UNG THƯ DA
Sự tiêu thụ caféine trong một đến hai tuần làm gia tăng hiện tượng chết được chương tŕnh hóa (apoptose hay mort programmée) của các tế bào biểu b́ bị biến đổi do tiếp xúc với các tia tử ngoại B và làm giảm nguy cơ biến đổi thành ung thư của chúng. Những dữ kiện này có được nơi loài gậm nhấm với các liều lượng caféine tương đương 3 đến 5 tách cà phê mỗi ngày. Các dữ kiện này xác minh những quan sát dịch tễ học cho thấy rằng những người uống cà phê hay trà bị ung thư da ít hơn so với phần dân chúng c̣n lại.
(SCIENCES ET AVENIR 7/2008).
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 85 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 18/7/2008 )
7/ CAFEINE LÀM DỊU BỚT BỆNH XƠ CỨNG RẢI RÁC
Các nồng độ cao cà phê bảo vệ chuột chống lại bệnh thần kinh thường xảy ra nhất của các người trưởng thành trẻ tuổi. Là chất có hoạt tính dược lư được tiêu thụ nhiều nhất, caféine hiện diện trong nhiều thức ăn như cà phê, trà, soda hay chocolat. Các công tŕnh nghiên cứu về tác dụng của caféine lên sức khỏe không ngừng gia tăng, phát hiện lần lượt những tính chất có lợi và có hại của caféine. Công tŕnh nghiên cứu mới nhất gợi ư rằng caféine với liều lượng cao, bảo vệ chống lại bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques).
Được công bố on line trong Annales de l’académie américaine des sciences, công tŕnh nghiên cứu này đă được thực hiện trên loài chuột.
Các nhà nghiên cứu của Oklahoma Medical Research Foundation, cộng tác với Đại Học Cornell ( Nữu Ước) và Đại Học Turku ( Phần Lan), đă khám phá ra rằng 6 đến 8 tách cà phê mỗi ngày bảo vệ các động vật gặm nhấm này chống lại bệnh viêm năo tủy tự miễn dịch thực nghiệm (encéphalomyélite auto-immune expérimentale). Đây là bệnh xơ cứng rải rác trên động vật dùng làm thí nghiệm. Nhờ đâu caféine có được tính chất này? Caféine ngăn cản adénosine phát khởi một loạt các phản ứng dẫn đến bệnh viêm năo tủy tự miễn dịch thực nghiệm. Adénosine là một trong 4 phần tử cấu tạo ADN. Rất thông thường nơi cơ thể con người, adénosine đặc biệt đóng một vài tṛ chủ yếu trong quá tŕnh sinh hóa của giấc ngủ, của sự thức tỉnh và sự chuyển năng lượng. Trong công tŕnh nghiên cứu này, caféine có tác dụng phong bế sự liên kết giữa adénosine và một trong các thụ thể (récepteur) của nó. Kết quả : vài tế bào lympho T (các bạch cầu đóng một vài tṛ chủ chốt trong đáp ứng miễn dịch) không thể đến được hệ thần kinh trung ương và do đó làm phát khởi những phản ứng dẫn đến một bệnh tương đương với xơ cứng rải rác ở loài chuột.
“ĐÁNG NGẠC NHIÊN VÀ ĐẦY PHẤN KHỞI”
“Đó là một khám phá gây hứng khởi và hoàn toàn đáng ngạc nhiên ”, Linda Thompson, thầy thuốc chuyên khoa ung thư, một trong các tác giả của công tŕnh này đă đánh giá như vậy. Nhưng mặc dầu các kết quả này tỏ ra đầy hứa hẹn, tuy vậy một con chuột không phải là một con người! Những nghiên cứu quan trọng c̣n cần phải được thực hiện để xem caféine có cùng tác dụng lên cơ thể con người hay không. Phải bắt đầu bằng một nghiên cứu nh́n về quá khứ : vạch lại các thói quen của những người tiêu thụ cà phê và tác dụng của caféine trên các triệu chứng của những người bị bệnh xơ cứng rải rác. “Nếu một công tŕnh nghiên cứu như thế phát hiện mộ
( LE SOIR 2/7/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 86 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (24/7/2008)
8/ CÀ PHÊ VÀ CHOLESTEROL
Cà phê bị gán cho một vai tṛ trong việc làm gia tăng nồng độ của cholestérol. Cần phải uyển chuyển hơn điều khẳng định này và xác định rơ rằng điều đó tùy thuộc vào cách pha chế. Hai diterpène hiện diện trong dầu cà phê (huile de café), cafestol và kahweol, có thể là nguyên nhân của sự gia tăng này. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng sự tiêu thụ cafestol hàng ngày làm gia tăng nồng độ cholestérol trong máu, nhưng sự gia tăng này ít hơn trong trường hợp tiêu thụ lâu dài. Do đó những công tŕnh nghiên cứu ngắn hạn có thể dẫn đến việc đánh giá quá cao về tác động của cà phê lên nồng độ của cholestérol. Về kahweol, vai tṛ của nó trong hiện tượng này không được rơ ràng lắm. Sự liên kết của cafestol với kahweol có tác động lên nồng độ cholestérol hơn là kahweol đơn độc .
Một cà phê, trong đó bột cà phê được cho tiếp xúc lâu dài với nước sôi và không được lọc (như trong trường hợp cà phê Thổ hay Hy lạp), chứa những diterpènes này với nồng độ cao, trái với cà phê được lọc hay một “espresso”. Vậy v́ lư do thận trọng, đối với những bệnh nhân bị cao huyết áp và tăng cholestérol-huyết, tốt hơn là nên tránh những cách pha chế đầu và theo cách pha chế sau.
(LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 87 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (1/8/2008)
4/ TÁC DỤNG CỦA CÀ PHÊ LÊN HỆ TIÊU HÓA
Cà phê luôn luôn mang lại hạnh phúc cho những người ham thích thứ nước uống này. Trong quá khứ người ta loại trừ cà phê ra khỏi chế độ ăn uống của bệnh nhân bị bệnh loét dạ dày. Nhưng chúng ta có thể tự hỏi là thật sự có một sự liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và sự làm dịu bớt hay làm nặng thêm những rối loạn dạ dày hay không.
Trong quá khứ, người ta rất thường đưa cà phê vào trong những hạn chế của chế độ ăn uống liên quan với những bệnh của hệ tiêu hóa. Sau đó người ta đă nhận thức rằng tất cả điều đó không có ǵ là đúng cả, dầu cho đó là những rối loạn đường ruột, những rối loạn dạ dày và ngay cả những vấn đề hồi lưu (reflux) và khó tiêu (dyspepsie).
TIÊU CHẢY VÀ ĐẠI TRÀNG DỄ BI KÍCH THÍCH : MỘT SỰ MIỄN TỐ
Các kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi Brown và các cộng sự viên trên 99 người, về mối liên hệ giữa việc uống nhiều loại đồ uống khác nhau, nhất là cà phê và số lần đại tiện, đă phát hiện nơi 1/3 những người này, một sự cải thiện chuyển động tiêu hóa của ruột. Nơi những người đáp ứng, một hiệu quả có lợi của cà phê lên tính vận động của ruột già đă có thể được chứng tỏ bằng những đo lường động lực. Rao và các cộng sự viên đă quan sát thấy rằng cà phê không có caféine, cũng như cà phê b́nh thường, kích thích sự vận động của ruột già nhưng hiệu quả của cà phê b́nh thường là rơ ràng hơn hiệu quả của cà phê không có caféine. Công tŕnh nghiên cứu này cũng đă chứng tỏ rằng hiệu quả dương tính của cà phê là 60% quan trọng hơn, so với việc chỉ uống nước mà thôi. Nhiều công tŕnh nghiên cứu khoa học đă thường báo cáo rằng cà phê có một tác dụng kích thích lên hoạt động của ruột già nơi một vài bệnh nhân.Trong số các công tŕnh nghiên cứu này, một sự xem xét lại vấn đề do Dapoigny và các cộng sự viên thực hiện, đă gợi ư rằng cà phê, b́nh thường hay không có caféine, có thể liên kết với những trường hợp ỉa chảy. Do kích thích hoạt động vận động của ruột già và trực tràng. Nhưng trong nhiều công tŕnh nghiên cứu, không một tác dụng nào của cà phê đă có thể được phát hiện lên các biểu hiện của chứng đại tràng co thắt (colon spastique) hay lên trên sự xuất hiện của một bệnh viêm ruột già loét (colite ulcéreuse).
THỦ PHẠM, ĐÓ LÀ HELICOBACTER PYLORI
Các quan niệm liên quan đến sinh lư bệnh lư của các bệnh thực quản và dạ dày đă tiến triển nhiều trong những thập niên vừa qua. Ngày nay, chúng ta biết rằng một nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori là nguyên nhân của phần lớn các loét dạ dày và rằng một sự tiếp xúc quá độ với độ chua của dạ dày chịu trách nhiệm loét thực quản và tá tràng. Cà phê có một vai tṛ nào đó trong các rối loạn này hay không ? Một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi Gikas và các cộng sự viên kết luận rằng cà phê dường như không có một tác dụng nào lên Helicobacter pylori. Cũng không có một tương quan nào được xác lập giữa việc tiêu thụ cà phê và sự phát triển một loét dạ dày, một công tŕnh nghiên cứu khác của Đan Mạch đă kết luận như thế. Những nghiên cứu khác đă gợi ư rằng nguy cơ là do những yếu tố khác với chính bản thân cà phê, đặc biệt là sự hiện diện của đường trong cà phê và sự gia tăng thể trọng. Các nhà nghiên cứu đă phát hiện rằng cà phê làm gia tăng tính thẩm thấu của niêm mạc dạ dày và dường như cà phê làm gia tốc sự tống xuất của dạ dày (vidange gastrique), nhưng tác dụng này thay đổi tùy theo người. Về những thương tổn tá tràng, cà phê cũng như các đồ uống có caféine dường như không có vai tṛ trong các bệnh lư này.
ĐAU VÀ VỊ CHUA
Vài người sau khi uống một tách cà phê đă ghi nhận bị ựa chua. Trên lư thuyết, cũng như các đồ uống chua, cà phê với pH thay đổi từ 5 đến 6, dường như đúng là gây nên tác dụng này. Do đó, nhiều công tŕnh nghiên cứu đă được thực hiện để cố gắng phát hiện sự hiện diện của một mối liên kết như vậy. Có lẽ có một mối liên kết nhưng nhiều lư lẽ có khuynh hướng xác nhận rằng caféine không chịu trách nhiệm về hiện tượng này mà chính do những chất khác chứa trong cà phê. Mặt khác một công tŕnh nghiên cứu của Ḥa Lan đă kết luận rằng cà phê không có tác dụng quan trọng lên sự trào ngược (reflux) nơi những người vốn đă bị mắc phải chứng bệnh này và không có tác dụng chút nào lên những người lành mạnh, và rằng tác dụng của cà phê ít quan trọng hơn tác dụng của một bữa ăn lên hiện tượng này. Một công tŕnh nghiên cứu khác, được thực hiện ở Na Uy, đă không chứng tỏ mối liên hệ giữa nguy cơ hồi lưu dạ dày-thực quản (reflux gastro-oesophagien) và việc tiêu thụ cà phê.
Mới đây thôi, một công tŕnh nghiên cứu của Thụy Điển đă cho thấy rằng sau khi điều chỉnh những yếu tố nguy cơ chính gây nên trào ngược dạ dày-thực quản (chỉ số khối lượng cơ thể, chứng nghiện thuốc lá và sự nhàn rổi không hoạt động) th́ sự liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và những vấn đề hồi lưu biến mất. Công tŕnh nghiên cứu này cũng đă cho thấy rằng những người tiêu thụ nhiều cà phê (hơn 7 tách mỗi ngày) có ít nguy cơ phát triển hồi lưu dạ dày-thực quản hơn những người khác, ngay cả sau khi đă điều chỉnh những yếu tố nguy cơ. Và sau cùng, cà phê thường được quy cho là nguyên nhân của những vấn đề khó tiêu (dyspepsie) nhưng các công tŕnh nghiên cứu đă không thể phát hiện mối liên hệ nhân quả giữa việc tiêu thụ cà phê và sự xuất hiện nhưng rối loạn khó tiêu này.
LE MAGAZINE DES GLEMS (4/2008)